|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Báo cáo 128/BC-CP 2021 Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
Số hiệu:
|
128/BC-CP
|
|
Loại văn bản:
|
Báo cáo
|
Nơi ban hành:
|
Chính phủ
|
|
Người ký:
|
***
|
Ngày ban hành:
|
19/04/2021
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
CHÍNH PHỦ
--------
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
128/BC-CP
|
Hà Nội,
ngày 19 tháng 4 năm 2021
|
BÁO
CÁO
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI đã xác định cải cách hành chính là một trong những khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011 - 2020. Để tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng, trên
cơ sở tổng kết những kết quả đạt được, nhận định thẳng thắn tồn tại, hạn chế
của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 về Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 (gọi tắt là Chương
trình tổng thể).
Quá trình thực hiện cải cách hành
chính thời gian qua, gắn với triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ta. Thực
hiện chỉ đạo của Chính phủ và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ
(Ban Chỉ đạo); các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành tổng kết thực hiện Chương
trình tổng thể nhằm đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời, chỉ ra những
tồn tại, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức
thực hiện công tác cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030. Trên
cơ sở tổng hợp báo cáo của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
(sau đây gọi tắt là các bộ, ngành) và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là các tỉnh), Chính phủ báo cáo tình hình,
kết quả triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021
- 2030 như sau:
Sau khi Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành, các cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương tới chính quyền địa phương các cấp đã triển khai thực
hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm,
Chính phủ, Ban Chỉ đạo đã đề ra các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính
mang tính toàn diện, đồng bộ và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng,
triển khai kế hoạch cải cách hành chính một cách thiết thực, cụ thể, phù hợp
với Chương trình tổng thể và thực tiễn của các bộ, ngành, các tỉnh. Thủ tướng
Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, quán triệt các bộ, ngành, địa phương xác
định cải cách hành chính là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là giải pháp quan
trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Việc kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách
hành chính của Chính phủ tại Quyết định số 442/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2014
của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Nội vụ là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã
tăng cường kết nối, phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong triển khai
thực hiện công tác cải cách hành chính. Ban Chỉ đạo đã kịp thời giúp Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách
hành chính; tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, xây dựng, nhân
rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác cải cách hành chính.
Bộ Nội vụ, cơ quan thường trực của Ban
Chỉ đạo đã tăng cường công tác tham mưu, xây dựng chương trình, kế hoạch cải
cách hành chính, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc các bộ,
ngành, địa phương tổ chức thực hiện cải cách hành chính một cách đồng bộ, thống
nhất; đồng thời, ban hành và tổ chức thực hiện một số công cụ mới để theo dõi,
đánh giá công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành và địa phương, như Chỉ
số cải cách hành chính (PAR INDEX) được Bộ Nội vụ triển khai đánh giá từ năm
2012 đến nay, đã có sự lan tỏa trong hệ thống, tạo chuyển biến tích cực trong
tổ chức triển khai cải cách hành chính tại các bộ, ngành, địa phương. Đến nay,
trên cơ sở Đề án của Bộ Nội vụ, đã có trên 50 tỉnh, thành phố đã ban hành Bộ
chỉ số theo dõi, đánh giá kết quả cải cách hành chính hàng năm của các sở,
ngành, địa phương; có 4 bộ đã ban hành Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá kết quả cải
cách hành chính của các cơ quan, đơn vị trực thuộc; qua đó tạo thành hệ thống
đánh giá đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Chỉ số hài lòng của
người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (Chỉ số
SIPAS) đã được Bộ Nội vụ triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 2017.
Trên cơ sở đó, đến nay đã có trên 40 tỉnh, thành phố và một số bộ, ngành đã
tiến hành khảo sát sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với các dịch vụ hành
chính công, dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý. Bộ Y tế đã ban hành
và triển khai Đề án đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế
công lập; tổ chức thực hiện đo lường sự hài lòng thường xuyên tại tất cả các
bệnh viện công lập trên toàn quốc từ bệnh viện tuyến huyện trở lên; kết quả mức
độ hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế đạt mục tiêu của Chính phủ giao
với kết quả trung bình trên 85% vào năm 2020. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành và triển khai Đề án đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ
giáo dục công lập. Từ năm 2015 đến nay, đã có hơn 23.000 dịch vụ đã được khảo
sát, đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức tại 57/63 tỉnh, thành phố, với
tổng số hơn 1,2 triệu mẫu phiếu khảo sát. Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số
2177/QĐ-BTP ngày 26 tháng 10 năm 2020 về Đề án đo lường sự hài lòng của người
dân, tổ chức đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp.
Ban Chỉ đạo đã thường xuyên chỉ đạo,
đôn đốc, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ cải cách
hành chính được giao, bảo đảm tiến độ theo quy định của Chính phủ; đã tiếp nhận
các phản ánh, kiến nghị và trực tiếp xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử
lý nhằm kịp thời tháo gỡ những rào cản, vướng mắc trong triển khai nhiệm vụ cải
cách hành chính tại các bộ, ngành, địa phương; đã tổng hợp những mô hình, sáng
kiến về cải cách hành chính để nghiên cứu, thẩm định, trình cấp có thẩm quyền,
tạo sức lan tỏa mạnh mẽ của cải cách hành chính tới cộng đồng xã hội.
Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành
một số lượng lớn các văn bản chỉ đạo, điều hành về cải cách hành chính. Trung
bình mỗi năm các bộ, ngành đã ban hành khoảng 1.846 văn bản; các tỉnh, thành
phố ban hành khoảng 1.916 văn bản (Biểu đồ 1).
Việc xây dựng và ban hành Kế hoạch cải cách hành chính hàng năm của các bộ,
ngành và địa phương đã đi vào nề nếp, có chất lượng hơn.
Biểu đồ 1: Số lượng
văn bản chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính
Trong quá
trình triển khai thực hiện Chương trình tổng thể, nhiều bộ, ngành và địa phương
đã có những mô hình, sáng kiến mới được nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Từ năm
2015 đến nay, các bộ, ngành đã có khoảng 461 mô hình, sáng kiến cải cách hành
chính; các tỉnh có khoảng 6.124 mô hình, sáng kiến cải cách hành chính, trung
bình mỗi năm, mỗi tỉnh có hơn 16 mô hình, sáng kiến. Một số mô hình tốt, như:
Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện xây dựng và ban hành Chỉ số
KPIs lĩnh vực quản lý và Chỉ số KPIs đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của
cán bộ, công chức thuộc bộ; Bộ Y tế đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
việc kết nối các nhà thuốc tới Bộ Y tế, thông qua đó có thể quản lý chặt chẽ về
chất lượng thuốc, giá thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý; Bộ Công Thương
xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm trực tuyến quản lý thông tin khoa học công
nghệ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo điều
hành của lãnh đạo Tổng cục Thống kê; xây dựng quy trình theo dõi việc thực hiện
các nhiệm vụ cải cách hành chính tại cơ quan bộ; Bộ Xây dựng nghiên cứu, đưa
vào sử dụng phần mềm quản lý năng lực hoạt động xây dựng, áp dụng rộng rãi trên
63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại các tỉnh có một số điển hình,
như: Mô hình Văn phòng Phát triển kinh tế tỉnh Ninh Thuận; mô hình chuyển giao
dịch vụ hành chính công sang Bưu điện của tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Hà Tĩnh…;
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác thông tin trong giao dịch điện
tử của Đảng ủy các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác quản lý các tổ chức, cá nhân hoạt động sản
xuất công nghiệp và kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả của Ủy ban nhân dân (UBND) Quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh; Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Thừa Thiên Huế; mô
hình Tổng đài dịch vụ công qua đầu số 1022 của một số địa phương, như: Đà Nẵng,
Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp, Thành phố Hồ Chí Minh... Nhiều tỉnh, thành phố
cũng đã có các sáng kiến, như: Nhắn tin thông báo cho người dân về kết quả giải
quyết thủ tục hành chính, ngày nhận chế độ chính sách, quy định về thủ tục hành
chính; xây dựng kênh tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ
chức qua mạng xã hội (Zalo, Facebook, Youtube); giải quyết thủ tục hành chính
lưu động ngày Thứ bảy vì dân; mô hình Hẹn giờ hướng dẫn thực hiện các thủ tục
hành chính tại nhà người dân; mô hình “cà phê doanh nhân”… Nhìn chung, đa số
các mô hình, sáng kiến cải cách hành chính đã được triển khai, nhân rộng trong
phạm vi của từng tỉnh, ngoài ra, cũng có nhiều mô hình, sáng kiến đã được các
tỉnh tham khảo, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình.
Chính phủ, Ban Chỉ đạo đã tăng cường
công tác kiểm tra việc thực hiện các nội dung, nhiệm vụ cải cách hành chính tại
các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan có liên quan. Từ năm 2016 đến nay, Phó
Thủ tướng Thường trực Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của
Chính phủ đã kiểm tra cải cách hành chính hoặc kết hợp nội dung cải cách hành
chính tại 3 bộ, 18 tỉnh; Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Phó Trưởng ban Thường trực Ban
Chỉ đạo đã kiểm tra cải cách hành chính, kiểm tra công vụ tại 11 bộ, 22 tỉnh;
Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo kiểm tra cải cách hành chính tại
7 bộ, 12 tỉnh. Bộ Nội vụ và các thành viên Ban Chỉ đạo tại một số bộ, ngành
cũng tổ chức các đoàn kiểm tra cải cách hành chính theo phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020, các
bộ, ngành đã kiểm tra khoảng 3.484 cơ quan, đơn vị, trung bình 348 cơ quan, đơn
vị một năm. Trong đó, năm 2014, các bộ, ngành đã kiểm tra với số lượng các cơ
quan, đơn vị lớn nhất là 466 cơ quan, đơn vị. Tại các địa phương, đã có hơn
19.800 cơ quan, đơn vị được kiểm tra trong cả giai đoạn 2011 - 2020. Giai đoạn
từ năm 2016 đến năm 2019, số lượng các cơ quan, đơn vị được kiểm tra cũng tăng
lên qua từng năm, trong đó, năm 2019 có số lượng đơn vị được kiểm tra nhiều
nhất với số lượng 2.950 (Biểu đồ 2). Công tác
kiểm tra đã có tác động tích cực, tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hành
động, kỷ luật, kỷ cương của người đứng đầu, đội ngũ công chức, viên chức trong
triển khai cải cách hành chính của các bộ, ngành, địa phương và từng cơ quan,
đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước. Nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc
trong cải cách hành chính đã được xử lý kịp thời sau kiểm tra.
Biểu đồ 2: Số lượng cơ
quan, đơn vị được kiểm tra CCHC
III. THÔNG
TIN, TUYÊN TRUYỀN
Công tác phổ biến, quán triệt Chương
trình tổng thể đã được các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện với
nhiều hình thức phong phú, đa dạng, như tổ chức học tập Chương trình tổng thể,
thi tìm hiểu các nội dung của Chương trình tổng thể, trao đổi trong các buổi
sinh hoạt chi bộ, giao ban nghiệp vụ chuyên môn; đưa nội dung Chương trình tổng
thể vào đề thi tuyển dụng, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức, góp phần
thống nhất, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ công chức, viên chức
đối với việc triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính.
Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam đã tích cực giúp
Chính phủ, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ thực hiện công tác
thông tin, tuyên truyền về Chương trình tổng thể. Chuyên mục cải cách hành
chính của Đài Truyền hình Việt Nam đã nhận được sự quan tâm theo dõi, góp ý của
xã hội, người dân và các cơ quan nhà nước.
Công tác
thông tin, tuyên truyền cải cách hành chính đã được các bộ, ngành và địa phương
quan tâm thực hiện với nhiều nội dung, hình thức phong phú, thiết thực, như: Tổ
chức các cuộc thi, diễn đàn, hội nghị tập huấn chuyên đề cải cách hành chính,
hội nghị trực tuyến; tuyên truyền thông qua các loại hình báo chí và các hình
thức phổ biến khác đã giúp cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh
nghiệp nhận thức được mục đích, ý nghĩa, nội dung của Chương trình tổng thể để
cùng tham gia thực hiện, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm, những cách
làm hay để phát huy hiệu quả của công tác cải cách hành chính. Trong giai đoạn
từ năm 2010 đến 2015, công tác tuyên truyền cải cách hành chính tại các bộ,
ngành đạt trên 2.800 đợt, địa phương đạt 4.100 đợt. Giai đoạn 2015 - 2020, các
bộ, ngành đã tổ chức khoảng 391 số lớp tập huấn chuyên đề cải cách hành chính.
Các địa phương cũng đã tổ chức khoảng hơn 1.580 lớp tập huấn chuyên đề cải cách
hành chính; phát hành hơn 35.800 bản tin chuyên đề cải cách hành chính trên
sóng Đài Phát thanh - Truyền hình.
1. Mặt tích cực đạt
được
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo, điều hành cải
cách hành chính, tạo động lực cải cách mạnh mẽ và lan tỏa trong toàn hệ thống,
tạo được niềm tin cho xã hội, người dân, doanh nghiệp. Các thể chế, văn bản
pháp luật, văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thể hiện quyết
tâm của việc đổi mới mạnh mẽ công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính,
bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính với xây dựng
Chính phủ điện tử và kiểm soát thủ tục hành chính.
- Từ năm 2012 đến nay, việc đổi mới
công tác theo dõi, đánh giá cải cách hành chính dựa trên kết quả và tác động
của cải cách hành chính đã được triển khai một cách hiệu quả, nâng cao chất
lượng công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý cải cách hành chính của Chính phủ,
các bộ, ngành, địa phương. Việc công bố Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX)
của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã
được tiến hành hàng năm, trở thành một công cụ tốt trong quản lý cải cách hành
chính, được nhân rộng trong hệ thống cơ quan hành chính các cấp. Việc khảo sát,
đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính nhà nước và công bố Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự
phục vụ của cơ quan hành chính hàng năm (SIPAS) đã trở thành thước đo đánh giá
khách quan chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức.
2. Tồn tại, hạn chế
- Chỉ đạo, điều hành cải cách hành
chính vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục ở một số bộ,
ngành và một số địa phương. Một số bộ, ngành, địa phương triển khai còn hình
thức, không hiệu quả.
- Công tác kiểm tra cải cách hành
chính nhiều lúc chưa hiệu quả, còn hình thức. Việc thông tin, tuyên truyền cải
cách hành chính ở một số bộ, ngành, một số địa phương chưa thật sự tạo ra sức
lan tỏa tới người dân, doanh nghiệp, tổ chức, cộng đồng xã hội nhận thức về cải
cách hành chính, kết quả, tác động của cải cách hành chính. Việc nhân rộng
những mô hình, sáng kiến, cách làm hay về cải cách hành chính còn hạn chế.
1. Kết quả chủ yếu đã
đạt được
a) Đánh giá chung về xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013
Công tác xây dựng và
thi hành pháp luật, đặc biệt là những luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến
pháp năm 2013 được các cơ quan nhà nước trong cả hệ thống chính trị từ trung
ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo sát sao. Sau hơn 05 năm triển khai thi
hành Hiến pháp, trong số 90 luật, pháp lệnh được liệt kê tại Danh mục, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành 70 luật, pháp lệnh, trong đó có các đạo luật mang tính nền tảng, rường cột của hệ thống pháp luật([1]); còn 20 dự án luật,
pháp lệnh nằm trong Danh mục nhưng chưa được ban hành([2]). Kết quả xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 cùng với kết quả
thực hiện những chủ trương của Đảng đối với công tác hoàn thiện pháp luật thời
gian qua là nền tảng, một trong những trọng tâm của cải cách thể chế tại Chương
trình tổng thể.
b) Về xây dựng, hoàn thiện hệ thống
thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các
bộ, ngành và địa phương
Trong giai đoạn vừa qua, việc lập Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh có nhiều đổi mới. Từ việc xây dựng Chương trình
nhiệm kỳ 05 năm (theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm
2008) đến xây dựng Chương trình hằng năm (theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2015),
tạo sự linh hoạt, tăng cường tính thích ứng nhanh của chính sách với các vấn đề
kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 được ban hành đã có
nhiều điểm mới cơ bản, bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường tính công khai,
minh bạch trong xây dựng, ban hành VBQPPL, về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành VBQPPL theo từng nhóm đối tượng...
đã có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cải cách thể chế([3]).
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương
đã thường xuyên quan tâm, tập trung chỉ đạo xây dựng các thể chế thuộc phạm vi
quản lý, đã chú trọng việc xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh trình Quốc hội
và ban hành một số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Tổng
số VBQPPL mà các bộ đã ban hành từ năm 2012 đến nay là hơn 8.600 văn bản (Biểu đồ 3). Một loạt
các thể chế quan trọng được các bộ, ngành chủ trì nghiên cứu, xây dựng, trình
các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thông qua, đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
thể chế về các lĩnh vực, như: Kinh tế; dân sự; sở hữu; quyền tự do kinh doanh;
nông nghiệp, nông thôn; tài nguyên và môi trường; tổ chức bộ máy; cán bộ, công
chức, viên chức([4])
và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đồng thời, mỗi năm các bộ đã trình
Chính phủ ban hành hơn 140 nghị định hướng dẫn, trên cơ sở đó, đã tạo lập khuôn
khổ thể chế, pháp luật cơ bản cho sự vận hành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bộ máy tổ chức nhà nước và hội nhập quốc tế. Số lượng VBQPPL
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ở giai đoạn 2016 - 2020 tăng so với
giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy trách nhiệm, vai trò của các tư lệnh ngành được
đề cao theo sự phân cấp trong quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với ngành, lĩnh
vực([5]).
Biểu đồ 3: Kết quả đạt
được của các bộ, ngành tại một số
nội dung cải
cách thể chế
Thể chế về tổ
chức bộ máy của hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện, đổi mới. Chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan trong hệ thống hành
chính được phân định rõ ràng, loại bỏ phần lớn sự chồng chéo, trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ; phân định rõ hoạt động của cơ quan hành chính với doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước
với người dân tiếp tục được quan tâm xây dựng, hoàn thiện và triển khai thực
hiện trong thực tế, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người dân trong việc tham gia
xây dựng bộ máy nhà nước. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, việc ghi
nhận, đề cao các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân tại các đạo
luật trên các lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được
tăng cường và củng cố mạnh mẽ nhất từ trước tới nay([6]), cơ bản phù hợp với
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Chính quyền địa phương các cấp đã chú
trọng việc ban hành và tổ chức thực hiện các VBQPPL theo thẩm quyền, mỗi năm
ban hành hàng ngàn quyết định để cụ thể hóa các văn bản của trung ương cho phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương, cụ thể, từ năm 2011 đến tháng 5 năm
2020, các tỉnh đã ban hành khoảng 385.826 VBQPPL (Biểu đồ 4). Tuy nhiên,
so sánh giai đoạn 2016 - 2020 với giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy, số lượng văn
bản của chính quyền địa phương giảm, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã khi mà
các cấp này tập trung vào việc triển khai tổ chức thi hành pháp luật([7]).
Biểu đồ 4: Kết quả đạt
được của các tỉnh, thành phố tại một số nội dung cải cách thể chế
Hằng năm, các bộ, ngành và địa phương
đã ban hành và tổ chức triển khai Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp
luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành và lĩnh vực trọng tâm của bộ, ngành
và địa phương. Công tác rà soát, kiểm tra VBQPPL theo thẩm quyền cũng được chú
trọng thực hiện. Giai đoạn 2011 - 2020, đã có khoảng hơn 12.172 VBQPPL tại các
bộ, ngành và 83.758 VBQPPL tại các tỉnh được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay
thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát. Trong khi đó, số lượng VBQPPL đã
được xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà
soát tại các bộ là 7.249 văn bản, tại các tỉnh là 54.012 văn bản.
Từ năm 2011 đến ngày 31 tháng 5 năm
2020,
đã kiểm tra 61.447 VBQPPL của các bộ, ngành và 819.646 VBQPPL của các tỉnh.
Thông qua kiểm tra, đã phát hiện tại các bộ, ngành: Số VBQPPL trái pháp luật về
nội dung, thẩm quyền là 1.669 VBQPPL, chiếm 1,67% so với tổng số văn bản được kiểm
tra; số văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật là 374
văn bản, chiếm 0,61%. Trong khi đó, đã phát hiện tại các tỉnh: Số VBQPPL trái
pháp luật về nội dung, thẩm quyền là 7.841 VBQPPL, chiếm 0,96%/tổng số văn bản
được kiểm tra; số văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật
là 15.583 văn bản, chiếm 1,90%. Số lượng VBQPPL trái pháp luật về nội dung,
thẩm quyền tại các bộ, ngành đã được xử lý là 4.054 văn bản và tại các tỉnh đã
được xử lý là 40.169 văn bản (Biểu đồ 3, Biểu đồ 4).
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
được đổi mới với nhiều hình thức đa dạng đã gắn kết chặt chẽ hơn với công tác
xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật và thực hiện chức năng quản lý nhà nước
của bộ, ngành, địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính
sách pháp luật hàng năm được các bộ, ngành, địa phương triển khai theo kế
hoạch, với trọng tâm tập trung vào những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước, liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp.
Có thể nói, kết quả xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 đã góp phần quan trọng
vào việc thực hiện 05 mục tiêu của Chương trình tổng thể, trong đó có việc hoàn
thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt,
trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp
quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà
nước; bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
Kết quả công tác xây dựng thể chế đã có tác động trực tiếp, tích cực và sâu
rộng tới mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước,
tăng cường quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế và góp phần bảo vệ, bảo đảm
tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Hệ thống thể chế, pháp luật cũng đã
đóng góp không nhỏ vào nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giải phóng nguồn
lực xã hội, phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng cho nền
kinh tế, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Thể chế, pháp luật cũng đã đóng
góp quan trọng cho xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong 10 năm vừa qua.
2. Những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- Chất lượng một số đề nghị xây dựng
luật, pháp lệnh, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao; vẫn
còn tình trạng các dự án, dự thảo văn bản sau khi đã đưa vào chương trình nhưng
phải xin lùi, rút, điều chỉnh. Chất lượng văn bản, thể chế một số lĩnh vực còn
hạn chế, ban hành nhưng không triển khai được hoặc khó triển khai, chồng chéo
với các văn bản pháp luật khác.
- Trong một số trường hợp, công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về pháp luật còn chưa theo kịp yêu cầu
của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước; một số bất cập của pháp luật được
phát hiện, nhưng chậm sửa đổi, bổ sung.
