|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
3000/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Vĩnh Phúc
|
|
Người ký:
|
Vũ Việt Văn
|
Ngày ban hành:
|
29/12/2023
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 3000/QĐ-UBND
|
Vĩnh Phúc, ngày 29
tháng 12 năm 2023
|
QUYẾT
ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
NGUỒN LỰC TRONG DÂN CƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM
2025
ỦY BAN
NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Căn cứ Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2020-2025;
Căn cứ Chương trình
hành động số 10-CTr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Căn cứ Quyết định số
529-QĐ/TU ngày 11/01/2022 và Quyết định số 880-QĐ/TU ngày 23/12/2023 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm
2022 và năm 2023 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
Căn cứ ý kiến thông
qua của Thành viên UBND tỉnh;
Căn cứ ý kiến thống
nhất của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh;
Theo đề nghị của
Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số: 2950/SKHĐT-THQH
ngày 03 tháng 10 năm 2023.
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Ban
hành kèm theo Quyết định Đề án huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong
dân cư để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025.
Điều 2. Giao
Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và UBND các
huyện, thành phố có liên quan tham mưu tổ chức thực hiện Đề án đúng quy định.
Điều 3. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND
tỉnh, Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố; các tổ
chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ
CHỦ TỊCH
Vũ
Việt Văn
|
ĐỀ
ÁN
HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC TRONG
DÂN CƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 3000/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2023
của UBND tỉnh Vĩnh Phúc)
Phần mở đầu
1.
Sự cần thiết và căn cứ xây dựng Đề án
1.1. Sự cần thiết của
Đề án
Kể từ khi thành lập
đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đạt nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội.
Từ một tỉnh nông nghiệp, Vĩnh Phúc đã thành công trong quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa trở thành một tỉnh công nghiệp với vị thế ngày càng cao
trong tăng trưởng kinh tế của cả nước. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
2016-2020 của tỉnh bình quân đạt 7,03%/năm, cao so với mức bình quân chung cả
nước là 6%/năm. Đây là kết quả của việc huy động và sử dụng có hiệu quả nhiều
nguồn lực cho phát triển kinh tế của tỉnh trong đó có yếu tố vốn. Tăng trưởng
vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá nhanh, bình quân đạt
11,1%/năm giai đoạn 2016-2020, tăng nhanh hơn tốc độ tăng vốn của cả nước là
8,2%/năm. Do đó, đóng góp của yếu tố vốn chiếm tỷ trọng chủ yếu cho mức tăng
trưởng cao và ổn định của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian vừa qua. Trong thời
gian qua, yếu tố vốn thường chiếm tới 55% đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của
tỉnh. Xem xét cơ cấu vốn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tỷ trọng nguồn vốn từ
khu vực đầu tư nước ngoài tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn, đạt 35% tổng vốn,
rất cao so với tỷ lệ bình quân của cả nước là 16,5% và của vùng Đồng bằng sông
Hồng là 19,2%. Nguồn vốn FDI ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế của tỉnh nhưng sẽ đặt ra nhiều thách thức cho tăng trưởng của tỉnh
trong dài hạn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến ngày càng
phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay. Trong khi đó nguồn lực trên địa bàn vẫn
còn nhiều dư địa để phát triển. Vốn khu vực ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc vẫn chiếm tỷ trọng chủ chốt (43%) với tốc độ tăng trưởng bình quân
đạt 8,3%/năm giai đoạn 2016-2020. Trong đó, 70% là nguồn vốn từ khu vực dân cư
và chỉ có 30% là vốn thuộc khu vực doanh nghiệp. Do những khó khăn trong giai
đoạn chịu ảnh hưởng của COVID-19, vốn khu vực doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
cho thấy dấu hiệu thu hẹp lại, tốc độ tăng trưởng chậm nhưng đây là ảnh hưởng
trong ngắn hạn. Về dài hạn, nguồn vốn từ khu vực dân cư có thể được sử dụng với
quy mô đầu tư ngày càng lớn và khuyến khích chuyển đổi loại hình sang nguồn vốn
doanh nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng. Trong giai đoạn tới, nhiều chương trình, dự án được kì
vọng thực hiện trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2050 và thực hiện Đề án cơ cấu lại nền kinh tế,
các hoạt động này đều đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn nữa của khu vực tư nhân và
nhu cầu sử dụng vốn cho phát triển ngày càng lớn. Do đó, việc xây dựng Đề án “Huy
động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025” trở nên cần thiết để đưa ra những định
hướng nhằm tận dụng nguồn lực hiện có trên địa bàn phục vụ cho phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh trong dài hạn.
1.2. Căn cứ xây dựng
Đề án
- Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2020-2025;
- Chương trình hành
động số 10-Ctr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
- Quyết định số
529-QĐ/TU ngày 11/01/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc về việc giao chỉ
tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
- Quyết định số
880-QĐ/TU ngày 23/12/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc về việc giao chỉ
tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
2.
Mục tiêu, yêu cầu, phạm vi của đề án
2.1. Mục tiêu xây
dựng Đề án
Tập trung phân tích,
đánh giá khách quan, trung thực về những kết quả đạt được, những hạn chế trong
quá trình huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh giai đoạn 2016-2021, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
các giải pháp có tính khoa học, sát với thực tiễn nhằm huy động, sử dụng nguồn
lực trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn đến
năm 2025.
2.2. Yêu cầu đối với
nhiệm vụ xây dựng Đề án
Đề án phải giải đáp
có căn cứ khoa học các vấn đề sau:
- Đánh giá thực trạng
các cơ chế, chính sách của Nhà nước, của địa phương và kết quả huy động, sử
dụng nguồn lực vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc,
trong đó tập trung đánh giá:
+ Thực trạng huy động
vốn từ khu vực ngoài nhà nước từ công cụ (kênh) tiền gửi ngân hàng, công cụ
(kênh) xã hội hóa, công cụ (kênh) trái phiếu chính quyền địa phương, công cụ
(kênh) chính sách ưu đãi.
+ Thực trạng sử dụng
có hiệu quả vốn từ khu vực ngoài nhà nước: giải ngân và thực hiện các dự án sử
dụng vốn xã hội hóa (giáo dục đào tạo, y tế và văn hóa); hiệu quả nguồn lực
trong dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
+ Những khó khăn, hạn
chế và nguyên nhân (chủ quan và khách quan).
- Dự báo những thuận
lợi, khó khăn, thách thức, cơ hội và nhu cầu sử dụng vốn cho phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh đến năm 2025.
- Xác định rõ quan
điểm, mục tiêu huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư để phát triển.
- Đề ra các nhiệm vụ,
giải pháp phù hợp với khả năng, đặc điểm và điều kiện riêng của tỉnh nhằm thực
hiện được các mục tiêu đã đề ra.
2.3. Phạm vi nghiên
cứu của Đề án
+ Phạm vi về nguồn
lực: Tập trung vào nguồn lực vốn.
+ Phạm vi về đối
tượng nghiên cứu: Khu vực ngoài nhà nước (bao gồm doanh nghiệp tư nhân và người
dân)
+ Phạm vi nội dung:
Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn từ khu vực ngoài nhà nước
3.
Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích
- Phương pháp nghiên
cứu: Tại bàn, tổng thuật tài liệu thứ cấp trong và ngoài nước, phân tích dữ
liệu thứ cấp, số liệu thống kê tỉnh, phân tích hệ thống, dự báo, phân tích
thống kê, tham vấn ý kiến chuyên gia, tham vấn ý kiến Sở, ban ngành.
- Khung phân tích:
+ Đối với nội dung
Huy động vốn: Tiếp cận theo góc độ các công cụ/phương thức huy động vốn từ khu
vưc ngoài nhà nước trên các khía cạnh gồm hoàn thiện chính sách đến thực tiễn
triển triển khai chính sách và thực trạng nguồn vốn huy động được từ công
cụ/phương thức này.
+ Đối với nội dung Sử
dụng có hiệu quả vốn: Tiếp cận trên một số góc độ sau: Chỉ số ICOR; tỷ lệ vốn
đầu tư trên GRDP; tỷ lệ giải ngân vốn…
4. Sản phẩm của đề án
- 01 Báo cáo tổng
hợp.
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TRONG
DÂN CƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
I.
Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2021
1.
Bối cảnh phát triển kinh tế
1.1. Tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kể từ khi tái lập
tỉnh cho đến nay, vị thế của tỉnh Vĩnh Phúc ngày càng được củng cố và phát
triển vững mạnh. Quy mô kinh tế tỉnh ngày càng được mở rộng, tính đến năm 2020,
tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt 123,6 nghìn tỷ đồng (giá hiện
hành), tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7,03%/năm, cao so
với bình quân cả nước trong cùng giai đoạn là 6%/năm. Năm 2021, tổng sản phẩm
trên địa bàn Vĩnh Phúc tăng 8,02% so với năm 2020, đứng thứ 9 trong cả nước, là
mức tăng trưởng rất cao so với bình quân cả nước là 2,5% và đạt 136,18 nghìn tỷ
đồng. Trong số 3 nhóm ngành lớn, công nghiệp-xây dựng có đóng góp chủ yếu vào
tăng trưởng của tỉnh, là nhóm ngành chủ chốt thúc đẩy kinh tế địa phương phát
triển. Tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành CN-XD bình quân giai đoạn
2016-2020 đạt 10,3%/năm, đóng góp khoảng 64,2% vào tốc độ tăng trưởng GRDP của
tỉnh Vĩnh Phúc. Vai trò của CN-XD tại Vĩnh Phúc ngày càng tăng, đóng góp vào
tăng trưởng của CN-XD đã tăng từ 37,7% trong năm 2016 lên 75,8% trong năm 2020.
Mặc dù trong năm 2020, Vĩnh Phúc cũng như nhiều tỉnh thành trong cả nước chịu
ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch COVID-19, CN-XD vẫn là ngành giữ vững vai trò
động lực kinh tế của tỉnh. Trong năm 2021, CN-XD cũng là khu vực có tăng trưởng
cao nhất, tăng 12,98% so với năm 2020, riêng công nghiệp tăng 13,84%; NLTS tăng
4,81% và DV tăng 2,96%.
Về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, trong giai đoạn 2016-2020, kinh tế Vĩnh Phúc chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng ngành Công nghiệp-xây dựng, trong đó chủ yếu là công nghiệp, đặc
biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT), giảm dần tỷ trọng
Nông, lâm, thuỷ sản và Dịch vụ. Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành CN-XD đã tăng
thêm 5,4 điểm % trong giai đoạn 2016-2020, đến năm 2020, CN-XD chiếm 45,5% cơ
cấu kinh tế Vĩnh Phúc (cao hơn so với bình quân toàn vùng ĐBSH là 41,2%, đứng
thứ 7/11 tỉnh trong vùng) và tiếp tục tăng lên 48% trong năm 2021. Trong khi
đó, ngành NLTS có tỷ trọng giảm từ 7,4% năm 2015 xuống còn 6,1% năm 2020, đến
năm 2021 còn 5,9%. Trong cùng giai đoạn, tỷ trọng của ngành DV tăng nhẹ 0,28
điểm %, đạt 22,6% vào năm 2020, tuy nhiên, do ảnh hưởng của COVID-19, tỷ trọng
ngành DV hiện đang giảm nhẹ, chỉ còn 21,4% trong năm 2021; thuế sản phẩm chiếm
24,7%. Cơ cấu trong nội bộ các ngành cũng có những chuyển dịch theo hướng tích
cực. Ngành CNCBCT là ngành công nghiệp chủ chốt trong tăng trưởng ngành công
nghiệp của tỉnh, trong đó tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học tăng lên nhanh chóng. Tuy vậy, quy mô CN-XD của tỉnh
còn khá thấp so với các tỉnh trong vùng. Quy mô ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc
chỉ chiếm 5,7% tổng giá trị gia tăng ngành CN-XD của vùng ĐBSH, chỉ bằng 1/5 so
với Hà Nội, 1/3 so với Bắc Ninh và ½ so với Quảng Ninh. Đóng góp chủ yếu vào
ngành công nghiệp của tỉnh là khu vực FDI. Hai ngành công nghiệp chủ chốt của
tỉnh đều phụ thuộc lớn vào FDI: đối với ngành cơ khí, sản xuất ô tô, xe máy
100% được thực hiện bởi khu vực đầu tư nước ngoài, không có doanh nghiệp tư
nhân trong nước; đối với ngành sản xuất linh kiện điện tử, 99,8% doanh thu đến
từ khu vực FDI. Vai trò của khu vực FDI ngày càng lớn và trở thành một trong
những khu vực giữ vai trò chủ chốt trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh
Phúc. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, nền kinh tế
nếu dựa chủ yếu vào khu vực FDI dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực của
kinh tế thế giới, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh,
phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay.
Ngành nông nghiệp
cũng có sự chuyển biến tích cực với sự gia tăng ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất, sản xuất sản phẩm OCOP, sản phẩm sạch, hướng đến sản xuất tập trung
và sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao hơn.
Ngành dịch vụ tại Vĩnh Phúc trong giai đoạn gần đây có sự chuyển dịch sang
hướng tăng tỷ trọng các ngành ngành thương mại, giáo dục và đào tạo, và ngành
dịch vụ y tế trong khi giảm tỷ trọng ở hầu hết các ngành dịch vụ còn lại. Dịch
vụ thương mại đã phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đa dạng với
nhiều siêu thị, chợ, trung tâm thương mại...
Tóm lại, tăng trưởng
kinh tế của tỉnh có nhiều thành tựu trong giai đoạn 2016-2021. Tăng trưởng kinh
tế của tỉnh chủ yếu do đóng góp của nhóm ngành CN-XD, mà chủ đạo là các ngành
chế biến chế tạo. Các ngành dịch vụ mặc dù đóng vai trò quan trọng thứ hai
trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 còn
chậm và không đạt mục tiêu đề ra. Trong khi đó, tăng trưởng khu vực NLTS thấp,
không ổn định trong giai đoạn 2011-2020, và đặc biệt chịu nhiều ảnh hưởng tiêu
cực của dịch bệnh trong năm 2019. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mặc dù cơ cấu
kinh tế tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, khu vực CN-XD tiếp tục giữ vai
trò đầu tàu, động lực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng chuyển dịch cơ cấu
đang có xu hướng ngày một chậm dần. Theo khu vực, cơ cấu kinh tế tỉnh chuyển
dịch chậm và có xu hướng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài, đây là xu thế thiếu bền vững và ổn định trong tăng trưởng.
1.2. Phát triển hệ
thống hạ tầng kinh tế
Cùng với tăng trưởng
kinh tế, hệ thống hạ tầng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đang ngày càng hoàn thiện.
Về phát triển đô thị, đến nay, tỉnh có 29 đô thị, trong đó có 1 đô thị loại II
(thành phố Vĩnh Yên), 01 đô thị loại III (thành phố Phúc Yên) và 27 đô thị loại
V thuộc huyện, trong đó có 16 thị trấn và 11 đô thị được công nhận loại V. Tỷ
lệ đô thị hoá tại Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 30% (tăng 6,67 điểm phần trăm so với
năm 2015), tuy nhiên vẫn thấp hơn so với cả nước (36,8%) và một số tỉnh khác
trong vùng Đồng bằng sông Hồng ví dụ như Hà Nội (49,3%), Quảng Ninh (64,4%),
Bắc Ninh (31,5%). Công tác xây dựng và phát triển đô thị trên địa bàn đạt nhiều
kết quả tích cực, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất
lượng đời sống người dân. Khu vực nông thôn của tỉnh đã được đầu tư cứng hóa
280,6 km đường giao thông nông thôn và 209 đường trục chính giao thông nội
đồng. 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới. 99% đạt tiêu chí giao thông; 100% hộ sử
dụng điện thường xuyên, an toàn.
Hệ thống hạ tầng giao
thông trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện, đóng góp quan trọng cho phát
triển kinh tế. Nhiều tuyến giao thông quan trọng đã được hình thành, nâng cấp
và mở rộng với cả 3 loại hình: giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ nội
địa. Đối với hạ tầng giao thông đường bộ, hiện trên địa bàn tỉnh có: 1) 1 tuyến
đường bộ cao tốc Hà Nội - Lào Cai nối vùng thủ đô Hà Nội lên phía Bắc, qua 4
tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai và kết nối sang Vân Nam, Trung Quốc
qua cửa khẩu Lào Cai; 2) có 3 tuyến quốc lộ dài tổng cộng 81,64 km, gồm quốc lộ
2, quốc lộ 2 đoạn tránh, quốc lộ 2C; 3) có 17 tuyến đường tỉnh với tổng chiều
dài 371,3km, đã được cải tạo, nâng cấp cứng hóa đạt 100% bằng bê tông nhựa hoặc
bê tông xi măng; 4) 5 đường vành đai để kết nối các trung tâm thu hút ngoài đô
thị Vĩnh Phúc; 5) 194 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 693,11 km hiện đã được
đầu tư, nâng cấp; 6) tổng số 308,9 km đường đô thị, tập trung chủ yếu ở 02 đô
thị là thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên. Vĩnh Phúc có 9 bến xe khách,
gồm các bến xe: Vĩnh Yên (bến tạm), Tam Đảo (loại 1), Lập Thạch (loại 4), Yên
Lạc (loại 6), Vĩnh Tương (loại 4), TT Vĩnh Tường (loại 4); Phúc Yên (loại 4),
Tam Dương (loại 3) và Sông Lô (loại 3); 01 trạm dừng nghỉ Phước An trên tuyến
cao tốc Hà Nội - Lào Cai thuộc địa phận xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên; và 01
Trung tâm logistics (Trung tâm logistics ICD Vĩnh Phúc đang được xây dựng tại
thị trấn Hương Canh và xã Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên). Đối với hạ tầng giao
thông đường thuỷ, hiện Vĩnh Phúc có 03 cảng sông, 39 bến hàng hóa, 02 bến phà
và 05 bến khách ngang sông phân bố trên sông Hồng và sông Lô. Tuy nhiên, hạn
chế là các cảng sông đều là các cảng tạm, bốc xếp thủ công, công suất hạn chế.
Đối với hạ tầng giao thông đường sắt, tỉnh Vĩnh Phúc có 01 tuyến đường sắt cấp
Quốc gia đi qua dài 35 km là tuyến Hà Nội - Lào Cai. Trên tuyến có 05 nhà ga
hiện đang khai thác, gồm: ga Phúc Yên, ga Hương Canh, ga Vĩnh Yên, ga Hướng
Lại, ga Bạch Hạc. Trong đó 02 ga chính là ga Phúc Yên và ga Vĩnh Yên. Đa phần
các ga có quy mô nhỏ (chủ yếu là hạng 4). Đến thời điểm Quy hoạch giai đoạn
2021-2030, việc đầu tư thực hiện các tuyến cao tốc, quốc lộ đã hoàn thành xây
dựng và nâng cấp. Đường vành đai tỉnh đã hoàn thành 70% trong khi đường tỉnh
mới được đầu tư dưới 30% theo quy hoạch do sự hạn chế về nguồn lực. Hệ thống
giao thông đường thuỷ chưa được đầu tư nạo vét luồng thuỷ. Hệ thống các cảng,
bến thuỷ nội địa hiện vẫn còn là các bến tạm chưa được xây dựng và nâng cấp. Hạ
tầng giao thông đường sắt hiện chưa được xây dựng và đầu tư theo quy hoạch làm
chậm phát triển vận tải đường sắt trên tuyến. Công tác đầu tư cảng, bến bãi chủ
yếu phụ thuộc doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân thực hiện.
Hệ thống hạ tầng cấp
nước đã được đầu tư nhưng tỷ lệ bao phủ dịch vụ còn thấp. Trên địa bàn tỉnh có
44 công trình nước sạch nông thôn, trong đó có 05 công trình liên xã, còn lại
39 công trình quy mô xã, thôn. Tuy vậy, một số thị trấn có tỷ lệ dân cư sử dụng
nước sạch còn thấp như thị trấn Đạo Đức tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 16,3%,
thị trấn Đại Đình tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 3,5%, thị trấn Hoa Sơn tỷ lệ
dân cư sử dụng nước sạch 55,8%, thị trấn Tam Sơn tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch
29,7%, thị trấn Hợp Hòa tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 29,8%… Đặc biệt, thị
trấn Yên Lạc đã có công trình cấp nước tập trung, công suất 2.500m3/ngđ , nhưng
hầu như các tổ chức và người dân trên địa bàn không đấu nối sử dụng nước sạch,
tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch mới đạt 5,68%. Những năm gần đây lĩnh vực cấp
nước cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, trên địa bàn tỉnh đã có
một số dự án đầu tư xây dựng các công trình cấp nước quy mô lớn mang tính cấp
vùng đang được đầu tư xây dựng, như nhà máy nước Phúc Bình tại xã Đức Bác,
huyện Sông Lô do Công ty CP Đầu tư phát triển Yên Bình làm chủ đầu tư, sử dụng
nguồn nước mặt Sông Lô, công suất thiết kế 150.000m3/ngđ, mạng lưới đường ống
truyền tải chạy dọc cao tốc Nội Bài - Lào Cai có đường kính từ D600 đến D1500,
L=40km; Nhà máy nước Sông Hồng tại xã Tam Phúc huyện Vĩnh Tường do Công ty CP
Xây dựng Procons làm chủ đầu tư, công suất thiết kế 29.000m3/ngđ và mạng lưới
đường ống phân phối cho vùng phía Nam; Nhà máy nước cấp cho địa bàn các xã (Hồ
Sơn, Bồ Lý, Đạo Trù, Yên Dương) và các xã (Ngọc Mỹ, Quang Sơn, Hợp Lý) huyện
Tam Đảo và Lập Thạch do Công ty TNHH Đầu tư nước sạch Minh Anh làm chủ đầu tư,
công suất thiết kế 10.000 ngđ. Khi các nhà máy này đi vào hoạt động sẽ cơ bản
đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước sạch phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh cho các giai đoạn phát triển. Tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch ở
khu vực nông thôn còn thấp, Đánh giá nước sạch nông thôn năm 2021 thì tỷ lê này
mới chỉ là 17,18% từ công trình cấp nước tập trung; 48,91% từ công trình cấp
nước nhỏ lẻ. Các công trình cấp nước tập trung nông thôn hoạt động ổn định cho
chất lượng nước cấp đạt yêu cầu theo QCVN 02:2009. Tuy nhiên vẫn còn nhiều công
trình hoạt động không bền vững, trang thiết bị xuống cấp dẫn đến dấu hiệu suy
giảm chất lượng nước sau xử lý. Một số doanh nghiệp đã được UBND tỉnh phê duyệt
chủ trương đầu tư dự án cấp nước sạch với quy mô, công suất lớn từ 29.000
m3/ngđ đến 500.000 m3/ngđ bằng nguồn vốn doanh nghiệp, nhưng tiến đô triển khai
rất chậm và có dự án vẫn chưa triển khai thi công. Mới thu hút được các doanh
nghiệp tham gia đầu tư công trình cấp nước tại những khu vực dân cư sống tập
trung, chưa thu hút đầu tư vào những nơi khó khăn, nguồn nước bị ô nhiễm, dân
cư sống không tập trung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một số nơi chính quyền
chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc huy động nguồn lực của địa phương và
nhân dân tham gia xây dựng công trình cấp nước, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại
vào Nhà nước.
Hệ thống hạ tầng thủy
lợi trên địa bàn đã được đầu tư và quản lý bởi một số Công ty TNHH MTV như Công
ty TNHH MTV thủy lợi Lập Thạch, Tam Đảo, Lập Thạch, Liễn Sơn. Toàn tỉnh hiện có
441 hồ đập với tổng dung tích 102 triệu m3; có 383 trạm bơm điện với tổng công
suất điện lắp đặt 20.500 KW; có trên 7000 km kênh mương các loại, hiện đã kiến
cố hoàn thành các tuyến kênh từ kênh loại I đến loại III, kênh nội đồng đã kiến
cố khoảng 20%. (trong đó kênh loại I: 90,2, kênh loại II: 364,3 km, kênh loại
III:1854,4 km, kênh nội đồng: 4748 km). Phân loại về công trình có trên 300
công trình thủy lợi lớn và vừa còn lại là thủy lợi nhỏ, diện tích tưới tiêu,
diện tích cây trồng hàng năm được phục vụ tưới tiêu khoảng 110 ha (3 vụ), diện
tích nuôi trồng thủy sản được cấp nước 5.400 ha. Các công trình thủy lợi lớn và
vừa cơ bản đã được đầu tư cải tạo phục vụ tốt cho sản xuất và cấp nước. Hầu hết
các công trình này đã được bàn giao lại cho các công ty quản lý. Tuy nhiên, kể
từ khi nhận bàn giao đến nay, một số công trình đã xuống cấp, chậm được đầu tư
cải tạo, nâng cấp nên ảnh hưởng nghiêm trọng tới công tác điều tiết nước phục
vụ sản xuất nông nghiệp.
Quy hoạch mạng lưới
điện của tỉnh Vĩnh Phúc về cơ bản đảm bảo nguồn điện cung cấp cho phụ tải của
địa phương. Lưới điện 220kV và 500kV đang được triển khai thi công. Xây dựng
mới trạm biến áp 110kV: Tổng công suất các trạm biến áp 110kV xây dựng mới đạt
được 14.5% so với quy hoạch đã đề ra. Cải tạo nâng công suất trạm biến áp
110kV: Tổng công suất các trạm biến áp 110kV được nâng công suất đạt được 47%
so với quy hoạch đã đề ra. Xây dựng đường dây 110kV: Tổng khối lượng xây dựng
mới đường dây 110kV đạt khoảng 9% so với quy hoạch đã đề ra. Cải tạo nâng khả
năng tải đường dây 110kV: có tổng cộng 10 công trình cải tạo nâng khả năng tải
các đường dây 110kV, tuy nhiên đến nay đã có 05 tuyến đường dây hoàn thành. Để
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ tới, mạng lưới điện
trên địa bàn tỉnh cần được cải thiện, đẩy nhanh tốc độ triển khai, tăng cường
đầu tư và nâng cấp hơn nữa.
Hệ thống hạ tầng KCN,
CCN đang dần được đầu tư hoàn thiện, thu hút doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Tính đến nay, Vĩnh Phúc được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung Quy hoạch
phát triển KCN đến năm 2021 là 19 KCN. Tính đến 15/9/2021, trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc có 14 KCN đã có chủ trương đầu tư, trong đó có 13 KCN đã thành lập cụ
thể: có 10 KCN đã được cấp GCNĐT/GCNĐKĐT; có 08/12 KCN đi vào hoạt động. Tổng
vốn đầu tư đăng ký 12 dự án KCN là 12.760,75 tỷ đồng (trong đó: vốn đầu tư trực
tiếp: 12.643,75 tỷ đồng và vốn ngân sách 117 tỷ đồng) và 117,42 triệu USD. Tổng
diện tích đất quy hoạch là 2.338,53 ha, trong đó đất công nghiệp theo quy hoạch
1.716,92 ha; diện tích đất đã bồi thường là 1.044,05 ha; Tổng diện tích đất
công nghiệp đã cho thuê, đăng ký thuê: 893,47 ha, tỷ lệ lấp đầy KCN đạt 52%.
Trong giai đoạn 2010-2020, các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 306 dự án
đầu tư thứ cấp, 260 dự án với tổng số vốn đăng ký 3.461,49 triệu USD, chiếm 84%
tổng số dự án FDI từ trước đến nay và 80% tổng vốn đầu tư FDI đăng ký từ trước
đến nay; 46 dự án DDI với tổng số vốn đăng ký 4.730,35 tỷ đồng, chiếm 78% tổng
số dự án DDI từ trước đến nay và 80% tổng vốn đầu tư DDI đăng ký từ trước đến
nay. Các dự án đầu tư trong KCN phần lớn đều hoạt động hiệu quả, các chỉ tiêu
kinh tế năm sau đạt cao hơn năm trước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh
theo hướng tích cực, đưa Vĩnh Phúc từ một tỉnh thuần nông trở thành một trong
những tỉnh có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) nhanh trên cả
nước. Hàng năm, đóng góp của các doanh nghiệp KCN chiếm khoảng 60% GTSXCN toàn
tỉnh, kim ngạch xuất khẩu chiếm 60-65% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh, nộp ngân
sách chiếm 30-35% tổng thu ngân sách toàn tỉnh; đến nay các doanh nghiệp đã tạo
việc làm cho hàng 100 nghìn lao động (bình quân 134 người/ha đất công nghiệp).
Trong đó có đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp tiêu biểu như Honda, Piaggio,
VPIC1, Partron Vina, Haesung Vina, Jahwa Vina; Thép Việt Đức; Prime Group…
1.3. Hợp tác, liên
kết phát triển trong và ngoài nước
Thực hiện chủ trương
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua, công tác đối
ngoại luôn được Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện. Vĩnh Phúc đã triển khai nhiều
hoạt động đối ngoại thiết thực, hiệu quả trên nhiều phương diện như kinh tế,
văn hoá, nhằm không ngừng mở rộng mối quan hệ, hợp tác hữu nghị với địa phương
của các nước trên thế giới; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư; chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của tỉnh đến
với bạn bè trên thế giới.
Ngoại giao, ký kết và
thực hiện các thoả thuận quốc tế. Vĩnh Phúc luôn quan tâm thực hiện các hoạt
động đối ngoại, ngoại giao, duy trì quan hệ tốt đẹp với các đối tác, từ đó tạo
tiền đề quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong tương lai, gửi thư
thăm hỏi, động viên các địa phương, quốc gia có quan hệ ngoại giao với tỉnh
trong giai đoạn đại dịch COVID-19 diễn ra; gửi công thư chúc mừng Quốc khánh
các nước: Australia, Ấn Độ, New Zealand, Bulgari, Israel, Vương quốc Anh, Nga
và Philippines. Tỉnh Vĩnh Phúc linh hoạt chuyển đổi hình thức trao đổi thông
tin với các địa phương nước ngoài, các cơ quan, tổ chức quốc tế sang hình thức
hội nghị, hội thảo trực tuyến nhằm tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế và phù
hợp với tình hình mới.
Đối với các địa
phương của Lào, Vĩnh Phúc đặc biệt chú trọng duy trì mối quan hệ truyền thống;
tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất, đào tạo cho các địa phương của Lào. Trong năm
2021, Vĩnh Phúc tiếp tục hỗ trợ đào tạo cho các du học sinh Lào trên địa bàn
tỉnh, duy trì hoạt động hỗ trợ đào tạo cho 02 tỉnh Bắc Lào (Luang Namtha và
Oudomxay); cùng như lên kế hoạch hỗ trợ các địa phương Bắc Lào trong đào tạo
cán bộ ngành y dược (chuyên ngành điều dưỡng) và nông nghiệp. Trong giai đoạn
dịch COVID-19 diễn ra, Vĩnh Phúc đã chủ động hỗ trợ các trang thiết bị, vật tư
y tế chống dịch cho ba tỉnh Bắc Lào gồm tỉnh Luang Namtha, Luang Prabang và
Oudomxay với tổng giá trị gần 900 triệu đồng.
Bên cạnh tiếp tục duy
trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các đối tác truyền thống, mở
rộng và thiết lập quan hệ với các đối tác mới. Hiện nay, Vĩnh Phúc có quan hệ
hợp tác hữu nghị với các tỉnh Bắc lào, tỉnh Chungcheongbuk (Hàn Quốc); tỉnh
Akita và tỉnh Tochigi (Nhật Bản). Trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã ký kết 03 thỏa
thuận quốc tế mới, bao gồm: ký kết với Trung tâm Tư vấn và giải pháp Công nghệ
Việt-Hàn về hợp tác xúc tiến đầu tư; Bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác đầu tư với
Liên danh Công ty Cổ phần sữa Việt , Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam - CTCP và
tập đoàn SOJITZ của Nhật Bản; Ký kết Bản ghi nhớ quan hệ hợp tác hữu nghị với
tỉnh Tochigi - Nhật Bản. Trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã tăng cường triển khai
nhiều hoạt động hợp tác với các cơ quan Đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam:
trao đổi kết nối, tiến tới ký kết quan hệ hợp tác hữu nghị với 07 địa phương
bao gồm: tỉnh Vô-rô-nhét (Liên bang Nga), thành phố Pontedera (Italia), thành
phố Bruno (Cộng hoà Séc), tỉnh Béc- níc (Bulgari), thành phố San Diego, bang
California và thành phố Portland, bang Oregon (Mỹ); định hướng mở rộng quan hệ
hợp tác với địa phương của hai nước Đức, Pháp.
Ngoại giao trên lĩnh
vực kinh tế: trong
thời gian qua, Vĩnh Phúc cũng không ngừng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
tạo môi trường đầu tư thuận lợi, chủ động mở rộng thị trường xúc tiến đầu tư.
Thông qua các diễn đàn song phương, đa phương, các hội chợ thương mại quốc tế,
Vĩnh Phúc đã đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, vận động viện trợ phi
chính phủ. Hằng năm, tỉnh tổ chức các đoàn thăm hữu nghị kết hợp xúc tiến đầu
tư, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại nước ngoài để quảng bá, giới
thiệu tiềm năng, thế mạnh của tỉnh với bạn bè quốc tế, cùng với đó là việc phối
hợp tốt với Đại sứ quán các nước tại Việt Nam để tăng cường hợp tác hữu nghị và
tranh thủ kêu gọi các dự án đầu tư.
Đến năm 2021, có 20
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Vĩnh Phúc, trong đó Hàn Quốc là
quốc gia có số lượng nhà đầu tư lớn nhất, sau đó là Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc, Thái Lan, Singapore, Italia, … Đến năm 2021, luỹ kế toàn tỉnh có 429 dự
án FDI còn hiệu lực (tăng thêm 202 dự án so với luỹ kế 227 dự án FDI vào năm
2016), với tổng vốn FDI đăng ký trên địa bàn Vĩnh Phúc là 7,1 tỷ USD (tăng thêm
3,61 tỷ USD so với luỹ kế 3,49 tỷ USD vào năm 2016). Đối với đầu tư trong nước,
đến năm 2021, luỹ kế toàn tỉnh có 824 dự án DDI (tăng thêm 88 dự án so với luỹ
kế đến năm 2016), tổng vốn đầu tư là hơn 109,97 nghìn tỷ đồng (tăng thêm 60,21
nghìn tỷ đồng so với luỹ kế 49,76 nghìn tỷ đồng vào năm 2016).
