Kiểm sát viên có được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự không?
- Kiểm sát viên có được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự không?
- Kiểm sát viên được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo tại phiên tòa hình sự khi nào?
- Chủ toạ phiên tòa có được hạn chế thời gian tranh luận tại phiên tòa của Kiểm sát viên không?
Kiểm sát viên có được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự không?
Căn cứ khoản 3 Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về việc luận tội của Kiểm sát viên như sau:
Luận tội của Kiểm sát viên
1. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
2. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
3. Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
4. Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Như vậy, theo quy định thì Kiểm sát viên được quyền đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
Kiểm sát viên có được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự không? (Hình từ Internet)
Kiểm sát viên được đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo tại phiên tòa hình sự khi nào?
Căn cứ Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa như sau:
Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.
Đồng thời, căn cứ Điều 318 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về việc kết thúc việc xét hỏi như sau:
Kết thúc việc xét hỏi
Khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu không có yêu cầu xét hỏi thì kết thúc việc xét hỏi; nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
Như vậy, theo quy định thì Kiểm sát viên có thể đề nghị kết luận về tội nhẹ hơn đối với bị cáo tại phiên tòa hình sự sau khi chủ tọa phiên tòa kết thúc việc xét hỏi.
Chủ toạ phiên tòa có được hạn chế thời gian tranh luận tại phiên tòa của Kiểm sát viên không?
Căn cứ khoản 3 Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về tranh luận tại phiên tòa như sau:
Tranh luận tại phiên tòa
1. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.
2. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
3. Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
4. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.
Như vậy, theo quy định thì chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận tại phiên tòa và phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Mẫu bản nhận xét đánh giá cán bộ của cấp ủy mới nhất? Hướng dẫn viết bản nhận xét đánh giá cán bộ của cấp ủy chi tiết?
- Có thể xét nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đã có thông báo nghỉ hưu?
- Phê bình người có hành vi bạo lực gia đình có phải là một biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình?
- Mẫu biên bản họp hội đồng thi đua khen thưởng? Cách viết mẫu biên bản hội đồng thi đua khen thưởng?
- Người nước ngoài được sở hữu bao nhiêu nhà ở tại Việt Nam? Người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam tối đa bao nhiêu năm?