- Việc ban hành văn bản quy định chi
tiết luật, pháp lệnh vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, như tình trạng nợ ban hành
văn bản chưa được khắc phục triệt để([8]).
b) Nguyên nhân
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong
quy trình xây dựng pháp luật còn hạn chế, dẫn đến phản ứng chính sách đôi khi
chưa linh hoạt.
- Tư duy xây dựng pháp luật, tổ chức
thi hành pháp luật chưa được đổi mới, nhận thức còn hạn chế, chưa theo kịp với
yêu cầu của thực tiễn. Một số cơ quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến
của nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, văn bản,
hoặc chưa có phương pháp thực hiện phù hợp.
- Năng lực, trình độ của bộ phận soạn
thảo, cán bộ pháp chế, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập còn
chưa thực sự hiệu quả, hình thức, còn phó thác cho cơ quan chủ trì soạn thảo.
Bộ, ngành, địa phương chưa có Chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực làm
công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và sử dụng hiệu quả
cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật sau khi đã được đào tạo, bồi
dưỡng. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật tại các bộ,
ngành, địa phương thiếu ổn định, chưa thật sự chuyên nghiệp; thiếu về số lượng
và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của công tác xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
1. Kết quả đạt được
a) Cải cách quy định thủ tục hành
chính
Việc triển khai thực thi phương án đơn
giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) theo 25 Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ
được các bộ, ngành thực hiện đã cơ bản hoàn thành với việc đơn giản hóa
4.527/4.723 TTHC, đạt tỷ lệ 95,8% (tính đến tháng 12/2016). Việc cắt giảm, đơn
giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh và hoạt động kiểm tra chuyên ngành, cắt
giảm, đơn giản hóa dòng hàng đạt được nhiều kết quả tích cực([9]). Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 19/NQ-CP các năm 2016, 2017, 2018, Nghị quyết số 02/NQ-CP
năm 2019, 2020 về thực hiện nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thể hiện quyết tâm chỉ đạo
bãi bỏ các rào cản, quy định điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý,
mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Tháng 5 năm 2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về Chương
trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai
đoạn 2020 - 2025 với mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và
cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh
doanh. Việc cải cách theo Chương trình này không chỉ là cắt giảm các quy định
liên quan đến hoạt động kinh doanh trong các văn bản đã ban hành mà còn cả các
quy định trong dự thảo VBQPPL; đồng thời cải cách mạnh mẽ việc thực hiện TTHC
trên môi trường điện tử.
Những quy định về kiểm soát TTHC cơ
bản được hoàn thiện([10]).
Song song với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 05
tháng 7 năm 2013 về việc tổ chức thực hiện Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ; Chỉ thị
số 13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 về việc tăng cường trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách TTHC. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2019 về
việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền
hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Theo đó, yêu cầu
siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; rà soát TTHC
theo hướng tinh giản, loại bỏ ngay các thủ tục không cần thiết, rườm rà, khó
thực hiện, gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân, doanh nghiệp.
Các nội dung rà soát, đơn giản hóa
TTHC, đánh giá tác động các quy định về TTHC, đã được các bộ, ngành và địa
phương nghiêm túc thực hiện. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đều ban hành Kế
hoạch triển khai công tác kiểm soát TTHC, Kế hoạch rà soát TTHC trong từng năm,
trong đó, đã thể hiện việc tích cực thực hiện các nhiệm vụ kiểm soát TTHC từ
khâu dự thảo, ban hành cho đến khâu triển khai thực hiện. Đặc biệt, nhiều bộ,
địa phương quan tâm rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa các quy định TTHC, nhất là
trong các ngành, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp; kiểm
soát chặt chẽ việc ban hành các quy định TTHC mới, đảm bảo đơn giản, rõ quy
trình, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Về tình hình, kết quả thực hiện Đề án
Tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến
quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 (Đề án 896): Chính phủ đã ban hành 19 nghị
quyết chuyên đề về đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân trên các lĩnh vực quản
lý để phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa 1.097 thủ tục, với 992 mẫu đơn
và 399 tờ khai được quy định tại 332 VBQPPL, trong đó có nhiều phương án có đối
tượng tác động lớn như: Bỏ quản lý sổ hộ khẩu bằng giấy với khoảng hơn 18 triệu
hộ gia đình được hưởng lợi từ phương án này. Bộ Công an,
cơ quan chủ trì Đề án đã chỉ đạo công an các đơn vị, địa phương rà soát, xây
dựng phương án đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân theo Đề án 896 và phối hợp
với các bộ, ngành, địa phương để triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án 896. Về
cấp số định danh cá nhân, đã mở rộng phạm vi các địa phương trên toàn quốc
chính thức triển khai Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ Tư
pháp từ 38 tỉnh lên 63 tỉnh, thành phố (tăng 25 địa phương so với năm 2018).
Triển khai hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch tại các địa phương và thực hiện
cấp số định danh cá nhân cho hơn 1.391.018 trường hợp đăng ký khai sinh năm
2019 tại 680 Phòng Tư pháp cấp huyện và 10.696 UBND cấp xã tại 60 tỉnh, thành
phố. Bộ Công an tiếp tục cấp thẻ Căn cước công dân từ đủ 14 tuổi trở lên tại 16
tỉnh, thành phố, từ năm 2012 đến nay đã cấp được 15 triệu trường hợp. Về kết
quả thu thập dữ liệu, Bộ Công an đã tiến hành thu thập và scan. Đến ngày 30
tháng 9 năm 2020, Bộ Công an đã thu thập được 83.387.773/87.306.594 (đạt 95,51%)
phiếu thu thập thông tin dân cư DC01 và cập nhật được 7.436.291 phiếu cập nhật,
chỉnh sửa thông tin dân cư DC02.
b) Cải
cách việc tổ chức thực hiện TTHC
Hầu hết TTHC được các bộ, ngành, địa
phương từng bước chuẩn hóa, công bố, niêm yết, công khai tại nơi tiếp nhận,
giải quyết TTHC, công khai trên Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa
phương và trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC theo quy định, tạo thuận lợi cho
cá nhân, tổ chức truy cập tìm hiểu, thực hiện thuận tiện, chính xác.
Cơ chế một cửa, một cửa liên thông,
Trung tâm Phục vụ hành chính công và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung
cấp tỉnh, cấp huyện đã được triển khai ở các địa phương theo các quy định pháp
luật([11])
và đạt được những kết quả tích cực, tạo sự
chuyển biến rõ nét trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Triển khai Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính
phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục
hành chính, đến nay 100% các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc kiện toàn
Bộ phận Một cửa các cấp để giải quyết TTHC, trong đó, 59/63 địa phương thành
lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực
hiện việc giải quyết TTHC theo phương thức “5 tại chỗ” như Trung tâm Phục vụ
hành chính công tỉnh Quảng Ninh. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc
thiết lập một cửa “vật lý” và một cửa điện tử để tạo thuận lợi cho người thực
hiện như: Hà Nội, Quảng Ninh, Đồng Nai, Cà Mau, Bình Dương…
Về kết quả giải quyết hồ sơ TTHC:
Trong năm 2019, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận
261.860.415 hồ sơ, đã giải quyết 257.661.527 hồ sơ, đạt 98,4%; số hồ sơ đang
xem xét, giải quyết 3.424.588 hồ sơ, trong đó, hồ sơ quá hạn là 784.078 hồ sơ,
chiếm 22,9% số hồ sơ đang giải quyết. Các bộ, các tỉnh cũng đã bước đầu triển
khai thực hiện quy định việc đánh giá chất lượng giải quyết TTHC theo quy định
tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP .
Các nội dung gắn kết đồng bộ giữa cải
cách TTHC và xây dựng Chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người dân, doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước. Việc thực
hiện cơ chế một cửa quốc gia và kết nối kỹ thuật một cửa ASEAN đối với một số
lĩnh vực đã được các bộ, ngành triển khai, đạt được nhiều kết quả tích cực.
Việc triển khai tiếp
nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích theo
Quyết định số 45/2016/QĐ-TTg ngày 19 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ
cũng đạt được những kết quả tích cực. Năm
2019, cả nước có 14.505.494 lượt hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC thực hiện qua
dịch vụ BCCI, trong đó, dịch vụ tiếp nhận hồ sơ là 2.175.824 lượt, dịch vụ trả
kết quả là 12.329.670 lượt, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân, tổ
chức, tạo tiền đề thúc đẩy triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT)
mức độ 3 và 4.
Trong năm 2019 - 2020, một số hệ thống
thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử đã được chính thức vận hành (Trục liên
thông văn bản quốc gia khai trương ngày 12 tháng 3 năm 2019; Hệ thống thông tin
họp và xử lý công việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 24
tháng 6 năm 2019; Cổng Dịch vụ công quốc gia khai trương ngày 09 tháng 12
năm 2019; Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19 tháng
8 năm 2020). Các nền tảng, hệ thống thông tin trên được đưa vào vận hành giúp
tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900 tỷ đồng/năm và nhận được phản hồi
tích cực của xã hội.
c) Về tình hình, kết quả cung cấp
DVCTT mức độ 3, 4
Số lượng, chất lượng
DVCTT mức độ 3,4 cung cấp cho người dân, doanh nghiệp tại các bộ, ngành, địa
phương được nâng cao, với số lượng hồ sơ TTHC được xử lý trực tuyến mức độ 3, 4
ngày càng tăng. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 thực
hiện tại các bộ, ngành, địa phương các năm 2017, 2018, 2019[12]
(kết quả chi tiết tại nội dung Hiện đại hóa hành chính).
d) Tiếp
nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính
Các bộ, ngành và địa phương đã thực
hiện tương đối tốt việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ
chức về quy định hành chính theo quy định. Bên cạnh đó, Hệ thống tiếp nhận, trả
lời kiến nghị của doanh nghiệp và người dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính
phủ tại các địa chỉ: http://doanhnghiep.chinhphu.vn và
http://nguoidan.chinhphu.vn; http://pakn.dichvucong.gov.vn trên Cổng Dịch vụ
công Quốc gia đã được vận hành và đưa vào khai thác, qua đó giúp Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ nắm bắt được các vấn đề phát sinh từ phía người dân và cộng
đồng doanh nghiệp để chỉ đạo, giải quyết kịp thời, nhằm kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính([13]). Thực hiện Chỉ thị
số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chỉ tính từ tháng 6 năm 2015 đến hết năm
2016, có hơn 626 cuộc đối thoại của 16 bộ, ngành và hơn 686 cuộc đối thoại của
31 địa phương đã được tổ chức để tiếp nhận hơn 1.530 kiến nghị của người dân,
doanh nghiệp. Đây là một việc làm thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao chất
lượng cải cách hành chính, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân.
Thủ tướng Chính phủ đã kiện toàn Hội
đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ làm Chủ tịch Hội đồng; thành lập các Ban công tác
giúp cải thiện các chỉ số môi trường kinh doanh. Tính chung trong cả giai đoạn
từ 2016 - 2020, Hội đồng đã chủ trì 42 phiên họp, hội nghị đối thoại, để lắng
nghe, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp theo thẩm quyền
hoặc báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý
đối với 500 vấn đề, nhóm vấn đề.