Vận động viện trợ phi
chính phủ nước ngoài. Năm 2021, tại Vĩnh Phúc có 10 tổ chức phi chính phủ nước
ngoài (PCPNN) và 03 tổ chức quốc tế đang triển khai dự án trên địa bàn tỉnh,
với tổng số 17 dự án và phi dự án. Các dự án chủ yếu triển khai trên các lĩnh
vực nông nghiệp (04 dự án), y tế (03 dự án), bảo tồn động vật hoang dã (01 dự
án), tài chính vi mô (01 dự án), giáo dục (01 dự án), và ác dự án/phi dự án
liên quan đến các vấn đề xã hội khác.
Ngoại giao văn hoá: Vĩnh Phúc luôn tăng
cường gắn kết ngoại giao văn hoá với ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị,
ngoại giao nhân dân nhằm nâng cao chất lượng cũng như làm phong phú thêm các
hoạt động ngoại giao văn hoá. Một số các hoạt động ngoại giao văn hoá điển hình
được tổ chức trên địa bàn tỉnh bao gồm: tổ chức các chương trình giao lưu văn
hoá, tuần chiếu phim Ấn Độ, đêm Festival nhạc mới Á-Âu, xuất bản ấn phẩm,
chuyên san giới thiệu về tỉnh,… nhằm quảng bá, giới thiệu các nét đẹp văn hoá,
tiềm năng du lịch, sự kiện văn hoá của Vĩnh Phúc đến các nước bạn, cũng như
tăng cường sự hiểu biết về văn hoá của các quốc gia khác. Thực hiện Quyết định số
2013/QĐ-TTg ngày 30/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến
lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030, ngày 27 tháng 9 năm 2022, UBND tỉnh Vĩnh
Phúc đã ban hành Kế hoạch số 242/KH-UBND về Thực hiện Chiến lược ngoại giao văn
hoá tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030.
Công tác hỗ trợ kiều
bào Việt Nam tại nước ngoài và người nước ngoài sinh sống trên địa bàn tỉnh: Công tác hỗ trợ người
nước ngoài và thân nhân sinh sống trên địa bàn tỉnh, cũng như hỗ trợ người dân
Vĩnh Phúc đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài luôn được Vĩnh Phúc luôn
quan tâm thực hiện, nhất là trong giai đoạn vừa qua dưới sự ảnh hưởng tiêu cực
của đại dịch COVID-19. Tỉnh luôn tích cực phối hợp với Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại
giao) chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng nắm bắt thông tin, tham mưu xử
lý kịp thời các vấn đề về công tác lãnh sự, hỗ trợ nhập cảnh, cách ly cho thân
nhân chuyên gia lao động là người nước ngoài trên địa bàn tỉnh; đồng thời, đảm
bảo thông tin liên lạc với các Đại sứ quán và Cục Lãnh sự kịp thời hỗ trợ công
dân của tỉnh đang sinh sống ở nước ngoài gặp khó khăn do dịch bệnh, phối hợp
đưa công dân về nước, thực hiện cách ly tập trung đối với người Việt Nam ở nước
ngoài trở về nước, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài.
2.
Bối cảnh phát triển xã hội
2.1. Phát triển hệ
thống hạ tầng xã hội
Hạ tầng giáo dục, cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học trên địa bàn tỉnh không ngừng được trang bị
đồng bộ theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và được điều chỉnh phù hợp yêu cầu
thực tế của từng cấp học, tạo cơ sở phát triển, nâng cao chất lượng giáo
dục-đào tạo của tỉnh. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm
đầu tư đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đến năm 2019, toàn tỉnh Vĩnh
Phúc đã có 100% trường công lập đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ phòng học kiên
cố/tổng số phòng học của tỉnh đạt mức cao: mầm non đạt 92,6%, tiểu học đạt
96,8%, trung học cơ sở đạt 98,2%, trung học phổ thông đạt 100%. Theo cấp học:
tính tới năm học 2020-2021: 1) toàn tỉnh có 177 trường mầm non (tăng 7 trường
so với năm 2010), trong đó có 163 trường công lập, 14 trường tư thục. Mỗi xã,
phường có ít nhất 01 trường mầm non đáp ứng được nhu cầu giáo dục, nuôi dưỡng
và chăm sóc trẻ; 2) Về giáo dục phổ thông: tiểu học có 145 trường (giảm 30
trường so với năm 2010); cấp THCS có 148 trường (trong đó có 132 trường trung
học cơ sở, 16 trường liên cấp tiểu học và trung học cơ sở (tăng 1 trường so với
năm 2010); cấp THPT có 30 trường (giảm 07 trường so với năm 2010); 3) hệ thống
giáo dục thường xuyên duy trì và hoạt động có hiệu quả với 8 trung tâm (01
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh, 07 trung tâm giáo dục nghề
nghiệp-giáo dục thường xuyên cấp huyện). Mạng lưới phân bổ các cơ sở giáo dục
trên địa bàn cơ bản phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của người
dân. Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học, tỉnh hiện có 07 trường cao đẳng
(03 trường thuộc tỉnh, 04 trường thuộc các Bộ, ngành Trung Ương); 03 trường
trung cấp (tư thục); 20 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (10 trung tâm công lập,
09 trung tâm tư thục và 01 trung tâm có vốn đầu tư nước ngoài) và 06 cơ sở khác
có hoạt động giáo dục nghề nghiệp (02 trường đại học, 02 cơ sở 2 của trường cao
đẳng có trụ sở chính tại tỉnh khác, 01 doanh nghiệp và cơ sở công lập có dạy
nghề). Hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh cơ bản đã được rà
soát, sắp xếp theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo, quy mô đào tạo được mở
rộng, đội ngũ giáo viên được tăng cường, chất lượng đào tạo được nâng lên đảm
bảo đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Hạn chế lớn trong
phát triển hạ tầng giáo dục của tỉnh chính là chưa phát triển rộng khắp hệ
thống giáo dục ngoài công lập; trang thiết bị dạy học tại một số cơ sở giáo dục
được trang cấp từ nhiều năm, trong nhiều giai đoạn khác nhau, mặc dù đã được
quan tâm đầu tư bổ sung song vẫn thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn, chưa đồng bộ; công
trình trường, lớp tại một số huyện được xây dựng đã lâu trong quá trình sử dụng
chưa được bảo trì, sửa chữa đến nay đã xuống cấp, cần có phương án sửa chữa,
nâng cấp, xây mới để phục vụ tốt việc dạy và học; … Nhìn chung nguồn lực huy
động từ công tác xã hội hóa, nguồn lực tài chính từ ngân sách Nhà nước còn hạn
chế so với nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh.
Hạ tầng y tế ngày
càng được tăng cường. Trong giai đoạn 2016-2020, hệ thống y tế công lập tại
tỉnh Vĩnh Phúc đã được đổi mới, sắp xếp thu gọn đầu mối nhằm tăng cường, tập
trung các nguồn lực theo đúng tinh thần Nghị quyết 19/NQ- TƯ. Sau khi sắp xếp,
tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp giảm từ 35 đơn vị xuống còn 19 đơn vị. Mạng
lưới khám, chữa bệnh từ cấp tỉnh đến cấp xã được tập trung đầu tư, nâng cấp. Hệ
thống khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện gồm 7 bệnh viện tuyến
tỉnh (2 bệnh viện đa khoa, 4 bệnh viện chuyên khoa và 1 Bệnh viện GTVT Sở y tế
tiếp nhận năm 2021 từ Bộ ngành), 9 TTYT huyện/ thành phố, 136 trạm y tế
xã/phường/thị trấn thuộc hệ thống sở y tế tỉnh Quản lý và các Bệnh viện Bộ
ngành đóng trên địa bàn tỉnh (Bệnh viện Trung ương 74, bệnh viện Quân y 109).
Mạng lưới y học cổ truyền được khuyến khích phát triển từ tuyến tỉnh đến huyện,
xã. Các cơ sở khám chữa bệnh triển khai ngày càng nhiều các dịch vụ kỹ thuật y
học cổ truyền, kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị
góp phần điều trị hiệu quả, rút ngắn thời gian điều trị của người bệnh. Hiện có
1 bệnh viện tư nhân là Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt với quy mô 380 giường bệnh.
Hạ tầng văn hóa được
đầu tư hoàn thiện. Vĩnh Phúc là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn
hoá, là cái nôi của người Việt cổ, trung tâm của nước Văn Lang xưa. Hiện nay,
với khoảng 40 dân tộc anh em cùng sinh sống, với phong tục, tập quán khác nhau
càng thêm khẳng định những giá trị văn hoá đặc sắc, phong phú của tỉnh so với
các địa phương khác. Hiện toàn tỉnh hiện có 1.303 di tích, trong đó có 514 di
tích đã được xếp hạng. Một số di tích quốc gia đặc biệt gồm Tháp Bình Sơn (thị
trấn Tam Sơn, huyện sông Lô), di tích Tây Thiên - Tam Đảo (xã Đại Đình, huyện
Tam Đảo), … Bên cạnh bảo tồn các di tích, công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ
sở tại Vĩnh Phúc luôn được các cấp ngành quan tâm. Vĩnh Phúc có 01 bảo tàng
công lập là bảo tàng Vĩnh Phúc tại trung tâm Thành phố Vĩnh Yên. Hiện tỉnh có
1.367/1.384 thôn, tổ dân phố có nhà văn hoá, khu thể thao (đạt 98,9%), trong đó
có 1.296 nhà văn hoá được xây mới, chỉnh trang, mở rộng với diện tích từ 500 m2
trở lên, có sân thể thao đơn giản. Hệ thống thư viện tại Vĩnh Phúc cũng được
quan tâm đầu tư, với mạng lưới thư viện phát triển khá đồng đều. Ngoài thư viện
tỉnh, Vĩnh Phúc hiện có có 8/9 thư viện cấp huyện, 119/137 thư viện xã, phường,
thị trấn. Trung bình, thư viện tỉnh cấp 1.200 thẻ/năm với số lượng bạn đọc đạt
130.000 lượt; số lượt luân chuyển sách báo tại thư viện tỉnh đạt 550.000
lượt/năm; thư viện cơ sở là 965.000 lượt/năm. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang
thiết bị, dụng cụ thi đấu, huấn luyện thể dục thể thao thành tích cao trên địa
bàn tỉnh được tăng cường, môi trường rèn luyện được cải thiện; chế độ chính
sách cho vận động viên, huấn luyện viên được thực hiện đủ. Vĩnh Phúc hiện có 06
sân vận động, 01 nhà thi đấu đa năng đạt tiêu chuẩn quốc tế, 07 nhà tập tại các
huyện Bình Xuyên, Tam Dương, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên
Lạc. Tại huyện Yên Lạc có 01 nhà thi đấu môn Bắn súng và cơ sở 2 của Trung tâm
Huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội đặt tại huyện Tam Đảo. Tỉnh còn có 130 sân
bóng đá đơn giản, hơn 200 sân bóng chuyền, gần 500 sân cầu lông. Mặc dù hạ tầng
thể thao trên địa bàn tỉnh tương đối phong phú, đa dạng, tuy nhiên chất lượng
cơ sở vật chất, hạ tầng còn nhiều hạn chế. Các sân vận động chủ yếu chỉ có mặt
bằng, không đảm bảo quy cách, đã được xây dựng từ lâu; các nhà tập và sân vận
động cấp huyện về cơ bản không đảm bảo quy cách, quy chuẩn kỹ thuật và quy mô
để đào tạo vận động viên cũng như đáp ứng nhu cầu tập luyện, hưởng thụ của nhân
dân trên địa bàn.
Hạ tầng an sinh xã
hội và hạ tầng xã hội khác đều được quan tâm đầu tư. Về lao động, việc làm,
hiện toàn tỉnh có 2 trung tâm dịch vụ việc làm và 2 doanh nghiệp hoạt động dịch
vụ việc làm. Trong đó có 1 trung tâm trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội. Trung tâm đã triển khai tốt hoạt động sàn giao dịch việc làm định kỳ 4
phiên mỗi tháng, giúp kết nối cung - cầu lao động, giải quyết việc làm cho
người dân. Trong lĩnh vực người có công, Vĩnh Phúc hiện có 01 Trung tâm Điều
dưỡng, là Trung tâm Điều dưỡng Người có công Tam Đảo thành lập năm 2010 tại thị
trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo. Mô hình hoạt động là kết hợp giữa điều dưỡng người
có công và tổ chức hoạt động dịch vụ. Quy mô điều dưỡng được 120 người/đợt.
Thời gian thực hiện khoảng 7 tháng/năm. Tổng năng lực điều dưỡng được khoảng
2.500 đối tượng, chưa đủ cung ứng so với nhu cầu, do vậy hàng năm vẫn phải tổ
chức thực hiện điều dưỡng ở các địa điểm tỉnh ngoài. Hàng năm, Vĩnh Phúc đã hỗ
trợ xây dựng hơn 100 căn nhà cho hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hỗ
trợ các hộ đồng bào dân tộc về các công trình cấp nước nhỏ lẻ... Đã có 100% hộ
nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện và có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất, kinh
doanh được hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi từ Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh. Toàn tỉnh không có hộ nghèo ở nhà dột nát, nhà thiếu kiên cố; 100%
người nghèo trong độ tuổi lao động có yêu cầu đều được hỗ trợ đào tạo nghề và
giới thiệu việc làm phù hợp. Đến hết năm 2019 toàn tỉnh không còn hộ nghèo
thuộc đối tượng chính sách người có công; 100% các xã đạt tiêu chí tỷ lệ hộ
nghèo trong xây dựng nông thôn mới. Đối với hạ tầng bảo trợ xã hội, hiện nay
Vĩnh Phúc có 02 trung tâm công lập thực hiện chức năng bảo trợ xã hội, gồm
Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hồi chức
năng cho người tâm thần Vĩnh Phúc; có 01 cơ sở trợ giúp xã hội do tư nhân thành
lập hoạt động vì mục đích nhân đạo từ thiện; ngoài ra còn có cơ sở trợ giúp xã
hội do tư nhân thành lập hoạt động mang tính chất dịch vụ, như nhà dưỡng lão dành
cho người cao tuổi (Trung tâm Chăm sóc người cao tuổi Hồng Phúc). Ngoài ra trên
địa bàn tỉnh còn có 01 Trung tâm cai nghiện ma tuý được thành lập từ năm 1997.
2.2. Phát triển giáo
dục và đào tạo, y tế, văn hóa và an sinh xã hội
2.2.1. Phát triển
giáo dục và đào tạo
Quy mô mạng lưới
trường, lớp về cơ bản được duy trì ổn định, đáp ứng được nhu cầu học tập của
học sinh trên địa bàn. Tỷ lệ số phòng học kiên cố/ tổng số phòng học các cấp
đều đạt hơn 90%, cụ thể: mầm mon đạt 92,6%, tiểu học đạt 96,8%, THCS đạt 98,2%,
THPT đạt 100%.
Chất lượng giảng dạy
không ngừng được cải thiện, nâng cao, Vĩnh Phúc luôn được xếp vào nhóm các tỉnh
có chất lượng giáo dục dẫn đầu trong cả nước. Hiện toàn tỉnh 100% các trường
đều đạt chuẩn theo cấp học, riêng THPT đạt 99,6% (còn 01 trường THPT tư thục
còn thiếu nhà thể chất, phòng học bộ môn, máy tính). Tỷ lệ học sinh đi học đúng
độ tuổi đều cao (tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; tỷ lệ học sinh
THCS đi học đúng độ tuổi đạt 96,45%, tỷ lệ trẻ từ 11-14 tuổi hoàn thành chương
trình THCS đạt 99,1%; tỷ lệ học sinh THPT đi học đúng độ tuổi đạt 98,7%).
Chất lượng giáo viên
cũng được tăng cường. Năm học 2020-2021: 92,3% giáo viên mầm non có trình độ
đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo theo quy định Luật Giáo dục 2019 (cao hơn 18,6%
so với trung bình chung cả nước là 73,7%); 70,4% cán bộ quản lý, giáo viên tiểu
học đạt chuẩn trình độ đào tạo (cao hơn 6,1% so với trung bình chung cả nước là
64,26%); 89,49% cán bộ quản lý, giáo viên THCS đạt chuẩn trình độ đào tạo (cao
hơn so với trung bình chung cả nước là 78,45%); 100% cán bộ quản lý, giáo viên
THPT đạt chuẩn trình độ đào tạo trở lên, trong đó 35% có trình độ trên chuẩn.
Về số lượng giáo viên, hiện nay Vĩnh Phúc nhìn chung còn thiếu nhiều giáo viên,
cán bộ quản lý. Số giáo viên, cán bộ quản lý mầm non còn thiếu nhiều so với
định mức quy định, số lượng giáo viên chưa đủ đáp ứng yêu cầu dạy và học 2
buổi/ngày (tỷ lệ giáo viên/cấp học ở cấp tiểu học là 1,28, ở cấp THCS là 1,77).
Với cấp THPT, số giáo viên tuy đủ về định mức nhưng thực tế lại xảy ra tình
trạng thừa thiếu cục bộ xét theo cơ cáu môn học.
Chất lượng giáo dục
thường xuyên và chất lượng học viên theo học ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ
học viên đỗ tốt nghiệp dao động từ 93% đến 98%. Về đội ngũ giáo viên, hiện nay
phần lớn giáo viên của các trung tâm là giáo viên cơ hữu, giáo viên hợp đồng
chiếm tỉ lệ từ 30- 37%; 100% giáo viên đều đạt chuẩn và có từ 17,3-22,3% giáo
viên trên chuẩn. Tỷ lệ số phòng học kiên cố/tổng số phòng học của các trung tâm
giáo dục thường xuyên, GDNN-GDTX tính đến năm học 2020-2021 là 68,1% (96 phòng
học), 21,3% bán kiên cố (30 phòng học) và 10,6% phòng học tạm (15 phòng học).
Về giáo dục nghề
nghiệp: công tác tuyển sinh, đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng trên địa bàn
tình được thực hiện linh hoạt với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đáp ứng
nhu cầu học nghề của người lao động. Kết quả là trong giai đoạn 2015-2020, tỷ
lệ lao động qua đào tạo nghề của Vĩnh Phúc tăng hàng năm, từ 22,3% năm 2015 lên
28,6% năm 2020 (cao hơn tỷ lệ trung bình của toàn quốc là 24,1%, và nằm ở mức
cao trong khu vực đồng bằng sông Hồng, chỉ sau Hà Nội, Quảng Ninh và Ninh
Bình). Về chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, trên 70% đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở GDNN thuộc tỉnh quản lý có trình độ chuyên
môn từ đại học trở lên.
Đối với giáo dục đại
học, mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020
không có sự thay đổi, vẫn là những cơ sở giáo dục đại học thuộc Trung ương quản
lý, với 04 cơ sở công lập (Trường Đại học Sư phạm 2, Trường Sĩ quan Tăng thiết
giáp, Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải, Đại học Kiến trúc Hà Nội) và 01
trường tư thục (Đại học Trưng Vương).
2.2.2. Phát triển y
tế
Công tác y tế, chăm
sóc sức khoẻ nhân dân luôn được các cấp, ngành Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện. Hiện
nay 136/136 trạm y tế trên địa bàn tỉnh đạt 100% có bác sỹ làm việc. Tỷ lệ
người dân được khám và quản lý sức khoẻ cá nhân đạt 94,7%, tỷ lệ bao phủ BHYT
đạt 93,8%. Trung bình hàng năm các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh triển khai đưa
vào ứng dụng từ 130 đến 150 dịch vụ kỹ thuật mới, một số kỹ thuật vượt tuyến,
chuyên sâu được thực hiện tại bệnh viện đa khoa tỉnh. Quy mô và chất lượng cung
ứng dịch vụ y tế của tỉnh tăng theo thời gian. Tính đến hết năm 2021, tổng số
giường bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh là 4.639 giường,
tăng 2489 giường (tăng 215,76%) so với năm 2010. Trong đó số Giường bệnh công
lập trực thuộc Sở Y tế trên địa bàn tỉnh là 4.260 giường ( số giường bệnh tuyến
tỉnh là 2.690 giường, tuyến huyện là 15.701 giường) chiếm 91,83% tổng số giường
bệnh; Giường bệnh tại các bệnh viện Bộ ngành đóng trên địa bàn tỉnh là 149
giường, chiếm 3,21% tổng số giường bệnh toàn tỉnh; Giường bệnh tư nhân trên
toàn tỉnh là 230 giường chiếm 4,69% số giường bệnh toàn tỉnh. Công suất sử dụng
giường bệnh hàng năm tăng từ 101-126% so với kế hoạch, số bệnh nhân điều trị
nội trú hàng năm tăng từ 109-148%. Tỷ lệ số giường bệnh/vạn dân năm 2021 đạt
39,1 giường bệnh/vạn dân, tăng 18,1 giường so với năm 2010 và tăng 7,9 giường
so với năm 2017, cao hơn mức trung bình toàn quốc 121,6 giường (tỷ lệ trung
bình toàn quốc là 26,5 giường bệnh/vạn dân).
Đội ngũ cán bộ, nhân
lực y tế Vĩnh Phúc không ngừng được tăng cường về số lượng và trình độ chuyên
môn. Số bác sĩ/vạn dân năm 2020 là 14 bác sĩ/vạn dân (tăng 7 bác sĩ so với năm
2010), cao hơn bình quân chung cả nước (8,8 bác sĩ/vạn dân). Số dược sĩ đại
học/vạn dân năm 2020 đạt 4 dược sĩ đại học/vạn dân. Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ
đạt 100%. Duy trì 100% số trạm y tế xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh; 100%
thôn/bản có nhân viên y tế hoạt động; 100% xã/phường/thị trấn có cán bộ dân số
và thôn, bản có cộng tác viên dân số.
Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đã đạt được, hệ thống y tế của tỉnh hiện vẫn đang phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức như tình trạng quá tải do nhu cầu khám, chữa
bệnh của người dân ngày một tăng cao, đặc biệt là tại các bệnh viện tuyến tỉnh;
công suất sử dụng giường bệnh luôn trên 100%, gây áp lực và ảnh hưởng đến chất
lượng khám, chữa bệnh; thiếu cán bộ có trình độ chuyên khoa sâu, thiếu bác sĩ,
nhân lực chất lượng cao; tỷ lệ bác sĩ, dược sĩ, giường bệnh/vạn dân còn thấp so
với một số tỉnh lân cận,….
2.2.3. Phát triển văn
hoá
Vĩnh Phúc là địa
phương có nhiều di tích lịch sử, văn hoá có giá trị lớn về kiến trúc và nghệ
thuật. Trong thời gian qua, 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh có di tích đã
xếp hạng đều thành lập Ban quản lý di tích cấp xã. Hệ thống di tích của Vĩnh
Phúc so với các tỉnh lân cận không lớn chỉ 1.303 di tích, trong khi thành phố
Hà Nội (5.175 di tích), Bắc Giang (2.237 di tích), tuy nhiên, lại vượt trội hơn
hẳn về số lượng di tích được xếp hạng, có tới 506/1.303 di tích cấp quốc gia
và cấp tỉnh.
Về di sản văn hoá phi
vật thể, đến cuối năm 2020, toàn bộ trữ lượng di sản văn hoá phi vật thể của
Vĩnh Phúc được kiểm kê trên cả 7 loại hình di sản, bao gồm: Tiếng nói, chữ viết
của dân tộc ít người; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập
quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri
thức dân gian. Tổng số lượng di sản văn hoá phi vật thể được ghi nhận là 571 di
sản trên tổng số 135 xã/phường/thị trấn. Trong đó, có 526 di sản đang tồn tại
và duy trì tốt; 16 di sản đang tồn tại nhưng có nguy cơ mai một; 29 di sản đã
bị mai một.
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm
trong khu vực chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng Sông Hồng với các tỉnh trung du
miền núi phía Bắc, giàu tiềm năng phát triển du lịch. Một số tài nguyên du lịch
tự nhiên nổi tiếng của Vĩnh Phúc có thể kể đến như khu danh thắng Tây Thiên,
nơi thờ Quốc Mẫu Năng Thị Tiêu thời Vua Hùng; Đền thờ Tả Tướng Quốc Trần Nguyên
Hãn ở xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch; Chùa Hà Tiên ở xã Định Trung, Cụm đình
Hương Canh, với kiến trúc hoành tráng bằng gỗ với hơn 300 năm tuổi; Khu du lịch
Tam Đảo; khu vực đầm Vạc, Đại Lải, Vườn cò Hải Lựu; … Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có
thể khai thác các nguồn tài nguyên nhân văn khác phục vụ du lịch, như ca múa
nhạc dân tộc, các món ăn từ lâm, thổ sản phong phú của địa phương.
2.2.4. An sinh xã hội
Các lĩnh vực giảm
nghèo và an sinh xã hội luôn được các cấp ngành Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện.
Chính sách giảm nghèo, hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, người có công, gia đình
chính sách được thực hiện đúng, đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách theo quy
định. Công tác giải quyết chính sách và chi trả chế độ BHXH, BHYT được quan
tâm, quyền lợi của người lao động, người tham gia luôn được đảm bảo kịp thời.
Ước năm 2021, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH đạt 36,7%;
tỷ lệ lực lượng lao động tham gia Bảo hiểm thất nghiệp đạt 33% và tỷ lệ dân số
tham gia BHYT đạt 93,5%. Thu nhập của người dân Vĩnh Phúc không ngừng được cải
thiện trong giai đoạn 2016-2020. Thu nhập bình quân/người/tháng của người dân
Vĩnh Phúc năm 2020 là 4,29 triệu đồng/người/tháng, tăng 1,5 lần so với năm 2016
(2,86 triệu đồng/người/tháng). Năm 2021, thu nhập bình quân của người dân Vĩnh
Phúc đạt 4,5 triệu đồng/lao động, tăng 5,15% so với năm 2020.
Đối với công tác bảo
trợ xã hội, tính đến hiện tại, số người có nhu cầu trợ giúp xã hội và sử dụng
các dịch vụ của công tác xã hội, trợ giúp xã hội ở Vĩnh Phúc rất lớn. Năm 2020
có trên 190.000 người cần hỗ trợ, giúp đỡ của công tác xã hội, trợ giúp xã hội,
chiếm 17,5 % dân số, bao gồm: (1) 19.725 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em
khuyết tật và trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo, cận nghèo; (2) 62.337
người người khuyết tật, chiếm 6,3% dân số toàn tỉnh; (3) 13.433 (48.358 khẩu)
thuộc diện nghèo, cận nghèo; (4) Hàng ngàn người là đồng bào dân tộc thiểu số
khó khăn; (5) 49.622 người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp nào khác, trong
đó: 1.368 người cao tuổi cô đơn, sống một mình; (6) Hơn 3.500 người nghiện ma
tuý và hàng trăm người sau cai nghiện sống tại cộng đồng. Năm 2021, tác động
của dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình lao động, giải quyết việc
làm, giảm nghèo và an sinh xã hội của tỉnh. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã
chỉ đạo triển khai các biện pháp hỗ trợ hỗ trợ nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ
đời sống người dân cũng như ổn định lao động cho các doanh nghiệp.
2.3. Phát triển khoa
học và công nghệ
Vĩnh Phúc luôn quan
tâm phát triển KH&CN. Các chủ trương, chính sách về KH&CN của Đảng, Nhà
nước đã từng bước được cụ thể hóa bằng các đề án, chương trình ứng dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học và
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có 24 Tổ chức
KH&CN, trong đó có 11 tổ chức KH&CN công lập chủ yếu là các trung tâm
sự nghiệp trực thuộc các Sở, ngành của tỉnh; có 02 Tổ chức KH&CN trực thuộc
Sở Khoa học và công nghệ. Hiện nay, các phòng thí nghiệm nghiên cứu KH&CN
của tỉnh chủ yếu tập trung ở 02 tổ chức KH&CN công lập là Trung tâm Ứng
dụng và đổi mới sáng tạo và Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
thuộc Chi Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
Kinh phí đầu tư cho
KH&CN gồm kinh phí sự nghiệp, đầu tư phát triển KH&CN và CNTT tại Vĩnh
Phúc đạt mức trung bình trong cả nước (0,8%), chưa đạt mức 2% tổng chi NSNN
theo tiêu chí tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị Trung
ương 6 khóa XI. Trong giai đoạn 2016-2020, tổng ngân sách cấp cho các tổ chức
chi thường xuyên là 114.010,75 triệu đồng; tổng giá trị tài sản cố định của các
tổ chức là 391.520,6 triệu đồng; diện tích đất giao cho các tổ chức là khoảng
78.92ha trong đó diện tích 3,65ha sử dụng là văn phòng, nhà xưởng, phòng thí
nghiệm của các tổ chức. Nhìn chung cơ sở vật chất trang thiết bị tại các tổ
chức KH&CN còn tương đối khiêm tốn, chưa đồng bộ, hiện đại và còn hạn chế
do việc đầu tư còn hạn hẹp.
Kinh phí sự nghiệp
KH&CN tại Vĩnh Phúc chủ yếu đầu tư nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng
dụng cho các lĩnh vực: các đề tài, dự án, đề án, chương trình, kế hoạch khung.
Tính đến năm 2020, kinh phí sự nghiệp KH&CN giai đoạn 2011-2020 là 525,36
tỷ đồng. Kinh phí đầu tư phát triển KH&CN toàn tỉnh giai đoạn 2011-2020 là
335,29 tỷ đồng. Thông qua các dự án đầu tư, tiềm lực KH&CN (cơ sở vật chất,
trang thiết bị) của các cơ quan, đơn vị ngày càng được tăng cường, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, hoặc đẩy mạnh các hoạt động
dịch vụ. Tính đến 15/4/2020, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 04 doanh nghiệp
được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.
Trong giai đoạn
2016-2020, hoạt động hỗ trợ đổi mới sáng tạo cũng luôn được Vĩnh Phúc quan tâm
thực hiện, thể hiện qua việc ban hành các Kế hoạch, nghị quyết, văn bản thúc
đẩy đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh như Kế hoạch 105/KH-UBND ngày 26/6/2020
thực hiện Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2016 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
quốc gia đến năm 2025” trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Nghị quyết số
18/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về quy định một số nội dung và mức chi để thực
hiện để thực hiện Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc
gia giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; văn bản số 1549/HD-UBND
ngày 10/03/2021 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc hướng dẫn thực hiện Đề án 844 và Nghị
quyết số 18/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh về quy định một số nội
dung và mức chi thực hiện Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo quốc gia giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc đã có
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh hoạt động, đầu
tư và đổi mới công nghệ thông qua Quỹ phát triển KH&CN tỉnh. Quỹ phát triển
KH&CN được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2010, hiện quỹ đang quản lý
nguồn vốn khoảng 150 tỷ đồng. Thông qua các dự án cho vay vốn, hoạt động của
quỹ đã góp phần giúp doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được hưởng ưu đã về thuế;
tăng cường tiềm lực KH&CN cho doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh
và hoạt động thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; đẩy nhanh tốc độ cải tiến đổi
mới công nghệ (mua máy móc, thiết bị kèm theo bằng công nghệ tiên tiến hơn);
phục vụ hoạt động chuyển đổi số của doanh nghiệp,…Kết quả nhận thấy tốc độ giá
trị gia tăng của doanh nghiệp khu vực trong 10 năm qua là 9,05%/năm; giá trị do
tiến bộ KH&CN tăng 4,75%/năm; môi trường làm việc được cải thiện.
3.
Bối cảnh đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Quy mô vốn đầu tư
thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ngày càng tăng và tập trung nhiều hơn cho
hoạt động đầu tư phát triển. Đến năm 2021, tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh
đạt trên 45,7 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), cao gấp 1,96 lần so với năm
2015; tốc độ tăng tổng vốn đầu tư bình quân toàn giai đoạn 2016-2021 đạt
9,62%/năm[1],
cao hơn tốc độ tăng của cả nước là 6,81%/năm[2].
Cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần
quy mô vốn cho đầu tư XDCB; đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XDCB; và đầu tư sửa
chữa, nâng cấp TSCĐ; trong khi giảm dần vốn đầu tư cho bổ sung vốn lưu động.
Tốc độ tăng vốn đầu tư XDCB bình quân giai đoạn 2016-2021 đạt 10,7%/năm, cao
hơn tốc độ tăng bình quân cả nước là 7,05%/năm; của vốn đầu tư mua sắm TSCĐ
không qua XDCB là 11,7%/năm; của vốn đầu tư sửa chữa nâng cấp TSCĐ là 24,2%/năm[3].
Nhờ đó, đến năm 2021, quy mô vốn đầu tư cho XDCB chiếm 70,3% tổng vốn đầu toàn
tỉnh; đối với vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XD là 27,8%[4];
tỷ lệ tương ứng của cả nước là 72,3% và 18%.
Sự tăng trưởng tổng
vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh giai đoạn 2016-2021 chủ yếu đến từ khu vực đầu
tư trực tiếp nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước; trong khi giảm dần sự phụ
thuộc vào vốn đầu tư từ khu vực nhà nước. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2016-2021 của nguồn vốn khu vực nhà nước, vốn khu vực ngoài nhà nước
và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 4,6%/năm; 3,6%/năm; và 20,7%/năm[5].
Nhờ đó, đến năm 2021, tỷ trọng nguồn vốn khu vực nhà nước chiếm 19,5% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội tỉnh; vốn khu vực ngoài nhà nước chiếm 35,2%; vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài chiếm 45,4%[6].
Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh
cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của cả vùng Đồng bằng sông Hồng là 19,2%[7] và của cả nước là
15,8%. Mặc dù tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn
đầu tư từ hai khu vực là khu vực ngoài nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nhưng tốc độ tăng của vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước thấp hơn
đáng kể so với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, cho thấy sự phát triển hạn
chế của khu vực doanh nghiệp nội địa.
Nguồn vốn từ khu vực
nhà nước chủ yếu đến từ nguồn vốn ngân sách nhà nước; trong khi đó nguồn vốn
vay và vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng không đáng kể.
Đặc biệt, quy mô vốn ngân sách nhà nước có sự gia tăng nhanh chóng trong năm
2020, chủ yếu phục vụ cho hoạt động ứng phó với đại dịch COVID-19 trên địa bàn
tỉnh; tốc độ tăng bình quân vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2021 đạt
4,1%/năm; nhờ đó đến năm 2021, tỷ trọng nguồn vốn này chiếm 85,3% tổng vốn khu
vực nhà nước. Trong khi đó, tỷ trọng nguồn vốn vay của tỉnh giảm mạnh, đến năm
2021 chỉ còn chiếm 0,5% tổng vốn khu vực nhà nước (năm 2015 là 10,3%); tốc độ
tăng bình quân giai đoạn 2016- 2021 là -37,2%/năm. Vốn tự có của các doanh
nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng vốn khu vực nhà nước
và đến năm 2021 doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã thoái toàn bộ nguồn vốn này
ra khỏi hoạt động đầu tư.
Đối với khu vực
ngoài nhà nước, nguồn vốn của tổ chức doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng
giảm dần, phần nào phản ánh sự phát triển hạn chế của khu vực doanh nghiệp
tư nhân trong nước trên địa bàn tỉnh. Tỷ trọng vốn của tổ chức doanh nghiệp đã giảm
mạnh từ 37,1% vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2015 xuống còn 11,9% năm 2021; tốc
độ tăng bình quân nguồn vốn này giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 3,2%/năm, rất thấp
so với mức tăng trưởng vốn bình quân chung của tỉnh là 11,1%/năm. Riêng năm
2021, quy mô vốn khu vực doanh nghiệp bị thu hẹp lại, giảm 66% so với năm 2020,
khiến tốc độ tăng bình quân của nguồn vốn này trong giai đoạn 2016-2021 là
-14,2%/năm. Trong khi đó, quy mô vốn của dân cư tăng nhanh chóng; tỷ trọng tăng
từ 62,9% (năm 2015) lên 88,1% (năm 2021); tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt
11%/năm. Năm 2021, nguồn vốn khu vực dân cư tiếp tục tăng 2,75% so với năm
2020, khiến tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2021 của nguồn vốn này đạt
9,5%/năm. Đây là điểm khác biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các tỉnh phát triển
nhanh với quy mô lớn khác trong vùng ĐBSH như Hà Nội (tỷ trọng của vốn tổ chức,
doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 82,7% vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2020), Hải
Phòng (75%), Quảng Ninh (68,7%), Bắc Ninh (48,5%). Khu vực dân cư có tỷ trọng
vốn lớn của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ cho thấy những hạn chế trong việc mở rộng hoạt
động sản xuất với quy mô lớn hơn, vốn dân cư nhỏ lẻ, manh mún, khó trong áp
dụng khoa học kỹ thuật, không đủ để đầu tư sản xuất lớn, công nghệ cao. Nhưng
đây cũng cho thấy vẫn còn dư địa để chuyển đổi hoạt động kinh doanh hộ gia đình
lên hình thức doanh nghiệp. Do đó, cần tạo lập môi trường kinh doanh và chính
sách thuận lợi để thu hút và hướng dòng vốn của khu vực dân cư vào hoạt động
sản xuất - kinh doanh trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Vốn đầu tư toàn tỉnh
tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (cũng là ngành thu
hút nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất) và hoạt động làm thuê trong
các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia
đình. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tỷ trọng quy mô đầu tư lớn nhất so
với các ngành kinh tế khác, đến năm 2021 chiếm 43,6% tổng quy mô vốn đầu tư
toàn tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2021, tốc độ tăng trưởng bình quân vốn đầu tư
cho ngành công nghiệp chế biến chế tạo là 23%/năm; của hoạt động làm thuê trong
các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia
đình là 12,9%/năm; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất
và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong
tổng vốn đầu tư toàn tỉnh. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ
yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 382/432 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn hiệu lực lũy kế đến hết năm 2021; tiếp đến là ngành vận tải, kho
bãi với 12 dự án; hoạt động kinh doanh bất động sản với 5 dự án. Bình quân vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký cho một dự án trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo là 16,7 triệu USD/dự án; trong ngành vận tải, kho bãi là 16,5
triệu USD/dự án; trong hoạt động kinh doanh bất động sản là 43,1 triệu USD/dự
án. Điều này cho thấy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành thế mạnh
tiềm năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh; bên cạnh
đó, ngành kinh doanh bất động sản của tỉnh đang trở thành một điểm đầu tư hấp
dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, nguồn
vốn đầu tư cho cho các dịch vụ y tế, giáo dục trên địa bàn tỉnh còn tương đối
hạn chế; hoạt động kinh doanh bất động sản có sự tăng trưởng nóng trong năm
2020, nhưng đã giảm nhiệt trong năm 2021. Tổng quy mô vốn đầu tư cho 03 ngành,
gồm: hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; y tế và
hoạt động trợ giúp xã hội, trên địa bàn tỉnh còn tương đối hạn chế, chỉ chiếm
tổng tỷ trọng là 7,14% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh năm 2015; đến cuối năm 2021
giảm xuống chỉ còn 5,03%. Tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành cũng có xu hướng
giảm trong giai đoạn 2015-2021, ngoại trừ hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp
xã hội để ứng phó với đại dịch COVID-19. Cụ thể, tỷ trọng này của hoạt động
chuyên môn, khoa học và công nghệ giảm từ 1,1% xuống 0,4% (tốc độ vốn đầu tư
của ngành này bình quân đạt -7,2%/năm); của hoạt động giáo dục và đào tạo giảm
từ 4,0% xuống 2,4% (tốc độ tăng là 0,6%/năm); trong khi của y tế và hoạt động
trợ giúp xã hội tăng nhẹ từ 2,1% lên 2,2% (tốc độ tăng là 12,8%/năm). Quy mô
vốn đầu tư cho ngành kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng
vốn đầu tư toàn tỉnh giai đoạn 2015-2020, nhưng có tốc độ tăng trưởng quy mô
vốn đầu tư lớn nhất so với tất cả các ngành kinh tế còn lại. Cụ thể, quy mô vốn
đầu tư cho hoạt động kinh doanh bất động sản đến năm 2019 đạt 909,3 tỷ đồng
(theo giá hiện hành), cao gấp 23 lần so với năm 2015 (do tác động của dịch bệnh
Covid-19, năm 2020 chỉ đạt 680 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu
tư cho ngành này giai đoạn 2016-2020 là 72,85%/năm; của cả nước đạt 7,74%/năm
(nếu loại bỏ tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng bình quân
giai đoạn 2016-2019 đạt 113,88%/năm; của cả nước đạt 15,7%/năm). Tuy nhiên, đến
năm 2021, quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bất động sản chỉ đạt 150,5
tỷ đồng (giá hiện hành), tốc độ tăng giảm 79% so với năm 2020, cho thấy sự hạ
nhiệt nhanh chóng của hoạt động đầu tư thị trường bất động sản trên địa bàn
tỉnh.
Hiệu quả nguồn vốn
đầu tư cho các ngành kinh tế không tương xứng với quy mô vốn đầu tư cho các
ngành này. Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo đã tăng từ 18,4% (năm 2015) lên 35,2% (năm 2021). Tương tự, ngành
kinh doanh bất động sản của tỉnh cũng có tỷ lệ này tăng mạnh từ 3,8% lên 47,3%
(năm 2020) và giảm còn 10,2% (năm 2021), cho thấy giá trị gia tăng được tạo ra
của ngành là rất nhỏ, trong khi quy mô vốn đầu tư vào ngành này tăng mạnh[8].
Thực trạng tương tự đối với hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất
sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Ngược lại, giáo dục
và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có tỷ lệ này giảm dần trong giai
đoạn 2015-2021 dù vốn đầu tư cho các ngành này vẫn tăng trưởng dương qua từng
năm. Cụ thể, tỷ lệ này của ngành giáo dục và đào tạo giảm từ 43,5% xuống 26,4%;
của ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm từ 60,1% xuống 41,5%. Điều này
cho thấy hiệu quả đầu tư vào các ngành dịch vụ này cao hơn so với các ngành
khác và do đó cần hướng dòng vốn đầu tư từ khu vưc ngoài nhà nước, đặc biệt là
khu vực dân cư, vào tăng cường đầu tư cho các ngành dịch vụ này.
Sự phụ thuộc ngày
càng lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tăng trưởng kinh tế và thực
trạng nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là khu vực dân cư,
chưa được huy động và sử dụng hiệu quả là hạn chế cấp bách cần phải giải quyết,
đặt ra yêu cầu cơ cấu lại nguồn lực vốn đầu tư của tỉnh. Qua phân tích bối cảnh
đầu tư trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2016-2021, có thể thấy rằng động lực
tăng trưởng kinh tế của tỉnh đang phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư từ khu vực
ngoài nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, đầu tư từ khu
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có xu hướng lấn át nhiều hơn so với đầu tư
từ khu vực ngoài nhà nước. Việc phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ tạo rủi ro cho sự tăng trưởng kinh tế tỉnh. Mặt khác, nguồn vốn từ tổ
chức doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh còn hạn chế do sự khó khăn của
cộng đồng doanh nghiệp; trong khi nguồn vốn từ khu vực dân cư chưa được huy
động và sử dụng hiệu quả. Điều này được thể hiện khi mà tỷ trọng vốn đầu tư cho
hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ
tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã
hội tỉnh, nhưng giá trị gia tăng do hoạt động này tạo ra rất hạn chế. Do đó,
huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong dân cư là nhiệm vụ cấp bách của
tỉnh trong giai đoạn phát triển tới. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh giai đoạn 2021-2025 cũng đã đặt ra mục tiêu phải thu hút thêm vốn đầu tư
DDI trong 5 năm là 20-25 nghìn tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu trên, việc thúc
đẩy huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong dân cư thông qua việc hoàn
thiện các cơ chế, chính sách huy động và sử dụng là cần thiết.
II.
Thực trạng huy động, sử dụng nguồn lực vốn trong dân cư để phát triển Kinh tế-
Xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
1.
Thực trạng huy động vốn từ khu vực ngoài nhà nước
Có 4 kênh huy động
vốn đầu tư trong dân cư cho phát triển kinh tế xã hội gồm:
(1) Huy động tiền
tiết kiệm trong dân cư thông qua các ngân hàng, ngân hàng cho các tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp vay để phát triển sản xuất kinh doanh;
(2). Huy động vốn
thông qua chính sách khuyến khích đầu tư (xã hội hóa) đối với các lĩnh vực y
tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa, thể thao, môi trường,…
(3). Đối với công cụ
(kênh) trái phiếu chính quyền địa phương: huy động vốn trong dân để đầu kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội;
(4). Chính sách ưu
đãi đầu tư: thông qua các chính sách tư đãi đầu tư của nhà nước để khuyến kích
các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh đối với các lĩnh vực nhà nước
khuyến khích đầu tư.
(5) Huy động vốn từ
dân cư thông qua các chính sách về hợp tác công tư (PPP).
Cụ thể các kênh huy
động vốn dân cư như sau:
1.1.
Đối với công cụ (kênh) tiền gửi ngân hàng
1.1.1. Chính sách huy
động tiền gửi ngân hàng
Tiền gửi ngân hàng là
tiền của cá nhân hay tổ chức gửi vào ngân hàng dưới các hình thức như tiền gửi
không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín
phiếu và các hình thức khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc lẫn lãi
cho người gửi tiền theo thỏa thuận của các bên. Đây là một kênh huy động tài
chính phổ biến. Ngân hàng thương mại là loại hình định chế tài chính trung gian
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là loại
định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế
thị trường, góp phần tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và
thúc đẩy nền kinh tế -xã hội phát triển. Theo đó, vai trò của ngân hàng thể
hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, ngân hàng
thương mại là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Đối với khách
hàng là người gửi tiền, họ sẽ thu lợi từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình
dưới hình thức tiền lãi, an toàn tiền gửi, tiện ích. Với người đi vay, giúp cho
các chủ thể trong nền kinh tế thoả mãn cầu vốn tạm thời thiếu hụt trong quá
trình sản xuất kinh doanh, đồng thời tiết kiệm chi phí, thời gian, tiện lợi, an
toàn và hợp pháp. Ngân hàng được hưởng lợi từ việc chênh lệch lãi suất huy động
và lãi suất cho vay, đồng thời góp phần tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế.
Chức năng điều hòa vốn này góp phần quan trọng trong việc sử dụng nguồn vốn
đúng mục đích, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, chức năng
trung gian thanh toán. Chức năng này, ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng
trích tiền trên tài khoản trả cho người thụ hưởng hoặc nhận tiền vào tài khoản.
Đối với người gửi tiền có thể thực hiện thanh toán một cách nhanh chóng, an
toàn, hiệu quả. Đối với ngân hàng, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn tiền gửi
thông qua cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất lượng
cao. Đối với nền kinh tế, chức năng này lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời nó
cũng giúp làm giảm khối lượng tiền mặt dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền
mặt.
Thứ ba, chức năng tạo
tiền. Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng vô hình chung thực hiện chức
năng tạo tiền cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để
đi vay. Sau đó, số tiền đó lại được đưa vào nền kinh tế thông qua hoạt động mua
hàng hóa, trong khi những người có số dư tài khoản tiếp lại tiêu dùng thông qua
các hình thức thanh toán qua thẻ,…
Cuối cùng, chức năng
thủ quỹ. Ngân hàng giúp cho khách hàng đảm bảo an toàn tài sản và giúp sinh lời
được đồng vốn tạm thời thừa. Đối với nền kinh tế, chức năng thủ quỹ khuyến
khích tích lũy trong xã hội đồng thời tập trung nguồn vốn tạm thời thừa để phục
vụ phát triển kinh tế.
Hoạt động ngân hàng
thương mại được quy định cụ thể tại:
- Luật các Tổ chức
tín dụng số 47/2010/QH12 và Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi
năm 2022.
- Luật Bảo hiểm tiền
gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/06/2012 và Dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi
năm 2022.
- Luật phòng chống
rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/06/2012 và Dự thảo Luật phòng chống rửa tiền
sửa đổi năm 2022.
- Pháp lệnh ngoại hối
ngày 13/12/2005 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh ngoại
hối ngày 18/03/2013.
- Quyết định
2195/QĐ-TTg ngày 06/12/2011 phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài
chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020.
- Quyết định
986/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/08/2018 về Chiến lược phát triển
ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trong đó có mục
tiêu phấn đấu giảm tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt mức
dưới 7,5%vào năm 2020 và mức 5% vào năm 2030; từ đó giảm dần tỷ lệ tín dụng
ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm
2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
- Quyết định
149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/01/2020 về phê duyệt Chiến lược phát
triển tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Một
số mục tiêu đến cuối năm 2025 liên quan đến huy động tiền gửi của NHTM là: ít
nhất 20 chi nhánh, PGD của NHTM/10.000 người trưởng thành; ít nhất 50% tổng số
xã có điểm cung ứng dịch vụ tài chính (chi nhánh, PGD của TCTD và đại lý ngân
hàng, ngoại trừ điểm cung ứng dịch vụ tài chính của NHCSXH); ít nhất 25-30%
người trưởng thành gửi tiết kiệm tại TCTD.
- Quyết định
2545/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/12/2016 về phê duyệt Đề án phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 với các
mục tiêu đến cuối năm 2020: tỷ trọng tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán ở mức
thấp hơn 10%; toàn thị trường có 300.000 POS với số lượng giao dịch đạt 200
triệu giao dịch/năm; 70% người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân
hàng.
- Quyết định
1813/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/10/2021 về phê duyệt Đề án phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và các
Nghị định, văn bản liên quan: Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 và Nghị
định 80/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 sửa đổi một số điều của Nghị định
101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt và Dự thảo Nghị định thay thế
Nghị định 101/2012/NĐ-CP ; Công văn hướng dẫn số 5786/NHNN-TT ngày 19/08/2022; Công
văn số 5865/NHNN-TT ngày 24/08/2022.
- Nghị định số
160/2006 ngày 28/12/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
ngoại hối.
- Nghị định số
68/2013/NĐ-CP ngày 28/06/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo
hiểm tiền gửi và Dự thảo Chiến lược phát triển bảo hiểm tiền gửi đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030.
- Nghị định số
116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
phòng chống rửa tiền.
- Nghị định
117/2018/NĐ-CP ngày 11/09/2018 về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách
hàng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số
04/2011/TT-NHNN ngày 10/03/2011 của Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số
04/2022/TT-NHNN ngày 16/06/2022 về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi
tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số
31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng,
chống rửa tiền.
- Thông tư
03/2014/TT-NHNN ngày 23/01/2014 quy định về quỹ đảm bảo an toàn hệ thống quỹ
tín dụng nhân dân.
- Thông tư
16/2014/TT-NHNN ngày 01/08/2014 về việc hướng dẫn sử dụng tài khoản ngoại tệ,
tài khoản đồng Việt Nam của người cư trú, không cư trú tại ngân hàng được phép.
- Thông tư số
48/2018/TT-NHNN ngày 31/08/2018 quy định về tiền gửi tiết kiệm và Thông tư số
49/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 quy định về tiền gửi có kỳ hạn.
- Thông tư số
14/2017/TT-NHNN ngày 29/09/2017 quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt
động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng.
- Chỉ thị 01/CT-NHNN
hàng năm trong giai đoạn 2016-2021 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ
(CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả.
- Chỉ thị 02/CT-NHNN
về các giải pháp cấp bách của ngành ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và
khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19; Thông tư 01/2020/TT-NHNN
ngày 13/03/2020 và các chỉ đạo của NHNN về việc miễn, giảm phí thanh toán.
- Các văn bản quy
định về lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho
vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các
ngân hàng) trong giai đoạn 2016-2021 gồm: Quyết định số 496/QĐ-NHNN ngày 17/03/2014;
Quyết định 1424/QĐ-NHNN ngày 07/07/2017; Quyết định số 1870/QĐ-NHNN ngày 12/09/2019;
Quyết định 418/QĐ-NHNN ngày 16/03/2020; Quyết định số 918/QĐ-NHNN ngày 12/05/2020;
Quyết định 1728/QĐ-NHNN ngày 30/09/2020; Quyết định số 1606/QĐ-NHNN ngày 22/09/2022;
Quyết định số 1809/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022.
- Các văn bản quy
định về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá
nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn 2016-2021: Thông
tư 07/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 quy định về lãi suất tối đa đối với tiền gửi
bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại TCTD; Quyết định 498/QĐ-NHNN ngày
17/03/2014; Quyết định 2173/QĐ- NHNN ngày 28/10/2014; Quyết định 2415/QĐ-NHNN
ngày 18/11/2019; Quyết định 419/QĐ-NHNN ngày 16/03/2020; Quyết định số
919/QĐ-NHNN ngày 12/05/2020; Quyết định số 1729/QĐ-NHNN ngày 30/09/2020; Quyết
định số 1607/QĐ-NHNN ngày 22/09/2022; Quyết định số 1812/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022.
- Các văn bản quy
định về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân
tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn 2016-2021: Thông tư
06/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014; Quyết định 2172/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014; Quyết
định số 1938/QĐ-NHNN ngày 25/09/2015; Quyết định 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015.
Theo đó, từ năm 2015 đến nay, mức lãi suất đối với tổ chức (trừ TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài) là 0%/năm; mức lãi suất áp dụng đối với tiền gửi của cá
nhân là 0%/năm.
Bám sát định hướng
của NHNN Việt Nam, ngành ngân hàng trên địa bàn đã triển khai các chính sách, văn
bản định hướng về huy động vốn và tín dụng, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu
chung của ngành ngân hàng cả nước và địa bàn (kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu, đảm bảo hoạt động ngân hàng
an toàn, hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế xã hội).
- Nghị quyết số
01/NQ-TU ngày 04/11/2011 về phát triển dịch vụ, du lịch tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2011-2030 với một số mục tiêu về phát triển hệ thống tổ chức tín dụng
(TCTD) và huy động vốn giai đoạn 2011-2020 như tăng thêm 4-5 TCTD, mở thêm 4-5
quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); huy động vốn tăng 30%/năm; dư nợ tăng
25-28%/năm.
- Nghị quyết số
57/NQ-HĐND ngày 21/12/2021 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2022
- Kế hoạch
450/KH/UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 tỉnh Vĩnh
Phúc trong đó có mục tiêu tăng trưởng huy động vốn hàng năm đạt 20-22%/năm.
- Kế hoạch
204/KH/UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021-2025) tỉnh Vĩnh
Phúc trong đó có mục tiêu huy động vốn hàng năm tăng 14-16%/năm trong giai đoạn
2021-2025, đến năm 2025 đạt 200.000 tỷ đồng, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín
dụng 12-14%/năm.
- Báo cáo số
545/BC-VPH của NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc ngày 14/08/2019 về tổng kết hoạt động ngân
hàng trên địa bàn giai đoạn 2016-2020 và xây dựng kế hoạch phát triển ngành
ngân hàng giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu tăng trưởng huy động vốn đạt
15-18%/năm trong giai đoạn 2021-2025 (có điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn).
- Quyết định
344/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên địa
bàn Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.
- Báo cáo số
259/BC-VPH của NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc ngày 01/04/2020 về kết quả thực hiện Đề án
Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể Vĩnh Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm
2025.
- NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc
ban hành văn bản cảnh báo rủi ro trong hoạt động quỹ tín dụng nhân dân.
- NHNN tỉnh Vĩnh Phúc
ban hành kế hoạch triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
giai đoạn 2021-2025 phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, trong đó yêu
cầu các NHTM, các tổ chức trung gian thanh toán trên địa bàn đẩy mạnh ứng dụng
giải pháp thanh toán mới, vừa đảm bảo an toàn hoạt động thanh toán, thanh toán
điện tử, vừa góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay, hướng đến mục
tiêu tài chính toàn diện.
1.1.2. Công tác triển
khai phổ biến chính sách tới doanh nghiệp, dân cư
- Công tác phổ biến
chính sách của NHNN, NHNN tỉnh Vĩnh Phúc, các NHTM, Quỹ TDND tới doanh nghiệp,
dân cư được tiến hành kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng, doanh nghiệp đồng thời góp phần tăng quy mô, chất lượng, hiệu quả huy
động vốn trong nền kinh tế.
- Các NHTM trên địa
bàn Vĩnh Phúc đã bước đầu triển khai thử nghiệm một số giải pháp xác thực khách
hàng qua thẻ căn cước công dân gắn chíp như xác thực khách hàng tại quầy giao
dịch khi khách hàng đến giao dịch, gửi tiền, ứng dụng xác thực khách hàng từ xa
qua mạng Internet (eKYC) để mở tài khoản, thực hiện các giao dịch ngân hàng
điện tử, ngân hàng số.
1.1.3. Đánh giá kết
quả huy động vốn qua công cụ tiền gửi ngân hàng
Hoạt động của các
TCTD trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc khá sôi động với hiện diện khá lớn (19 NH và
31 QTDND), đứng thứ 7/11 tỉnh Đồng Bằng ĐBSH về số lượng TCTD, đáp ứng nhu cầu
tiền gửi và vốn tín dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân.
Cùng với đó, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển góp
phần tăng khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng chính thống, thúc đẩy
tài chính toàn diện.
Hình
1: Số lượng NHTM và quỹ tín dụng nhân dân tại Vĩnh Phúc và các tỉnh khu vực
ĐBSH năm 2022 (%)
Nguồn: NHNN (9/2022)
Về hệ
thống ngân hàng, trên địa bàn Vĩnh Phúc có 19 ngân hàng đang hoạt động, chiếm
6,4% tổng số ngân hàng của Vùng ĐBSH, trong đó, 01 NHCSXH, 01 NH hợp tác xã
Việt Nam, 01 NH Nông nghiệp và PTNT, 01 NH 100% vốn nước ngoài, 15 Ngân hàng
thương mại cổ phần (NHTMCP) trong nước. Tính đến 31/12/2021, trên địa bàn Vĩnh
Phúc có 108 chi nhánh và phòng giao dịch của các NHTM (trong đó có 28 chi nhánh
cấp 1, tăng 9 chi nhánh so với năm 2011); 136 điểm giao dịch của NH chính sách
xã hội. Mạng lưới ATM, POS được chú trọng phát triển về số lượng, quy mô, nâng
cao chất lượng dịch vụ và mang lại nhiều tiện ích cho người sử dụng. Tính đến
31/12/2021, có 230 máy ATM và 840 POS được phân bổ ở địa bàn các huyện, thị trấn
của tỉnh Vĩnh Phúc; tập trung ở các cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ như
nhà hàng, khách sạn, điểm vui chơi, giải trí, hệ thống chuỗi bán lẻ, các cơ sở
y tế, bệnh viện, trường học, tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận,
thanh toán và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Top 5
NHTM lớn nhất trên địa bàn Vĩnh Phúc là NHTMCP Đầu tư và PT Việt Nam (BIDV),
NHTMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank), NH Nông nghiệp & PTNT Việt Nam;
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank); NHTMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritimebank),
trong đó, BIDV là NHTM có số lượng chi nhánh lớn nhất (21 chi nhánh), NHTMCP Kỹ
thương có số lượng ATM lớn nhất (26 máy ATM); NHTMCP Hàng Hải và NHTMCP Kỹ
thương là hai NHTM có lịch sử hoạt động lâu nhất tại địa bàn Vĩnh Phúc (31 năm
và 29 năm).
Bảng 1: Hệ thống NHTM trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Phúc
STT
|
Tên
NHTM
|
Năm
bắt đầu hoạt động tại Vĩnh Phúc
|
Số
lượng chi nhánh
|
Số
lượng ATM
|
1
|
NHTMCP Đầu tư và PT
Việt Nam
|
2012
|
21
|
11
|
2
|
NHTMCP Công thương
Việt Nam
|
2009
|
20
|
25
|
3
|
NH Nông nghiệp
& PTNT Việt Nam
|
1996
|
19
|
20
|
4
|
NH Chính sách xã
hội
|
|
8
|
|
5
|
NHTMCP Kỹ thương
Việt Nam
|
1993
|
7
|
26
|
6
|
NHTMCP Hàng Hải
Việt Nam
|
1991
|
6
|
2
|
7
|
NHTMCP Ngoại thương
Việt Nam
|
1996
|
5
|
9
|
8
|
NH Shinhan Việt Nam
|
2008
|
4
|
4
|
9
|
NHTMCP An Bình
(ABBank)
|
1993
|
3
|
3
|
10
|
NHTMCP Bắc Á
|
1994
|
2
|
|
11
|
NHTMCP Sài Gòn - Hà
Nội
|
2006
|
2
|
|
12
|
NHTMCP Quốc tế
|
2018
|
2
|
3
|
13
|
NHTMCP Đông Á
|
1992
|
2
|
1
|
14
|
NHTMCP Đông Nam Á
|
1994
|
2
|
3
|
15
|
NHTMCP Việt Nam
Thịnh Vượng (VP Bank)
|
1993
|
2
|
3
|
16
|
NHTMCP Á Châu (ACB)
|
1993
|
1
|
1
|
17
|
NH Hợp tác xã Việt
Nam
|
|
1
|
|
18
|
NHTMCP Quân đội
|
1994
|
1
|
7
|
19
|
NHTMCP Sài Gòn
(SCB)
|
2011
|
|
5
|
Nguồn:
NHNN (9/2022)
Về quỹ tín dụng nhân
dân[9],
tính đến 31/12/2021, có 31 QTDND (hay còn gọi là Hợp tác xã tín dụng) trên địa
bàn Vĩnh Phúc với tổng vốn điều lệ 172 tỷ đồng (chiếm 6,24% về số lượng và
6,91% về vốn điều lệ so với Vùng ĐBSH); số lượng thành viên lên tới 26.900
(bình quân 868 thành viên/quỹ). Số lượng cán bộ nhân viên của QTDND khoảng 309
trong đó số lượng cán bộ chiếm 40,1% (tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng trở
lên đạt 95%).
Top 5 quỹ TDND lớn
nhất trên địa bàn là Quỹ TDND xã Đồng Văn (vốn điều lệ 9.7 tỷ đồng); Quỹ TDND
TT Thanh Lãng (vốn điều lệ 9.3 tỷ đồng); Quỹ TDND xã Tề Lỗ (vốn điều lệ 8.5 tỷ
đồng); Quỹ TDND xã Tứ Trưng (vốn điều lệ 7.9 tỷ đồng); Quỹ TDND TT Yên Lạc (vốn
điều lệ 7.8 tỷ đồng). Một số quỹ TDND có lịch sử hoạt động lâu đời nhất (28 năm
từ năm 1994) tại địa bàn Vĩnh Phúc là quỹ TDND xã Đại Đồng, quỹ TDND thị trấn
Hương Canh, quỹ TDND xã Thổ Tang, quỹ TDND xã Tứ Trưng, quỹ TDND xã Bình Dương,
Quỹ TDND xã Tam Hồng.
Bảng
2: Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn Vĩnh Phúc
STT
|
Tên
QTDND
|
Địa
bàn
|
Năm
bắt đầu hoạt động tại Vĩnh Phúc
|
Vốn
điều lệ
(tỷ đồng)
|
1
|
Quỹ TDND xã Đại
Đồng
|
Xã
Đại Đồng, Huyện Vĩnh Tường
|
1994
|
3.7
|
2
|
Quỹ TDND xã Tề Lỗ
|
Xã
Tề Lỗ, Huyện Yên Lạc
|
1995
|
8.5
|
3
|
Quỹ TDND xã Vĩnh Thịnh
|
Xã
Vĩnh Thịnh, Huyện Vĩnh Tường
|
1995
|
5.6
|
4
|
Quỹ TDND xã Tuân Chính
|
Xã
Tuân Chính, Huyện Vĩnh Tường
|
1995
|
4.0
|
5
|
Quỹ TDND TT Yên Lạc
|
TT
Yên Lạc, Huyện Yên Lạc
|
2004
|
7.8
|
6
|
Quỹ TDND TT Vĩnh Tường
|
TT
Vĩnh Tường, Huyện Vĩnh Tường
|
1997
|
7.1
|
7
|
Quỹ TDND Phường Hòa
Xuân
|
Tổ
3, Phố Đồng Xuân - TP Vĩnh Yên
|
1995
|
4.5
|
8
|
Quỹ TDND xã Xuân Hòa
|
Xã
Xuân Hòa, Huyện Lập Thạch
|
1995
|
5.4
|
9
|
Quỹ TDND xã Vĩnh
Sơn
|
Xã
Vĩnh Sơn, Huyện Vĩnh Tường
|
1995
|
4.5
|
10
|
Quỹ TDND phường Đống
Đa
|
Đường
Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa
|
1996
|
1.7
|
11
|
Quỹ TDND xã Tứ
Trưng
|
Thị
trấn Tứ Trưng, Huyện Vĩnh Tường
|
1994
|
7.9
|
12
|
Quỹ TDND xã Đình
Chu
|
Xã
Đình Chu, Huyện Lập Thạch
|
1996
|
3.7
|
13
|
Quỹ TDND xã Yên Đồng
|
Xã
Yên Đồng, Huyện Yên Lạc
|
1996
|
7.0
|
14
|
Quỹ TDND TT Thanh Lãng
|
TT
Thanh Lãng, Huyện Bình Xuyên
|
1996
|
9.3
|
15
|
Quỹ TDND xã Ngũ
Kiên
|
Xã
Ngũ Kiên, Huyện Vĩnh Tường
|
1996
|
6.9
|
16
|
Quỹ TDND TT Hương Canh
|
TT
Hương Canh, Huyện Bình Xuyên
|
1994
|
3.4
|
17
|
Quỹ TDND LP Phúc Yên
|
P.Trưng
Trắc, TP.Vĩnh Yên
|
2004
|
4.3
|
18
|
Quỹ TDND xã Thái
Hòa
|
Xã
Thái Hòa, Huyện Lập Thạch
|
1995
|
4.6
|
19
|
Quỹ TDND xã Thượng Trưng
|
Xã
Thượng Trưng, Huyện Vĩnh Tường
|
1996
|
5.4
|
20
|
Quỹ TDND xã Vũ Di
|
Xã
Vũ Di, Huyện Vĩnh Tường
|
1996
|
4.7
|
21
|
Quỹ TDND xã Văn Quán
|
Xã
Văn Quán, Huyện Lập Thạch
|
1996
|
3.9
|
22
|
Quỹ TDND xã Cao Đại
|
Xã
Cao Đại, Huyện Vĩnh Tường
|
2006
|
5.9
|
23
|
Quỹ TDND TT Lập Thạch
|
TT
Lập Thạch, Huyện Lập Thạch
|
2011
|
5.6
|
24
|
Quỹ TDND xã An Tường
|
Xã
An Tường, Huyện Vĩnh Tường
|
1998
|
4.5
|
25
|
Quỹ TDND xã Chấn Hưng
|
Xã
Chấn Hưng, Huyện Vĩnh Tường
|
1995
|
5.6
|
26
|
Quỹ TDND xã Đồng Văn
|
Xã
Đồng Văn, Huyện Yên Lạc
|
1995
|
9.7
|
27
|
Quỹ TDND xã Bình Dương
|
Xã
Bình Dương, Huyện Vĩnh Tường
|
1994
|
7.1
|
28
|
Quỹ TDND xã Tam Hồng
|
Xã
Tam Hồng, Huyện Yên Lạc
|
1994
|
7.2
|
29
|
Quỹ TDND xã Thổ
Tang
|
TT
Thổ Tang, Huyện Vĩnh Tường
|
1994
|
2.0
|
30
|
Quỹ TDND xã Lý Nhân
|
Xã
Lý Nhân, Huyện Vĩnh Tường
|
2011
|
4.2
|
31
|
Quỹ TDND xã Tam
Phúc
|
Xã
Tam Phúc, Huyện Vĩnh Tường
|
2016
|
6.1
|
Nguồn:
NHNN (9/2022)
Một số kết quả nổi
bật của huy động vốn qua kênh tiền gửi ngân hàng trong giai đoạn 2016-2021
- Thứ nhất, huy động
vốn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng,
tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế:
+ Về huy động vốn
của hệ thống NHTM: Theo
NHNN tỉnh Vĩnh Phúc, quy mô huy động vốn của hệ thống TCTD trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc năm 2021 đạt 96.3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2020 và gấp
2,04 lần năm 2016. Với hệ thống NHTM ngày càng mở rộng tại địa bàn, giai đoạn
2016-2021, tăng trưởng huy động vốn bình quân trên địa bàn đạt 17,6%, cao hơn
tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của cả nước (14,5%) và bình quân 11
tỉnh ĐBSH (15,1%), đồng thời cao hơn một số tỉnh ĐBSH như Hà Nam, Hải Dương,
Quảng Ninh, Hải Phòng. Giai đoạn 2020-2021, mặc dù trong bối cảnh dịch Covid-19
diễn biến phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động sản xuất kinh
doanh và đời sống xã hội, tăng trưởng huy động vốn của Vĩnh Phúc vẫn đạt mức
khá bình quân 13,4%, cao hơn mức trung bình cả nước và cao hơn tốc độ
tăng trưởng huy động vốn của một số tỉnh có quy mô huy động vốn cao của Vùng
như Hà Nội, Quảng Ninh.
