Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ? Trình bày cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ? Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được học ở lớp mấy?
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ? Trình bày cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ? Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn?
Tham khảo mẫu "Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ? Trình bày cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ? Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn?" dưới đây:
Mẫu 1: Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Có những bài thơ không chỉ là sự kết hợp của vần điệu và ngôn từ, mà còn là nhịp đập của một tâm hồn đầy khắc khoải. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm như thế, vừa mang vẻ đẹp tinh khôi của thiên nhiên xứ Huế, vừa chất chứa nỗi niềm nhớ thương da diết. Bài thơ thể hiện nỗi niềm khát khao, tiếc nuối và sự giao thoa giữa thực và mộng, giữa ánh sáng rực rỡ của sự sống và bóng tối của chia xa, tạo nên một bức tranh đầy ám ảnh và xúc động. Đọc bài thơ, ta như lạc bước vào một không gian trữ tình, nơi vẻ đẹp thiên nhiên hòa quyện với những cung bậc cảm xúc phức tạp của con người. Ngay từ khổ thơ đầu, cảnh sắc thôn Vĩ đã hiện lên đầy thơ mộng và tươi sáng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Câu hỏi tu từ mở đầu vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng, vừa gợi lên nỗi nhớ thương da diết. Hình ảnh "nắng hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" cho thấy một khung cảnh tràn đầy sức sống và trong trẻo. Ánh nắng buổi sáng chiếu rọi lên hàng cau, khu vườn xanh biếc như ngọc bích, tạo nên một không gian thơ mộng, thanh bình. Đặc biệt, hình ảnh "mặt chữ điền" gợi đến vẻ đẹp đặc trưng của người con gái xứ Huế. Gương mặt ấy không chỉ toát lên nét vững chãi, phúc hậu mà còn hàm chứa sự dịu dàng, e ấp và kín đáo, nhưng khi đặt trong khung cảnh thơ mộng của thôn Vĩ, nó lại trở nên uyển chuyển, phảng phất những điều khó nói thành lời. Khuôn mặt được lá trúc che ngang gợi lên cảm giác ngăn cách vô hình, có thể tượng trưng cho sự xa cách trong thực tại hoặc là những rung động tình cảm âm thầm chưa thể bộc lộ. Cũng có thể, đó là sự lý tưởng hóa của tác giả, khi bóng dáng người thương hiện lên vừa gần gũi vừa xa vời, như một ký ức đẹp nhưng mong manh. Chính sự mơ hồ ấy đã khiến bức tranh thôn Vĩ không chỉ đẹp mà còn chất chứa bao nỗi niềm hoài vọng, là miền ký ức xa xăm mà thi nhân luôn hướng đến. Bức tranh thiên nhiên dần chuyển mình, không còn là sắc xanh tươi sáng mà dường như bị bao phủ bởi một nỗi buồn vô hình. Không gian ấy như mang theo tâm trạng của nhà thơ, bâng khuâng, chơi vơi: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Bức tranh thiên nhiên không còn rực rỡ như ở khổ đầu mà thay vào đó là sự chia lìa, xa cách. "Gió theo lối gió, mây đường mây" gợi lên sự tan tác, chia ly, như chính nỗi lòng của nhà thơ. Hình ảnh "dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay" càng tô đậm nỗi cô đơn, lặng lẽ. Sự chia lìa ấy như một ẩn dụ cho những xa cách trong lòng thi nhân, một nỗi buồn lặng thầm nhưng day dứt. Con thuyền trên sông trăng xuất hiện như một hình ảnh lãng mạn nhưng cũng chất chứa nỗi buồn: liệu con thuyền có kịp chở trăng, chở ước mơ của thi nhân về bến bờ hạnh phúc hay không? Câu hỏi ấy không chỉ là một nỗi niềm bâng khuâng mà còn phản ánh sự mong manh của ước vọng, của tình yêu và những điều thi sĩ khao khát mà chẳng thể nào chạm tới. Không gian của bài thơ dần trở nên huyền ảo, như một cõi mộng đầy sương khói, nơi ranh giới giữa thực tại và ảo ảnh bị xóa nhòa. Những hình bóng quen thuộc bỗng chốc trở nên xa xôi, mờ ảo, như thể chúng đang trôi dạt trong làn sương mỏng manh của ký ức và nỗi nhớ: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Tất cả dường như chỉ còn là ảo ảnh. Tác giả như lạc bước vào một giấc mộng xa xôi, nơi hình bóng người thương trở nên nhạt nhòa, xa vời. Màu áo trắng vốn biểu tượng cho sự trong sáng, tinh khôi, nhưng giờ đây lại mờ ảo đến mức "nhìn không ra", như thể khoảng cách giữa thực và mơ đã xóa nhòa mọi đường nét. Sương khói không chỉ che phủ cảnh vật mà còn bao trùm cả tâm trạng của nhà thơ, khiến hình bóng người thương trở nên hư vô, mong manh. Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" như một lời tự vấn đầy băn khoăn, vừa là nỗi hoài nghi về tình cảm của người thương, vừa là sự xót xa cho chính nỗi lòng của nhà thơ – một tình yêu không thể nắm bắt, một nỗi nhớ không thể gọi tên. Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế mà còn là tiếng lòng khắc khoải, đầy đau thương của Hàn Mặc Tử. Qua đó, ta cảm nhận được nỗi khao khát yêu thương, sự tiếc nuối và bi kịch của một tâm hồn nhạy cảm nhưng lại bị số phận nghiệt ngã chia lìa. Chính những yếu tố ấy đã làm nên sức hấp dẫn và giá trị sâu sắc cho bài thơ, để lại trong lòng người đọc bao cảm xúc bâng khuâng, xót xa. Đọc bài thơ, ta không chỉ thấy một bức tranh thiên nhiên đẹp mà còn cảm nhận được nỗi lòng của một con người luôn hướng về cuộc đời với những yêu thương nồng cháy nhưng lại bất lực trước số phận. |
Mẫu 2: Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử -một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới Việt Nam, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm thơ ca đầy cảm xúc và giàu chất trữ tình. Trong số đó, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một bài thơ nổi bật, không chỉ làm say đắm lòng người bằng hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của xứ Huế mộng mơ mà còn mang đến những tâm trạng sâu lắng, khắc khoải của tác giả trước cuộc đời và tình yêu. Bài thơ đưa người đọc vào một không gian ký ức xa xăm, nơi ánh sáng và bóng tối đan xen, thực tại và giấc mộng hòa quyện vào nhau. Ngay từ khổ thơ đầu, cảnh sắc thôn Vĩ hiện lên đầy thơ mộng và tươi sáng: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Câu hỏi tu từ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vừa như một lời trách móc nhẹ nhàng, vừa gợi lên nỗi nhớ thương da diết. Hình ảnh "nắng hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" mang đến một khung cảnh trong trẻo, tinh khôi, đầy sức sống. Ánh nắng mai lấp lánh trên những tàu cau cao vút, sắc xanh ngọc bích của khu vườn hòa cùng hơi thở dịu dàng của đất trời, tạo nên một không gian vừa chân thực vừa mơ màng. Đặc biệt, hình ảnh "lá trúc che ngang mặt chữ điền" mở ra bao liên tưởng: đó có thể là bóng dáng e ấp của một người con gái xứ Huế, hay cũng có thể là sự ngăn cách vô hình giữa nhân vật trữ tình và người thương, khiến cho cảnh vật dù đẹp nhưng vẫn phảng phất một nỗi buồn xa vắng. Thế nhưng, vẻ đẹp tươi sáng ấy không tồn tại mãi. Ở khổ thơ tiếp theo, bức tranh thiên nhiên dần nhuốm màu hoài niệm, tâm trạng của tác giả cũng trở nên buồn bã hơn: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Không gian nơi đây không còn sự hòa hợp của ánh sáng và sắc màu, mà thay vào đó là sự chia lìa, xa cách. "Gió theo lối gió, mây đường mây" – hai sự vật vốn dĩ gắn liền nhau nhưng giờ đây lại trôi về hai hướng khác biệt, như chính lòng người mỗi lúc một xa hơn. Dòng nước lặng lẽ trôi, mang theo nỗi buồn man mác, hoa bắp lay động như một nét chấm phá khẽ khàng nhưng đủ để làm rung lên những cảm xúc xót xa. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền trên dòng sông trăng hiện lên thật thơ mộng nhưng cũng đầy huyền ảo. Liệu con thuyền ấy có kịp chở ánh trăng – biểu tượng của những mộng ước, những khát khao yêu thương về đến bến bờ hạnh phúc, hay tất cả chỉ là những ước vọng mong manh, xa vời? Câu hỏi ấy không chỉ là sự băn khoăn, mà còn là nỗi niềm day dứt của một trái tim khao khát yêu thương nhưng mãi bị số phận chia cắt. Khép lại bài thơ, khổ thơ cuối đưa người đọc vào một không gian huyền ảo, nơi thực và mơ hòa lẫn, như một cõi mộng đầy sương khói, nơi thực và ảo, tỉnh và mê quyện vào nhau: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Tất cả như trôi dần vào hư vô. Nhân vật trữ tình mơ về một vị khách phương xa hay chính mình cũng hóa thành kẻ lạc lõng giữa cuộc đời. Hình ảnh "áo em trắng quá nhìn không ra" gợi lên sự xa cách đến vô vọng, khi người thương dù vẫn đó nhưng lại mong manh như một ảo ảnh. Sương khói phủ mờ không chỉ cảnh vật mà còn cả tâm trí thi nhân, khiến cho hình bóng người thương trở nên nhạt nhòa, hư ảo. Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" khép lại bài thơ bằng một dư âm da diết, như một lời tự vấn, một nỗi hoài nghi về tình cảm của người xưa, hay cũng có thể là sự tiếc nuối về một mối duyên không thành. Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng của xứ Huế mà còn là tiếng lòng tha thiết của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm là sự hòa quyện giữa cảm xúc cá nhân và cảnh sắc thiên nhiên, giữa thực tại và mộng tưởng, khiến người đọc vừa say mê vừa day dứt. Chính điều đó đã làm nên giá trị trường tồn và sức sống mãnh liệt của Đây thôn Vĩ Dạ trong lòng độc giả bao thế hệ. |
Lưu ý: Mẫu "Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ? Trình bày cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ? Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn?" nêu trên chỉ mang tính chất tham khảo.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ? Trình bày cảm nhận về Đây thôn Vĩ Dạ? Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được học ở lớp mấy? (Hình từ Internet)
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được học ở chương trình môn Ngữ văn lớp mấy?
Căn cứ Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT có quy định như sau:
LỚP 10, LỚP 11 VÀ LỚP 12
Thơ, truyện thơ, phú, văn tế
...
- Dấu chân qua trảng cỏ hoặc Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo)
- Đất nước (Nguyễn Đình Thi)
- Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
- Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du)
- Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch)
- Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
- Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Nhớ (Nông Quốc Chấn)
...
Như vậy, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của tác giả Hàn Mặc Tử được gợi ý lựa chọn học ở chương trình môn Ngữ Văn lớp 10, lớp 11, lớp 12.
Lưu ý:
Để thuận tiện và linh hoạt trong việc lựa chọn ngữ liệu, các văn bản được gợi ý theo các nhóm lớp: lớp 1, lớp 2 và lớp 3; lớp 4 và lớp 5; lớp 6 và lớp 7; lớp 8 và lớp 9; lớp 10, lớp 11 và lớp 12 (Tên văn bản ở tất cả các lớp xếp theo thứ tự A, B, C).
Các tác giả sách giáo khoa có thể dựa vào danh mục này để lựa chọn và tự tìm thêm các văn bản tương đương về thể loại và độ khó để biên soạn miễn là đáp ứng được các tiêu chí (nêu tại mục V Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT) và yêu cầu lựa chọn văn bản (nêu tại mục VIII Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT).
Học sinh trung học phổ thông có nhiệm vụ gì?
Căn cứ Điều 34 Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT, học sinh trung học phổ thông có nhiệm vụ như sau:
- Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường.
- Kính trọng cha mẹ, cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường và những người lớn tuổi; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện; thực hiện điều lệ, nội quy nhà trường; chấp hành pháp luật của Nhà nước.
- Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân.
- Tham gia các hoạt động tập thể của trường, của lớp học, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; giúp đỡ gia đình, tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường, thực hiện trật tự an toàn giao thông.
- Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, nơi công cộng; góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà trường.










Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Thuê nhà trọ thì đăng ký thường trú hay tạm trú? Tạm trú bao lâu thì được đăng ký thường trú theo quy định mới?
- Quyết định 646/QĐ-BGDĐT về Điều lệ Giải thể thao học sinh phổ thông toàn quốc năm 2025 ra sao? Tải về?
- Lý do xin nghỉ việc hợp lý kèm theo mẫu đơn xin nghỉ việc dành cho NLĐ? Cách xin nghỉ việc luôn? HĐLĐ 12 tháng phải báo trước bao nhiêu ngày?
- Thể lệ Cuộc thi Olympic dành cho học sinh trung học phổ thông TP HCM năm học 2024 - 2025 ra sao?
- 02 giai đoạn sáp nhập xã, phường mới nhất theo Nghị quyết 35? Chế độ, chính sách đối với CBCCVC NLĐ khi sáp nhập xã, phường?