đ) Sáng
kiến, giải pháp cải cách TTHC
Trong giai đoạn vừa qua, một số sáng
kiến cải cách TTHC nổi bật, như: Đề án thực hiện liên thông các TTHC: Đăng ký
khai tử, xóa đăng ký thường trú, hưởng chế độ tử tuất/hỗ trợ chi phí mai
táng/hưởng mai táng phí([14]);
giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin (ƯDCNTT) để đơn giản hóa quy định TTHC
trong việc cấp, quản lý, sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế và quản lý khám chữa bệnh,
thanh toán bảo hiểm y tế([15]);
chuẩn hóa quy trình, thủ tục kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa thuộc phạm
vi quản lý của các bộ, ngành trong triển khai Cơ chế một cửa quốc gia([16])… Một số sáng kiến
điển hình về cải cách TTHC của các tỉnh được ghi nhận, như: Mở rộng việc thực
hiện mô hình một cửa trong cung ứng dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp; mô
hình hẹn giờ thực hiện TTHC tại nhà người dân; xây dựng và đưa vào vận hành ứng
dụng khai thác cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường trên mạng internet và di
động (nền tảng Android và iOS) để thuận lợi cho người dân, tổ chức tra cứu,
tiếp cận thông tin; xây dựng phần mềm tra cứu giấy chứng nhận Quyền sử dụng
đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; mô hình “phi địa giới hành
chính” trong các lĩnh vực đất đai, tư pháp, giao thông vận tải, y tế…
2. Những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- TTHC trên một số lĩnh vực vẫn còn
nhiều và rườm rà, phức tạp; vẫn còn có tình trạng một số luật và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật không thống nhất, có nhiều điểm bất đồng, quy định về
TTHC chưa đầy đủ các bộ phận cấu thành, chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho cả cơ
quan chức năng và người dân, doanh nghiệp khi thực hiện giải quyết TTHC. Việc
đánh giá tác động và lấy ý kiến đơn vị kiểm soát TTHC đối với các dự thảo
VBQPPL có quy định về TTHC chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; việc thẩm
định quy định TTHC trong một số VBQPPL còn chưa chặt chẽ dẫn đến TTHC trên
nhiều lĩnh vực vẫn còn phức tạp và tiếp tục là rào cản trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và đời sống nhân dân.
- Việc cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều
kiện kinh doanh, cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành chưa triệt để, còn
tình trạng “cài cắm”, “biến tướng”, phát sinh thêm TTHC, điều kiện kinh doanh
trong các dự thảo VBQPPL, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thậm chí trong một số
văn bản hành chính.
- Một số bộ, ngành Trung ương còn chậm
công bố các nhóm TTHC thực hiện liên thông hoặc công bố không đầy đủ. Tình
trạng các cơ quan hành chính nhà nước các cấp không niêm yết công khai các
TTHC, hoặc niêm yết các TTHC đã cũ, hết hiệu lực thuộc phạm vi giải quyết của
mình. Danh mục TTHC trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC còn chưa được các bộ,
ngành, địa phương đồng bộ đầy đủ trên Trang/Cổng Thông tin điện tử của bộ, cơ
quan, địa phương.
- Tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà
của một bộ phận cơ quan hành chính nhà nước, một số cán bộ, công chức trong
giải quyết công việc, TTHC cho người dân, doanh nghiệp còn xảy ra, ví dụ như:
còn có hiện tượng yêu cầu thêm nhiều giấy tờ không được quy định trong bộ hồ sơ
khi giải quyết các TTHC tại một số cơ quan, đơn vị, gây bức xúc cho người dân,
tổ chức, doanh nghiệp. Tình trạng trễ hẹn trong giải quyết và trả kết quả giải
quyết hồ sơ vẫn còn phổ biến ở một số lĩnh vực trọng tâm, như: Đất đai, xây
dựng, lao động - thương binh và xã hội…
- Tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến,
giao dịch thanh toán trực tuyến còn thấp so với số lượng hồ sơ trực tiếp và
giao dịch thanh toán bằng tiền mặt; kết nối, chia sẻ dữ liệu trong giải quyết
TTHC, cung cấp dịch vụ công còn yếu; số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết
của cấp bộ, cấp tỉnh còn lớn (cấp bộ chiếm tới 58% tổng số TTHC); việc xã hội
hóa dịch vụ hành chính công đã triển khai ở một số ngành, lĩnh vực (đăng kiểm;
công chứng,…) nhưng vẫn còn chậm, thiếu tổng thể.
- Việc liên thông, kết nối, chia sẻ dữ
liệu giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành của một số bộ, ngành với phần mềm
một cửa điện tử của các địa phương còn bất cập, gây khó khăn cho các địa phương
trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Một số địa phương công khai
số liệu, kết quả giải quyết TTHC trên phần mềm còn chưa đúng so với kết quả
kiểm tra thực tế.
b) Nguyên nhân
- Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức
thực hiện tại
nhiều
bộ,
ngành, địa phương chưa quyết liệt, sát sao; chưa có sự phối hợp
chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về cải cách TTHC. Công tác tham mưu phục
vụ sự chỉ đạo điều hành của đơn vị chuyên trách còn chậm và chưa sát với yêu
cầu nhiệm vụ[17]; một số
nơi triển khai còn hình thức, đối phó, chưa quyết liệt.
- Nhận thức, tư duy về quản lý hành
chính nhà nước trong một bộ phận cán bộ, công chức chậm được đổi mới, chưa thấy
được hết ý nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi cấp bách của cải cách TTHC; chưa
xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với đội ngũ công chức
thực thi công vụ trong tiếp nhận và giải quyết TTHC trong các lĩnh vực ở từng
cấp, từng ngành.
- Nguồn lực để bảo đảm thực thi
nhiệm vụ chưa tương ứng với yêu cầu, nhất là về yếu tố con người (nhiều nơi
không bố trí đủ biên chế, chế độ đãi ngộ cho những người làm công tác cải cách
TTHC chưa được quan tâm đúng mức; việc tổ chức Bộ phận Một cửa hiện nay vẫn còn
phân tán, gắn liền với địa giới hành chính; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
chưa đáp ứng yêu cầu công việc; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm,
cơ sở dữ liệu liên quan đến việc giải quyết thủ tục hành chính còn hạn chế, phổ
biến nhất là tình trạng các phần mềm chuyên ngành, ngành dọc không kết nối,
chia sẻ dữ liệu với Hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công của
địa phương).
1. Kết quả chủ yếu đã
đạt được
a) Việc xây dựng, ban hành các quy
định về tổ chức bộ máy
Thời gian qua, một loạt chủ trương của
Đảng và chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được đưa ra nhằm
đẩy mạnh hơn nữa cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, đó là: Rà soát
chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức; phân cấp mạnh, giao quyền chủ động cho
chính quyền địa phương; tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức; thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp
công lập (ĐVSNCL). Cũng trong giai đoạn này, Quốc hội đã thực hiện công tác
giám sát tối cao, với chủ đề là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2016.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản
quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức các bộ, ngành trung ương về cơ
bản khắc phục được những tồn tại, hạn chế của các giai đoạn trước, bổ khuyết
những thiếu sót thể chế về tổ chức và bộ máy, bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng
quản lý nhà nước của Chính phủ, đồng thời phân định rõ phạm vi chức năng quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trên cơ sở thực
hiện nguyên tắc một việc chỉ do một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính,
các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện.
b) Rà soát vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy
Các bộ, ngành và địa phương đã chủ
động thực hiện việc rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị
trực thuộc. Một số địa phương đã báo cáo cấp có thẩm quyền cho phép
điều chỉnh hoặc thí điểm điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy của một số cơ quan, đơn vị cho phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương mình([18]).
Việc sắp xếp, kiện toàn, từng đợt tăng hoặc giảm tổ chức kể cả tổ chức hành
chính và ĐVSNCL ở các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp đã
được thực hiện có kết quả.
Biểu đồ 5:
So sánh số lượng các tổ chức hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang bộ qua các
giai đoạn
|
Biểu đồ 6:
Biến động tăng/giảm số lượng các tổ chức hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang
bộ qua các giai đoạn
|
Biểu đồ 7: So
sánh số lượng các tổ chức hành chính cấp tỉnh qua các giai đoạn
Biểu đồ 8: So
sánh các tổ chức hành chính cấp huyện qua các giai đoạn
Biểu đồ 9: So
sánh số lượng ĐVSNCL của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương qua các giai
đoạn
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25 tháng 10 năm 2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (gọi tắt là Nghị quyết số
18-NQ/TW) đã đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống các văn bản chỉ đạo,
triển khai đã được ban hành tương đối đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra([19]). Việc đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW
gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của
Bộ Chính trị khóa XI về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đã giảm được nhiều đầu mối và giảm đáng kể biên chế của các cơ
quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và bộ máy hành chính nhà nước. Đánh giá
kết quả thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, so sánh thời điểm ngày 31 tháng 12
năm 2019 với thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2017, các bộ, cơ quan ngang bộ
(không tính Bộ Quốc phòng và Bộ Công an([20])):
Giảm 12 vụ và tương đương; giảm 10 ĐVSNCL. Về tổ chức hành chính của các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (so sánh thời điểm ngày 30 tháng 6 năm 2019 với
thời điểm ngày 30 tháng 6 năm 2017): Giảm 05 tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh; giảm 973 tổ chức cấp phòng; 127 tổ chức cấp chi cục; 1.179 tổ
chức cấp phòng thuộc chi cục; ở cấp huyện: Giảm 294 tổ chức cấp cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện.
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức
Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã được thông qua tại Kỳ họp
thứ 8, Quốc hội Khóa XIV, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức
bộ máy hành chính ở trung ương và địa phương. Bộ Nội vụ cũng đã
ban hành văn bản về việc đăng ký thí điểm hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đã tham mưu cho các cấp có thẩm quyền ban hành các
văn bản và ban hành văn bản theo thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện sắp
xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH về việc sắp xếp
các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Theo đó,
có 45 tỉnh, thành phố xây dựng đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp
xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Bộ Nội vụ đã tham mưu trình Chính phủ để trình
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định và ban hành các nghị quyết sắp
xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đến tháng 12 năm 2020, đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành
chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Ở cấp huyện, đã tiến hành
sắp xếp đối với 21 đơn vị hành chính cấp huyện (trong đó: Có 09 đơn vị thuộc
diện phải sắp xếp, 03 đơn vị thuộc diện khuyến khích sắp xếp và 09 đơn vị liền
kề có liên quan đến sắp xếp), kết quả số lượng đơn vị hành chính cấp huyện giảm
là 08 đơn vị. Trong đó: Tỉnh Cao Bằng giảm 03 huyện; thành phố Hồ Chí Minh giảm
02 quận; tỉnh Quảng Ngãi giảm 01 huyện; tỉnh Quảng Ninh giảm 01 huyện; tỉnh Hòa
Bình giảm 01 huyện; các tỉnh Yên Bái, Điện Biên có điều chỉnh địa giới để sắp
xếp các đơn vị hành chính cấp huyện nhưng không làm giảm số lượng đơn vị hành
chính cấp huyện.