Bảng
3: Huy động vốn qua hệ thống NHTM tỉnh Vĩnh Phúc so với các Tỉnh ĐBSH
giai đoạn 2016-2021
STT
|
Tỉnh/TP
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
HĐV
|
%TT
|
HĐV
|
%TT
|
HĐV
|
%TT
|
HĐV
|
%TT
|
HĐV
|
%TT
|
HĐV
|
%TT
|
1
|
Hà Nội
|
n/a
|
|
2638
|
n/a
|
3098
|
17.44
|
3505
|
13.14
|
3,787
|
8.05
|
4,251
|
12.25
|
2
|
Hải Phòng
|
140
|
|
168
|
20.27
|
n/a
|
n/a
|
208
|
n/a
|
237
|
13.89
|
267
|
12.51
|
3
|
Quảng Ninh
|
99
|
|
109
|
9.91
|
124
|
14.08
|
144
|
16.13
|
156
|
8.33
|
n/a
|
n/a
|
4
|
Bắc Ninh
|
73
|
|
88
|
20.59
|
100
|
13.8
|
124
|
13.31
|
166
|
34.71
|
196
|
17.9
|
5
|
Hải Dương
|
n/a
|
|
86
|
n/a
|
101
|
18.1
|
116
|
14.81
|
136
|
16.8
|
153
|
12.6
|
6
|
Vĩnh Phúc
|
48.9
|
23.9
|
61.8
|
26,3
|
69.1
|
11,7
|
80.8
|
16,9
|
91.8
|
13,6
|
103.9
|
13,1
|
7
|
Hưng Yên
|
42
|
|
62
|
50.28
|
73
|
16.8
|
82
|
12.67
|
94
|
13.91
|
n/a
|
n/a
|
8
|
Nam Định
|
37
|
|
48
|
27.99
|
56
|
17.81
|
65
|
15.04
|
77
|
19.15
|
86
|
12.03
|
9
|
Hà Nam
|
20
|
|
n/a
|
n/a
|
n/a
|
n/a
|
n/a
|
n/a
|
50
|
n/a
|
n/a
|
n/a
|
Nguồn:
NHNN các tỉnh, NGTK các tỉnh (2016-2021)
Cùng với vị trí kinh
doanh thuận lợi, mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch và điểm giao dịch của
các TCTD ngày càng mở rộng đến các địa bàn các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc vừa góp phần tăng cường vị thế, năng lực
cạnh tranh vừa đáp ứng nhu cầu gửi tiền, tiết kiệm của người dân (riêng NH Nông
nghiệp và PTNT Việt Nam, bên cạnh hệ thống 19 chi nhánh và phòng giao dịch, còn
có 8 điểm huy động vốn lưu động). Nhờ tốc độ tăng trưởng huy động vốn khá cao,
tăng trưởng tín dụng bình quân giai đoạn 2016-2021 trên địa bàn Vĩnh Phúc đạt
20,2%, cao hơn tăng trưởng tín dụng của cả nước (14,9%) và của địa bàn ĐBSH
(13,1%).
+ Về huy động vốn
của Ngân hàng chính sách xã hội: Đặc trưng hoạt động của NHCSXH là thực hiện
các chương trình tín dụng chính sách và hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Bên cạnh nguồn vốn từ NSNN, phát hành trái phiếu và nguồn vốn nhận ủy thác của
ngân sách tỉnh, huy động từ các nguồn khác của NHCSXH ngày càng đa dạng, trong
đó có 02 loại tiền gửi là tiền gửi 2% của các tổ chức tài chính (TCTC), Tập
đoàn Nhà nước (TĐNN) và tiền gửi dân cư (bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm của
người nghèo thông qua 136 Điểm giao dịch cấp xã và hơn 2.200 Tổ tiết kiệm và
vay vốn). Đây là hai nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nguồn vốn
của NHCSXH và có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2016-2021. Năm 2021, nguồn
tiền gửi dân cư chiếm 14,8% tổng nguồn vốn huy động của NHCSXH tỉnh Vĩnh Phúc,
cao hơn mức 7,3% năm 2016; tiền gửi 2% của các TCTC, TĐNN chiếm tỷ trọng 34,9%,
cao hơn mức 27,1% năm 2016.
Hình
2: Cơ cấu huy động vốn của NHCSXH Vĩnh Phúc năm 2016 (%)
|
Hình
3: Cơ cấu huy động vốn của NHCSXH Vĩnh Phúc năm 2021 (%)
|
|
|
Nguồn:
NHCSXH 2016
|
Nguồn:
NHCSXH 2021
|
Đây là kết quả tích
cực nhờ nỗ lực phối hợp giữa NHCSXH và chính quyền địa phương, các tổ chức
chính trị-xã hội, Tổ kiết kiệm và vay vốn tăng cường công tác thông tin truyền
thông, tăng cường huy động vốn nhàn rỗi trong dân, đáp ứng nhu cầu nguồn vốn
vay của người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn, phát huy tốt
vai trò ngân hàng dành cho người nghèo, hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh,
đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trên địa bàn.
+ Về huy động vốn
của quỹ TDND: Theo
NHNN tỉnh Vĩnh Phúc, tổng nguồn vốn hoạt động của QTDND đến 31/12/2021 đạt
4.532 tỷ đồng, gấp 4,4 lần trước khi có Luật Hợp tác xã năm 2012 (bình quân mỗi
quỹ đạt 146 tỷ đồng). Tổng vốn huy động đạt 4.083 tỷ đồng (chiếm 91% tổng vốn
hoạt động), bình quân nguồn vốn huy động đạt gần 132 tỷ đồng. Quỹ TDND đã và
đang phát huy tốt vai trò đầu mối huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư, chủ động
nguồn vốn đáp ứng cho vay đối với hàng ngàn lượt thành viên đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp nông thôn, kinh doanh dịch vụ đời sống. Với tỷ lệ vốn huy động/tổng
nguồn vốn tương đối cao 60-95%, nguồn vốn huy động dồi dào là cơ sở để các quỹ
TDND trên địa bàn chủ động trong kinh doanh và có lợi nhuận, đáp ứng kịp thời
yêu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh của thành viên (như phát triển trồng trọt,
chăn nuôi, nghề truyền thống, xây dựng nông thôn mới…).
- Thứ hai, mặt bằng
lãi suất huy động tương đối ổn định, bám sát quy định, định hướng về lãi suất
huy động của NHNN
Giai đoạn 2016-2019,
các lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất tái cấp vốn) duy trì ở mức ổn định, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức
thấp, đảm bảo thanh khoản, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động
ngân hàng, tạo điều kiện cho các TCTD duy trì ổn định lãi suất huy động, phấn
đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế.
Bảng
4: Quy định về lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VNĐ và đô la Mỹ của NHTM
và quỹ TDND trong giai đoạn 2016-2021
Loại
tiền
|
Văn
bản
|
Lãi
suất tiền gửi VNĐ tối đa của một số kỳ hạn (%/năm)
|
Tiền
gửi không kỳ hạn và <1T
|
1T-<6T
đối với NHTM
|
1T-<6T
đối với QTDND
|
Đối
với VNĐ
|
Quyết định 498/QĐ-NHNN
ngày 17/03/2014
|
1%
|
6%
|
6,5%
|
Quyết định
2173/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014
|
1%
|
5,5%
|
6,0%
|
Quyết định
2415/QĐ-NHNN ngày 18/11/2019
|
0,8%
|
5,0%
|
5,5%
|
Quyết định
419/QĐ-NHNN ngày 16/03/2020
|
0,5%
|
4,75%
|
5,25%
|
Quyết định
919/QĐ-NHNN ngày 12/05/2020
|
0,2%
|
4,25%
|
4,75%
|
Quyết định số
1729/QĐ-NHNN ngày 30/09/2020
|
0,2%
|
4,0%
|
4,5%
|
Quyết định số
1607/QĐ-NHNN ngày 22/09/2022
|
0,5%
|
5,0%
|
5,5%
|
Quyết định số
1812/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022
|
1%
|
6,0%
|
6,5%
|
Đối
với USD
|
Văn
bản
|
Lãi
suất tiền gửi bằng USD tối đa đối với các chủ thể gửi tiền (%/năm)
|
Tổ
chức
|
Cá
nhân
|
Quyết định
2172/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014
|
0,25%
|
0,75%
|
Quyết định số
1938/QĐ-NHNN ngày 25/09/2015
|
0%
|
0,25%
|
Quyết định
2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015
|
0%
|
0%
|
Nguồn:
NHNN Việt Nam
Thực hiện theo chỉ
đạo của NHNN và Hội sở chính, mặt bằng lãi suất huy động của các NHTM trên địa
bàn Vĩnh Phúc tương đối ổn định trong giai đoạn 2016-2019, vừa đảm bảo theo
đúng quy định về lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VNĐ, vừa phù hợp với nhu
cầu thị trường, tạo điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng huy động vốn (chỉ quy
định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi ngắn hạn còn các kỳ hạn dài do TCTD
tự xác định trên cơ sở cung cầu thị trường). Lãi suất huy động bằng VND không kỳ
hạn và dưới 1 tháng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2016-2019 với mức giảm
trung bình 0,3-0,5% (từ mức trung bình 0,8-1% năm 2016 xuống 0,5-1% năm 2019);
lãi suất huy động ngắn hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm 0,2-0,5%; lãi suất
kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng tăng nhẹ 0,05-0,1% (từ mức 4,9-5,9% năm
2016 lên 5-6% năm 2019); lãi suất huy động dài hạn trên 12 tháng tăng nhẹ
0,1-0,3% (từ mức 6,4-7% năm 2016 lên mức 6,5-7,3% năm 2019). Cụ thể, lãi suất
huy động VNĐ tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng bình quân
2016-2019 là 0,57%; tiền gửi có kỳ hạn từ 3 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5,84%;
tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng lãi suất 6,2%/năm; tiền gửi có
kỳ hạn 12 tháng đến dưới 24 tháng bình quân khoảng 7%; tiền gửi có kỳ hạn trên
24 tháng ở mức 7,2-7,3%/năm.
Hình
4: Lãi suất huy động theo các kỳ hạn của NHTM Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2021 (%)
Nguồn:
NHNN Vĩnh Phúc
Giai đoạn 2020-2021,
thực hiện theo chủ trương giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp
do ảnh hưởng của dịch Covid-16, mặt bằng lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân
của các NHTM Vĩnh Phúc giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn, các kỳ hạn ngắn giảm mạnh
hơn các kỳ hạn dài. Cụ thể, sau 03 lần điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa
bằng VNĐ năm 2020, lãi suất tiền gửi ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng (giảm 0,7-0,8% so với năm 2016); 3,3-3,5%/năm
đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng (giảm 1,2-1,9% so với
năm 2016); 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng
(giảm 0,8-1,2% so với năm 2016); 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ
trên 12 tháng đến 24 tháng và 6,1-6,9% đối với kỳ hạn trên 24 tháng (giảm
0,3-0,5% so với năm 2016).
Về lãi suất huy động
USD, các NHTM trên địa bàn Vĩnh Phúc đã thực hiện theo đúng quy định của NHNN
về lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ. Giai đoạn 2016-2021, lãi suất tiền
gửi USD của TCTD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của cả tổ chức và cá nhân theo
đúng quy định của NHNN, góp phần hạn chế đô la hóa, tăng sức hấp dẫn và giá trị
đồng VNĐ.
- Thứ ba, cơ cấu
nguồn vốn huy động có sự dịch chuyển theo hướng bán lẻ: Theo NHNN tỉnh Vĩnh
Phúc, xét theo chủ thể tiền gửi, năm 2021, tiền gửi của tổ chức kinh tế (TCKT)
đạt 32.6 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 33,9% tổng tiền gửi), tiền gửi tiết kiệm dân
cư đạt 63.1 tỷ đồng (chiếm 65,5% tổng tiền gửi). Tiền gửi tiết kiệm dân cư có
tốc độ tăng trưởng tốt, bình quân 20,6%/năm, tăng từ mức 52,5% năm 2016 lên tới
65,5% năm 2021 cho thấy niềm tin của người dân đối với hoạt động ngân hàng trên
địa bàn, đồng thời cho thấy tín hiệu tích cực khi dòng tiền chảy vào hệ thống
ngân hàng thay vì các kênh đầu tư rủi ro như ngoại tệ, bất động sản, chứng
khoán, tiền ảo. Tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng bình quân 10,7%/năm trong
giai đoạn 2016-2021, thấp hơn tăng trưởng tiền gửi dân cư và khá biến động qua
các năm. Xét theo hình thức huy động, huy động tiền gửi chiếm ưu thế, năm 2021
đạt 95.8 nghìn tỷ (chiếm 99,4% tổng tiền gửi), huy động thông qua phát hành
giấy tờ có giá chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 575 tỷ đồng (chiếm 0,6%). Về tăng
trưởng, tiền gửi tăng trưởng ổn định hơn phát hành giấy tờ có giá, tiền gửi
tăng bình quân tăng trưởng 16,4% trong giai đoạn 2016-2021 có sự biến động khá
mạnh (tăng/giảm lớn giữa các năm, bình quân giai đoạn 2016-2021 đạt tăng trưởng
15,5%).
Hình
5: Tình hình huy động vốn của NHTM Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2021 (%)
Cơ
cấu
HĐV
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
Số
dư
|
%TT
|
Số
dư
|
%TT
|
Số
dư
|
%TT
|
Số
dư
|
%TT
|
Số
dư
|
%TT
|
Số
dư
|
%TT
|
Tiền
gửi của các TCKT
|
22.131
|
21,8
|
26.121
|
18,0
|
28.247
|
8,1
|
32.995
|
16,8
|
34.806
|
5,5
|
39.350
|
13,06
|
Tiền
gửi tiết kiệm
|
26.251
|
26,7
|
34.729
|
32,3
|
40.035
|
15,3
|
46.773
|
16,8
|
55.254
|
18,1
|
63.107
|
14,0
|
Phát
hành GTCG
|
573
|
-2,9
|
991
|
72,9
|
733
|
-26,0
|
1031
|
40,6
|
1.818
|
76,3
|
1.493
|
-17,9
|
Tổng
HĐV
|
48.955
|
23,9
|
61.841
|
26,3
|
69.015
|
11,6
|
80.799
|
17,1
|
91.878
|
13,7
|
103.950
|
13,1
|
Nguồn:
NHNN Vĩnh Phúc
Về cơ cấu vốn huy
động của quỹ TDND, nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư là nguồn vốn huy động chính
và tốc độ tăng trưởng khá cao. Tính đến 31/12/2020, nguồn vốn huy động dân cư
đạt gần 3,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 89,9% tổng nguồn vốn huy động), tăng 31% so
với năm 2019. Trong giai đoạn 2016-2021, các quỹ TDND đều có tỷ lệ huy động vốn
dân cư/tổng nguồn vốn tăng nhanh từ mức 60-65% năm 2016 lên mức cao 90-95% năm
2021, nhờ đó, góp phần tăng tính chủ động trong kinh doanh và gia tăng lợi
nhuận.
Hình
6: Cơ cấu huy động vốn qua ngân hàng năm 2016 (%)
|
Hình
7: Cơ cấu huy động vốn qua ngân hàng năm 2021 (%)
|
|
|
Nguồn:
NHNN Vĩnh Phúc, NGTK 2016
|
Nguồn:
NHNN Vĩnh Phúc, NGTK 2021
|
- Thứ tư, quỹ tín
dụng nhân dân ngày càng phát triển ổn định, an toàn, hiệu quả góp phần lành
mạnh hóa quan hệ tài chính nông thôn: Với sự chỉ đạo sát sao và hỗ trợ kịp thời của
NHNN, quy mô năng lực, hiệu quả hoạt động của quỹ TDND trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc ngày càng được củng cố (31/31 quỹ TDND trên địa bàn hoạt động kinh doanh
có hiệu quả; 25 quỹ TDND được tăng vốn điều lệ với tổng số tiền 21,5 tỷ đồng và
hoàn toàn chủ động được nguồn vốn hoạt động không phải vay NH hợp tác xã; 07
quỹ TDND được sửa chữa, xây dựng mới trụ sở làm việc như QTDND Đình Chu, Xuân
Hòa, Đồng Văn, An Tường, Văn Quán, Tam Hồng, Đại Đồng; NHNN tỉnh tăng cường
thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất).
Với việc củng cố vị
thế của quỹ TDND, vốn huy động qua hệ thống quỹ TDND đã và đang phát huy tốt
vai trò tương trợ cộng đồng: giải quyết việc làm cho người lao động; đáp ứng
nhu cầu vốn tại chỗ cho các HTX, hộ kinh doanh, nông dân nông thôn (tỷ trọng
cho vay thành viên/tổng dư nợ đạt 95-99%), từ đó, hạn chế tín dụng đen, cho vay
nặng lãi, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế tập
thể. Bên cạnh các hoạt động huy động vốn cho vay truyền thống, QTDND đã và đang
phối hợp với các NHTM triển khai các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, đại lý
chi trả ngoại tệ, thu, chi hộ cho các thành viên…v.v.
- Thứ năm, hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) đạt kết quả tích cực góp phần thúc
đẩy nguồn vốn huy động qua ngân hàng: Các NHTM trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và
đang phối kết hợp với các công ty Fintech, ví điện tử, các DN viễn thông, các nền
tảng TMĐT ứng dụng công nghệ mới vào dịch vụ tài chính như trí tuệ nhân tạo,
eKYC, PGD thông minh, mobile banking, Internet banking, QR code, mở rộng mạng
lưới chấp nhận thanh toán thẻ; miễn, giảm phí thanh toán trực tuyến; tăng cường
đảm bảo an ninh, bảo mật trong thanh toán điện tử trong hành chính công, thu
nộp thuế điện tử, dịch vụ hải quan; thanh toán các dịch vụ thiết yếu như điện
nước, học phí, viện phí, cước viễn thông…v.v.
Nhờ dân số trẻ, năng
động, trình độ dân trí và thu nhập mức khá cao, hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt trên địa bàn ĐBSH được chú trọng đẩy mạnh và đạt kết quả đáng khích lệ
như tỷ lệ thanh toán tiền điện online lên đến 99,7%; tỷ lệ thu chi ngân sách
kết nối giữa NHTM và KBNN tỉnh Vĩnh Phúc đạt 99%; tỷ lệ DN nộp thuế điện tử đạt
98% thanh toán qua điện thoại di động năm 2021 tăng 172% về giá trị so với năm
2020…v.v.
1.1.4. Một số tồn
tại, hạn chế
- Thứ nhất, huy động
vốn qua quỹ TDND chưa tương xứng với tiềm năng: Tỷ lệ vốn huy
động/tổng nguồn vốn của một số QTDND đạt mức thấp chỉ 45-50%, việc tăng thêm số
lượng 4-5 QTDND chưa đạt mục tiêu kế hoạch đến năm 2020, từ đó ảnh hưởng đến
khả năng tăng trưởng huy động nguồn vốn cho phát triển. Bên cạnh đó, số lượng
thành viên của Quỹ TDND ngày càng giảm, việc thu hút thành viên tham gia quỹ
TDND gặp nhiều thách thức khi người dân có nhu cầu tham gia thành viên QTDND để
vay vốn hơn là nhu cầu tham gia thành viên đóng góp huy động vốn, gửi tiền.
- Thứ hai, tăng
trưởng huy động vốn chưa đạt mục tiêu: Huy động vốn giai đoạn 2016-2021 chỉ tăng
16,2%, đặc biệt giai đoạn 2020-2021 chỉ tăng 9,25% do ảnh hưởng của dịch bệnh
và khó khăn của người dân, doanh nghiệp. Đây là mức tăng thấp hơn mục tiêu tăng
trưởng huy động vốn bình quân của hệ thống NHTM đạt 30%/năm của Nghị quyết số
01/NQ-TU ngày 04/11/2011, thấp hơn mục tiêu tăng trưởng huy động vốn đạt 20-22%
theo Kế hoạch 450/KH/UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thứ ba, nguồn vốn
huy động từ tổ chức kinh tế trên địa bàn đang giảm dần: Nguồn vốn huy động từ
TCKT trên địa bàn Vĩnh Phúc năm 2020 chỉ tăng thấp 5,5% so với 2019; năm 2021
giảm 6,2% so với năm 2020. Tỷ trọng tiền gửi của TCKT đang có xu hướng giảm dần
(từ mức 45,2% năm 2016 xuống 33,9% năm 2021) và thấp hơn mức trung bình của cả
nước là 50,2%. Điều này một mặt cho thấy doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn
(doanh thu, lợi nhuận giảm) do ảnh hưởng của dịch bệnh, sự gia tăng các chi phí
đầu vào chi phí nguyên nhiên liệu, chi phí logistics, chi phí nhân công…mặt
khác cũng cho thấy tính ổn định của nguồn vốn huy động đang giảm (quy mô vốn
tiền gửi của TCKT thường lớn hơn tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn/tiền
gửi thanh toán của TCKT có thể duy trì trong thời gian dài hơn, ít biến động
hơn nguồn vốn tiết kiệm dân cư).
- Thứ tư, tỷ trọng huy
động trung dài hạn còn thấp so với nhu cầu tín dụng: Tỷ lệ vốn huy động
trung dài hạn chiếm tới 80% tổng nguồn vốn huy động trong khi dư nợ trung dài
hạn chiếm tỷ trọng cao 40%/tổng dư nợ và ngày càng tăng. Đây là áp lực khá lớn
với cân đối thanh khoản, cân đối cơ cấu kỳ hạn của TCTD, từ đó đòi hỏi các TCTD
trên địa bàn Vĩnh Phúc, nhất là trong điều kiện kinh tế phục hồi, nhu cầu vốn
ngày càng tăng. Vì vậy, các TCTD trên địa bàn phải có giải pháp tăng cường huy
động vốn trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và nền kinh tế, xây
dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô, khả năng huy động vốn để
ổn định mặt bằng lãi suất.
Nguyên nhân:
- Thứ nhất, một số
khó khăn về địa lý - kinh tế, xã hội của Tỉnh ảnh hưởng đến hoạt động tài
chính - ngân hàng nói chung và khả năng huy động vốn của các NHTM nói riêng. Lợi thế cạnh tranh về
vị trí địa lý của Tỉnh giảm dần so với các địa phương lân cận như Bắc Ninh, Hà
Nam, Thái Nguyên khi các tuyến giao thông quan trọng của quốc gia và Vùng ĐBSH
được đầu tư mới, mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện. Sự phát triển kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng: tăng trưởng kinh tế chưa có sự đột phá so với các địa
phương trong Vùng; chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững; quy mô, năng
lực kinh tế, thu nhập thực tế bình quân/người[10] của Vĩnh Phúc mặc dù
được cải thiện tích cực (năm 2021 đạt 4.511 triệu đồng/người/tháng, xếp thứ
9/63 tỉnh, gấp 17 lần năm 2002) song vẫn thấp hơn so với mức trung bình của
ĐBSH (5.026 triệu đồng) và một số tỉnh Bắc ĐBSH (như Hà Nội: 6.001 triệu đồng;
Bắc Ninh: 4.916 triệu đồng; Hải Phòng: 5.093 triệu đồng…); số lượng DN thực tế
đang hoạt động thấp hơn mức trung bình cả nước (tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt
động/1.000 dân của Vĩnh Phúc là 6,52 DN, thấp hơn so với mức trung bình cả nước
là 7,6 DN), quy mô DN còn nhỏ (97,3% là DN nhỏ và siêu nhỏ).
- Thứ hai, thu hút
vốn FDI còn thấp, ảnh hưởng tới việc thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng:
Giai
đoạn 2016-2021, thu hút FDI chỉ đạt 2,8 tỷ USD, bình quân 460 triệu USD/năm,
chiếm tỷ trọng nhỏ 1,5% tổng vốn FDI của cả nước trong cùng giai đoạn; thiếu
các dự án quy mô lớn; quy mô vốn đăng ký mới bình quân/dự án chỉ khoảng 10,7
triệu USD/dự án, thấp hơn mức bình quân của Vùng ĐBSH và một số tỉnh trong Vùng
dẫn đầu về thu hút FDI của cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hà Nam.
Thêm vào đó, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI của Vĩnh Phúc có sự sụt
giảm khá mạnh trong giai đoạn 2019-2020, ảnh hưởng tới khả năng thu hút, giải
ngân vốn đầu tư của doanh nghiệp, từ đó gián tiếp ảnh hưởng tới việc thu hút
vốn tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
- Thứ ba, tâm lý ưu
thích tiền mặt:
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn khá cao nhất là các khu vực nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tỷ lệ TTKDTM Vĩnh Phúc còn thấp, tình trạng
người dân rút tiền từ hệ thống ATM của NHTM để thanh toán bằng tiền mặt dù
nhiều lĩnh vực đã tích cực triển khai TTKDTM như dịch vụ hành chính công, thuế,
bảo hiểm, y tế, điện nước, xăng dầu, viện phí, học phí, bưu chính viễn thông,
truyền hình cáp... Đây cũng là một phần nguyên nhân khiến nguồn tiền gửi của tổ
chức kinh tế giảm sút, biến động trong giai đoạn 2016-2021.
- Thứ tư, hoạt động
ngân hàng trên địa bàn Vĩnh Phúc cũng đối diện với nhiều thách thức chung của
ngành ngân hàng Việt Nam và địa bàn ĐBSH như ảnh hưởng của biến động thị trường
tài chính toàn cầu (tăng lãi suất, thắt chặt các điều kiện tài chính, xu hướng tăng
giá của đồng USD, biến động tỷ giá USD/VND), khung pháp lý cho các mô hình kinh
doanh mới còn chậm, cơ cấu lại các TCTD yếu kém còn chậm, nợ xấu tiềm ẩn và tội
phạm tài chính gia tăng, cơ sở hạ tầng KT-XH nói chung và hạ tầng tài chính -
ngân hàng còn chưa đồng bộ…v.v
- Thứ năm, việc nghiên cứu, nắm
bắt và xử lý thông tin chưa hiệu quả: Thông tin về các chính sách ưu đãi, hỗ
trợ; các chính sách ưu đãi, hỗ trợ Trung Ương và Tỉnh với các QTDND vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến tỷ lệ huy động vốn và tỷ lệ tiếp cận các
nguồn vốn hỗ trợ còn hạn chế.
- Thứ sáu, năng lực hoạt động
QTDND trên địa bàn Vĩnh Phúc còn hạn chế: quy mô QTDND trên địa bàn còn nhỏ,
quy mô vốn điều lệ thấp hơn quy mô trung bình của QTDND các tỉnh ĐBSH (đứng thứ
8/11 về quy mô quỹ TDND, chiếm 6,91% tổng vốn điều lệ của QTDND các tỉnh ĐBSH,
thấp hơn mức vốn điều lệ trung bình của quỹ TDND khu vực ĐBSH là 226.3 tỷ
đồng), cơ sở vật chất còn lạc hậu, chưa được nâng cấp, cải tạo. Mức độ lành
mạnh của một số TCTD, quỹ TDND trên địa bàn chưa cao, hoạt động chưa gắn với
thị trường, hiệu quả chưa cao, từ đó ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn, thách
thức khả năng liên kết, hợp tác với các NHTM trong phát triển các dịch vụ ngân
hàng số, TTKDTM. Trình độ cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, không được đào tạo
bài bản, ít được bồi dưỡng tập huấn; việc cập nhật văn bản mới còn hạn chế,
công tác quản trị điều hành, kiểm soát hiệu quả chưa cao. Thêm vào đó, một bộ
phận cán bộ quản lý và phần lớn thành viên QTDND chưa nhận thức đầy đủ về quan
điểm phát triển về kinh tế tập thể, Quỹ TDND, vẫn còn tư tưởng trông chờ, ý lại
vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
1.2.
Đối với công cụ (kênh) xã hội hóa
1.2.1. Chính sách về
xã hội hóa
Chủ trương về thu hút
nguồn vốn đầu tư xã hội hóa được Chính phủ đưa ra tại Nghị quyết số 90-CP ngày
21/8/1997 của Chính phủ về Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa (đã được Chính phủ thông qua tại Phiên họp thường kỳ
tháng 3 năm 1997). Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm
năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động, mà cụ thể là
các dịch vụ công như giáo dục, y tế, văn hóa phát triển nhanh hơn và có chất
lượng cao hơn.
Các chính sách xã hội
hóa của Nhà nước Trung ương
- Nghị quyết số 90-CP
ngày 21/8/1997 của Chính phủ về Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa (đã được Chính phủ thông qua tại Phiên họp thường
kỳ tháng 3 năm 1997). Theo đó, xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa
là vận động và tổ chức sự giam gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào
sự phát triển các sự nghiệp đó nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo
dục, y tế, văn hóa và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân. Nghị
quyết cũng nêu chi tiết một số chủ trương, biện pháp để thực hiện xã hội hóa
trong từng lĩnh vực.
- Nghị định số
69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội
hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao, môi trường; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ
về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
Nghị định khuyến
khích thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn
hóa, thể thao, môi trường thông qua các ưu đãi như cho thuê, xây dựng cơ sở vật
chất; giao đất, cho thuê đất; ưu đãi về lệ phí trước bạ, thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu; ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; ưu đãi về tín dụng…
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ về nguồn thu, phân phối kết quả tài chính
và trách nhiệm của cơ sở thực hiện xã hội hóa cũng như quản lý nhà nước đối với
các cơ sở cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực xã hội hóa.
- Quyết định số
693/2013/QĐ-TTg ngày 6/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ Về việc sửa đổi, bổ sung
một số nội dung của Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu
chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường ban hành kèm theo Quyết định số
1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
- Quyết định số
80/2014/QĐ-TTg ngày 30/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ Quy định thí điểm về
thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước.
- Quyết định số
712/2017/QĐ-TTg ngày 26/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm
hoàn thiện và nhân rộng mô hình bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn mới
tại các xã khó khăn, biên giới, hải đảo theo hướng xã hội hóa, giai đoạn
2017-2020.
Tại tỉnh Vĩnh Phúc, việc
thực thi các chính sách xã hội hóa được cụ thể tại các văn bản sau:
- Quyết định số
11/2019/QĐ-UBND ngày 26/2/2019 ban hành quy định chế độ miễn, giảm về tiền thuê
đất và giá cho thuê cơ sở hạ tầng đối với cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh
vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, giám
định tư pháp tại các đô thị trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo đó, việc huy
động vốn xã hội hóa tại Vĩnh Phúc được khuyến khích thông qua hai chế độ ưu
đãi: (1) miễn, giảm tiền thuê đất: miễn 100% tiền thuê đất cho các dự án thuộc
lĩnh vực môi trường; giảm 90-100% tiền thuê đất với các dự án thuộc các lĩnh
vực y tế, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao, giám định tư pháp
theo địa bàn đầu tư; (2) ưu đãi về giá cho thuê cơ sở hạ tầng và công trình xã
hội hóa: được hình thành dựa trên tiền thuê đất và cơ sở giá thuê tài sản trên
đất (tính bằng mức giá thuê tối thiểu được xác định theo nguyên tắc bảo toàn
chi phí hình thành nên tài sản cho thuê và bù đắp chi phí bảo trì, bảo dưỡng theo
hướng dẫn tại Thông tư số 156/2014/TT-BTC ngày 23/10/2014 của Bộ Tài chính).
Ngoài ra, tỉnh cũng
ban hành một số văn bản, đề án về việc thực hiện xã hội hóa trong một số lĩnh
vực cụ thể:
- Nghị quyết số
71/2019/NQ-HĐND ngày 23/10/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc khóa XVI
kỳ họp thứ 13 về Quy định cơ chế hỗ trợ đầu tư, tu bổ hệ thống di tích lịch sử
- văn hóa được xếp hạng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2019-2025. Trong
đó, đối với các di tích cấp tỉnh, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50%, ngân sách cấp
huyện hỗ trợ 10% kinh phí tu bổ đối với hạng mục kiến trúc gốc của di tích và
40% kinh phí còn lại (tu bổ hạng mục kiến trúc gốc và các công trình phụ trợ,
khu vực ngoại vi của di tích) sẽ được chủ đầu tư huy động từ nguồn vốn xã hội
hóa.
- Đề án “Đẩy mạnh, mở
rộng xã hội hóa cung cấp phương tiện tránh thai, hàng hóa và dịch vụ kế hoạch
hóa gia đình, sức khỏe sinh sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030”. Theo
đó, phấn đấu đến năm 2025, 100% cơ sở tham gia xã hội hóa cung cấp phương tiện
tránh thai, hàng hóa và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình/sức khỏe sinh sản được
kiểm tra, giám sát và hỗ trợ kỹ thuật…[11]
- Quyết định số
449/2022/QĐ-UBND ngày 7/3/2022 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt Đề án phát
triển giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Trong đó, tăng cường xã hội hóa cho giáo dục là một nhiệm vụ - giải pháp quan
trọng và được cụ thể hóa, cũng như được lồng ghép trong nhiều nhóm giải pháp
đột phá khác nhằm phát triển giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn tới.
Bên cạnh đó, với mỗi
dự án cụ thể, tỉnh ban hành văn bản kêu gọi nguồn vốn đầu tư xã hội hóa như dự
án Nạo vét hồ Đầm Vạc (Quyết định số 73/2019/QĐ- UBND ngày 9/1/2019); dự án Sàn
giao dịch thương mại điện tử tỉnh Vĩnh Phúc (Thông báo số 36/2019/TB-SCT ngày
25/6/2019)…
1.2.2. Công tác phổ
biến chính sách tới dân cư
Việc phổ biến các
chính sách tới dân cư được tỉnh thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau. Tỉnh
cung cấp thông tin cho lãnh đạo các cấp, thường xuyên cập nhật, cung cấp thông
tin về chính sách xã hội hóa tới chính quyền các cấp, tổ chức đoàn thể và những
người có uy tín trong cộng đồng để nắm bắt và chỉ đạo triển khai. Thực hiện
công tác tuyên truyền về xã hội hóa trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an sinh
xã hội… tới người dân thông qua tổ chức hội thảo, đối thoại, cung cấp thông
tin; cập nhật chính sách cũng như đăng bài tin về chính sách xã hội hóa và các
thông tin liên quan trên các trang tin điện tử của địa phương; thực hiện các
tin, bài, phóng sự, tọa đàm về chủ đề pháp luật trên Đài Phát thanh - Truyền
hình Vĩnh Phúc, Báo Vĩnh Phúc,…
Đặc biệt, trong thời
điểm dịch bệnh, tỉnh đã chủ trương vận động, kêu gọi xã hội hóa xét nghiệm tự
nguyện trước tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu vực cách ly xã hội, các
khu vực có nguy cơ cao (Văn bản số 3404/2021/UBND-KT1 ngày 12/5/2021 V/v thực
hiện xã hội hóa xét nghiệm). Tỉnh đã huy động sự tham gia của nhiều Sở, ngành
tham gia vào quá trình này. Tỉnh giao Sở Y tế huy động nhân lực và hướng dẫn kỹ
thuật đối với việc lấy mẫu, xét nghiệm. Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công thương,
Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh tuyên truyền, vận
động, phổ biến đến các doanh nghiệp về chủ trương xã hội hóa xét nghiệm tự
nguyện. Đồng thời, thực hiện tuyên truyền chủ trương thực hiện xã hội hóa xét nghiệm
tự nguyện trên các kênh truyền thông như Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh và
Truyền hình Vĩnh Phúc, Tạp chí Văn nghệ Vĩnh Phúc, Cổng Thông tin - Giao tiếp
điện tử tỉnh; Đài Truyền thanh thông tin điện tử, bản tin, bảng tin…
1.2.3. Kết quả huy
động
Huy động vốn xã hội
hóa ở Vĩnh Phúc chủ yếu trong các lĩnh vực về giáo dục và y tế. Toàn tỉnh có 14
trường mầm non tư thục, 1 trường THPT ngoài công lập, 1 trường liên cấp mới đi
vào hoạt động năm 2022 và hệ thống mạng lưới trung tâm học tập cộng đồng, trung
tâm tin học, ngoại ngữ, cơ sở dạy kỹ năng sống… Đối với lĩnh vực y tế, công tác
xã hội hóa y tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc được thực hiện chủ yếu bằng một số
hình thức như: đẩy mạnh liên doanh, liên kết trang thiết bị phục vụ hoạt động
khám, chữa bệnh; khuyến khích phát triển hệ thống y tế tư nhân, gồm bệnh viện
và các phòng khám đa khoa, chuyên khoa; tăng cường sự giảm gia của các tổ chức,
cá nhân đối với các chương trình khám, chữa bệnh nhân đạo… Cụ thể, đến hết năm
2021, trên địa bàn tỉnh có 331 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân được cấp phép
hoạt động và 1.263 cơ sở kinh doanh dược tư nhân. Ngoài ra, trong giai đoạn
2016-2020, có 5 đơn vị y tế thực hiện xã hội hóa trang thiết bị y tế để phát
triển chuyên môn kỹ thuật, hình thức chủ yếu là liên doanh liên kết và thuê
trang thiết bị, với tổng giá trị tài sản liên doanh liên kết là 84,6 tỷ đồng,
chiếm gần 1,02% trong tổng nguồn vốn huy động ngoài ngân sách cho lĩnh vực y
tế.
Bên cạnh đó, tỉnh
cũng đã triển khai xã hội hóa trong các lĩnh vực về văn hóa, môi trường, dịch
vụ công khác, nhìn chung là các dự án nhỏ lẻ với quy mô vốn thấp như xây dựng
các điểm sinh hoạt, vui chơi cho thanh thiếu nhi, phong trào xã hội hóa trồng
cây phân tán…
1.2.4. Một số tồn
tại, hạn chế
- Giáo dục ngoài công
lập phát triển chậm, nguồn lực huy động từ công tác xã hội hóa còn hạn chế. Cơ
sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở giáo dục gồm công lập và ngoài công
lập vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đảm bảo theo đúng quy định. Tỉnh hiện chưa có
cơ chế chính sách cụ thể để phát triển hệ thống trường ngoài công lập.
- Các cơ sở dịch vụ
khám, chữa bệnh chất lượng cao chưa phát triển; cơ sở vật chất, trang thiết bị,
nhân lực y tế đã được tăng cường nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Xã hội hóa y
tế phát triển chậm. Số đơn vị y tế mở rộng liên doanh, liên kết vẫn còn khá
khiêm tốn so với số lượng các cơ sở khám chữa bệnh Vĩnh Phúc đang có, tập trung
chủ yếu là các thiết bị để thực hiện các dịch vụ kỹ thuật về xét nghiệm, chẩn
đoán hình ảnh, thận nhân tạo và chủ yếu mới chỉ tập trung ở các trung tâm, khu
đô thị, còn tại các huyện miền núi, vùng nông thôn, mặc dù nhu cầu rất lớn
nhưng gần như chưa có. Nguyên nhân là vì các nhà đầu tư chỉ tập trung vào các
bệnh viện tuyến trên, nơi có nhiều người dân có điều kiện kinh tế có khả năng
chi trả các dịch vụ, từ đó khả năng thu hồi vốn nhanh hơn. Ngoài ra, thu hút
vốn xã hội hóa vào bệnh viện ngoài công lập còn hạn chế do một số khó khăn,
vướng mắc về giải phóng mặt bằng, nguồn vốn, nhân lực và sự phức tạp về kỹ
thuật của hành nghề y tế. Bên cạnh đó, văn bản hướng dẫn về công tác xã hội hóa
trong y tế chưa đầy đủ nên khó khăn trong việc triển khai thực hiện như: chưa
có Thông tư hướng dẫn khám chữa bệnh theo yêu cầu, chưa có quy định khung giá
dịch vụ khám chữa bệnh theo yêu cầu; trong quy định về xã hội hóa chưa có hướng
dẫn cách xác định tỷ lệ giá trị được hưởng từ giá trị thương hiệu của bệnh
viện; quy định cách phân chia lợi nhuận giữa bệnh viện và đối tác… cũng là một
trong những khó khăn khi triển khai xã hội hóa trong y tế.
- Nhiều chính sách
chưa có các quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thực hiện. Việc triển khai chủ
trương, chính sách có lúc còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa các chương trình,
kế hoạch và bố trí nguồn lực thực hiện. Quá trình triển khai thực hiện chính
sách còn gặp nhiều vướng mắc trong thực tế[12].
Nguyên nhân là do giai đoạn 2016-2020 là nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện Luật Đầu
tư công, nên còn nhiều lúng túng và vướng mắc trong triển khai thực hiện. Chính
sách bồi thường giải phóng mặt bằng còn một số nội dung chưa rõ ràng, không
đồng nhất, khó thực hiện. Việc bồi thường, giải phóng mặt bằng còn gặp khó khăn
do đơn giá bồi thường giải phóng mặt bằng chưa phù hợp với thực tế và chính
sách về đất đai thường xuyên thay đổi dẫn đến người dân có tâm lý chờ đợi tăng
giá bồi thường, không chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư triển khai dự án.
Ngoài ra, năng lực thể chế hóa các chủ trương thành cơ chế, chính sách cụ thể
và khâu tổ chức thực hiện còn yếu, thiếu sáng tạo, thiếu tính thực tiễn. Thiếu
cơ chế, chính sách đột phá để huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
1.3.
Đối với công cụ (kênh) trái phiếu chính quyền địa phương
1.3.1. Chính sách về
trái phiếu
Theo Luật Quản lý nợ
công 2017, trái phiếu chính quyền địa phương là công cụ nợ do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phát hành để huy động vốn cho ngân sách địa phương Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh quyết định, điều chỉnh kế hoạch vay, trả nợ 05 năm, hằng năm của chính
quyền địa phương theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật về ngân
sách nhà nước, quyết định danh mục các dự án đầu tư từ vốn vay của chính quyền
địa phương theo quy định của pháp luật; phê duyệt Đề án phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương và giám sát việc vay, vay lại, phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương, sử dụng vốn vay và trả nợ của chính quyền địa phương.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch vay, trả nợ 05 năm, hằng năm của chính
quyền địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định; xây dựng chương trình
quản lý nợ 03 năm của chính quyền địa phương, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo
cáo Thủ tướng Chính phủ và tổ chức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương,
vay từ các nguồn tài chính hợp pháp khác, vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước
ngoài theo quy định của Luật quản lý nợ công. Bên cạnh Luật quản lý nợ công,
một số văn bản QPPL quy định cụ thể hơn về trái phiếu chính phủ như:
Nghị định số
01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương;
Luật ngân sách nhà
nước ngày 25 tháng 6 năm 2015;
Thông tư số
342/2016/TT-BTC ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21 tháng 12
năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân
sách nhà nước;
Nghị định Số:
91/2018/NĐ-CP ngày 26/06/2018 về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ;
Nghị định Số:
93/2018/NĐ-CP ngày 30/06/2018 quy định về quản lý nợ của chính quyền địa
phương;
Nghị định Số:
95/2018/NĐ-CP ngày 30/06/2018 quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết
và giao dịch công cụ nợ của chính phủ trên thị trường chứng khoán.
Thông tư số
110/2018/TT-BTC ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn mua lại,
hoán đổi công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái
phiếu chính quyền địa phương tại thị trường trong nước;
Thông tư số
30/2019/TT-BTC của Bộ Tài chính: Hướng dẫn đăng ký, lưu ký, niêm yết, giao dịch
và thanh toán giao dịch công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh do ngân hàng chính sách phát hành và trái phiếu chính quyền địa phương;
Thông tư số
47/VBHN-BTC ngày 22/12/2020 về việc hướng dẫn mua lại, hoán đổi công cụ nợ của
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa
phương tại thị trường trong nước
Điều kiện phát hành: Theo quy định của
Luật Quản lý nợ công 2017 và Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật ngân sách nhà nước, điều kiện phát
hành TPCQĐP gồm 03 điều kiện sau đây: (i) Phát hành trái phiếu để đầu tư vào
các dự án phát triển KTXH thuộc nhiệm vụ của ngân sách địa phương theo quy định
của Luật Ngân sách dự án đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp
luật, thuộc danh mục đầu tư công trung hạn của chính quyền địa phương đã được
cấp có thẩm quyền quyết định; (ii) Có đề án phát hành trái phiếu được lập và
thẩm định theo quy định của Chính phủ về phát hành trái phiếu; (iii) Trị giá
phát hành TPCQĐP phải trong hạn mức dư nợ vay và bội chi của ngân sách địa
phương theo quy định của pháp luật hiện hành về ngân sách nhà nước.
Hình thức phát hành: TPCQĐP được phát hành
theo 02 phương thức: (i) Đấu thầu tại Sở giao dịch chứng khoán; (ii) Bảo lãnh
phát hành. Sau khi phát hành, trái phiếu được đăng ký, lưu ký tại Trung tâm Lưu
ký chứng khoán và được niêm yết, giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo
yêu cầu của chủ thể phát hành. Nhà đầu tư mua TPCP chính quyền địa phương chủ
yếu là NHTM.
Việc thực hiện phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương cần đảm bảo việc vay phục vụ mục đích để
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương
theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, trường hợp vay thông qua phát hành
trái phiếu, Đề án phát hành trái phiếu phải được lập và thẩm định theo quy định
của Chính phủ về phát hành trái phiếu; Trị giá khoản vay, khoản phát hành trái
phiếu phải trong mức dư nợ vay và bội chi của ngân sách địa phương theo quy
định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh
- Khái niệm: Theo quy định của
Luật Ngân sách Nhà nước 2015 và Luật quản lý nợ công 2017, “trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh là công cụ nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách, của
Nhà nước phát hành và được Chính phủ bảo lãnh”. Trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh được phát hành nhằm mục đích đầu tư cho các dự án: (i) Chương trình dự
án được Quốc Hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư; (ii)
Chương trình dự án ứng dụng công nghệ cao; (iii) Chương trình dự án thuộc lĩnh
vực, địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu tư vì lợi ích lâu dài; (iv) Chương
trình tín dụng mục tiêu của Nhà nước. TPCPBL được phát hành theo 03 hình thức:
chứng chỉ, bút toán ghi sổ, dữ liệu điện tử.
- Điều kiện phát
hành: Việc
phát hành TPCPBL để đầu tư cho các dự án đáp ứng được điều kiện về thẩm quyền
quyết định chủ trương đầu tư; nợ quá hạn, hệ số nợ/vốn chủ sở hữu; về kết quả
kinh doanh; về tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu tham gia dự án; NHPT Việt Nam,
NHCSXH được Chính phủ cấp bảo lãnh phát hành trái phiếu để huy động vốn thực
hiện các chương trình tín dụng mục tiêu của Nhà nước.
- Hình thức phát
hành: Đối
với DN, việc phát hành TPCPBL tuân thủ quy định của pháp luật chứng khoán về
phát hành TPDN. Đối với các NH chính sách của Nhà nước, phát hành TPCPBL có thể
áp dụng hai hình thức: đấu thầu phát hành (tương tự đối với TPCP) và đại lý
phát hành.
Trái phiếu doanh
nghiệp
- Khái niệm: Trái phiếu doanh
nghiệp là trái phiếu do doanh nghiệp phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút
toán ghi nợ, DN có nghĩa vụ thanh toán cả gốc và lãi cho chủ sở hữu trái phiếu
khi đến kỳ hạn.
- Điều kiện phát
hành:
+ Về phát hành TPDN
ra công chúng: Theo Luật chứng khoán 2019, DN phát hành TPDN ra công chúng phải
đáp ứng các yêu cầu sau: (i) vốn điều lệ từ 30 tỷ đồng trở lên; (ii) hoạt động
kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi, đồng thời
không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán; không có các khoản nợ phải
trả quá hạn trên 1 năm; (iii) có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả
nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản
trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua; (iv) Có cam kết
thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành với nhà đầu tư về điều kiện phát hành,
thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện
khác; (v) Có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán TP ra công
chúng, trừ trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán; (vi) Tổ chức
phát hành không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hặc đã bị
kết án về một trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà chưa được xóa
án tích; (vii) Có kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với tổ chức phát hành TP theo
quy định của Chính phủ về các trường hợp phải xếp hạng tín nhiệm và thời điểm
áp dụng; (viii) Tổ chức phát hành phải mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua
trái phiếu của đợt chào bán; (ix) Tổ chức phát hành có cam kết và phải thực
hiện niêm yết trái phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán sau khi kết thúc
đợt chào bán (HNX và HSX).
+ Về phát hành TPDN
riêng lẻ: Theo Nghị định 153/2021/NĐ-CP (ngày 31/12/2020), Nghị định 65/2022 DN
phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ phải đáp ứng các điều kiện sau: (i)
là CTCP hoặc CT TNHH thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; (iii)
thanh toán đủ gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành hoặc thanh toán đủ các
khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu (nếu
có); (iii) đáp ứng các tỷ lệ về an toàn tài chính, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành; (iv) có phương án phát hành
trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận; (iv) có báo cáo tài
chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán
đủ điều kiện theo quy định; (v) đối tượng mua trái phiếu là nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật chứng khoán.
- Hình thức phát
hành: TPDN
được phát hành theo 02 phương thức: (i) phát hành ra công chúng; (ii) phát hành
riêng lẻ với các điều kiện chặt chẽ về vốn, hiệu quả kinh doanh, hồ sơ, xếp
hạng tín nhiệm, niêm yết trái phiếu…
1.3.2. Kết quả thực
hiện
Cho đến nay, tỉnh
Vĩnh Phúc vẫn đang duy trì được mức thặng dư ngân sách tương đối lớn, bình quân
giai đoạn 2016-2020 đạt 16% GRDP của tỉnh. Vĩnh Phúc hiện tự cân đối được ngân
sách và có điều tiết về Trung ương 33.561 tỷ đồng vào năm 2020 và là một các
tỉnh, thành có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương lớn nhất, lên đến 47%,
đứng thứ 2 ở miền Bắc sau thành phố Hà Nội và đứng thứ 5 cả nước sau TP. HCM,
Hà Nội, Bình Dương và Đồng Nai. Bắt đầu từ năm 2018, tỉnh bắt đầu vay vốn ngân
sách nhà nước với tổng vốn là 948,3 tỷ đồng trong giai đoạn 2018-2021, đến năm
2021, chiếm khoảng 1,4% tổng thu cân đối ngân sách của tỉnh. Tuy nhiên, do có
khả năng cân đối ngân sách nên nhu cầu vốn vay vào ngân sách chưa nhiều, do đó
với các thủ tục quy định nghiêm ngặt về việc phát hành trái phiếu chính quyền
địa phương, tỉnh Vĩnh Phúc chưa thực hiện vay vốn theo hình thức này. Tuy
nhiên, có thể cân nhắc đây là một kênh huy động vốn chính thống và tận dụng
nguồn lực từ người dân trên địa bàn trong dài hạn khi việc huy động nguồn lực
từ bên ngoài ngày càng trở lên khó khăn hơn.
Ngoài hình thức trái
phiếu chính quyền địa phương, hình thức huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có
giá còn hai hình thức nữa là trái phiếu được chính phủ bảo lãnh (TPCPBL); trái
phiếu doanh nghiệp (TPDN). Trong giai đoạn 2016-2021, Vĩnh Phúc chưa phát hành
TPCPBL. Thị trường TPDN đã bắt đầu hình thành từ năm 2000. Cùng với sự hoàn
thiện khung khổ pháp lý, thị trường TPDN phát triển mạnh trong giai đoạn 2011
đến nay, đặc biệt từ năm 2017 đến nay nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn phát
triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016-2021, chưa có DN nào
trên địa bàn Vĩnh Phúc phát hành TPDN, một phần do chưa đủ điều kiện (hầu hết
DN quy mô nhỏ, số lượng DN ít), một phần do việc tiếp cận vốn tín dụng trên địa
bàn khá thuận lợi cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh của DN.
1.4.
Chính sách ưu đãi đầu tư
1.4.1. Chính sách
thực hiện
Các văn bản quy phạm
pháp luật có các quy định về hỗ trợ liên quan đến vốn như sau:
Các văn bản Luật:
Luật đầu tư số
61/2020/QH14: Chương
III được ban hành ngày 17/06/2020 là chương quy định riêng cho chính sách ưu
đãi và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư nói chung được áp dụng trên cả nước. Theo
đó, Điều 15 quy định các hình thức ưu đãi đầu tư bao gồm (1) Ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp (bao gồm miễn thuế, giảm thuế, giãn thuế); (2) Miễn thuế nhập
khẩu; (3) Miễn, giảm tiền sử dụng đất, thuê đất, thuế sử dụng đất và (4) Áp
dụng mức khấu hao nhanh, tăng mức tính chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu
thuế. Điều 16 thuộc Luật này xác định đối tượng là ngành/nghề và địa bàn được
ưu đãi. Đối với nhóm ngành/nghề liên quan đến công nghệ, môi trường, giáo dục,
y tế… được xác định là nhóm ngành nghề được ưu đãi. Đối với địa bàn, dự án tại
các khu công nghiệp được ưu đãi đầu tư. Ngoài ra, đối với nhóm dự án như dự án
đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng 500 lao
động trở lên, dự án đầu tư tại địa bàn khó khăn, dự án sử dụng người lao động
là người khuyết tật, các dự án có công nghệ cao và thuộc danh mục công nghệ
khuyến khích chuyển giao. Riêng đối với lĩnh vực công nghệ, các hoạt động thuộc
vườn ươm, khởi nghiệp, các trung tâm đổi mới sáng tạo đều được ưu tiên hỗ trợ.
Việc áp dụng ưu đãi,
hỗ trợ còn có chính sách riêng cho các dự án đầu tư có tác động lớn đến phát
triển kinh tế - xã hội do Chính phủ quyết định và được áp dụng đối với các dự
án đầu tư thành lập mới (bao gồm cả việc mở rộng dự án thành lập mới đó) các
trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển có tổng vốn đầu
tư từ 3.000 tỷ đồng trở lên; Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu
tư có quy mô vốn đầu tư từ 30.000 tỷ đồng trở lên; Mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
đặc biệt: Mức ưu đãi và thời hạn áp dụng ưu đãi đặc biệt thực hiện theo quy
định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai. Hỗ trợ đầu tư
đặc biệt được thực hiện theo các hình thức quy định tại Khoản 1 Điều 18 của
Luật Đầu tư 2020.
Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14: Luật này quy định về nguyên tắc, nội dung,
nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và
cá nhân liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, các hỗ trợ được
quy định trong luật đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: (1) Hỗ trợ tiếp
cận tín dụng (hỗ trợ bảo lãnh tín dụng, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh
khả thi); (2) Áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp
hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; (3) Được bố trí quỹ đất phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất của địa phương, hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa
bàn. Ngoài ra, các hỗ trợ khác như hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ phát triển nguồn nhân
lực… Đối với việc chuyển đổi từ hộ kinh doanh nhỏ lẻ để thành lập các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, được hỗ trợ a) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục
thành lập doanh nghiệp; b) Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp
thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh
doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài
trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
lần đầu; c) Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ
kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp lần đầu; d) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy
định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; đ) Miễn, giảm tiền sử dụng
đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai.
Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp số 14/VBHN-VPQH ngày 15/7/2020: Chương III của Luật
quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, thuế suất
được áp dụng là 10% trong vòng 15 năm (thông thường là 22%) đối với doanh
nghiệp hoạt động tại các địa bàn khó khăn, trong khu kinh tế, khu công nghệ
cao, đặc biệt cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến khoa
học công nghệ, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành được hỗ trợ; áp dụng thuế
suất 10% đối với doanh nghiệp từ hoạt động lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường; hợp tác xã hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; Áp dụng thuế suất 15% đối
với thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực
nông nghiệp và thủy sản. Miễn thuế 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4
năm tiếp theo đối với thu nhập từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại Khoản
4 Điều 19 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính và thu
nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại Khu công nghiệp (trừ
Khu công nghiệp nằm trên địa bàn có điều kiện - kinh tế xã hội thuận lợi).
Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016: Chương IV của Luật
này quy định các điều khoản về miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế. Theo đó, Luật
xác định các danh mục hàng hóa được miễn thuế và theo danh mục hàng hóa miễn
thuế tại Nghị định số 134/2016/NĐ-CP , Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày
11/02/2021 sửa đổi bổ sung Nghị định 134.
Luật thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp số 48/2010/QH12 ngày 17/06/2010: Tại Chương 3 về miễn
thuế, giảm thuế, đất của các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích
đầu tư; dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn; đất của doanh nghiệp sử dụng trên 50% số lao động là
thương binh, bệnh binh.
Nghị định số
46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về các ưu đãi đối với tiền thuê đất. Theo đó doanh
nghiệp được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong thời gian xây dựng cơ bản
theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt tối đa không quá 03 năm kể từ ngày
có quyết định cho thuê đất, thuê mặt nước. Nghị định số 135/2016/NĐ-CP sửa đổi
Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước,
theo đó đối với các nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, CCN,
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao được miễn tiền thuê đất sau thời
gian xây dựng cơ bản từ 11 đến 15 năm đối với danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư
theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh những quy
định về ưu đãi, hỗ trợ trong Luật, việc thực hiện các chính sách ưu đãi sẽ
theo từng giai đoạn, phụ thuộc vào thực trạng kinh tế - xã hội, cụ thể như:
Nghị quyết số
35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020: Đặt nguyên tắc tạo
môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp để trở thành động lực
của nền kinh tế, Nhà nước cần có chính sách đặc thù để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và có tiềm năng
tăng trưởng cao phát triển.
Nghị quyết số
84/NQ-CP ngày 29/5/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và đảm bảo trật
tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19: Chính phủ đưa ra các
giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong bối cảnh chịu ảnh hưởng của
dịch COVID-19 như giảm 15% tiền thuê đất phải nộp của năm 2020 đối với doanh
nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp
theo Quyết định, Hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức trả
tiền thuê đất hằng năm; Giảm 2% lãi suất cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Nghị quyết số
43/2022/QH15 ngày 11 tháng 01 năm 2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ
chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh ảnh
hưởng tiêu cực từ dịch COVID-19 đến nền kinh tế, các biện pháp nhằm hỗ trợ phục
hồi tăng trưởng kinh tế đã thực hiện. Nghị quyết đặt mục tiêu tiết giảm chi
phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế và người dân, trong đó thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế:
Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng trong năm 2022, áp dụng đối với các
nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 10%
(còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, công nghệ thông
tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động
sản, kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể
khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất, sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cụ thể hóa Nghị quyết
43, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ
quy định chi tiết các nội dung hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh. a) Miễn, giảm thuế, phí, lệ phí: Trong năm 2022, các nhóm hàng hóa,
dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 10% được giảm 2% thuế
suất (còn 8%) đối với cơ sở kinh doanh tính thuế giá trị gia tăng theo phương
pháp khấu trừ và giảm 20% mức tỷ lệ phần trăm khi thực hiện xuất hóa đơn đối
với cơ sở kinh doanh, hộ, cá nhân kinh doanh tính thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ
sau: viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc
sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế,
sản phẩm hoá chất, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
Giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay theo Nghị quyết số 13/2021/UBTVQH15
ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Tính vào chi phí được
trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng
hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch
COVID-19 tại Việt Nam cho kỳ tính thuế năm 2022; Giảm 30% tiền thuê đất, thuê
mặt nước của năm 2022 đối với tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá
nhân đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo Quyết định hoặc Hợp đồng
hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hình thức thuê đất trả
tiền hằng năm phải ngừng sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch COVID-19; Áp
dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu theo Nghị định số
101/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2021 và các văn bản có liên quan; Giảm 50%
lệ phí trước bạ khi đăng ký ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước theo Nghị
định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 11 năm 2021; Tiếp tục rà soát, giảm các
loại phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi
dịch COVID-19; b) Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và tiền thuê đất
trong năm 2022; c) Hỗ trợ lãi suất 2%/năm trong 2 năm 2022 - 2023 thông qua hệ
thống các ngân hàng thương mại đối với các khoản vay thương mại cho doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi
trong các ngành, lĩnh vực: hàng không, vận tải kho bãi; du lịch, dịch vụ lưu
trú, ăn uống, giáo dục và đào tạo; nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; công
nghiệp chế biến, chế tạo (đã bao gồm máy móc, trang thiết bị, thuốc, hoá dược,
dược liệu); xuất bản phần mềm; lập trình máy vi tính và hoạt động liên quan;
hoạt động dịch vụ thông tin; cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã
hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua.
Quyết định số
29/2021/QĐ-TTg ngày 6/10/2021 về quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt, quy định rõ các đối
tượng đầu tư được hưởng ưu đãi đặc biệt bao gồm Thuế suất ưu đãi 9% trong thời
gian 30 năm áp dụng đối với thu nhập của tổ chức kinh tế từ thực hiện dự án đầu
tư thuộc đối tượng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 20 Luật Đầu tư; hưởng thuế
suất thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 7% trong thời gian 33 năm đối với các dự án
là dự án công nghệ cao mức 1; có doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi mức 1;
Giá trị gia tăng chiếm từ trên 30% đến 40% trong giá thành toàn bộ của sản phẩm
đầu ra cuối cùng do tổ chức kinh tế cung cấp;Đáp ứng tiêu chí chuyển giao công
nghệ mức 1; có thể được hưởng mức thuế suất 5% trong 37 năm đối với dự án trung
tâm đổi mới sáng tạo quốc gia theo quyết định Chính Phủ, dự án Là dự án công
nghệ cao mức 2; Có doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi mức 2; Giá trị gia tăng
chiếm trên 40% trong giá thành toàn bộ của sản phẩm đầu ra cuối cùng mà tổ chức
kinh tế cung cấp; Đáp ứng tiêu chí chuyển giao công nghệ mức 2 có thể. Ngoài ra
còn tiếp tục được giảm thuế sau thời gian này.
Nghị định
31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước
đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh làm rõ hơn quy
trình, thủ tục để doanh nghiệp được hưởng hỗ trợ về lãi suất.
Nghị định số
32/2022/NĐ-CP ngày 21/5/2022 về gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước.
Nghị định số
34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 về việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong
năm 2022.
Ngoài ra, doanh
nghiệp còn được vay vốn hỗ trợ để trả lương cho người lao động theo các chính
sách hỗ trợ người sử dụng lao động, doanh nghiệp do chịu ảnh hưởng của dịch
COVID-19 được hướng dẫn cụ thể tại các văn bản của Ngân hàng Chính sách Xã hội.
Chính sách ưu đãi
của địa phương
Ngoài các chính sách
ưu đãi chung theo quy định của nhà nước, Tỉnh Vĩnh Phúc có các chính sách ưu
đãi đầu tư được quy định tại các văn bản:
Nghị quyết số
60/NQ-HĐND ngày 19/7/2012 của Hội đồng Nhân dân tỉnh về thông qua Chương trình
cải cách hành chính tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2012 - 2020;
Nghị quyết số
159/2014/NQ-HĐND ngày 22/12/2014 của HĐND tỉnh về việc hỗ trợ dự án nhà ở xã
hội cho công nhân và người có thu nhập thấp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2015-2020;
Nghị quyết số
207/2015/NQ-HĐND ngày 22/12/2015 của Hội đồng Nhân dân tỉnh và Quyết định số
18/2016/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của Uỷ ban nhân dân dân tỉnh về một số cơ chế
chính sách hỗ trợ hoạt động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2020;
Nghị quyết số
45/2016/NQ-HĐND ngày 24/9/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc hỗ
trợ đặc thù cho các hộ gia đình, cá nhân khu Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để thực hiện quy hoạch xây dựng các Khu đô thị du lịch, dịch vụ chất lượng cao
tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2016-2021;
Nghị quyết số
57/2016/NQ-HĐND ngày 12/12/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về một số
biện pháp đặc thù thu hút đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc;
Nghị quyết số
42/2018/NQ-HĐND ngày 18/12/2018 về việc sửa đổi, bổ sung điều 1, Nghị quyết số
207/2015/NQ-HĐND ngày 22/12/2015 của Hội đồng Nhân dân tỉnh và Quyết định số
18/2016/QĐ-UBND ngày 31/3/2016 của Uỷ ban nhân dân dân tỉnh về một số cơ chế
chính sách hỗ trợ hoạt động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2020;
Nghị quyết số
50/2018/NQ-HĐND ngày 18/12/2018 của HĐND tỉnh về việc hỗ trợ đầu tư, phát triển
cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2019-2021;
Nghị quyết số
87/2019/NQ-HĐND ngày 11/12/2019 của HĐND về chính sách đặc thù khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2020-2025.
Các văn bản do Cục
Thuế tỉnh Vĩnh Phúc ban hành hướng dẫn các Phòng, các chi cục Thuế triển khai
thực hiện theo công văn hướng dẫn của Tổng cục Thuế.
Tỉnh có chính sách
bàn giao mặt bằng sạch cho các dự án mang tính ưu tiên khuyến khích đầu tư gồm:
Dự án Giáo dục- đào tạo, dạy nghề; Y tế; Thể thao; Xử lý môi trường;
Phối hợp cùng doanh
nghiệp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình hình
thành dự án cũng như trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Tiếp nhận phản
ánh kiến nghị, chỉ đạo giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh
nghiệp bằng việc thiết lập, duy trì hoạt động Cổng thông tin đối thoại Doanh
nghiệp - Chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc http://doithoaidoanhnghiep.vinhphuc.gov.vn
(Kể từ khi nhận được câu hỏi, kiến nghị phản ánh của doanh nghiệp các cơ quan
của tỉnh có trách nhiệm trả lời doanh nghiệp sau thời gian không quá 05 ngày
làm việc);
Về thủ tục hành
chính: được công khai về quy trình, thành phần hồ sơ, mẫu biểu và được giám sát
giải quyết theo cơ chế một cửa liên thông tại Trung tâm phục vụ Hành chính công
tỉnh Vĩnh Phúc. Nhà đầu tư nộp hồ sơ và nhận kết quả giải quyết thủ tục hành
chính về đầu tư tại Trung tâm phục vụ Hành chính công tỉnh Vĩnh Phúc với thời
gian giảm từ 1/3 đến một nửa so quy định chung của Việt Nam.