Đối với cấp xã, đã tiến hành sắp xếp
đối với 1.047 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó: Có 541 đơn vị thuộc diện phải
sắp xếp, 113 đơn vị thuộc diện khuyến khích sắp xếp và 393 đơn vị liền kề có
liên quan đến sắp xếp), kết quả giảm 557 đơn vị. Trong đó có những tỉnh giảm
nhiều đơn vị hành chính cấp xã, như: Hòa Bình giảm 59 đơn vị, tỷ lệ giảm
28,09%; Cao Bằng giảm 38 đơn vị, tỷ lệ giảm 19,10%; Phú Thọ giảm 52 đơn vị, tỷ
lệ giảm 18,77%; Hà Tĩnh giảm 46 đơn vị, tỷ lệ giảm 17,56%; Thanh Hóa giảm 76
đơn vị, tỷ lệ giảm 11,97%; Quảng Trị giảm 16 đơn vị, tỷ lệ giảm 11,35%; Lạng
Sơn giảm 26 đơn vị, tỷ lệ giảm 11,50%; Hải Dương giảm 29 đơn vị, tỷ lệ giảm
10,98%,...
Trong giai đoạn này, UBND các cấp
và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được sắp xếp, kiện toàn, cơ
bản theo đúng quy định, bước đầu đã tính đến đặc điểm của đơn vị hành
chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh, cấp huyện về cơ bản được giữ ổn định tương tự nhiệm kỳ 2007 -
2011, thực hiện theo đúng các nghị định của Chính phủ([21]), không nhất thiết
trung ương có tổ chức, cơ quan nào thì địa phương có tổ chức, cơ quan
đó.
Về biên chế công chức (tính đến ngày
31 tháng 3 năm 2020): Các bộ, ngành trung ương giảm 10.284 người so với số giao
năm 2015; các địa phương giảm 13.612 người so với số giao năm 2015.
Quy chế làm việc của Chính phủ qua các
nhiệm kỳ thường xuyên được cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết
cho phù hợp với thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo điều
hành, hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ([22]). Đồng thời, góp phần
đổi
mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới
chính quyền địa phương các cấp.
c) Đánh giá mô hình tổ chức và chất
lượng hoạt động của chính quyền địa phương
Nhìn chung, mô hình tổ chức cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được thực hiện đúng theo các chủ trương của Đảng
và pháp luật của Nhà nước. Bộ máy cơ bản đảm bảo tinh gọn; hiệu lực, hiệu quả
hoạt động được nâng cao gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động của UBND luôn được
thực hiện nghiêm túc theo quy chế làm việc được xây dựng từ đầu nhiệm kỳ. Chất
lượng, hiệu quả trong điều hành, quản lý hành chính nhà nước được nâng lên. Mối
quan hệ công tác giữa các sở, ban, ngành tỉnh với UBND cấp huyện và cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; và với UBND cấp xã được củng cố, gắn kết chặt
chẽ, đảm bảo tính linh hoạt trong thực thi nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến tích
cực trong giải quyết các công việc phối hợp liên ngành, góp phần thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch trên địa bàn địa phương.
Nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện thể chế về tổ chức chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ
chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt theo quy định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Quốc hội đã thông qua Nghị
quyết số 97/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm 2019 về thí điểm mô hình tổ chức
chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thực hiện từ ngày 01 tháng 7 năm 2021
cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thí điểm. Theo Nghị quyết, chính
quyền địa phương ở thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp
chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND; chính quyền địa
phương ở 177 phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là UBND phường. Kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19
tháng 6 năm 2020 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ
chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIV, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét Nghị quyết của Quốc hội về
sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và
thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 09 tháng 12 năm
2020, tại Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành biểu quyết
thông qua Nghị quyết về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và
thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
d) Về phân cấp quản lý
Giai đoạn vừa qua, bên cạnh việc rà
soát để khắc phục chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, các bộ, ngành
đã có những đề xuất cụ thể với Chính phủ đẩy mạnh việc phân cấp. Một số công
việc trước đây do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, nay đã được chuyển
cho các bộ, ngành trung ương và phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện([23]). Cùng với việc đẩy
mạnh phân cấp, Chính phủ tăng cường giải quyết các vấn đề có tính chiến lược,
tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao kèm theo Quyết định số
42/2014/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2014. Để đôn đốc việc thực hiện Quyết định
nêu trên, ngày 19 tháng 8 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công
tác của Thủ tướng Chính phủ kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 1642/QĐ-TTg). Các bộ, ngành
và địa phương cũng thường xuyên thành lập đoàn tiến hành kiểm tra phân cấp hoặc
lồng ghép với các nội dung kiểm tra chung về công tác tổ chức bộ máy.
đ) Về kiểm tra, đánh giá tình hình tổ
chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành và địa phương
Các bộ, ngành và địa phương thường
xuyên ban hành kế hoạch kiểm tra và tổ chức thực hiện việc kiểm tra, đánh giá
tình hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc.
Nhiều bộ, ngành, địa phương đã chỉ đạo lồng ghép kiểm tra về tổ chức bộ máy, về
công tác tổ chức, quản lý, sử dụng công chức, viên chức, công tác cải cách hành
chính và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
e) Cải cách và triển khai trên diện
rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành nhiều nghị định, quyết định về cơ chế tự chủ của
ĐVSNCL, nhất là các văn bản gần đây trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ, kinh tế và sự nghiệp khác. Theo đó, hệ thống các ĐVSNCL thuộc
bộ, ngành, địa phương từng bước được sắp xếp, đổi mới và bước đầu
triển khai thực hiện cơ chế tự chủ trên một số lĩnh vực. Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch mạng lưới ĐVSNCL thuộc một số ngành,
lĩnh vực và một số danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách
nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa
phương đã tiến hành rà soát, xây dựng đề án thành lập, tổ chức lại
và giải thể các ĐVSNCL để nâng cao hiệu quả hoạt động, qua đó, số ĐVSNCL
thuộc UBND và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cũng có xu hướng giảm.
Số lượng các ĐVSNCL được giao
quyền tự chủ về tài chính bước đầu đã có sự chuyển biến tích
cực. Giai đoạn 2011 - 2015, cả nước có 30.219 đơn vị sự nghiệp được
giao tự chủ tài chính, tăng 7.609 đơn vị so với năm 2006; trong đó,
1.114 đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động, tăng 322 đơn vị so với năm
2006. Đến năm 2016, triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP , Nghị định số
54/2016/NĐ-CP , Nghị định số 141/2016/NĐ-CP , có 109 đơn vị tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư; 1.878 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 12.841
đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.
Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các ĐVSNCL” đã đạt được những kết quả tích cực. So sánh thời điểm ngày
29 tháng 02 năm 2020 với năm 2017 và năm 2015 cho thấy: Số lượng ĐVSNCL thuộc
các bộ, ngành là 1.045 đơn vị, giảm 44 đơn vị so với năm 2017 và giảm 53 đơn vị
so với năm 2015. Trong khi đó, số lượng ĐVSNCL thuộc các địa phương là 49.445
đơn vị, giảm 4.670 đơn vị so với năm 2017 và giảm 6.189 đơn vị so với năm 2015.
Trong tổng số ĐVSNCL của cả nước, có 12.267 ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi
thường xuyên; 2.494 ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và 253 ĐVSNCL tự bảo đảm
chi thường xuyên và chi đầu tư.
Như vậy, tính đến ngày 29 tháng 02 năm
2020 kết quả sắp xếp tổ chức lại các ĐVSNCL của các bộ ngành, địa phương trong
cả nước đã giảm 11% so với năm 2015, đạt được mục tiêu của Nghị quyết đến năm
2021 tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên,
mới chỉ có các địa phương đạt mục tiêu của Nghị quyết (giảm được 11,12% ĐVSNCL
so với năm 2015), còn các bộ, ngành mới giảm 5,19% ĐVSNCL so với năm 2015.
g) Việc chuyển giao những nhiệm vụ từ
cơ quan hành chính nhà nước sang doanh nghiệp, các tổ chức ngoài nhà nước đảm
nhận
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chương
trình tổng thể, nhiều bộ, ngành và địa phương đã chủ động nghiên cứu, tổ chức
thực hiện có hiệu quả đề án thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành
chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện sang cho doanh nghiệp,
các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Theo thống kê, đến tháng 3 năm 2020 đã có 38 địa
phương([24]) triển khai
thí điểm việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ TTHC qua dịch vụ bưu
chính công ích ở các mức độ khác nhau([25]),
từng bước góp phần cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính, tinh
giản biên chế và nâng cao chất lượng giải quyết hồ sơ TTHC cho người dân, tổ
chức.
2. Những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- Tổ chức bộ
từ 2007 đến nay vẫn giữ nguyên số lượng, mặc dù có khả năng tinh gọn hơn. Bộ
máy bên trong bộ, cơ quan ngang bộ còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, số đơn
vị trực thuộc tăng lên với nhiều đơn vị có tư cách pháp nhân, làm cho
tình trạng “Bộ trong Bộ” vốn là hạn chế chưa khắc phục được của việc
sáp nhập các bộ, cơ quan từ giai đoạn trước càng nặng nề thêm. Mô
hình tổ chức tổng cục, cục, vụ không thống nhất.
- Nhiều vấn đề tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước chưa được quy định, hướng dẫn đầy đủ, cụ thể trong các văn bản
pháp luật. Một số VBQPPL về công tác tổ chức bộ máy có nội dung không thống
nhất, một số văn bản pháp luật có nội dung mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc
triển khai thực hiện tại địa phương. Việc ban hành không kịp thời các văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện các quy định về tổ chức bộ máy đã dẫn
đến tình trạng bị động, làm giảm tính đồng bộ khi triển khai kiện toàn tổ chức
bộ máy ở các cơ quan, các địa phương.
- Tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chậm được điều chỉnh theo hướng tinh
gọn, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động; chưa khắc phục
được một cách triệt để những chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ
giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ
quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính chưa được phát huy
mạnh mẽ nên vẫn phải phối hợp, họp nhiều, quy trình xử lý công việc
chậm.
- Chức năng, nhiệm
vụ, mô hình tổ chức của chính quyền địa phương được xác định và kiện
toàn theo Hiến pháp và luật, bước đầu thực hiện cơ chế phân quyền,
phân cấp, ủy quyền nhưng chưa đồng bộ và triệt để. Cơ quan chuyên môn
cấp tỉnh, cấp huyện chưa được hoàn thiện theo hướng phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo và phù hợp với đặc thù của địa phương, mà cơ
bản được tổ chức đồng nhất như nhau, chưa thật phù hợp với tinh thần
Kết luận số 64-KL/TW.
- Việc thực hiện chủ trương xã
hội hóa và đổi mới, sắp xếp lại khu vực các đơn vị sự nghiệp công
lập còn chậm, hiệu quả thấp. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được đẩy mạnh; số lượng người
làm việc trong các ĐVSNCL vẫn tăng về số lượng, nhất là ở các địa phương.
b) Nguyên nhân
- Mô
hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được hoàn thiện,
một số bộ phận, lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn
diện về yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
- Công tác chỉ
đạo cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chưa thực sự quyết liệt,
thiếu đồng bộ, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của nhiều cấp,
nhiều ngành, địa phương trong việc tìm tòi, đề xuất mô hình, phương pháp
mới để nâng cao hiệu quả; còn tâm lý bảo vệ lợi ích cục bộ, nể nang,
né tránh, ngại va chạm. Chưa có cơ chế bảo đảm gắn quyền hạn với trách nhiệm để
người đứng đầu có thể thực hiện mạnh mẽ việc đổi mới tổ chức bộ máy và tinh
giản biên chế.