1.4.2. Công tác phổ
biến chính sách tới dân cư:
Ngay sau khi có văn
bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, ngành Thuế đã đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến, hướng dẫn người nộp thuế các cơ chế, chính sách ưu đãi và quy
trình, thủ tục để hưởng ưu đãi bằng nhiều hình thức như gửi email, đăng tin bài
trên website của Cục Thuế Vĩnh Phúc, các nền tảng mạng xã hội như Facebook,
Youtube, Zalo.
Đồng thời, bố trí cán
bộ hướng dẫn người nộp thuế trực tiếp tại bộ phận một cửa của cơ quan thuế, trả
lời vướng mắc của người nộp thuế bằng văn bản và qua mục Hỏi đáp trên hệ thống
Dịch vụ thuế điện tử (e Tax) để người nộp thuế xác định đúng các nhóm hàng hóa
được giảm thuế, hướng dẫn cách lập hóa đơn và kê khai thuế giá trị gia tăng
theo đúng quy định.
Thường xuyên chỉ đạo,
giao nhiệm vụ cụ thể cho các phòng, các Chi cục Thuế trong việc tuyên truyền,
phổ biến để người nộp thuế kịp thời nắm bắt được chính sách của Nhà nước, hướng
dẫn người nộp thuế thực hiện thủ tục, tiếp nhận và xử lý đề nghị gia hạn thời
hạn nộp thuế của người nộp thuế, đảm bảo 100% đề nghị gia hạn được xử lý kịp
thời, đúng đối tượng, thẩm quyền và đúng quy trình thủ tục.
Đẩy mạnh cải cách,
đơn giản các thủ tục hành chính thuế trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin,
chuyển đổi số để đảm bảo công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
doanh nghiệp, người nộp thuế trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính,
nhất là các thủ tục nhận ưu đãi, hỗ trợ.
1.4.3. Kết quả thực
hiện chính sách ưu đãi tại địa phương
Tại địa phương, tỉnh
Vĩnh Phúc đã bám sát các chính sách ưu đãi của cả nước, cụ thể, Vĩnh Phúc đã áp
dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) với mức 10% trong thời hạn 15
năm đối với các doanh nghiệp (DN) công nghệ cao và với những khoản thuế TNDN từ
thực hiện dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; sản xuất sản phẩm phần mềm; sản xuất vật liệu composit, các loại vật
liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng
sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; phát triển công nghệ sinh học; sản
xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi
trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom chất thải rắn, xử lý nước
thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải cũng như các
khoản thu nhập từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có quy mô
vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 3 năm kể từ
khi được cấp phép đầu tư và có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10 nghìn tỷ
đồng/năm chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu; hoặc dự án có quy mô vốn
đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng; thực hiện giải ngân không quá 3 năm kể từ khi
được cấp phép đầu tư và sử dụng trên 3.000 lao động chậm nhất sau 3 năm kể từ
năm có doanh thu.
Đồng thời, Vĩnh Phúc
cũng áp dụng mức thuế suất thuế TNDN 20% trong thời gian 10 năm áp dụng đối với
các khoản thuế TNDN từ thực hiện dự án đầu tư mới trong sản xuất thép cao cấp;
sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; Sản xuất thiết bị tưới tiêu; Sản xuất, tinh chế
thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản; Phát triển ngành nghề truyền thống. Đối với
các DN còn lại, áp dụng mức thuế suất thuế TNDN khoảng 22%; áp dụng chế độ miễn
thuế, giảm thuế TNDN từ 2 đến 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp từ 4 đến 9 năm
tiếp theo đối với thu nhập của DN tùy theo ngành nghề dự án đăng ký đầu tư.
Để thúc đẩy việc xuất
nhập khẩu hàng hóa của các DN trong các KCN, Vĩnh Phúc đã áp dụng hình thức
miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án
đầu tư (từ thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền
công nghệ trong nước chưa sản xuất được; linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ
tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ với thiết bị, máy
móc, nguyên liệu, vật tư trong nước chưa sản xuất được dùng để chế tạo thiết
bị, máy móc nằm trong dây chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết,
bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ
với thiết bị, máy móc, vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được…
Ngoài việc được ưu
đãi về thuế như trên, tỉnh Vĩnh Phúc cũng áp dụng một số ưu đãi khác như: Miễn,
giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước. Cụ thể, Tỉnh miễn tiền thuê đất, thuê mặt
nước cho cả thời hạn thuê đối với đất xây dựng kết cấu hạ tầng sử dụng chung
trong KCN theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của
pháp luật, miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong thời gian xây dựng cơ bản
theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt (không quá 3 năm kể từ ngày có
quyết định cho thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật), miễn tiền
thuê đất, thuê mặt nước 11 năm sau thời gian được miễn tiền thuê đất, thuê mặt
nước của thời gian xây dựng cơ bản nêu trên; áp dụng chính sách hỗ trợ giải
phóng mặt bằng với mức không quá 15% theo phương án bồi thường, 100% kinh phí
trường hợp cưỡng chế. Đối với các dự án FDI vào lĩnh vực xã hội như: Giáo dục,
y tế, văn hóa… Vĩnh Phúc sử dụng ngân sách để hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt
bằng. Các dự án đầu tư trong nước sau khi có ý kiến chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ, Vĩnh Phúc cũng hỗ trợ chi phí lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư trực
tiếp thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư trên địa bàn như: Công nghiệp hỗ trợ
cho các ngành sản xuất ôtô, xe máy, điện tử, viễn thông; nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao; kinh doanh du lịch với các loại hình sinh thái, văn hóa, nghỉ
dưỡng chất lượng cao... Tỉnh cũng đã dành ngân sách hỗ trợ hoặc hỗ trợ một phần
để xây dựng một số hạng mục đầu tư trong các KCN, đặc biệt là chi phí giải
phóng mặt bằng trong việc xây dựng các KCN; hỗ trợ các KCN giải quyết nhà ở cho
công nhân trong KCN.
Cùng với việc triển
khai các ưu đãi trên, Vĩnh Phúc đã hỗ trợ các KCN thực hiện việc đào tạo và
cung cấp thông tin lao động phục vụ các KCN; hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân ở
các vùng bị lấy đất để xây dựng các KCN. Hàng năm, Vĩnh Phúc đều đầu tư một lượng
ngân sách khá lớn để đặt hàng các cơ sở đào tạo hoặc hỗ trợ họ trong quá trình
tổ chức đào tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của các doanh
nghiệp trong các KCN.
Tỉnh thực hiện các cơ
chế chính sách hỗ trợ cho các đơn vị kinh doanh hạ tầng thực hiện hoạt động đầu
tư xây dựng, kinh doanh khai thác hạ tầng cụm công nghiệp trên địa bàn. Theo
đó, các doanh nghiệp được hỗ trợ 100% kinh phí lập, thẩm định báo cáo đánh giá
tác động môi trường dự án đầu tư hạ tầng CCN; lập dự án đầu tư hạ tầng kỹ
thuật, rà phá bom mìn trong CCN, đồng thời hỗ trợ 700 triệu đồng/ha vốn thực
hiện bồi thường giải pháp mặt bằng (không quá 20 tỷ đồng/CCN), hỗ trợ 30% kinh
phí đầu tư xây dựng hệ thống điện phục vụ CCN theo đơn giá quy định của Nhà
nước; hỗ trợ 30$% kinh phí xây dựng Nhà điều hành, quản lý CCN; hỗ trợ 10% giá
thuê mặt bằng cho DN vừa và nhỏ được đầu tư 100% vốn của doanh nghiệp trong
nước đầu tư CCN.
Trong bối cảnh chịu
ảnh hưởng tiêu cực từ COVID-19, các chính sách ưu đãi trở thành công cụ quan
trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất. Toàn tỉnh
đã có gần 650 doanh nghiệp được hưởng chính sách gia hạn thời gian nộp thuế giá
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê
đất, với tổng số tiền được gia hạn đến tháng 10/2022 đạt trên 3.000 tỷ đồng.
Toàn tỉnh có gần 3.700 doanh nghiệp nộp thuế được kê khai giảm thuế giá trị gia
tăng với tổng số tiền giảm hơn 1.000 tỷ đồng; hơn 700 hộ kinh doanh cá nhân
được giảm tổng số tiền thuế giá trị gia tăng hơn 1,4 tỷ đồng; gần 4.700 xe ô tô
lắp ráp trong nước được giảm 50% phí trước bạ, tổng
số tiền giảm hơn 145 tỷ đồng… Các chính sách ưu đãi về thuế, lệ phí trên địa
bàn tỉnh được triển khai đầy đủ, kịp thời, hiệu quả, đúng đối tượng thụ hưởng,
góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh khắc phục khó khăn, phục
hồi sản xuất.
Thực hiện
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về việc giảm thuế giá trị gia tăng, tính
đến tháng 6/2022, tổng số thuế giảm đạt 826.724 triệu đồng.
Đối việc
thực hiện Nghị định số 32/2022/NĐ-CP ngày 21/5/2022, trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc có hai công ty là Công ty Honda Việt Nam và Công ty TNHH Toyota Việt Nam
sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước đã thực hiện đúng hướng dẫn và được gia hạn
448.795 triệu đồng. Đối với Nghị định 34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022, tính đến
ngày 20/7/2022, cục Thuế và các chi cục Thuế đã tiếp 243 giấy đề nghị gia hạn
được tiếp nhận và xử lý.
Về cơ
bản, tỉnh Vĩnh Phúc đã tận dụng tối đa các chính sách ưu đãi từ Trung ương và
chủ động trong việc xây dựng các chính sách hỗ trợ cũng như phổ biến các chính
sách đến người dân. Kết quả thực hiện cho thấy các doanh nghiệp đều được hưởng
những ưu đãi theo đúng quy định của nhà nước.
1.5. Đối với công cụ (kênh) PPP
1.5.1.
Thực trạng chính sách hiện hành
a. Chính
sách do cấp trung ương ban hành
Theo Luật số 64/2020/QH14 ngày 18/6/2020,
đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) là phương thức đầu tư được thực
hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông
qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân
tham gia dự án PPP. Các dự án PPP nhằm đầu tư để cung cấp sản phẩm, dịch vụ
công thông qua việc thực hiện một hoặc các hoạt động sau đây: a) Xây dựng, vận
hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng; b) Cải tạo, nâng cấp, mở
rộng, hiện đại hóa, vận hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn
có; c) Vận hành, kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có. Có 07
loại hợp đồng dự án PPP được quy định theo Luật số 64/2020/QH14.
Chính phủ đã triển khai nhiều nhóm giải
pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, các hình
thức đầu tư; đẩy mạnh đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP) để huy
động tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển KT-XH. Từ 2015 đến nay, nhóm chính
sách trực tiếp điều chỉnh các dự án PPP được chia thành 03 giai đoạn.
Giai đoạn
2015 đến 2018: Quy định về PPP được thống nhất tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, đồng thời bổ sung phù
hợp với tình trạng, hoàn cảnh của Việt Nam. Tiếp đó, ngày 17/3/2015, Nghị định
30/2015/NĐ-CP được ban hành, quy định chi tiết thi hành Luật Đấu thầu 2013 về
lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án PPP. Để cụ thể hóa hoạt động PPP trong các
lĩnh vực chuyên ngành, các Bộ/ngành đã ban hành các Thông tư hướng dẫn như: Bộ
Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và
Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính.
Giai đoạn
2018-2020: Khung pháp lý về PPP được quy định tại Nghị định số 63/2018/NĐ-CP
ngày 04/5/2018, thay thế Nghị định số 15/2015/NĐ-CP , nhằm khắc phục tối đa các
tồn tại, hạn chế, các rào cản ở cấp Nghị định, cũng như rà soát, sửa đổi, bổ
sung nhiều quy định về: lĩnh vực đầu tư, hợp đồng dự án, tăng cường việc phân
cấp, yêu cầu về vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư, yêu cầu về thời điểm chuyển
nhượng dự án; yêu cầu lấy ý kiến cộng đồng về tác động dự án…
Từ năm
2021 đến nay: Các Nghị định liên quan đến PPP đã được bãi bỏ và mọi hoạt động
về PPP được quy định tại Luật số 64/2020/QH14 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021.
Đây là khung pháp lý cao nhất về hoạt động PPP từ trước đến nay, nhằm giải
quyết các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn, triển khai PPP thời gian qua. Để cụ
thể hóa các quy định trong Luật PPP, các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật được
ban hành như Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021; Nghị định số
29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021; Nghị định số 28/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021. Mặt khác,
các Bộ/ngành cũng đang hoàn thiện và ban hành các Thông tư hướng dẫn chuyên
ngành để phù hợp với những thay đổi mới trong Luật PPP.
Hình 1. Khung pháp lý về PPP theo Luật PPP số 64/2020/QH14
Nguồn: Vũ Quỳnh Lê (2021).
Bên cạnh
pháp luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp PPP, các dự án PPP còn chịu sự điều
chỉnh của một số pháp luật chuyên ngành khác như: pháp luật về đất đai và pháp
luật về xây dựng. Ngoài ra, một hệ thống các quy định hỗ trợ đầu tư theo PPP
hoặc xã hội hóa đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể cũng đã được xây dựng và
ban hành như: lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường; lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn; lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn; lĩnh vực thoát nước, xử lý
nước thải; lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế...
b. Chính
sách do cấp tỉnh ban hành
- Ngoài
các quy định hiện hành chung của trung ương điều chỉnh hoạt động PPP (cụ thể là
Luật PPP và các Nghị định hướng dẫn Luật), hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc không có quy
định hướng dẫn chi tiết nào khác do cấp tỉnh ban hành (theo quy định về phân
cấp, phân quyền), nhằm quản lý và thực thi các dự án PPP trên địa bàn tỉnh.
- Tuy
nhiên, hàng năm tỉnh vẫn ban hành một số chính sách liên quan tới hoạt động PPP
trên địa bàn tỉnh gồm: Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư[13] và chương trình xúc tiến
đầu tư, nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch các dự án PPP trên địa bàn
tỉnh; ban hành danh mục các thủ tục hành chính, dịch vụ công liên quan đến PPP
được thực hiện trực tuyến trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc[14] gồm thủ tục thẩm định các
dự án PPP ở mức dịch vụ công cấp độ 4.
c. Công
tác phổ biến chính sách tới dân cư
Hiện chưa
có công tác phổ biến chính sách về hoạt động PPP tới khu vực dân cư, chủ yếu do
đối tượng là các doanh nghiệp đủ điều kiện hoạt động và tham gia góp vốn đầu
tư.
1.5.2.
Thực trạng huy động vốn
Kể từ khi
Luật số 64/2020/QH14 về đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) có
hiệu lực thi hành từ 01/01/2021, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc chưa có dự án nào
được triển khai thực hiện theo quy định của Luật PPP.
1.5.3.
Đánh giá chung
- Trong
giai đoạn mới kể từ khi Luật số 64/2020/QH14 về đầu tư theo phương thức đối tác
công tư và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật được ban hành và có hiệu lực,
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, vẫn chưa có dự án phù hợp nào được triển khai thực
hiện[15].
Lý do là bởi chưa có dự án đề xuất nào phù hợp với quy định tại Điều 4 Luật PPP
(quy định về lĩnh vực đầu tư, quy mô và phân loại dự án PPP); đồng
thời chưa nhận được đề xuất dự án đầu tư theo phương thức PPP của các nhà đầu
tư.
- Đối với
giai đoạn trước, lĩnh vực đầu tư theo phương thức đối tác công tư trên địa bàn
tỉnh còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung cho cơ sở hạ tầng giao thông và chủ yếu
là các dự án PPP sử dụng nguồn vốn trong nước. Đối với lĩnh vực về an sinh xã
hội, các dự án PPP chưa thu hút được sự tham gia tích cực từ các nguồn vốn đầu
tư trong nước và có quy mô rất nhỏ so với các dự án sử dụng nguồn vốn vay nước
ngoài ODA.
c. Nguyên
nhân
- Thực tế
đối với việc đầu tư theo phương thức PPP ở các địa phương, trong đó có tỉnh
Vĩnh Phúc, hầu hết các dự án theo hình thức BT. Tuy nhiên, theo quy định hiện
hành của Luật PPP và các Nghị định hướng dẫn Luật, không còn quy định về hình
thức đầu tư này nữa. Do đó, việc tiếp cận và triển khai các dự án theo quy định
của Luật PPP ở địa phương gặp khó khăn và lúng túng, trong khi các quy định mới
của trung ương về PPP mới được ban hành và có hiệu lực.
2. Thực trạng sử dụng có hiệu quả vốn từ khu vực ngoài nhà nước
2.1. Thực trạng sử dụng vốn xã hội hóa (giáo dục đào tạo, y tế và
văn hóa)
Về giáo
dục, việc triển khai thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục đã góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học. Vĩnh Phúc là 1 trong 4 tỉnh đạt phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi đầu tiên trong cả nước vào năm 2012. Đến nay, 100% các xã
và các huyện, thành phố duy trì, giữ vững các điều kiện, tiêu chuẩn về phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi theo quy định của Bộ GD&ĐT. Trong 5 năm
gần đây, chất lượng giáo dục đại trà của tỉnh Vĩnh Phúc được xếp ở vị trí cao
so với cả nước. Giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng định là thế mạnh, là
thương hiệu của Vĩnh Phúc.
Triển
khai thực hiện công tác xã hội hóa cũng góp phần giảm tải cho các đơn vị công
lập, góp phần cung cấp dịch vụ dạy và học chất lượng hơn. Tuy vậy, số lượng
trường ngoài công lập tại Vĩnh Phúc còn ít, chỉ có 1 trường THPT với 6 lớp và
182 học sinh, bình quân 30,3 học sinh/lớp (trong khi đó con số này ở các trường
công là 39,4 học sinh/lớp). Tình trạng quá tải vẫn tiếp tục diễn ra. Số lượng
học sinh bình quân trên 1 lớp của Vĩnh Phúc ở hai cấp tiểu học và THCS lần lượt
là 34,1 và 39 học sinh/lớp, cao hơn so với mức bình quân 31,3 và 37,4 học
sinh/lớp của cả nước.
Hình. Số lượng học sinh bình quân 1 lớp các cấp tỉnh Vĩnh Phúc
Nguồn: Tổng hợp từ GSO, Đề án Phát triển giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030
Bên cạnh
đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị đã được tăng cường song chưa đáp ứng được
yêu cầu, đặt ra vấn đề cần phải tập trung đầu tư cho ngành giáo dục, trong đó
bao gồm việc thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội hóa.
Về y tế,
việc thực hiện xã hội hóa đã góp phần gia tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế
chất lượng cho người dân, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Số
giường bệnh tư nhân là 230 giường, đạt tỷ lệ 1,9 giường bệnh/1 vạn dân, nhưng
vẫn thấp hơn so với tỷ lệ 2,8 giường bệnh/1 vạn dân của cả nước.
Tuy
nhiên, tại các cơ sở y tế công lập do ngành y tế quản lý, số giường bệnh thực
tế năm 2021 cao hơn số giường bệnh kế hoạch là 27,9%; Có thể thấy, có sự chênh
lệch lớn giữa giường bệnh thực kê và giường bệnh kế hoạch, dẫn tới không đảm
bảo về cơ sở vật chất, điều kiện chăm sóc cho người bệnh, tăng nguy cơ lây chéo
giữa các bệnh nhân. Điều này cũng cho thấy, nhu cầu khám chữa bệnh của người
dân luôn rất cao, đặt ra yêu cầu về việc đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị
nhằm đảm bảo điều kiện chăm sóc sức khỏe cho người dân.Trong khi đó, cơ sở vật
chất các đơn vị y tế chưa đồng bộ, nhiều đơn vị được đầu tư từ lâu đã xuống
cấp, cần được nâng cấp, sửa chữa. Trang thiết bị tuy đã được đầu tư nhưng còn
thiếu rất nhiều so với yêu cầu phát triển chuyên môn kỹ thuật và định mức theo
quy định của Bộ Y tế và UBND tỉnh.
Về văn
hóa, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã nhận được sự
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự
hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân. Nhiều giá trị văn hóa dân tộc, di
tích, di sản được bảo tồn, phát huy, đời sống vật chất, tinh thần của người dân
được nâng cao rõ rệt, bộ mặt nông thôn mới có nhiều khởi sắc. Thể thao quần
chúng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Thể thao thành tích cao có
những bước tiến bền vững, một số môn khẳng định được thương hiệu và đứng trong
top đầu quốc gia, góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh tỉnh Vĩnh Phúc năng
động, phát triển tới bạn bè trong, ngoài tỉnh, cũng như khách quốc tế.
2.2. Đánh giá hiệu quả Nguồn lực trong dân đầu tư vào sản xuất kinh
doanh
Xem xét
ICOR theo loại hình kinh tế cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của khu vực kinh tế
ngoài nhà nước bị ảnh hưởng rõ rệt bởi đại dịch Covid-19. Theo đó, ICOR của khu
vực kinh tế ngoài nhà nước là 233,85 vào năm 2020, trung bình cả giai đoạn
2016-2020 cũng chỉ đạt 14,74. Có thể thấy, trong năm 2020 quy mô vốn của khu
vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn đạt 13,563 nghìn tỷ đồng (theo giá so sánh
2010), trong khi GRDP theo giá so sánh 2010 chỉ tăng khoảng 58 nghìn tỷ đồng.
Hình 8: ICOR phân theo loại hình kinh tế
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Quy mô
vốn sản xuất bình quân trang bị cho một lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước là lớn nhất so với các khu vực doanh nghiệp còn lại. Cụ thể, đến năm 2020,
quy mô vốn sản xuất kinh doanh bình quân một lao động trong khu vực doanh
nghiệp nhà nước đạt 1.909 triệu đồng/lao động; trong khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước là 2.154 triệu đồng/lao động; trong khu vực doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài chỉ là 1.317 triệu đồng/lao động (thấp hơn mức bình quân chung
của cả tỉnh là 1.614 triệu đồng/lao động). Tốc độ tăng trưởng bình quân quy mô
vốn sản xuất kinh doanh trên một lao động của từng khu vực này lần lượt là
17,5%/năm; 20,3%/năm; 3,8%/năm. Đến năm 2020, quy mô tài sản cố định và đầu tư
tài chính dài hạn bình quân một lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt
1.902 triệu đồng/lao động, cao gấp ba lần so với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
nước (đạt 641 triệu đồng/lao động) và gấp 3,7 lần so với khu vực doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp nước ngoài (đạt 493 triệu đồng/lao động). Tốc độ tăng bình
quân quy mô tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn trên một lao động của
từng khu vực này lần lượt là 22,4%/năm; 20,7%/năm; 4,6%/năm. Đến năm 2020, quy
mô trang bị TSCĐ trên một lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt
1.706 triệu đồng/lao động; trong khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 262
triệu đồng/lao động; trong khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài là
361 triệu đồng/lao động. Tốc độ tăng trưởng bình quân quy mô trang bị TSCĐ trên
một lao động của từng khu vực này trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là
19,8%/năm; 0,9%/năm; -1,7%/năm.
Tuy
nhiên, sự đóng góp tích cực vào kết quả kinh doanh chung của doanh nghiệp toàn
tỉnh chủ yếu đến từ khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong khi
sự đóng góp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước còn rất hạn chế.
Cụ thể, lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đến năm
2020 lỗ hơn 300 tỷ đồng; của khu vực doanh nghiệp nhà nước lãi hơn 28 tỷ đồng;
trong khi của khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài lãi hơn 31.451
tỷ đồng. Nếu so sánh lợi nhuận trước thuế bình quân trên một lao động, đến năm
2020, khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt 16 triệu đồng/lao động; trong khi đó
khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt quy mô 222 triệu đồng/lao
động, cao gấp 13,63 lần. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng là một tiêu chí
phản ánh sự thiếu hiệu quả trong kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực doanh
nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước so với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cụ thể, đến năm 2020, tỷ suất này của khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài đạt 9,15%, cao hơn mức bình quân của toàn tỉnh là 6,65%; của khu vực
nhà nước là 4,22%; của khu vực ngoài nhà nước là -0,24%. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng tỷ suất này của khu vực doanh nghiệp nói chung và khu vực doanh nghiệp đầu
tư trực tiếp nước ngoài nói riêng trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm dần, cho
thấy sự giảm dần về mức độ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ kết quả
kinh doanh tích cực, thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong khu
vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là lớn nhất so với các khu
vực doanh nghiệp còn lại. Cụ thể, đến năm 2020, thu nhập bình quân một tháng
của người lao động trong khu vực doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
9.669 nghìn đồng, cao gấp 1,62 lần so với năm 2015; trong khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước là 7.062 nghìn đồng; trong khu vực doanh nghiệp nhà nước là
5.940 nghìn đồng.
Đánh giá
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp qua chỉ số ROA (tỷ số lợi nhuận ròng trên
tài sản, tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu,
cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty,
hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA, ROA
càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu
tư ít hơn) cho thấy doanh nghiệp ngoài nhà nước có hệ số ROA âm kể từ năm 2015
trở lại đây nếu tính toán trên Dữ liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm. Hệ số
ROA của khu vực này là âm 2,93 trong năm 2015 và tiếp tục duy trì mức âm trong
thời gian dài trong khi khu vực doanh nghiệp FDI cho thấy tỷ số lợi nhuận ròng
trên tài sản là rất lớn và cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp.
Bảng 9: ROA phân theo loại hình doanh nghiệp
Năm
|
DNNN
|
DNNNN
|
DNFDI
|
2011
|
3,08
|
1,52
|
6,10
|
2012
|
-0,49
|
1,50
|
4,76
|
2013
|
1,44
|
1,85
|
5,06
|
2014
|
2,15
|
1,89
|
3,70
|
2015
|
2,44
|
-2,93
|
8,59
|
2016
|
1,59
|
-0,16
|
7,25
|
2017
|
2,37
|
-0,84
|
8,54
|
2018
|
0,09
|
-0,93
|
1,99
|
2019
|
1,45
|
-0,78
|
5,33
|
2020
|
1,47
|
-0,72
|
5,67
|
Nguồn:
Điều tra doanh nghiệp của GSO
Nếu phân theo ngành
kinh tế, có thể thấy quy mô đầu tư cho các ngành kinh tế không tương xứng với
hiệu quả kinh tế mà các ngành này tạo ra. Cụ thể, quy mô tài sản cố định bình
quân trên một lao động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đến năm 2020
là 340 triệu đồng/lao động; ngành vận tải, kho bãi là 321 triệu đồng/lao động;
ngành bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác là 221
triệu đồng/lao động. Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho tài sản cố định và tài
chính dài hạn cho hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ còn hạn chế, chỉ
đạt 78 triệu đồng/lao động (năm 2020), thấp hơn 4,4 lần so với ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo và thậm chí thấp hơn ngành dịch vụ ăn lưu trú và ăn uống
4,9 lần. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2015-2020, chỉ có ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo là có lợi nhuận dương, trong khi đó các ngành kinh tế còn lại đều
chịu lỗ. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế bình quân trên một lao động trong ngành
công nghệ chế biến, chế tạo đến năm 2020 đạt 182 triệu đồng/lao động, giảm so
với năm 2015 và chỉ bằng 0,7 lần (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm tương
ứng từ 14,7% còn 8,25%). Trong khi đó, hoạt động bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô
tô, xe máy và xe có động cơ khác chịu mức lỗ trước thuế trên một lao động là
lớn nhất, đạt -48 triệu đồng/lao động (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm
tương ứng từ 0,5% xuống còn -1,03%). Mặc dù có mức tỷ suất lợi nhuận trên doanh
thu là thấp nhất so với các ngành kinh tế (đến năm 2019), những ngành hoạt động
chuyên môn, khoa học và công nghệ lại có mức thu nhập bình quân một tháng của
người lao động là cao nhất, đạt 10.146 nghìn đồng, gấp 2,5 lần so với năm 2015;
tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9.294 nghìn đồng, gấp 1,9 lần
so với năm 2015; ngành xây dựng là 8.909 nghìn đồng, gấp 2,2 lần so với năm
2015.
III.
Đánh giá chung
Tỉnh Vĩnh Phúc là một
trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ kết nối
thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Tây Bắc, với hệ thống hạ tầng giao thông liên
vùng hoàn chỉnh, Vĩnh Phúc có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp như những
tỉnh thành khác trong vùng ĐBSH. Tận dụng những lợi thế này, trong giai đoạn
vừa qua, Vĩnh Phúc đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và tận dụng tốt những nguồn lực trên địa
bàn cho phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh các nguồn lực về lao động, đất
đai, huy động vốn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn vốn đầu tư, đóng
góp chủ chốt trong duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của tỉnh. Nguồn vốn
đầu tư được huy động từ nhiều nguồn, trong đó khu vực ngoài nhà nước đóng vai
trò chủ chốt. Tổng vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2021 huy động đạt 16,1 nghìn
tỷ đồng, tăng gấp 1,4 lần so với năm 2015, trong đó, 1,9 nghìn tỷ thuộc tổ chức
doanh nghiệp và 14,2 nghìn tỷ thuộc khu vực dân cư. Đã có thời điểm vốn thuộc
tổ chức doanh nghiệp đạt trên 6 nghìn tỷ động (năm 2018) nhưng giảm xuống trong
năm 2021 do ảnh hưởng của COVID-19, tuy nhiên có thể thấy nguồn vốn từ khu vực
doanh nghiệp trên địa bàn tương đối còn hạn chế so với nguồn vốn từ trong dân
cư. Huy động vốn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt được một số thành tựu như sau:
- Vốn được huy động
qua hệ thống ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Lượng vốn huy động của hệ
thống ngân hàng trên địa bàn duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16,2%,
cao so với mức bình quân của cả nước. Nhờ nguồn huy động tăng nhanh, tốc độ
tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh tăng nhanh, đạt bình quân 20,2%, tạo
nguồn tín dụng ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
- Nguồn vốn huy động
của các quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn đạt mức khá, tăng trưởng nhanh và
dồi dào, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu về vốn vay sản xuất kinh doanh.
- Chính sách tiền tệ
linh hoạt, bám sát các động thái của NHNN.
- Hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt đang góp phần quan trọng cho việc duy trì lượng tiền
gửi trong các tài khoản cá nhân và tổ chức.
- Bước đầu có đầu tư
từ khu vực tư nhân cho các dịch vụ y tế, giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng
dịch vụ cho người dân trên địa bàn.
Chính sách ưu đãi đầu
tư được tỉnh Vĩnh Phúc tận dụng và phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong gia nhập thị trường và cú sốc
COVID-19.
Bên cạnh những thành
tựu, một số hạn chế như sau:
Tiền gửi tiết kiệm
của dân cư có xu hướng tăng lên nhưng quy mô tiền gửi còn rất hạn chế, tương
đối thấp so với lượng vốn ước tính từ khu vực này. Các hình thức khác như huy
động vốn qua các giấy tờ có giá còn rất hạn chế.
Năng lực của các tổ
chức tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng huy
động vốn.
Doanh nghiệp trên địa
bàn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến việc huy
động vốn qua kênh ngân hàng từ các tổ chức doanh nghiệp gặp khó khăn.
Nguồn vốn xã hội hóa
còn tương đối hạn chế, trong khi chất lượng khu vực tư vẫn còn chưa thực sự đảm
bảo theo đúng quy định. Xã hội hóa lĩnh vực y tế còn chậm.
Nguồn vốn vay có thể
huy động từ nguồn trái phiếu chính quyền địa phương chưa được thực hiện, chưa
tạo được kênh đầu tư đảm bảo và sử dụng nguồn vốn trái phiếu hiệu quả trên địa
bàn.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG, SỬ
DỤNG NGUỒN LỰC TRONG DÂN CƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN
NĂM 2025
I.
Bối cảnh quốc tế, trong nước và tỉnh Vĩnh Phúc
1.
Bối cảnh quốc tế
Kinh tế thế giới
trong giai đoạn tới đây sẽ có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp. Nhiều quốc
gia trên thế giới đang phải đối mặt với những hậu quả do COVID-19 để lại, bao
gồm sự suy giảm tăng trưởng kinh tế, bất ổn về chính trị, lạm phát và giá cả
hàng hóa tăng cao sau những nỗ lực kích cầu, cũng như sự tái cơ cấu dòng vốn
FDI trên phạm vi toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, tăng trưởng
thương mại cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt nhiều đối tác thương mại lớn
của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản… đều là những nước đang phải đối mặt với nguy
cơ suy thoái kinh tế do hậu quả từ các nỗ lực kích cầu và ảnh hưởng từ xung đột
giữa Nga - Ukraine. Do đó, các quốc gia này có thể sẽ phải thay đổi các chính
sách kinh tế đã triển khai và có những định hướng mới trong hội nhập quốc tế,
đáng chú ý là việc đối phó với sự tắc nghẽn của chuỗi cung ứng toàn cầu, các
quốc gia có xu hướng đa dạng hóa nguồn cung là cơ hội để mở rộng thị trường
quốc tế nhưng trong đó các chính sách tập trung về thị trường nội địa cũng sẽ
tạo ra nhiều áp lực hơn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế tiếp tục là xu thế chủ đạo, tạo điều kiện cho dịch chuyển ngày
càng tự do và trên quy mô lớn (toàn cầu) các nguồn lực phát triển (vốn, công
nghệ, nhân lực…). Việt Nam đã hoàn tất ký kết các FTA với các đối tác lớn như
CPTPP, EVFTA và thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN, ASEAN - Trung Quốc... Thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN, Trung Quốc và
nhiều nước khác sẽ giảm xuống mức 0-5% sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập
khẩu, đặc biệt tại các nước có độ mở lớn.