- Một số chủ trương,
chính sách về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được triển khai
không đồng bộ, chưa được đặt trong tổng thể cải cách hành chính nên
hiệu quả thấp. Việc ban hành văn bản thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy
Chính phủ, chính quyền địa phương còn chậm và chưa đầy đủ. Đồng thời, còn
chậm ban hành nghị định quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của
các bộ, cơ quan ngang bộ (trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, đến tháng 7 năm
2017 mới ban hành được 13/30 nghị định); chậm sửa đổi, bổ sung những quy
định chưa phù hợp liên quan đến thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và đối với người hoạt động
không chuyên trách cấp xã cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho
việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành 30 văn bản([26])
có làm phát sinh tổ chức bộ máy hoặc biên chế, trong đó có những
văn bản làm tăng bộ máy và biên chế.
- Việc chia, tách
các đơn vị hành chính ở cấp huyện, cấp xã tuy đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và nguyện vọng của địa phương nhưng cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tăng bộ máy, tăng số cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện, tăng đơn vị sự nghiệp, biên chế công chức, viên
chức và những người hoạt động không chuyên trách.
- Nhiều địa phương
chưa thực hiện đúng quy định của trung ương về rà soát, tinh giản biên chế gắn
với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao chất lượng quản
lý nhà nước; một số cơ quan còn bổ nhiệm số lượng cấp phó vượt quy định, tỷ
lệ lãnh đạo nhiều hơn chuyên viên; chưa chủ động đề xuất, kiến nghị với trung
ương sửa đổi, bổ sung các văn bản không phù hợp với thực tế địa phương.
1. Kết quả chủ yếu đã
đạt được
a) Xây dựng, ban hành cơ chế, chính
sách pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức
Trong giai đoạn 2011 - 2020, các quy
định về cán bộ, công chức, viên chức được tiếp tục hoàn thiện đồng bộ trên tất
cả các khâu từ tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng
ngạch, thăng hạng. Triển khai Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức nhằm xây dựng một nền công vụ “chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả” theo Quyết định số
1557/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, một loạt cơ chế, chính sách pháp
luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức đã được Chính phủ ban hành. Đến
ngày 31 tháng 12 năm 2017, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành 59 Nghị định
và ban hành theo thẩm quyền 92 Thông tư và Thông tư liên tịch trong lĩnh vực
quản lý cán bộ, công chức, viên chức([27]).
Bộ Nội vụ cũng đã kịp thời phối hợp với cơ quan có liên quan sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới các quy định về quản lý cán bộ, công chức, viên chức.
Ngày 19 tháng 5 năm 2018, Ban Chấp
hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ. Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06 tháng
6 năm 2018 thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW; Chính phủ ban hành Nghị quyết số
132/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 về Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ đã ban hành và trình
cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức([28]).
Thông qua đó, các quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, về vị trí, việc
làm, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức đã được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý.
b) Kết quả triển khai và thực hiện các
nội dung về cải cách chế độ công vụ, công chức
Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực
triển khai thực hiện, bố trí công chức đảm bảo theo vị trí việc làm và tiêu
chuẩn ngạch công chức, viên chức tương ứng với bản mô tả công việc, khung năng
lực của từng vị trí. Việc thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các chức danh
lãnh đạo, quản lý cũng đã bước đầu được thực hiện. Bộ Chính trị đã có Thông báo
Kết luận số 202-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2015 về Đề án “Thí điểm đổi mới cách
tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp Vụ, cấp Sở, cấp phòng”. Tiếp theo đó, theo chỉ
đạo của Ban Bí thư tại Công văn số 3135-CV/VPTW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của
Văn phòng Trung ương Đảng về việc triển khai thực hiện Đề án, Bộ Nội vụ đã có
Văn bản số 2424/BNV-CCVC ngày 09 tháng 5 năm 2017 hướng dẫn thực hiện Đề án thí
điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng. Theo
Đề án đã được phê duyệt, cả nước có 14 cơ quan trung ương và 22 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương được chọn thực hiện thí điểm đổi mới phương thức tuyển
chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng. Trong tháng 4 năm 2020, Bộ
Nội vụ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 3 năm thực hiện Đề án “Thí điểm
đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng”, sau gần 3
năm thực hiện đã có 12/14 cơ quan trung ương tổ chức thi tuyển đối với 29 chức
danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ và cấp phòng, có 42 ứng viên trúng tuyển
(cấp vụ có 32 ứng viên; cấp phòng có 10 ứng viên). Đối với các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, đã có 17/22 địa phương tổ chức thi tuyển 86 chức danh
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở và cấp phòng, có 368 ứng viên trúng tuyển (cấp
sở có 33 ứng viên; cấp phòng có 335 ứng viên). Bên cạnh đó, theo báo cáo của
các bộ, ngành và địa phương, giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 3 năm 2020, đã có
71 công chức tại bộ, ngành và 24.313 công chức tại các tỉnh đã được bổ nhiệm
vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh (Biểu đồ 10, Biểu đồ 11).
Việc tuyển dụng công chức thường xuyên
được đổi mới về phương pháp, cách thức, nội dung, theo đó, các bộ, ngành và địa
phương đã ƯDCNTT để tổ chức thi trắc nghiệm trên máy tính; bố trí, lắp đặt máy
ghi hình hỗ trợ giám sát công tác coi thi. Để thu hút những người có tài năng (kể
cả khu vực ngoài nhà nước) vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, Chính phủ
đã có quy định về việc xét tuyển đặc cách đối với những người tốt nghiệp thủ
khoa, tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài hoặc có kinh nghiệm công tác
từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển
dụng. Đồng thời, để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc, Bộ Nội
vụ đã xây dựng Đề án về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Giai đoạn 2011 - 2020, công tác đánh giá,
phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm được thực hiện theo các quy
định của Đảng và Nhà nước và cũng có những sự đổi mới nhất định, từ thể chế đến
tổ chức thực hiện([29]).
Biểu đồ 10:
Số lượng tuyển dụng và bổ nhiệm theo hình thức thi cạnh tranh tại các bộ,
ngành
|
Biểu đồ 11:
Số lượng tuyển dụng và bổ nhiệm theo hình thức thi cạnh tranh tại các tỉnh,
thành phố
|
Giai đoạn 2011 - 2015, tổng số cán bộ,
công chức được đào tạo, bồi dưỡng là gần 2.900.000 lượt người, trong đó bồi
dưỡng về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ là 1.870.000 lượt người, đạt tỷ lệ gần
65% tổng số lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện Quyết
định số 163/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025,
công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đổi
mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn. Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đã
được tiến hành sắp xếp, tổ chức lại, theo hướng tinh gọn, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động. Việc tổ chức biên soạn lại các chương trình,
tài liệu đã được quan tâm thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án
“Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức
giai đoạn 2019 - 2030”([30])
nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ cho công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu thực
thi công vụ và làm việc trong môi trường quốc tế.
Giai đoạn 2016 - 2020 (tính đến tháng
3 năm 2020), cả nước đã tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 5,4 triệu lượt cán
bộ, công chức, viên chức([31]).
Theo báo cáo của các bộ, ngành địa phương, tính đến tháng 3 năm 2020, tổng số
lượt công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong cả giai đoạn 2016 - 2020 tại các
bộ, ngành là 594.654 lượt người, trong khi đó, tại các tỉnh, thành phố, số
lượng là hơn 1.151.654 triệu lượt công chức (Biểu đồ 12, Biểu đồ 13). Tổng số viên
chức tại các bộ, ngành trung ương và các tỉnh, thành phố được đào tạo, bồi
dưỡng cũng tăng đều qua các năm. Năm 2019 có số lượng viên chức được đào tạo,
bồi dưỡng tăng gấp 2,7 lần so với năm 2016, từ hơn 419 nghìn lên hơn 1,1 triệu
lượt viên chức.
Việc áp dụng công nghệ thông tin, xây
dựng phần mềm quản lý cán bộ, công chức được thực hiện tại nhiều bộ, ngành và
địa phương và bước đầu hình thành cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức, phục vụ tốt
cho công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chế độ, chính sách cho cán bộ, công
chức, viên chức. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quy định
góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ([32]). Ngày 02 tháng 4 năm
2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 364/QĐ-TTg thành lập Tổ công
tác về kiểm tra công vụ, do Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm Tổ trưởng. Thời gian qua,
Tổ công tác đã tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động công vụ tại nhiều bộ, ngành
và địa phương, qua đó, đã kịp thời chấn chỉnh và chỉ đạo xử lý một số tồn tại,
hạn chế trong công tác tuyển dụng, luân chuyển, bổ nhiệm công chức, viên chức
tại các cơ quan, đơn vị.
Biểu đồ 12:
Số lượng công chức được đào tạo, bồi dưỡng cả nước
|
Biểu đồ 13:
Số lượng viên chức được đào tạo, bồi dưỡng cả nước
|
c) Về công chức cấp xã
Năm 2015, tổng số cán bộ, công chức
cấp xã có 234.061 người, bình quân 21 người/xã (trong đó: Cán bộ cấp xã có
116.043 người, công chức cấp xã có 118.018 người). Đến tháng 4 năm 2020, tổng
số cán bộ, công chức cấp xã có 234.617 người, bình quân 21 người/xã (trong đó:
Cán bộ cấp xã có 113.672 người, công chức cấp xã có 120.945 người). Nhìn chung,
trình độ, năng lực, trách nhiệm, phong cách, thái độ của công chức cấp xã đã có
những cải thiện nhất định trong thời gian vừa qua. Chất lượng thực thi công vụ
của đội ngũ công chức cấp xã cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến năm 2018,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức cấp xã là: Sau đại học
3,23%; đại học 58,23%; trung cấp, cao đẳng 37,86%; sơ cấp và chưa qua đào tạo
0,89 %. Về trình độ chính trị: Cử nhân 1,02%; cao cấp lý luận 3,11 %; trung cấp
lý luận 48,9%; sơ cấp và chưa qua đào tạo, bồi dưỡng 28,07%.
d) Cải cách chính sách tiền lương, bảo
hiểm xã hội và ưu đãi người có công
- Cải cách chính sách tiền lương đã
được quan tâm và đạt được những kết quả tích cực. Từ năm 2011 đến nay, Chính
phủ đã ban hành 07 nghị định quy định về các cơ chế, chính sách tiền lương, Bộ
Nội vụ đã tham mưu, trình Ban Cán sự đảng Chính phủ việc xây dựng Đề án cải
cách chính sách tiền lương theo từng giai đoạn phát triển của đất nước tại các
Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI; Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI. Đặc biệt, Hội
nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết
số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh
nghiệp. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2018
về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW. Từ
năm 2011 đến nay, Chính phủ đã từng bước điều chỉnh mức lương cơ sở đối với khu
vực hưởng lương ngân sách phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và khả năng
ngân sách nhà nước từ 730.000 đồng/tháng (năm 2011) lên 1.490.000 đồng/tháng
(năm 2019).
- Từ năm 2007, quan điểm của Đảng về
chính sách bảo hiểm xã hội chính thức được luật hóa bằng Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2006. Tiếp theo đó, thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm
2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020, Luật Bảo hiểm xã hội được sửa
đổi toàn diện vào năm 2014 với nhiều nội dung cải cách, đổi mới.
- Kết quả thực hiện chính sách người
có công: Đến nay cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công với cách
mạng; trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng gần 1,4
triệu người và khoảng 300.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền
tuất hàng tháng với tổng kinh phí khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.
2. Những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, kể cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở một số ngành, lĩnh vực, cơ
quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế, chưa thực sự đảm bảo so với yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
- Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế,
bất cập, một số nội dung thực hiện còn hình thức, chưa tuân thủ đầy đủ các quy
định pháp luật. Việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công
chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức có dấu
hiệu vi phạm quy định của Đảng và pháp luật nhà nước. Tình trạng tham nhũng,
tiêu cực, nhũng nhiễu nhân dân vẫn xảy ra trong một bộ phận cán bộ, công chức.
Kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; công tác kiểm tra, thanh tra công vụ
chưa thường xuyên; việc phát hiện các vụ việc tiêu cực chưa kịp thời, còn hạn
chế, công tác xử lý cán bộ, công chức vi phạm pháp luật chưa triệt để.
- Công tác đánh giá, phân loại cán bộ,
công chức, viên chức mặc dù đã có những đổi mới nhất định, tuy nhiên, kết quả
đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm của các bộ, ngành,
địa phương chưa phản ánh được thực tế kết quả thực nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức.
b) Nguyên nhân
- Tư duy, phương
pháp quản lý cán bộ, công chức ở nhiều bộ, ngành trung ương và địa phương chưa
có sự đổi mới. Việc đổi mới quản lý cán bộ, công chức, viên chức theo luật chậm
được thực hiện, một số quy định về quản lý cán bộ, công chức, viên chức được
ban hành quá lâu không còn phù hợp với thực tế nhưng chưa được thay đổi.
- Công tác kiểm
tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật chưa
thường xuyên, tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hiệu
quả thấp.
- Chưa thực hiện
có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nguồn công chức trẻ theo ngành nghề đào
tạo mà các bộ, ngành, địa phương đang cần.
- Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa hiệu quả.
1. Kết quả chủ yếu
đạt được
a) Hoàn thiện chính sách và hệ thống
thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công, chính sách an sinh xã
hội
Trong giai đoạn vừa qua, nhiều chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành, đã từng bước
góp phần hoàn thiện chính sách về thuế, thu nhập, tiền lương và chính sách an
sinh xã hội, trở thành động lực phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế([33]).
Các chính sách thuế được ban hành đã
góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước để phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, ổn định kinh tế vĩ
mô, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển theo cơ chế thị trường.
b) Tình hình triển khai các chính sách
cải cách về thuế, thu nhập, tiền lương, tiền công và các chính sách an sinh xã
hội
Thực hiện các chủ trương, định hướng
của Đảng về cải cách chính sách tiền lương, chính sách xã hội giai đoạn 2011 -
2020, Chính phủ đã thực hiện chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức,
người hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm từ ngân sách nhà nước([34]); điều chỉnh mức lương cơ
sở áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và
người lao động hưởng lương từ ngân sách tùy theo điều kiện ngân sách hàng năm([35]); đồng thời điều
chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng và trợ cấp, phụ
cấp ưu đãi người có công; nâng mức trợ giúp xã hội đối với các đối tượng bảo
trợ xã hội([36]).
Tính đến ngày 01 tháng 7 năm 2020, mức lương cơ sở của người lao động trong khu
vực công đạt 1.490.000 đồng/tháng, bằng 104% so với mức lương cơ sở năm 2011
(730.000 đồng/tháng). Giai đoạn 2011 - 2020, thu nhập của người lao động khu
vực hành chính, sự nghiệp công đã có sự cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao đời
sống của cán bộ, công chức, viên chức, rút ngắn khoảng cách với mức lương bình
quân trên thị trường lao động.
c) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách
tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; quản lý việc vay và trả nợ nước ngoài,
nợ Chính phủ, nợ quốc gia, nợ công.
Các cơ chế, chính sách về quản lý tài
chính doanh nghiệp và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và được điều chỉnh, bổ sung để phù
hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường, thúc đẩy
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà
nước, tạo minh bạch trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước. Các thể chế,
chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý nợ công cũng đã được hoàn thiện và
đổi mới, từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế.
d) Đổi mới cơ chế sử dụng kinh phí nhà
nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; phát
triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN); xây dựng đồng bộ chính
sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công
nghệ
Bảng 1: Số lượng
DNKHCN tại một số tỉnh/thành phố điển hình
Tỉnh/Thành
phố
|
Số lượng
DNKHCN
năm 2019
|
Số lượng
DNKHCN
năm 2018
|
Thành phố Hồ Chí
Minh
|
78([37])
|
58
|
Hà Nội
|
60([38])
|
44
|
Thanh Hóa
|
24
|
23
|
Long An
|
15
|
11
|
Sơn La
|
12
|
9
|
Quảng Ninh([39])
|
11
|
11
|
Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển
DNKHCN tiếp tục được hoàn thiện. Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về DNKHCN, quy định những điểm đổi mới căn bản,
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của DNKHCN. Ngày 01 tháng 3 năm
2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội
dung về việc thu hút, sử dụng, trọng dụng cá nhân, chuyên gia hoạt động khoa
học và công nghệ quy định tại Nghị định số 40/2014/NĐ-CP và Nghị định số
87/2014/NĐ-CP. Tính đến tháng 8 năm 2019, cả nước có 468 doanh nghiệp được cấp
Giấy chứng nhận DNKHCN, tăng 82 doanh nghiệp so với thời điểm tháng 8 năm 2018.
DNKHCN được cấp giấy chứng nhận có kết quả khoa học và công nghệ thuộc hầu hết
các lĩnh vực công nghệ được khuyến khích phát triển, trong đó chủ yếu: Công
nghệ sinh học (38,5%), công nghệ tự động hóa (20,6%), công nghệ vật liệu mới
(9,8%), công nghệ thông tin (9,3%).
đ) Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách
cho cơ quan hành chính nhà nước
Công tác quản lý tài chính, ngân sách
có nhiều chuyển biến rõ nét. Bước đầu đã hình thành cơ sở dữ liệu của các bộ,
ngành và địa phương trong thực hiện các nội dung cải cách tài chính công; việc
giám sát chi tiêu bằng quy chế chi tiêu nội bộ đã có nhiều chuyển biến tích
cực, làm tăng tính hiệu quả của chi tiêu công, hạn chế tham nhũng, lãng phí
trong sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, từng
bước tăng tính minh bạch trong thực hiện ngân sách.
e) Tăng cường đầu tư, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, y
tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao
Việc triển khai chính sách xã hội hóa
trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; giáo dục và đào tạo; y tế... đã
từng bước khai thác, phát huy có hiệu quả, nguồn lực xã hội hóa đã đóng góp
tích cực vào sự nghiệp phát triển ngành, từng bước nâng cao chất lượng hoạt
động, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, góp phần
nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục, y tế cho người dân.
g) Đẩy mạnh xã hội hóa, hoàn thiện thể
chế và tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hình thức công - tư
(PPP) đối với việc cung cấp dịch vụ công trong y tế, giáo dục và đào tạo, văn
hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng
Các chính sách xã hội hóa đã tạo điều
kiện huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện kế hoạch
phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao tại
các địa phương, mang lại nhiều chuyển biến tích cực với chất lượng ngày càng
được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập ngày càng tăng; mở rộng mạng
lưới các cơ sở khám chữa bệnh, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh với số lượng và
chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của các tầng lớp nhân dân.
h) Thực hiện đổi mới cơ chế tài chính
đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập
Hầu hết các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương đã thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế
và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước và Nghị định số
117/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP.
Giai đoạn 2014 - 2018, tỷ lệ kinh phí giao tự chủ/tổng kinh phí được giao chi
quản lý hành chính của các bộ, cơ quan trung ương trung bình khoảng 68% và có
xu hướng tăng (năm 2014 đạt 69,7%, năm 2018 tăng lên 73,2%)([40]). Tại
các địa phương, kinh phí giao tự chủ/tổng kinh phí được giao chi quản lý hành
chính trong cùng giai đoạn trung bình khoảng 56% và có xu hướng giảm (năm 2014
là 58,9% thì đến năm 2018 chỉ còn 52,3%)([41]).
Hệ thống các văn bản pháp luật quy
định về tự chủ của ĐVSNCL, trong đó có tự chủ về tài chính, đã từng bước được
hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh giao quyền tự chủ tài chính cho các ĐVSNCL([42]). Đồng thời, các bộ,
ngành đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai rà soát, sắp xếp, tổ chức lại
các ĐVSNCL theo quy định tại Nghị quyết số 19-NQ/TW và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành (trừ Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Thông tấn xã Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020, số lượng
các ĐVSNCL tự chủ ngày càng tăng, từ 449 đơn vị ở năm 2011 lên 761 đơn vị ở năm
2015, 816 đơn vị ở năm 2017 và 848 đơn vị ở tháng 3 năm 2020. So sánh tăng,
giảm số lượng ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành năm 2020 với năm 2015 cho thấy,
ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên tăng hơn 66 đơn vị, trong khi đó, ĐVSNCL tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên tăng hơn 33 đơn vị ở năm 2020 so với năm
2015. Số lượng ĐVSNCL do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên giảm 33 đơn vị ở năm
2020 so với năm 2015 (Biểu đồ 14, Biểu đồ 15).
Biểu đồ 14:
Số lượng ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành trung ương
|
Biểu đồ 15:
Số lượng tăng/giảm ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành năm 2020 so sánh với năm
2015
|
Biểu đồ 16:
Số lượng ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh
|
Biểu đồ 17:
Số lượng tăng/giảm ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh năm 2020 so sánh với năm 2015
|
Ở địa phương, theo số liệu tại báo cáo
tổng kết của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy, năm 2011 số
lượng ĐVSNCL tự chủ là 30.736 đơn vị; đến năm 2015 là 31.138 đơn vị; năm 2017
là 33.324 đơn vị và đến tháng 3 năm 2020 là 32.066([43]) đơn vị. Số lượng và
tỷ lệ tự chủ theo các mức độ của các ĐVSNCL cũng có sự thay đổi qua các năm.
Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, cơ cấu tự chủ của các ĐVSNCL thuộc UBND
cấp tỉnh; cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và UBND cấp huyện cũng có sự thay đổi,
theo đó, tỷ lệ tự chủ của các ĐVSNCL bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
ngày càng tăng và ĐVSNCL nhà nước bảo đảm chi thường xuyên cũng có xu hướng
giảm (Biểu
đồ 16,
Biểu
đồ 17).
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 và một số văn bản khác của Chính phủ
đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều tổ chức khoa học và công nghệ đã phát
huy hiệu quả trong hoạt động, thu hút nguồn lực của xã hội cho hoạt động khoa
học và công nghệ và đầu tư có trọng điểm.
2. Những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- Chính sách tiền lương trong khu vực
Nhà nước hiện nay chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy và khuyến khích cán
bộ, công chức Nhà nước làm việc, tăng năng suất lao động.
- Hệ thống khuôn khổ pháp lý về chính
sách xã hội chưa đồng bộ; các chính sách, chương trình được ban hành dựa trên
vấn đề và nhóm đối tượng mới phát sinh mà không theo một chiến lược và tầm nhìn
tổng thể, dài hạn.
- Việc thực hiện tự chủ tài chính nhìn
chung còn chậm, mức độ tự chủ chưa cao, đặc biệt ở các địa phương; nguồn thu sự
nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn là ngân sách nhà nước cấp phát; chưa có bước
chuyển biến mang tính đột phá; chưa thực sự đồng bộ về tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế với tự chủ về tài chính.