Đại dịch COVID-19 đã
và đang tái định hình chuỗi cung ứng và dòng đầu tư FDI trên toàn thế giới. Sự
gián đoạn tạm thời chuỗi cung ứng trong thời gian dịch bệnh diễn ra gay gắt là
cú sốc với nhiều quốc gia, nhiều quy trình sản xuất, đồng thời cũng gióng lên
hồi chuông cảnh báo về sự cần thiết phải tái định hình lại chuỗi cung ứng toàn
cầu nhằm hạn chế rủi ro. Trước khi COVID-19 xuất hiện, Trung Quốc là công xưởng
sản xuất lớn của thế giới, là nơi sản xuất, gia công nhiều loại hàng hoá, quốc
gia này cùng với Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU tạo thành trung tâm mạng lưới sản xuất
toàn cầu. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát mạnh mẽ tại Trung Quốc, các biện pháp
cách ly, phong tỏa chặt chẽ của quốc gia này đã khiến hoạt động thương mại giữa
Trung Quốc và nhiều quốc gia khác gián đoạn, tạm thời cắt đứt chuỗi cung ứng
vốn vận hành linh hoạt trước đây. Hoàn cảnh này đặt các doanh nghiệp trước bài
toán cần có sự thay đổi, đa dạng hoá các nguồn cung nhằm phân tán rủi ro và hạn
chế tác động dây chuyền, từ đó dẫn tới khả tái phân bổ hoạt động sản xuất tại
một số quốc gia khác ngoài Trung Quốc trong tương lai, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, khi đại dịch lan sang các nước châu Âu và Mỹ, các biện pháp cách
ly phong tỏa tiếp tục khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới phải đối mặt với sự
sụt giảm dòng vốn FDI. Mặc dù COVID-19 không phải là khủng hoảng của khu vực
tài chính nhưng có thể trở thành khủng hoảng tài chính khi các doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng và không có khả năng trả nợ, vì vậy ảnh hưởng đến luồng vốn đầu
tư. Dòng vốn FDI đã giảm 35% trong năm 2020 so với năm 2019, từ 1.500 tỷ USD
xuống dưới 1.000 tỷ USD - mức thấp nhất kể từ năm 2005. Năm 2021, FDI toàn cầu
đã dần phục hồi và vượt qua mức trước đại dịch COVID-19, đạt 1.582 tỷ USD, tăng
64% so với năm 2020. Tuy nhiên, nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản hiện
đang phải đối mặt với sự gia tăng của lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm
phát khiến cho tăng trưởng kinh tế của các nước này đang gặp nhiều khó khăn,
dẫn đến việc suy giảm lượng vốn đầu tư ra bên ngoài. Tác động của xung đột giữa
Nga và Ukraine đã vượt ra ngoài phạm vi khu vực, gây ra khủng hoảng trên cả 3
lĩnh vực lương thực, nhiên liệu và tài chính, đẩy giá năng lượng và hàng hoá
trên toàn cầu tăng cao, dẫn đến lạm phát, từ đó gia tăng tình trạng rủi ro, suy
giảm niềm tin kinh doanh và đầu tư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đà phục hồi FDI
trên phạm vi toàn cầu. Các nền kinh tế đang phát triển dự báo sẽ có mức sụt
giảm FDI lớn hơn do phụ thuộc nhiều hơn vào đầu tư trong các ngành công nghiệp
khai thác và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu chịu ảnh hưởng nặng nề của
đại dịch. Trong nửa đầu 2022, các dự án cấp mới trên toàn cầu đã giảm 3,8% so
với cùng kỳ 2021. Bước sang năm 2023, dự báo dòng vốn FDI toàn cầu sẽ tiếp tục
giảm. FDI vào các nước phát triển và đang phát triển được dự báo sẽ tiếp tục
giảm trong ngắn hạn. FDI vào các nước phát triển dự kiến sẽ giảm từ 25% đến
45%. Thu hẹp lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến thu nhập tái đầu
tư, trung bình chiếm hơn 50% vốn FDI.
Khoa học công nghệ
phát triển nhanh với sự bùng nổ của CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi phương thức sản
xuất và cách thức quản trị, đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự lội ngược dòng của các dòng đầu tư. Những tiến bộ vượt bậc của KHCN sẽ làm
thay đổi căn bản phương thức sản xuất, thương mại và đầu tư toàn cầu, do đó dẫn
đến sự phụ thuộc vào nguồn lao động giá rẻ, hay nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ
trở lên hạn chế hơn, do đó nguồn vốn sẽ rời khỏi các quốc gia chỉ có lợi thế về
gia công giá rẻ như thị trường Việt Nam. Do đó, nếu như không phát triển được
khoa học công nghệ, không có nguồn lao động có chất lượng cao thì nguồn vốn
chảy vào Việt Nam sẽ theo xu hướng ngày càng giảm cùng với các tiến bộ khoa học
công nghệ.
2.
Bối cảnh trong nước
Giai đoạn đến 2025 là
thời điểm Việt Nam bước vào giai đoạn phục hồi sau khi chịu ảnh hưởng tiêu cực
của đại dịch COVID-19. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tập trung nhiều hơn vào
các mục tiêu lớn như đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với việc thúc đẩy các động
lực tăng trưởng mới, khuyến khích phát triển khu vực tư nhân, tăng năng suất,
hiệu quả nền kinh tế, hướng tới tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, thu hút FDI
có chất lượng và sử dụng hiệu quả dòng vốn FDI. Kể từ sau khi mở cửa nền kinh
tế đến nay, tổng vốn FDI vào Việt Nam đã tăng lên nhiều lần và tăng đều qua các
năm, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển trên nhiều lĩnh
vực. Tính đến hết 2020, đã có 134 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt
Nam. Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với tổng vốn đăng ký lên tới 70,6 tỷ USD
(chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với tổng vốn đăng ký là
60,3 tỷ USD (chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư). Các lĩnh vực thu hút nhiều FDI nhất
giai đoạn 2010-2020 tập trung trong nhóm công nghiệp chế biến, chế tạo, với
tổng số vốn đạt 91,4 tỷ USD, chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư đăng ký; đứng thứ 2 là
lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa với tổng vốn đầu tư đăng
ký là 51 tỷ USD, chiếm 25,5% tổng vốn đăng ký FDI của tất cả các ngành.
Trong những năm gần
đây, vốn FDI vào Việt Nam ngày càng có xu hướng tập trung vào một số ít nhóm
ngành chủ lực, gắn với lộ trình cắt giảm thuế quan và mở cửa các lĩnh vực đầu
tư hấp dẫn theo cam kết FTA. Bước vào giai đoạn 2021-2025, trong bối cảnh kinh
tế thế giới còn nhiều rủi ro, Việt Nam với những khó khăn từ nội tại trước đó
và ảnh hưởng nghiêm trọng từ dịch COVID-19 sẽ phải đối mặt với các thách thức
như năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn chưa cao, chất
lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu, phát triển khoa học công nghệ còn
hạn chế chưa tạo thành động lực tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng còn chậm, mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào sự gia
tăng đầu tư, trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất lớn,
nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng giảm. Sự hội nhập
ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới thông qua các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới giúp cho Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn
cầu từ đó đem lại các cơ hội để cơ cấu lại vốn, công nghệ theo hướng hiện đại
hơn.
Trong bối cảnh đó,
Quốc hội ra Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội
về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ ra Nghị
Quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh
tế giai đoạn 2021 - 2025 nhằm mục tiêu hình thành cơ cấu hợp lý, hiệu quả trong
từng ngành, lĩnh vực; giữa các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; phát triển
được nhiều sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao; tạo bứt phá
về năng lực cạnh tranh của một số ngành kinh tế chủ lực và chuyển biến thực
chất, rõ nét về mô hình tăng trưởng, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu của nền kinh
tế. Theo đó, đặt mục tiêu giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng năng suất lao động
bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa
học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) đạt khoảng 45% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 05 năm
khoảng 32 - 34% GDP.
Việc tham gia và thực
hiện các FTA sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, công nghệ và
cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn tới. Đây là cơ hội để Việt Nam thay đổi thể chế, mở rộng thị
trường, chủ động hội nhập cũng như cơ hội để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư
nước ngoài đến Việt Nam. Từ bên ngoài, tình hình dịch bệnh và tranh chấp thương
mại giữa các nền kinh tế lớn có thể ảnh hưởng xấu đến đà xuất khẩu trong ngắn
hạn, cũng do sự suy giảm tăng trưởng của nhiều quốc gia, hoạt động đầu tư bị
chậm lại. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang chứng minh nhiều lợi thế trong việc kiểm
soát dịch bệnh và đang được đánh giá là một trong những điểm sáng về ổn định
kinh tế vĩ mô và kiểm soát dịch bệnh, là điểm đến an toan toàn cho các nhà đầu
tư nước ngoài. Hậu COVID-19 và trong dài hạn, cơ cấu đầu tư và sự chuyển dịch
đầu tư sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Các lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài chủ
yếu như lĩnh vực bán lẻ, công nghệ thông tin, thiết bị điện tử, thương mại điện
tử… Nguồn vốn FDI dự kiến có thể dịch chuyển mạnh từ Trung Quốc và vùng lãnh
thổ sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam để tránh căng thẳng thương
mại và công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc và đa dạng hóa chuỗi sản xuất của mình,
đồng thời tận dụng các cơ hội mới đến từ các thị trường tiềm năng trong đó có
Việt Nam. Việt Nam đang có lợi thế trong việc thu hút đầu tư tư các quốc gia
châu Âu với Hiệp định EVFTA cũng như đến từ các nước châu Á trong giai đoạn
tới.
3.
Bối cảnh tỉnh Vĩnh Phúc
Tiếp tục kế thừa
những thành tựu đạt được trong 20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học kinh
nghiệm, thực hiện các văn bản quan trọng định hướng cho sự phát triển lâu dài
của tỉnh đã được phê duyệt cho giai đoạn 2021-2025 là cơ hội cho tỉnh tiếp tục
cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn tới. Trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh
Vĩnh Phúc đã có những thành tựu trong cơ cấu lại nền kinh tế, tăng trưởng kinh
tế năm sau cao hơn năm trước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
theo hướng tích cực, năng suất và chất lượng tăng trưởng có sự cải thiện. Trong
bối cảnh cả nước thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn mới, tỉnh
Vĩnh Phúc có nhiều thuận lợi về mặt chính sách và hỗ trợ từ trung ương trong
thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Về vị trí, Vĩnh Phúc
có vị trí thuận lợi, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Vùng thủ đô, hệ
thống giao thông kết nối với Hà Nội và các tỉnh trong vùng rất thuận lợi, hệ
thống cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực đã được quy hoạch và đầu tư khá đồng bộ;
có những địa danh du lịch, di chỉ văn hoá nổi tiếng; điều kiện địa chất, khí
hậu tốt, ít chịu sự tác động lớn của thiên tai. Vĩnh Phúc có thế mạnh phát
triển công nghiệp với lợi thế về vị trí địa lý, hạ tầng kỹ thuật (đặc biệt là
giao thông) cùng với quỹ đất lớn (gần 5.500 ha đất công nghiệp của 19 khu công
nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch), cơ chế chính sách ưu
đãi để thu hút đầu tư, môi trường kinh doanh thông thoáng. Bên cạnh đó là lợi
thế với nền tảng có sẵn trong một số lĩnh vực công nghiệp có giá trị, như ô tô
xe máy, chế tạo linh kiện điện tử, vật liệu xây dựng. Những điều kiện này giúp
tạo lợi thế để phát triển Vĩnh Phúc trở thành một trong các trọng điểm của quốc
gia trong phát triển công nghiệp; tạo dựng được uy tín, thương hiệu của tỉnh.
Về môi trường thể
chế, Vĩnh Phúc đã tạo ra và duy trì được sự ổn định về chính sách, chiến lược
phát triển, và công tác quy hoạch đảm bảo sự kế thừa và nhất quán giữa các thời
kỳ. Tư duy đổi mới sáng tạo qua nhiều thời kỳ cùng khát vọng phát triển ở con
người Vĩnh Phúc cũng là các thế mạnh của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, các hoạt động đối ngoại, ngoại
giao cũng ngày càng được đẩy mạnh để mở rộng hợp tác, thúc đẩy giao lưu kinh
tế, văn hóa với các địa phương, đối tác trong khu vực và trên thế giới nhằm
từng bước xây dựng và khẳng định hình ảnh, vị thế về một Vĩnh Phúc thân thiện,
giàu tiềm lực phát triển. Những thành tựu đạt được trong những năm qua chính là
nền tảng vững chắc đảm bảo cho sự phát triển trong giai đoạn tới.
Đối với cơ cấu vốn
đầu tư trên địa bàn, trong những năm qua, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu
trong thu hút FDI. Vốn FDI trên địa bàn Vĩnh Phúc tăng dần qua các năm về cả
quy mô và tỷ trọng. Năm 2020, tỷ trọng khu vực FDI trên tổng GRDP của tỉnh đạt
32,9%, tăng thêm 3,85 điểm % so với năm 2015 và trở thành khu vực giữ vai trò
chủ chốt trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Nguồn vốn FDI đã góp phần
tích cực thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển, nâng cao thu nhập cho
người dân. FDI hiện chiếm tới 100% giá trị sản xuất ngành cơ khí, sản xuất ô
tô, xe máy, và 99,8% doanh thu ngành sản xuất linh kiện điện tử, là 2 ngành
công nghiệp sản xuất chiếm tới 90% giá trị sản xuất trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường như hiện
nay, việc nền kinh tế nếu dựa chủ yếu vào khu vực FDI trở nên dễ bị tổn thương,
dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, đặc biệt trong
bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và nhiều rủi ro.
Trước những hạn chế
trong giai đoạn phát triển trước, cùng việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn
chậm, mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc chủ yếu yếu tố vốn và vốn FDI, khu vực
kinh tế tư nhân chủ yếu quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh, trình
độ quản trị thấp, khả năng tiếp cận các nguồn lực hạn chế đã đặt ra yêu cầu
Vĩnh Phúc cần có những định hướng chiến lược, có những biện pháp huy động đa
dạng nguồn vốn cho phát triển, và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, làm động lực
cho phát triển lâu dài và bền vững.
II.
Dự báo nhu cầu sử dụng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm
2025
Để dự báo được nhu
cầu vốn đầu tư tại Vĩnh Phúc đến năm 2030, sử dụng các phương pháp sau:
(1) Mô hình kinh tế
lượng.
I = f(GDP,L,t)
Mô hình dạng lô ga
được viết như sau:
Log(I) = log(GDP) +
Long(L) + t + Ui
Trong đó,
I là nhu cầu vốn đầu
tư của tỉnh Vĩnh Phúc
GDP - tổng sản phẩm
quốc nội
L - Lao động đang
hoạt động kinh tế
T - xu hướng theo
thời gian
Ui - nhiễu của của
hình
(2) Dự báo bằng chuỗi
thời gian
Dự báo các chỉ tiêu
đầu tư của Vĩnh Phúc được chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn dự báo
2022-2023: dự báo GDP dựa trên phương pháp trung bình trượt, chuỗi thời gian và
kết hợp với ý kiến chuyên gia để dự báo. Nguyên nhân là do chuỗi số liệu được
sử dụng để dự báo là quá ngắn nên phải kết hợp nhiều phương pháp dự báo để đưa
ra kết quả dự báo tốt nhất
+ Giai đoạn
2024-2030, dự báo GDP dựa trên phương pháp hàm sản xuất Cobb-Douglas: GDP = A.Kα.L1-
α
Trong đó, K là tích lũy vốn và L là lao động và với giả thiết hiệu quả của nền
kinh tế không đổi theo quy mô.
+ Đối với nguồn vốn
đầu tư công: Với dự báo nguồn lực đầu tư công thời kỳ quy hoạch 2021-2030 của
tỉnh như tính toán là đảm bảo tính khả thi do việc tính toán:
(1) Là dựa trên dự
báo và kỳ vọng phát triển của tỉnh trong giai đoạn tới;
(2) vốn đầu tư công
theo hỗ trợ từ ngân sách trung ương được tính toán tăng bình quân khoảng 7,5%
so với tỷ lệ bình quân của giai đoạn 2011-2020;
(3) dựa trên một số
đột phá về các cơ chế chính sách để tăng nguồn lực từ ngân sách nhà nước để tập
trung cho phát triển kết cấu hạ tầng của tỉnh, nhất là hạ tầng giao thông của
tỉnh như: phát hành trái phiếu chính quyền địa phương; cơ chế đổi đất lấy hạ
tầng, …
+ Thông tin trong Báo
cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh vĩnh phúc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 để
điều chỉnh kịch bản dự báo phù hợp với quy hoạch tỉnh trong thời kỳ 2021-2030.
Theo đó, kết quả dự báo tăng trưởng GRDP theo 03 kịch bản được đưa ra cụ thể
như sau:
Bảng
10: Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đơn
vị: %
|
2011-2015
|
2016-2020
|
2021-2025
|
Kịch bản 1
|
6,10
|
7,03
|
8,97
|
Kịch bản 2
|
6,10
|
7,03
|
9,37
|
Kịch bản 3
|
6,10
|
7,03
|
9,77
|
Theo kết quả dự báo
tăng trưởng kinh tế ở trên, Kịch bản 1 là có thể xảy ra khi tăng trưởng kinh tế
của tỉnh bị ảnh hưởng bởi diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 ở các nước
trên thế giới, diễn biến xung đột Nga - Ucraina, và những ảnh hưởng tiêu cực
khác từ kinh tế thế giới cũng như trong nước. Theo đó, trong kịch bản 1 bản
tăng trưởng trung bình giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 8,97%. Tương tự như vậy đối
với kịch bản 2 khi hiệu quả nguồn lực trong tỉnh được cải thiện và những tác
động tích cực từ chính sách kinh tế của cả nước cũng như của tỉnh Vĩnh Phúc
mang lại. Theo đó, kịch bản 2 tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 có thể
đạt 9,37%. Kịch bản 3 cũng có thể xảy ra khi hiệu quả nguồn lực cũng như hiệu
quả chính sách rõ rệt hơn so với kịch bản 2. Khi đó, tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 2021-2025 có thể đạt 9,77%. Để đáp ứng được mức độ tăng trưởng ở trên,
ngoài việc đảm bảo môi trường vĩ mô, môi trường chính sách thì nhu cầu nguồn
vốn là tương đối quan trọng. Theo đó, dự báo nhu cầu nguồn vốn theo 03 kịch bản
cụ thể như sau:
Bảng
11: Dự báo nhu cầu nguồn vốn
Đơn
vị: nghìn tỷ đồng, %
|
|
2011-2015
|
2016-2020
|
2021-2025
|
Kịch bản 1
|
Tổng nhu cầu vốn
|
96,48
|
178,31
|
312,17
|
Tốc độ tăng vốn
bình quân
|
13,00
|
9,46
|
11,24
|
ICOR
|
5,17
|
5,88
|
4,80
|
Kịch bản 2
|
Tổng nhu cầu vốn
|
96,48
|
178,31
|
323,05
|
Tốc độ tăng vốn
bình quân
|
13,00
|
9,46
|
11,65
|
ICOR
|
5,17
|
5,88
|
4,73
|
Kịch bản 3
|
Tổng nhu cầu vốn
|
96,48
|
178,31
|
333,60
|
Tốc độ tăng vốn
bình quân
|
13,00
|
9,46
|
12,05
|
ICOR
|
5,17
|
5,88
|
4,65
|
Theo kết quả dự báo ở
trên cho thấy tổng nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn 2021-2025 nhu cầu tổng vốn
đầu tư cho cả giai đoạn cần khoảng 312,17 - 333,60 nghìn tỷ đồng.
Bảng
12: Dự báo cơ cấu vốn đầu tư
|
|
2021-2025
|
2021-2025
|
2025
|
Kịch bản 1
|
Tổng
|
100
|
100
|
100
|
Vốn khu vực Nhà
nước
|
17,56
|
15,45
|
15,06
|
Vốn khu vực ngoài
Nhà nước
|
36,61
|
38,47
|
38,85
|
Vốn của tổ chức
doanh nghiệp
|
4,69
|
5,40
|
5,56
|
Vốn của dân cư
|
31,91
|
33,04
|
33,29
|
Vốn khu vực đầu tư trực
tiếp NN
|
45,77
|
45,86
|
46,10
|
Kịch bản 2
|
Tổng
|
100
|
100
|
100
|
Vốn khu vực Nhà
nước
|
16,14
|
14,05
|
13,55
|
Vốn khu vực ngoài
Nhà nước
|
35,73
|
37,43
|
37,68
|
Vốn của tổ chức
doanh nghiệp
|
4,33
|
4,96
|
5,06
|
Vốn của dân cư
|
31,40
|
32,44
|
32,63
|
Vốn khu vực đầu tư
trực tiếp NN
|
48,01
|
48,26
|
48,77
|
Kịch bản 3
|
Tổng
|
100
|
100
|
100
|
Vốn khu vực Nhà
nước
|
14,84
|
12,78
|
12,19
|
Vốn khu vực ngoài
Nhà nước
|
34,87
|
36,41
|
36,55
|
Vốn của tổ chức
doanh nghiệp
|
3,97
|
4,53
|
4,58
|
Vốn của dân cư
|
30,89
|
31,86
|
31,97
|
Vốn khu vực đầu tư
trực tiếp NN
|
50,07
|
50,49
|
51,25
|
III.
Quan điểm và mục tiêu huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư để phát triển
1. Quan điểm
Chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế theo hướng tận dụng nguồn lực trên địa bàn, tăng tính chủ
động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế tư
nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường để trở thành một động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền
vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và
tỷ trọng đóng góp trong GDP.
Đảm bảo môi trường
đầu tư và hành lang pháp lý phù hợp nhằm xóa bỏ mọi rào cản, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp
tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Khuyến khích hình thành
các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh
tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực,
toàn cầu.
Thúc đẩy phát triển
mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo
mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp
nhận, chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị
hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Phát triển đội ngũ
doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách
nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hoá
doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân.
Phát triển thị trường
vốn lành mạnh với nòng cốt là hệ thống ngân hàng nhằm huy động vốn từ người
dân, doanh nghiệp hiệu quả.
Chuyển đổi cơ cấu huy
động vốn theo hướng bền vững. Đa dạng hóa các nguồn huy động vốn cho phát triển
kinh tế - xã hội và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động.
- Thu hẹp khoảng cách
chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng bình quân vốn hàng năm từ khu vực ngoài nhà
nước so với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2023-2025, đảm
bảo sự phát triển hài hòa và cân bằng trong việc huy động và sử dụng hiệu quả
mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, tránh tình trạng bị
lệ thuộc quá mức vào một nguồn vốn đầu tư phát triển.
2. Mục tiêu chung
Tăng cường vai trò
của nguồn vốn trong nước trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với việc
nhấn mạnh đóng góp của khu vực tư nhân. Tăng cường nguồn lực xã hội hóa, kết
hợp với nguồn đầu tư công để hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ trong
các lĩnh vực giáo dục, y tế. Thúc đẩy việc chuyển đổi và tăng quy mô sản xuất
kinh doanh, giảm dần hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, phát triển các hình thức kinh
doanh bền vững. Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, đảm bảo thực
hiện đúng quy định của pháp luật nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và điều hướng
đến các nơi cần vốn một cách hiệu quả.
3. Một số mục tiêu cụ
thể
+ Thúc đẩy tăng
trưởng vốn đầu tư trên địa bàn đạt mức tăng trưởng bình quân 10-11%/năm
+ Huy động tiền gửi
ngân hàng thương mại đạt 15-18%/năm.
+ Thu hút nguồn vốn
xã hội hóa chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
và khoảng 7% tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực y tế.
IV.
Giải pháp huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Vĩnh Phúc
1.
Nhóm giải pháp chung
1.1.
Giải pháp về đẩy mạnh cải cách hành chính
Thực hiện Nghị quyết số
30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ Chương trình tổng thể Cải cách hành
chính (CCHC) nhà nước giai đoạn 2011-2020, trên cơ sở thực tiễn CCHC của tỉnh,
tỉnh Vĩnh Phúc xác định CCHC là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm
kỳ 2020 - 2025, ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều sáng tạo, đổi
mới trong quản lý điều hành, thể hiện quyết tâm đột phá trong CCHC.Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các chỉ thị, quyết định, kế hoạch và nhiều văn bản
chỉ đạo, điều hành về công tác cải cách hành chính, nhất là đề ra các mục tiêu,
lộ trình, giải pháp thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà
nước theo yêu cầu của Chính phủ, trong đó tập trung vào 6 nội dung là: Cải cách
thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước, cải cách chế độ công vụ, cải cách tài chính công, xây dựng, phát triển
Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Đặc biệt, với phương châm “lấy người dân,
doanh nghiệp làm trung tâm; lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp là
thước đo đánh giá chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước các cấp”.
Theo đó, các giải pháp cụ thể tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn tới như
sau:
- Tiếp tục phát huy
những thành quả của CCHC trong thời gian vừa qua. Thành lập các đoàn kiểm tra,
kiểm tra về việc thực hiện kiểm soát thủ tục hành chính tại các sở, ban, ngành;
các huyện, thành phố và tại các xã, phường, thị trấn; kịp thời tiếp nhận, giải
quyết phản ánh, kiến nghị của người dân về thủ tục hành chính. Đồng thời, công
bố, cập nhật kịp thời lên Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cổng dịch vụ công, hệ thống
thông tin một cửa điện tử dùng chung, Cổng Thông tin - Giao tiếp điện tử tỉnh
nội dung thủ tục hành chính được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.
Việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông cần
được duy trì tốt tại các sở, ban, ngành, địa phương. Tăng cường, phát huy vai
trò giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với công
tác cải CCHC. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức làm công tác cải CCHC; bố
trí đủ nguồn lực tài chính cho cải CCHC.
- Tiếp tục thực hiện
rút ngắn tối thiểu 20% thời hạn giải quyết thủ tục hành chính, đặc biệt là các
thủ tục có liên quan đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp theo hướng công
khai, minh bạch để tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất, mở
rộng đầu tư, kinh doanh.
- Tăng cường kiểm
soát, đôn đốc quá trình xử lý hồ sơ giải quyết TTHC tại các cơ quan, đơn vị,
địa phương; Chỉ đạo, quán triệt việc thực hiện công khai xin lỗi tổ chức, cá
nhân khi giải quyết TTHC chậm hạn; Thành lập Trung tâm phục vụ Hành chính công
tỉnh; Kiện toàn hệ thống một cửa các cấp và triển khai thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC trên địa bàn toàn tỉnh. Tăng cường
tính liên thông trong cải cách TTHC, cần tạo ra cơ sở dữ liệu trên các lĩnh vực
đảm bảo liên thông được với cơ sở dữ liệu quốc gia, chia sẻ được giữa các cơ
quan nhà nước trong tỉnh để giảm thời gian giải quyết TTHC. Mức độ hiệu quả của
giải quyết TTHC cần phải được tính trên cơ sở sự hài lòng của người dân, tổ
chức, thời gian, kết quả thủ tục được giải quyết.
- Rà soát, sửa đổi,
bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực phục
vụ cho yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước, đồng thời với việc triển khai toàn
diện, kịp thời các văn bản, chính sách, pháp luật của nhà nước trên các lĩnh
vực;
- Thực hiện sắp xếp
lại cơ quan hành chính các cấp, đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị
quyết 18, 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức; trọng tâm là cơ cấu lại tổ chức nội bộ của các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng tinh giản, hiệu lực, hiệu
quả; sửa đổi đề án vị trí việc làm các cơ quan hành chính cho phù hợp với quy
định mới của Chính phủ; chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện sang
hoạt động theo cơ chế tự chủ.
- Hiện đại hóa nền
hành chính gắn với xây dựng Chính quyền điện tử. Xây dựng giải pháp đồng bộ để
hình thành đội ngũ cán bộ, công chức điện tử và công dân, doanh nghiệp điện tử.
Hiện đại hóa nền hành chính cần phải kết hợp cơ sở hạ tầng kỹ thuật của hệ
thống hành chính và hạ tầng kỹ thuật của các doanh nghiệp đang được người dân
và tổ chức sử dụng mang tính rộng rãi, phổ biến hiện có như mạng xã hội Zalo,
Ví điện tử...
- Cải cách tài chính
công gắn với mục tiêu nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực tài chính; sửa đổi,
bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với thực tiễn; tăng cường kiểm
soát bảo đảm kỷ luật, kỷ cương về thu, chi ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý ngân sách theo hướng giảm dần việc quản lý ngân sách theo
định mức đầu vào, hướng tới xây dựng và quản lý ngân sách, tài chính công theo
đầu ra; sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển, tạo ra
động lực cho phát triển, tránh sự đầu tư dàn trải, đầu tư kém hiệu quả, đặc
biệt là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.
1.2.
Giải pháp tăng cường tuyên truyền chính sách
Hoạt động tuyên
truyền các chính sách có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp là một mắt
xích quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa chính sách và nhà đầu tư, thực
sự đưa các chính sách này vào cuộc sống. Thực tế cho thấy hiểu biết về các văn
bản quy phạm pháp luật cũng như những chính sách ưu đãi cho khu vực doanh
nghiệp còn tương đối hạn chế, đặc biệt là đối với khu vực tư nhân kinh doanh
nhỏ lẻ, manh mún. Theo đó, cần tạo ra sự chuyển biến căn bản về nhận thức, thói
quen tìm hiểu thông tin về các chính sách cũng như các thủ tục pháp lý để được
hưởng các quyền lợi này. Một số giải pháp cụ thể như sau:
- Tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, văn bản lãnh
đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về các Chương trình ưu đãi đầu tư, tín dụng, lãi
suất, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền,
các ban, ngành trong quá trình thực hiện.
- Thường xuyên đổi
mới và phát triển các hình thức phổ biến, tuyên truyền phù hợp với các đối
tượng khác nhau, đối với doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.
- Tăng cường công tác
đào tạo cán bộ, viên chức, bổ sung, kiện toàn, bồi dưỡng nhân sự để thực hiện
tốt công tác tuyên truyền về chính sách, hướng dẫn thủ tục cho doanh nghiệp và
người dân, đảm bảo không bỏ sót doanh nghiệp, người dân được hưởng quyền lợi ưu
đãi.
1.3.
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực
Để phát huy được vai
trò của nguồn lực trong nước trên địa bàn, cần có một đội ngũ doanh nhân thế hệ
mới có trình độ, có năng lực, tận dụng cơ hội để đầu tư. Do đó, cần nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân trong giai đoạn tới. Cụ thể:
- Phát triển đội ngũ
doanh nhân trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao được đào tạo bài bản, có tri thức, tính sáng tạo vượt trội, được trải
nghiệm trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp với cơ chế thị trường, thích
ứng với sự phát triển cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ nguồn lực ấy,
mới sản sinh ra những doanh nhân có phẩm chất, trí tuệ, năng lực, bản lĩnh trên
cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng ở trong và ngoài
nước, cũng như từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vậy, cần xây dựng
và triển khai thực hiện chương trình về đào tạo doanh nhân, từng bước tiếp cận
chuẩn mực quốc tế. Đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo về
kinh tế và quản trị kinh doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề. Cập nhật, bổ sung hệ thống tri thức mới về quản trị,
kinh doanh trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế.
- Nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên, hệ thống giáo trình, tài liệu nghiên cứu, học tập; đầu tư cơ
sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật và môi trường đào tạo, bồi dưỡng hiện đại.
Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ sở giáo dục, đào tạo quốc gia
với đào tạo, bồi dưỡng tại các tập đoàn doanh nghiệp và doanh nghiệp; giữa đào
tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài; giữa đào tạo và
tự đào tạo để phát triển doanh nhân.
- Cùng với nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, cần phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên
cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự
chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế, lấy doanh nghiệp làm
trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng
công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo. Đây là điều kiện quan trọng để phát triển trình độ,
năng lực đội ngũ doanh nhân.
2.
Nhóm giải pháp về huy động
2.1.
Các giải pháp về tiền gửi ngân hàng
Một là, tăng cường công tác
nghiên cứu nhu cầu gửi tiền để thu hút khách hàng và cung cấp những sản phẩm
đáp ứng tốt hơn kỳ vọng của khách hàng Thực tế những năm qua, một số ngân hàng
có lượng khách hàng thường xuyên tăng nhanh, đều là những ngân hàng có nguồn
vốn huy động dồi dào và giảm được chi phí vốn trong dài hạn.
Để phát triển nền
khách hàng, các ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách khách
hàng, chủ động tiếp cận các nhóm khách hàng có nhu cầu gửi tiền khác nhau, xây
dựng văn hóa công sở văn minh, nâng cao chất lượng nhân lực, chất lượng dịch vụ
khách hàng. Ngăn ngừa sự sụt giảm bất thường của vốn tiền gửi trên cơ sở đáp
ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống, ngăn chặn phao tin
đồn nhảm, có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời khi có sự cố xảy
ra.
Hai là, mỗi ngân hàng cần
có những giải pháp riêng, trong đó nghiên cứu cải tiến sản phẩm, công nghệ để
gia tăng tiện ích cho khách hàng khi mở tài khoản tại ngân hàng là một hướng đi
thiết thực.
Ba là, kết hợp chặt chẽ
giữa huy động tiền gửi với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng và phát triển hệ sinh
thái số. Trong bối cảnh số lượng khách hàng ngày càng nhiều, số lượng sản phẩm,
dịch vụ ngày càng tăng, sự hỗ trợ của công nghệ sẽ góp phần không nhỏ vào sự
phát triển của hệ thống, giúp người quản lý và nhân viên ngân hàng được giải
phóng khỏi những công việc tỉ mỉ, máy móc để đầu tư thời gian cho công việc
chăm sóc và tìm kiếm khách hàng mới.
Do vậy, để nâng cao
khả năng huy động tiền gửi, ngân hàng cần tập trung nguồn lực triển khai các
giải pháp đột phá trên kênh ngân hàng số (định danh điện tử - eKYC, chuyển tiền
và thanh toán đa kênh bù trừ điện tử - ACH, huy động tiền gửi online...); Nâng
cấp hệ thống core banking, cơ sở hạ tầng đường truyền, tăng cường an ninh công
nghệ thông tin, tăng tính bảo mật thông tin khách hàng; Tiếp tục hoàn thiện
đồng bộ hệ thống IPCAS (hệ thống thanh toán nội bộ và kế toán ngân hàng), đảm
bảo hệ thống được kết nối thông suốt, không bị nghẽn mạng, tạo thuận lợi trong
quá trình giao dịch; Tăng cường công tác quản trị mạng, quản trị hệ thống để
sớm phát hiện và có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm,
các tội phạm công nghệ cao; Phát triển hệ sinh thái số - môi trường thanh toán
điện tử bằng cách tăng cường liên kết với các nhà cung cấp bán lẻ như điện, nước,
truyền hình, internet, viễn thông, học phí, viện phí, nộp thuế, vé xem phim và
hàng loạt các dịch vụ khác.
Bốn là, thiết lập môi
trường kiểm soát nội bộ phù hợp. Môi trường kiểm soát nội bộ đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và huy động tiền gửi nói riêng. Tùy
theo điều kiện và chiến lược phát triển, mỗi ngân hàng cần xây dựng một môi
trường kiểm soát nội bộ phù hợp giúp cho công tác quản trị điều hành và giám
sát hệ thống; cung cấp các thông tin liên quan để khoanh vùng trọng điểm các
giao dịch có dấu hiệu gian lận, hoặc tác nghiệp sai, giúp phát hiện sớm dấu
hiệu rủi ro, chấn chỉnh nhanh chóng, hiệu quả nhưng tiết kiệm tối đa lao động
và chi phí; thực hiện tốt các chức năng hỗ trợ đánh giá tổng thể hoạt động,
đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của từng chi nhánh, của toàn
hệ thống (tỉ lệ tăng/giảm huy động tiền gửi, cơ cấu và sự biến động số dư tiền
gửi, tỉ lệ vốn ngắn hạn dùng cho vay trung dài hạn, tỉ lệ an toàn vốn tối
thiểu, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu hội sở giao cho chi nhánh...).
Với cơ quan quản lý
nhà nước ở địa phương cần tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho nhà đầu tư, để thị trường tài chính phát triển an toàn, hiệu quả, bền
vững.
Với người dân, nhà
đầu tư cá nhân, gửi tiền tiết kiệm tại NHTM, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp,
hay lựa chọn các cơ hội đầu tư khác là quyền của nhà đầu tư. Để hạn chế tối đa
rủi ro có thể xảy ra, bên nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước, người dân -
nhà đầu tư cá nhân cũng cần có các biện pháp tự bảo vệ mình bằng cách không
ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, tìm hiểu kĩ càng về doanh nghiệp phát hành
trái phiếu, ngân hàng huy động tiền gửi, đặc biệt là việc công bố thông tin của
các tổ chức trên các trang thông tin chính thức để lựa chọn sản phẩm đầu tư,
thời điểm đầu tư phù hợp với năng lực tài chính và khả năng chịu đựng rủi ro
của mình.
Để đáp ứng nhu cầu sử
dụng vốn của nền kinh tế, an toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng, các NHTM
cần tiếp tục nghiên cứu cải thiện tình hình huy động tiền gửi trên cơ sở đảm
bảo sự cân đối hợp lý giữa huy động tiền gửi dân cư với huy động tiền gửi doanh
nghiệp, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng các nguồn vốn có tính ổn định cao, phát
triển đa dạng sản phẩm và kênh phân phối, xây dựng biểu phí và lãi suất cạnh
tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và tăng
cường kiểm soát rủi ro.
Một số kiến nghị đối
với quỹ tín dụng nhân dân: cần phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
an toàn, lành mạnh, chuyên nghiệp: (i) Cơ cấu lại, đầu tư phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng hiện đại đối với hệ thống quỹ TDND với cơ cấu tổ chức, đủ
năng lực tài chính, năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát, đảm bảo hoạt động
an toàn, hiệu quả, ổn định và bền vững; (ii) Tăng cường liên kết giữa hệ thống
các Quỹ Tín dụng nhân dân với các NHTM, các TCTD trong triển khai các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ của TW và tỉnh phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng,
tài chính hiện đại, TTKDTM, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hệ thống DN vừa
và nhỏ, hộ kinh doanh; (iii) Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý cho các cán bộ quỹ
TDND.
2.2.
Các giải pháp xã hội hóa
- Rà soát và ban hành
các văn bản hướng dẫn, thực thi các chính sách có liên quan đến xã hội hóa giáo
dục, y tế, văn hóa.
- Ưu tiên dành quỹ
đất xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế ngoài công lập trong quy hoạch sử dụng
đất dành cho giáo dục, y tế, văn hóa của tỉnh. Có các cơ chế, chính sách đặc
thù nhằm thu hút đầu tư xã hội hóa.
- Hàng năm, ngân sách
tỉnh dành ra một khoản kinh phí để thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng
giao đất sạch cho các tổ chức, cá nhân và nhà đầu tư thực hiện các dự án xã hội
hóa.
- Đối với giáo dục:
+ Hoàn thiện các
chính sách để phát triển hệ thống trường ngoài công lập, chính sách khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào xây dựng mô hình trường ngoài công lập
đạt chuẩn quốc gia, tiếp cận chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân
dân; tăng cường công tác huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho
phát triển giáo dục, đảm bảo công bằng giữa giáo dục công lập và ngoài công
lập.
+ Chuyển đổi một số
cơ sở giáo dục công lập dôi dư (do sáp nhập, nhu cầu sử dụng không hết) thành
các cơ sở giáo dục tư thục cấp THCS và THPT theo hình thức xã hội hóa giáo dục.
Kêu gọi các cá nhân/tổ chức đầu tư xây dựng một đến hai cơ sở trải nghiệm cho
học sinh các cấp, một số trường liên cấp chất lượng quốc tế.
+ Tạo điều kiện thuận
lợi và hỗ trợ giải phóng mặt bằng đất cho các Trường đại học công lập của Trung
ương mở phân hiệu II tại Vĩnh Phúc. Mở rộng tổ chức các quỹ khuyến học, hình
thành quỹ học bổng, khuyến tài, bảo trợ giáo dục, khuyến khích các cá nhân và
tổ chức đóng góp vào sự phát triển giáo dục - đào tạo của tỉnh.
+ Có cơ chế hỗ trợ
cho học sinh giỏi, học sinh có hoàn cảnh khó khăn theo học ở các trường ngoài
công lập nhằm tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận và phát triển của học sinh;
đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục, công bằng trong việc thụ hưởng phúc
lợi giáo dục của học sinh trường ngoài công lập với học sinh trường công lập.
+ Xây dựng tiêu chí
đánh giá chất lượng, hiệu quả đầu tư làm cơ sở quản lý các cơ sở giáo dục phổ
thông ngoài công lập phù hợp với mục tiêu và nhu cầu xã hội. Thực hiện cơ chế
chính sách bình đẳng giữa cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập: đầu tư
phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, chính sách thu hút người học, học
bổng… đánh giá, công nhận. Qua đó góp phần thay đổi nhận thức của xã hội đối
với loại hình giáo dục này, đồng thời tạo động lực phát triển, phát huy sự sáng
tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trước xã hội, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
+ Cho phép các trường
chủ động phối hợp với các trung tâm ngoại ngữ, tin học, kỹ năng sống, giáo dục
STEM để hợp tác đào tạo cho học sinh các cấp bằng hình thức xã hội hóa.
- Đối với y tế:
+ Hoàn thiện các văn
bản hướng dẫn về công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Đề ra mục tiêu đẩy
mạnh hoạt động xã hội hóa ngày từ tuyến y tế xã, phường, thị trấn.
+ Xây dựng cơ chế
khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập, đặc biệt là bệnh viện tư nhân chất
lượng cao; đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế
chuyên sâu nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Khuyến khích
thực hiện xã hội hóa để phát triển một số cơ sở khám, chữa bệnh với chất lượng
dịch vụ kỹ thuật và chăm sóc ngang tầm với các tỉnh trong vùng nhằm thu hút
người có điều kiện đến khám, chữa bệnh, không phải chuyển lên tuyến trên.
+ Tổ chức hướng dẫn
các đơn vị y tế thực hiện có hiệu quả Thông tư số 15 của Bộ Y tế về thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm việc sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết
hoặc góp vốn liên doanh để mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ của
các cơ sở y tế công lập. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt mô hình liên doanh,
liên kết giữa Bệnh viện với nhà đầu tư trong việc cung cấp các trang thiết bị
hiện đại
+ Nghiên cứu, đề xuất
quy định ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, trang thiết bị y
tế trong lĩnh vực khám, chữa bệnh công lập và tư nhân, đặc biệt tại các huyện
miền núi, nông thôn, nhằm phát triển hệ thống y tế tư nhân đồng đều, đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.
- Đối với các lĩnh
vực khác:
+ Khuyến khích thành
lập các câu lạc bộ thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao gắn với các
doanh nghiệp trên địa bàn; huy động nguồn vốn xã hội hóa cho phát triển phong
trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; huy động nguồn lực của nhân dân để
tu bổ tôn tạo các di tích văn hóa lịch sử của địa phương; có chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư thiết chế văn hóa thể thao cấp tỉnh;
+ Đẩy mạnh triển khai
Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg ngày 30/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định
thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan Nhà nước. Xã hội hóa hoạt động khoa
học và công nghệ, huy động sự đóng góp trí tuệ và vật chất cho sự nghiệp phát
triển khoa học và công nghệ.
+ Tăng cường vận động
các nhà hảo tâm, khuyến khích doanh nghiệp, nhà đầu tư tham gia tài trợ các
chương trình an sinh xã hội của tỉnh.
+ Xây dựng cơ chế,
chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, xây dựng quản lý
và khai thác công trình cấp nước tập trung khu vực nông thôn. Tăng cường công
tác tuyên truyền, vận động người dân nâng cao nhận thức về sử dụng nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn; hướng dẫn xây dựng các công trình xử lý nước hộ
gia đình, công trình vệ sinh, bảo vệ nguồn nước và môi trường.
2.3.
Các giải pháp trái phiếu chính quyền địa phương
Để đảm bảo thống nhất
trong thực hiện giữa các địa phương và phù hợp với tình hình hiện nay, tại
Thông tư số 100/2015/TT-BTC , Bộ Tài chính quy định cụ thể nội dung của Đề án
phát hành TPCQĐP để các địa phương thuận tiện trong triển khai thực hiện. Theo
đó, khi có nhu cầu huy động vốn thông qua việc phát hành TPCQĐP để đầu tư vào
các dự án phát triển kinh tế-xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp tỉnh
hoặc các dự án có khả năng hoàn vốn tại địa phương, UBND cấp tỉnh xây dựng đề
án phát hành TPCQĐP cho từng năm ngân sách để trình Hội đồng nhân dân phê
duyệt. Đề án phát hành trái phiếu chính quyền địa phương bao gồm các nội dung
cơ bản như: Mục đích phát hành TPCQĐP; dự kiến điều kiện, điều khoản của TPCQĐP
bao gồm khối lượng; kỳ hạn; mệnh giá; đồng tiền phát hành; lãi suất phát hành
trái phiếu; cam kết của tổ chức phát hành đối với chủ sở hữu trái phiếu về việc
đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu trái phiếu theo quy định; dự kiến thời gian và
phương thức phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.
Thông tư quy định rõ
3 phương thức phát hành trái phiếu. Đối với phương thức đấu thầu, quy trình thủ
tục phát hành áp dụng như đối với phương thức đấu thầu trái phiếu Chính phủ tại
Sở giao dịch chứng khoán. Đối với phương thức bảo lãnh, quy trình thủ tục phát
hành trái phiếu theo phương thức bảo lãnh theo hướng đơn giản hơn so với phát hành
trái phiếu Chính phủ để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương phát hành
trái phiếu theo phương thức này. Đối với phương thức đại lý phát hành, quy
trình, thủ tục phát hành áp dụng như đối với quy trình phát hành trái phiếu
Chính phủ. Về mua lại và hoán đổi trái phiếu chính quyền địa phương, Thông tư
nêu rõ, UBND cấp tỉnh có thể mua lại trái phiếu trước hạn để giảm nghĩa vụ nợ
hoặc để cơ cấu lại nợ theo phương án được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét,
phê duyệt. UBND cấp tỉnh áp dụng quy trình, thủ tục mua lại trái phiếu Chính
phủ để thực hiện mua lại TPCQĐP.
UBND cấp tỉnh cũng có
thể hoán đổi trái phiếu để cơ cấu lại nợ trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc ngang
giá theo giá thị trường, công khai và minh bạch trong hoán đổi; đảm bảo sau khi
hoán đổi trái phiếu tổng dư nợ huy động vốn của ngân sách cấp tỉnh không vượt
quá hạn mức huy động vốn theo quy định tại Luật Ngân sách Nhà nước, Luật quản
lý nợ công và các văn bản hướng dẫn; trái phiếu bị hoán đổi là trái phiếu có kỳ
hạn còn lại từ một năm trở lên và được lưu ký tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
Việt Nam. Việc hoán đổi trái phiếu được thực hiện theo một trong hai phương
thức: UBND cấp tỉnh phát hành trái phiếu mới để hoán đổi trái phiếu đang lưu
hành; UBND cấp tỉnh phát hành bổ sung khối lượng trái phiếu nhất định theo điều
kiện, điều khoản của trái phiếu đang lưu hành để hoán đổi cho một trái phiếu
đang lưu hành khác. UBND cấp tỉnh quyết định phương thức hoán đổi trái phiếu và
công bố công khai về phương thức hoán đổi trái phiếu.
Ngoài ra, Thông tư
100/2015/TT-BTC bổ sung thêm quy định về công bố thông tin gồm: Công bố thông
tin trước đợt phát hành trái phiếu; công bố sau đợt phát hành trái phiếu và
công bố hàng năm. Quy định về công bố thông tin sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu
tư quan tâm và tham gia mua TPCQĐP, đồng thời góp phần tăng tính công khai,
minh bạch cho quá trình phát hành TPCQĐP.
2.4.
Các giải pháp về chính sách ưu đãi
a. Về chính sách ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Tăng cường tuyên
truyền, phổ biến thông tin cho doanh nghiệp về các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành, giúp doanh nghiệp nắm thông tin đầy đủ và hỗ trợ doanh nghiệp thực
hiện kịp thời các chính sách ưu đãi.
Phổ biến thông tin
đầy đủ các lĩnh vực ưu tiên đầu tư được áp dụng các chính sách ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích doanh nghiệp phát triển ngành, lĩnh vực ưu
tiên.
Phổ biến thông tin
đến khu vực dân cư, hộ kinh doanh nhỏ lẻ để thành lập các doanh nghiệp nhỏ và
vừa với các lợi ích, ưu đãi, hỗ trợ cụ thể.
Về phía chính quyền,
cần có kế hoạch triển khai thực hiện kịp thời các Nghị quyết liên quan đến hỗ
trợ, ưu đãi cho cộng đồng doanh nghiệp, lập kế hoạch tuyên truyền, phổ biến
thông tin hằng năm đến các đối tượng dân cư với các hình thức tuyên truyền dễ
hiểu, dễ theo dõi, theo các phương thức dễ tiếp cận.
b. Về chính sách hỗ
trợ lãi suất
Chính quyền địa
phương chủ động bám sát, rà soát kỹ các quy định liên quan, trong quá trình
thực hiện, nếu có các khó khăn, vướng mắc cần báo cáo cấp có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung và có các giải pháp tháo gỡ phù hợp.
Tích cực tuyên
truyền, vận động, hướng dẫn các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh về chính sách hỗ trợ lãi suất cập nhật theo các Nghị quyết, thông
tư hướng dẫn.
Tiếp tục thực hiện
cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tinh giảm các bước
thủ tục hành chính để hưởng hỗ trợ vay vốn, lãi suất, hướng dẫn chi tiết, cụ
thể các bước để giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp lập hồ sơ.
Định kỳ hằng năm thực
hiện khảo sát, đánh giá của các doanh nghiệp và nhà đầu tư đối với công tác
tuyên truyền, nắm bắt chính sách ưu đãi, hỗ trợ của doanh nghiệp, xác định các
khó khăn của doanh nghiệp khi tiếp cận các nguồn thông tin, thực hiện các thủ
tục hành chính để được hưởng ưu đãi và đề xuất giải pháp.
c. Thúc đẩy khởi
nghiệp, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Chủ động bố trí đất
đai, không gian để xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo của tỉnh, xây dựng các
cơ chế ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia theo đúng quy định của pháp luật.
Tăng cường tuyên
truyền, xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn lực đầu tư, lấy doanh nghiệp làm
trung tâm, định hướng tới các ngành được ưu tiên.
Xây dựng đề án hướng
dẫn, phổ biến thông tin về chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
chuyển đổi số, với cơ chế hỗ trợ toàn bộ chi phí về giải pháp chuyển đổi số, tư
vấn về các lĩnh vực, trong đó có logistics....
Xem xét xây dựng và
đề xuất cơ chế đặc thù, đột phá để tạo điều kiện thu hút nguồn nhân lực khởi
nghiệp sáng tạo.
2.5.
Các giải pháp về hợp tác công tư - PPP
- Tiếp tục bám sát và
triển khai mạnh mẽ Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 23/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ
về thi hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công
tư và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh. Theo đó, để tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với các dự án PPP, các đơn vị hành chính trực
thuộc tỉnh cần tổ chức quán triệt, phổ biến đến các đơn vị cấp dưới thực hiện
nghiêm các quy định của Luật PPP, Nghị định số 28/2021/NĐ-CP , Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ;
Luật Đầu tư, Nghị định số 25/2020/NĐ-CP , Nghị định số 31/2021/NĐ-CP , Thông tư số
06/2020/TT-BKHĐT , Thông tư số 09/2021/TT BKHĐT và Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 23/11/2021
của Thủ tướng Chính phủ.
- Đẩy mạnh tích cực
và thực chất việc đăng ký, xây dựng và ban hành chương trình xúc tiến đầu tư, danh
mục các dự án ưu tiên thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh
nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng chất lượng cao có sức lan tỏa rộng và
tác động lớn tới phát triển kinh tế (như hạ tầng giao thông, hạ tầng viễn
thông, công nghệ thông tin, điện, nước, logistics…), hạ tầng xã hội phục vụ
cộng đồng dân sinh (như: bệnh viện, trường học, dạy nghề…) của tỉnh theo phương
thức PPP cho từng giai đoạn. Đối với dự án sử dụng đất áp dụng hình thức đấu
thầu lựa chọn nhà đầu tư, cần nhanh chóng xây dựng và ban hành danh mục dự án
đầu tư có sử dụng đất, đảm bảo đồng bộ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh và danh mục dự án thu hồi đất để xây dựng danh mục dự án, phục vụ kêu
gọi các nhà đầu tư hàng năm và trung hạn.
- Tăng cường hoạt
động nghiên cứu, lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và ban hành danh mục dự án thu
hút đầu tư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lựa chọn nhà thầu,
đồng thời cần tích cực tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra và kiến nghị các giải
pháp tháo gỡ đối với hoạt động lựa chọn nhà thầu dự án.
- Đổi mới cơ chế, tổ
chức bộ máy xúc tiến cũng như hình thức thu hút đầu tư theo hướng tập trung,
tinh gọn, hướng tới doanh nghiệp (tăng cường các hình thức xúc tiến đầu tư ở
cấp tỉnh). Tổ chức lại các cơ quan xúc tiến đầu tư và đổi mới công tác xúc tiến
đầu tư theo nguyên tắc hiệu quả, thông qua doanh nghiệp, cơ quan ngoại giao
trong và ngoài nước. Đổi mới hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư theo chiều
sâu. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư của địa phương trong giai đoạn tới
nhằm thu hút đa dạng các nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên thu
hút nhà đầu tư chiến lược có năng lực kinh nghiệm, tài chính, các tập đoàn
xuyên quốc gia có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ “xanh”, thân thiện
với môi trường; đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm,
trọng điểm vào các đối tác tiềm năng, trong đó chú trọng đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến đầu tư tại chỗ.
- Khắc phục hạn chế
trong công tác góp ý và xây dựng danh mục các dự án thu hút đầu tư nói chung và
các dự án đầu tư theo phương thức PPP nói riêng. Theo đó, cần siết chặt, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các đơn vị trực thuộc tỉnh và sự chỉ đạo của UBND tỉnh. Trường hợp lấy ý kiến
bằng văn bản, các đơn vị lấy ý kiến phải ghi rõ thời hạn trả lời và cần chủ
động, tích cực liên lạc, đôn đốc, phối hợp với đơn vị được lấy ý kiến để có ý
kiến trả lời đúng thời hạn đề nghị. Đối với các đơn vị được lấy ý kiến, phải có
trách nhiệm trả lời bằng văn bản, đúng thời hạn về những nội dung thuộc phạm
vi, lĩnh vực quản lý của mình và những vấn đề liên quan khác. Trường hợp quá
thời hạn mà các đơn vị được lấy ý kiến không trả lời hoặc chậm trả lời thì được
xác định là đồng ý với ý kiến và đề xuất của đơn vị lấy ý kiến và người đứng
đầu các đơn vị được lấy ý kiến phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch
UBND tỉnh và UBND tỉnh.
- Cần thường xuyên
tham dự các hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các bộ, ngành, địa phương và các
tổ chức quốc tế về kinh nghiệm thực tiễn triển khai thực hiện dự án đầu tư theo
phương thức PPP và từ đó tăng cường thực hiện phổ biến các quy định về pháp
luật PPP cho các cán bộ của các đơn vị trực thuộc tỉnh.
- Do các dự án PPP
đều là những dự án đầu tư quy mô lớn và phức tạp, cần phải được nghiên cứu,
chuẩn bị kỹ lưỡng; công tác chuẩn bị hồ sơ và công việc sơ bộ cần được ưu tiên
và tập trung thực hiện trước khi bắt đầu các cuộc thảo luận PPP với các nhà đầu
tư tiềm năng. Do đó, việc hoàn thiện một cuốn sổ tay hướng dẫn về việc đề xuất
dự án và triển khai thực hiện dự án theo phương thức PPP tại cấp tỉnh sau khi
có hướng dẫn được ban hành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cần thiết.
- Qua quá trình thực
tiễn thực hiện các dự án/chương trình đầu tư lớn theo phương thức PPP trên địa
bàn tỉnh trong giai đoạn qua, những hạn chế liên quan đến BTGPMB là điểm nghẽn
lớn nhất trong quá trình thu hút và triển khai các dự án. Do đó, cần tiếp tục
bám sát các nội dung trong Nghị quyết số 57/2016/NQ- HĐND để chỉ đạo các đơn vị
trực thuộc tỉnh rà soát nội dung và đề xuất hướng giải quyết, chỉnh sửa các quy
định pháp luật phù hợp, từ đó tạo thuận lợi để doanh nghiệp tham gia đầu tư
trên địa bàn tỉnh.
- Khẩn trương rà
soát, tham mưu các giải pháp để triển khai thực hiện các nội dung theo Chỉ thị
số 05/CT-TTg ngày 01/3/2019 của Chính phủ về tăng cường chấn chỉnh công tác quy
hoạch xây dựng, quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch được duyệt để tháo gỡ
khó khăn vướng mắc khi triển khai các dự án nhà ở, đô thị trên địa bàn tỉnh.
3.
Nhóm giải pháp về sử dụng có hiệu quả vốn
3.1. Cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế tỉnh
- Tăng cường sự vào
cuộc chủ động, mạnh mẽ, đồng đều, thực chất và hiệu quả của các sở, ban, ngành,
UBND các huyện, thành phố nhằm kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh
công bằng, thông thoáng, minh bạch. Bảo đảm môi trường đầu tư, pháp luật ổn
định, thống nhất, đồng bộ và ngày càng hoàn thiện, góp phần thích ứng kịp thời,
hiệu quả với những vấn đề mới, xử lý được các bất cập phát sinh trong triển
khai thực hiện dự án, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng các nguồn
lực đầu tư.
- Thực hiện áp dụng
các thủ tục đầu tư kinh doanh một cách linh hoạt theo nguyên tắc hậu kiểm đối
với những ngành, nghề kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật, tạo sự
cạnh tranh trong thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư.
- Các đơn vị trực
thuộc tỉnh tiếp tục rà soát và tham mưu UBND tỉnh đề xuất các bộ, ngành trung
ương tiếp tục cắt giảm các ngành, nghề, điều kiện và thủ tục đầu tư kinh doanh
không cần thiết, bất hợp lý, đảm bảo thực hiện đầy đủ, nhất quán quyền tự do
kinh doanh của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật và tạo cơ chế thông
thoáng cho các nhà đầu tư khi triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường minh
bạch hóa các hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư, công tác giám sát và thi
hành pháp luật, công tác hỗ trợ sau đầu tư nhằm hạn chế và phòng ngừa tranh
chấp đầu tư.
- Đẩy mạnh cải cách
hành chính, giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục đầu tư kinh doanh, trong đó
đẩy nhanh việc xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử tỉnh Vĩnh Phúc; cung cấp
dịch vụ công trực tuyến để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh
doanh của doanh nghiệp. Đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế;
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nhằm nâng cao niềm tin của các nhà
đầu tư. Hoàn thiện cơ chế giải quyết thủ tục hành chính một cửa liên thông
“riêng” liên quan đến phát triển doanh nghiệp; cơ chế giám sát trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp.
- Tập trung rà soát
loại bỏ những thủ tục, quy định đang làm phức tạp, khó khăn, cản trở các nhà
đầu tư; khắc phục tình trạng ban hành những cơ chế chính sách mới không đảm bảo
tính khả thi, không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả. Xây dựng các cơ
chế đặc thù về giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, huy động, sử dụng vốn đầu tư,
xây dựng hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu phát triển cho nền kinh tế.
- Rà soát, ban hành
chính sách theo quy định của pháp luật về phân cấp, phân quyền, nhằm tạo hành
lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển và quản lý nhà nước đối với các hình thức
và phương thức đầu tư mới, phù hợp với bối cảnh và xu hướng phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước và của tỉnh như: Mô hình kinh tế chia sẻ; mô hình kinh tế
tuần hoàn; mô hình tăng trưởng xanh.
- Phấn đấu Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số hiệu quả Quản trị và Hành chính
cấp tỉnh (PAPI) hằng năm nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước; Chỉ
số Cải cách hành chính cấp tỉnh (Par Index) và Chỉ số sẵn sàng cho phát triển
và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông (ICT) hằng năm thuộc nhóm 15
tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước.
3.2. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư
- Tăng cường quản lý
chặt chẽ trên tất cả các khâu của đầu tư xây dựng, gắn công tác thanh tra, kiểm
tra với đánh giá giám sát đầu tư. Định hướng, ban hành tiêu chí thu hút đầu tư
có chọn lọc, xác định thứ tự ưu tiên đầu tư, phù hợp với mục tiêu phát triển
nhanh, theo hướng bền vững, tạo cơ sở để lựa chọn các hoạt động đầu tư trọng
tâm, trọng điểm, theo đúng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh.
- Đẩy mạnh thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc cấp, điều chỉnh, thu hồi dự án đầu tư, ban hành quy
định hỗ trợ đầu tư… kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm, có dấu
hiệu trái pháp luật. Nâng cao chất lượng lập chủ trương, dự án đầu tư; nâng cao
chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư, quản lý nghiêm ngặt quy trình đầu tư,
chống lãng phí, thất thoát, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân của chủ
đầu tư, đơn vị tư vấn.
- Đẩy mạnh phân công,
phân cấp, ủy quyền, phối hợp giữa các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh gắn với
tăng cường kiểm tra, giám sát. Lấy chất lượng và tiến độ BT GPMB là tiêu chí
đánh giá, xếp loại chất lượng và mức độ hoàn thành công việc hàng năm của người
đứng đầu các đơn vị, các đơn vị trực thuộc tỉnh.
- Xử lý dứt điểm các
dự án gây ô nhiễm môi trường, sử dụng đất không hiệu quả, dự án không triển
khai hoặc không thực hiện đúng cam kết. Phòng ngừa, giải quyết sớm, có hiệu quả
các tranh chấp liên quan có thể phát sinh trong quá trình triển khai dự án.
- Phối hợp hoàn thiện
hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về đầu tư theo hướng đồng bộ, liên
thông với các lĩnh vực lao động, đất đai, xây dựng, thuế, hải quan, ngân hàng…
Nâng cao chất lượng công tác thống kê, bảo đảm kịp thời, đầy đủ, chính xác và
phù hợp với thông lệ quốc tế; gắn liền trách nhiệm báo cáo định kỳ doanh nghiệp
với chế độ ưu đãi hậu kiểm.
- Tăng cường giám sát
của cộng đồng theo quy chế của Chính phủ về giám sát cộng đồng đối với các hoạt
động đầu tư xây dựng cơ bản. Coi việc giám sát cộng đồng là một yếu tố quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng các công trình xây dựng cơ bản.
- Tăng cường công tác
quản lý nhà nước đối với các dự án FDI, DDI sau đăng ký đầu tư; tiếp tục tháo
gỡ khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án để sớm đưa
dự án vào hoạt động phát huy hiệu quả vốn đầu tư; thực hiện tốt công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát đánh giá đầu tư, kiên quyết thu hồi giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư các dự án chậm tiến độ và nhà đầu tư không có năng lực triển
khai dự án theo đúng quy định của pháp luật./.
Phần thứ ba.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các sở, ngành
thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện, thành phố theo chức năng, thẩm quyền và nhiệm
vụ được giao nghiên cứu, đề xuất xây dựng chính sách khuyến khích thu hút nguồn
lực để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh phù hợp với
điều kiện thực tế ở từng ngành, lĩnh vực và địa phương, đảm bảo phù hợp với
chính sách Đảng, nhà nước hiện hành.
2. Giao Sở Kế hoạch
và Đầu tư, sở Tài chính căn cứ chức năng nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất các giải
pháp huy động các nguồn lực để bổ sung cho đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội của tỉnh, đảm bảo thực hiện theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm
kỳ 2020-2025 đã đề ra./.
[1]
Nếu bỏ qua tác động tiêu cực của
đại dịch COVID-19, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 13,05%/năm.
[2]
Nếu không tính tới tác động tiêu
cực của đại dịch COVID-19, tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn tỉnh đạt 13,05%/năm
trong giai đoạn 2016-2019; của cả nước đạt 9,4%/năm.
[3]
Nếu bỏ qua tác động tiêu cực của
đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng bình quân các khoản mục vốn đầu tư này
trong giai đoạn 2016-2019 lần lượt là 14,3%/năm; 16,0%/năm; 33,7%/năm.
[4]
Tỷ trọng này trong năm 2015 lần
lượt là 63,1% và 24,7%.
[5]
Nếu bỏ qua tác động của đại dịch
COVID-19, tốc độ tăng bình quân các nguồn vốn này trong giai đoạn 2016-2019 lần
lượt là 1,7%/năm; 7,8%/năm; 28,5%/năm.
[6]
Tỷ trọng này của năm 2016 lần
lượt là 25,4%; 48,7%; 25,8%.
[7]
Theo Cục Thống kê tỉnh Nam Định
(2021), “Nam Định: Thực trạng kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 và vị thế
trong khu vực Đồng bằng sông Hồng”.
[8]
Quy mô vốn đầu tư cho ngành kinh
doanh bất động sản của tỉnh tăng 3,8 lần, trong khi quy mô GRDP của ngành chỉ
tăng 1,41 lần trong giai đoạn 2015-2021.
[9]
Theo Luật TCTD 2010, Quỹ tín
dụng nhân dân là TCTD do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành
lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật TCTD và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau
phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống.
[10]
Thu nhập bình quân đầu
người/tháng khác với GDP/người được tính bằng tổng thu nhập trong năm của hộ
gia đình chia cho số nhân khẩu bình quân năm của hộ và chia cho 12 tháng. Chỉ
tiêu này do TCTK thu thập và khảo sát 2 năm/lần dựa vào mức sống của hộ gia
đình. Đây là chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng phản ánh “mức thu nhập và cơ
cấu thu nhập của các tầng lớp dân cư” để đánh giá mức sống, phân hóa giàu
nghèo, tính tỷ lệ nghèo làm cơ sở cho hoạch định chính sách nhằm nâng cao mức
sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo.
[11]
https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/Convert/dansokehoachhoagiadinh/Lists/TinTucHoatDong/View_Detail.aspx?Ite
mID=237
[12]
https://aita.gov.vn/thuc-trang-ve-thue-dich-vu-cong-nghe-thong-tin-trong-co-quan-nha-nuoc
[13]
Như Quyết định số
952/QĐ-UBND ngày 27/3/2017 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc phê duyệt bổ sung
danh mục dự án kêu gọi đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc; Quyết định số 1508/QĐ-UBND ngày
09/6/2021 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt đề án phát triển du lịch huyện Tam
Đảo đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 683/QĐ-UBND ngày
26/3/2020 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về phê duyệt chương trình xúc tiến đầu tư năm
2020 tỉnh Vĩnh Phúc…
[14]
Như Quyết định số
1713/QĐ-UBND ngày 16/7/2019 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc công bố danh mục
thủ tục hành chính của Sở Kế hoạch và Đầu tư tiếp nhận và trả kết quả tại trung
tâm phục vụ hành chính công tỉnh Vĩnh Phúc; Quyết định số 1346/QĐ-CT ngày
28/5/2021 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc công bố danh mục thủ tục hành chính
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 thực hiện trên đị a bàn tỉnh Vĩnh
Phúc…
[15]
Bao gồm: (1) dự án
được phê duyệt chủ trương đầu tư và dự án đang tổ chức lập, thẩm định báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi; (2) dự án PPP được chuyển tiếp theo Luật PPP (trừ dự
án BT); (3) dự án áp dụng loại hợp đồng BT được chuyển tiếp thực hiện hoạt động
đầu tư theo phương thức PPP.
Quyết định 3000/QĐ-UBND năm 2023 phê duyệt Đề án huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 3000/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 phê duyệt Đề án huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025
350
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|