Hầu hết các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công chưa tính đủ chi phí vào giá, dẫn
đến khó khăn cho các ĐVSNCL khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính.
b) Nguyên nhân
- Thể chế kinh tế nói chung, thể chế
tài chính nói riêng trong một số nội dung còn chưa bắt kịp đòi hỏi của thực
tiễn và liên tục phải sửa đổi, bổ sung.
- Hệ thống tổ chức, bộ máy nhà nước
cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ
chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng
chéo, trùng lắp,...; phân công, phân cấp, phân quyền chưa coi trọng hiệu quả
kinh tế, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa rõ
ràng; cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình còn hạn chế.
- Tư duy bao cấp vẫn còn tồn tại trong
các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở một số lĩnh vực. Chưa thực sự coi
trọng một cách đầy đủ vai trò của thị trường trong huy động và phân bổ các
nguồn lực trong xã hội.
1. Kết quả chủ yếu
đạt được
a) Việc ban hành và tổ chức thực hiện
cơ chế, chính sách phát triển ƯDCNTT, xây dựng Kiến trúc Chính phủ điện tử; đô
thị thông minh; Cổng dịch vụ công quốc gia
Thực hiện Chương
trình tổng thể, Chính phủ đã từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển ƯDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, những thể chế, chính sách
này bao trùm nhiều lĩnh vực ƯDCNTT, từ các chương trình, định hướng của quốc
gia([44]),
cho tới cung cấp thông tin, dịch vụ công([45]); chuyển đổi số và đô thị thông minh([46])... Để đổi mới
công tác chỉ đạo điều hành về xây dựng Chính phủ điện tử, Thủ tướng Chính phủ
đã thành lập Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử và ban hành Quy chế hoạt động
của Ủy ban. Thủ
tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030([47]),
nhằm thực hiện “mục tiêu kép” là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội
số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra
toàn cầu.
Về xây dựng Kiến trúc
Chính phủ điện tử: Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng, ban hành Khung
Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 1.0; tiếp theo đó, ngày 31 tháng
12 năm 2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số
2323/QĐ-BTTTT ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản
2.0. Hiện nay, đã có 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 61/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng, ban hành Kiến trúc và đang tổ chức triển khai, thực
hiện.
Về xây dựng đô thị
thông minh: Bộ
Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 829/QĐ-BTTTT ngày 31 tháng
5 năm 2019 ban hành Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh (Phiên
bản 1.0). Đến nay, đã có 03 địa phương đã ban hành Kiến trúc ICT phát triển đô
thị thông minh bao gồm: Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thái Nguyên. Một số địa phương
khác đang xây dựng: Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình, Đắk Lắk, Lào Cai, Yên
Bái…
b) Kết quả đạt được trong ƯDCNTT tại
bộ, ngành và địa phương
Về hạ tầng kỹ thuật ƯDCNTT của các bộ,
ngành, địa phương đã đạt được nhiều kết quả tích cực (Bảng 2).
Tính đến tháng 12 năm 2019 đã cung cấp
trên 220.000 chứng thư số cho 95 đầu mối (bao gồm Văn phòng Trung ương Đảng, 31
bộ, ngành trung ương và 63 địa phương) và 351 chứng thư số cho lãnh đạo cấp bộ,
cấp tỉnh. Trong đó, có 89/95 bộ, ngành, địa phương đã tích hợp chữ ký số, 06/95
đơn vị chưa tích hợp([48])
chữ ký số chuyên dùng Chính phủ vào hệ thống quản lý văn bản và điều hành để sử
dụng trong xử lý công việc. Riêng số liệu theo Báo cáo của Bộ Thông tin và
Truyền thông([49])
tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2018, Ban Cơ yếu Chính phủ đã cấp 140.297
chứng thư số cho 30 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, chứng thư số đã
cấp cho các bộ, ngành là 60.592, các tỉnh là 79.705. Số chứng thư đang hoạt
động ở các bộ, ngành là 56.247, các tỉnh là 75.800.
Bảng 2: Hạ tầng kỹ
thuật ƯDCNTT của các bộ, ngành, địa phương
(Tính đến
thời điểm 15/7/2020)
TT
|
Tiêu chí
|
Bộ, cơ
quan ngang bộ
|
Cơ quan
thuộc Chính phủ
|
Tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương
|
1
|
Tỷ lệ cơ quan nhà
nước đã kết nối với mạng diện rộng (WAN)
|
97%
|
96%
|
91%
|
2
|
Tỷ lệ bộ/tỉnh:
|
|
|
|
- Có trung tâm dữ
liệu
|
86,36% (19/22)
|
66,66% (4/6)
|
93,65% (59/63)
|
- Có trung tâm dữ
liệu dự phòng
|
59,09% (13/22)
|
50% (3/6)
|
50,79% (32/63)
|
- Có phòng máy chủ
|
13,64% (3/22)
|
33,33% (2/6)
|
6,35% (4/63)
|
3
|
Tỷ lệ bộ/tỉnh đã
triển khai mô hình điện toán đám mây
|
72,73% (16/22)
|
83,33% (5/6)
|
63,49% (40/63)
|
Các bộ, ngành đã tích cực xây dựng các
cơ sở dữ liệu quốc gia và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hình
thành nên cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết TTHC cho người dân, tổ
chức, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Điển hình là các cơ sở dữ liệu, như: Dữ liệu quốc gia về dân cư; dữ liệu quốc
gia về đất đai; dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; dữ liệu quốc gia về
tài chính; dữ liệu quốc gia về bảo hiểm (thu thập thông tin cá nhân của khoảng
93 triệu người); dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; dữ liệu giáo dục; dữ liệu
danh mục dùng chung của Bộ Y tế,… Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia
đã được xây dựng, từng bước kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa
phương. Hết tháng 6 năm 2020, khoảng 65,21% bộ, ngành, địa phương đã xây dựng Nền
tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh.
- Về ƯDCNTT trong hoạt động của bộ,
ngành, địa phương:
Các bộ, ngành, địa phương đã tập trung
đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, triển khai xây dựng nhiều phần mềm,
cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử theo
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Triển khai việc gửi, nhận văn bản
điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg , ngày 12 tháng 7 năm 2018,
Văn phòng Chính phủ đã chính thức khai trương đưa vào sử dụng Trục liên thông
văn bản quốc gia, kết nối liên thông để phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa
95/95 cơ quan nhà nước bộ, ngành, địa phương, kết nối với Văn phòng Trung ương
Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, một số tỉnh ủy, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Giám sát tài chính
quốc gia, các tổ chức chính trị - xã hội và các tập đoàn, tổng công ty. Từ khi
khai trương, có hơn 3,8 triệu văn bản điện tử được gửi, nhận điện tử trên Trục
liên thông văn bản quốc gia. Số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trong năm 2020
tăng 2,5 lần so với năm 2019. Việc gửi nhận văn bản điện tử giúp tiết kiệm chi
phí xã hội vào khoảng trên 1.200 tỷ đồng/năm.
Từ năm 2016 đến tháng 3 năm 2020, theo
báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, số cơ quan, đơn vị thực hiện việc sử
dụng phần mềm quản lý văn bản hoặc kết nối giữa các hệ thống quản lý văn bản và
điều hành của bộ, tỉnh với Trục liên thông văn bản quốc gia, ở các bộ, ngành là
1.668 cơ quan, đơn vị; số cơ quan triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản
ở các bộ, ngành là 5.551 cơ quan, đơn vị. Đối với các tỉnh: Tổng số là 44.233
cơ quan, đơn vị thực hiện việc sử dụng phần mềm quản lý văn bản hoặc kết nối
giữa các hệ thống quản lý văn bản và điều hành của tỉnh với Trục liên thông văn
bản quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp ký
điện tử ban hành Quyết định số 274/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Cổng dịch vụ công
quốc gia([50]).
Đồng thời, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (Hệ
thống e-cabinet) cũng đã chính thức được đưa vào sử dụng, góp phần đổi mới
phương thức làm việc của Chính phủ trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông
tin, hướng tới Chính phủ không giấy tờ, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các
thành viên Chính phủ([51]).
Văn phòng Chính phủ đã khai trương Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia; Trung
tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ([52]). Một số bộ, ngành,
địa phương đã xây dựng Trung tâm điều hành tích hợp, chia sẻ các cơ sở dữ liệu,
như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các tỉnh: Phú Thọ, Kon
Tum, Trà Vinh,...
Một số văn bản về lưu trữ điện tử cũng
đã được ban hành([53]).
Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực thực hiện việc gửi, nhận văn bản điện
tử có ký số trên Trục liên thông văn bản quốc gia, tiến tới ký số tất cả các
văn bản điện tử gửi, nhận văn bản (trừ văn bản Mật). Một số bộ, ngành, địa
phương cũng đã xây dựng các phần mềm hoặc kết nối phần mềm chuyên ngành của bộ,
ngành phục vụ các hoạt động quản lý, điều hành([54]). Từ năm 2011 đến
nay, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, tỷ lệ trung bình công chức
được cấp tài khoản hộp thư điện tử công vụ tại các bộ, ngành là 99%, trong khi
đó, tại các tỉnh, tỷ lệ này là khoảng 79,69%. Từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020,
trung bình tỷ lệ văn bản hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 86,1%. Tuy nhiên, trong các năm 2018
và năm 2019 tỷ lệ này đạt 100%.
Biểu đồ 18:
Tỷ lệ văn bản hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương qua các năm
- Cung cấp thông tin và dịch vụ công
trực tuyến (DVCTT) cho người dân và doanh nghiệp; triển khai các hệ thống một
cửa điện tử:
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền
thông, số lượng DVCTT tăng đều qua các năm. Cho tới quý II năm 2020, số DVCTT mức
3 cả nước là 38.833; DVCTT mức 4 cả nước là 17.959 dịch vụ. Từ năm 2015
đến tháng 3 năm 2020, trung bình số lượng cơ quan, đơn vị xây dựng hoặc sử dụng
phần mềm một cửa điện tử ở các bộ, ngành là 92 cơ quan đơn vị; trung bình trong
06 năm ở 63 tỉnh, thành phố là gần 5.800 cơ quan, đơn vị. Tỷ lệ trung bình hồ
sơ giải quyết qua hệ thống một cửa điện tử tại các tỉnh từ năm 2015 đến tháng 3
năm 2020 là 84,44%. Trong khi đó, tỷ lệ trung bình từ 2015 đến tháng 3 năm 2020
của các bộ là 35,85%, tuy nhiên, ở năm 2019, tỷ lệ này là 52,6%.
Bảng 3: So sánh số
lượng DVCTT mức độ 3 và 4 năm 2019 và một số quý của năm 2020
Tiêu chí
|
Mức độ
|
Năm 2019
|
Quý I/2020
|
Quý
II/2020
|
Số lượng DVCTT
|
Mức 3 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
37.206
762
36.444
|
37.679
838
36.841
|
38.833
795
38.038
|
Mức 4 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
13.559
859
12.700
|
15.203
929
14.274
|
17.959
1325
16.634
|
DVCTT mức 3, 4 cả
nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
50.765
1.621
49.144
|
52.882
1.767
51.115
|
56.792
2.120
54.672
|
Số lượng DVCTT có
phát sinh hồ sơ
|
Mức 3 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
4.862
282
4.580
|
8.980
322
8.658
|
10.813
348
10.465
|
|
Mức 4 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
2.592
634
1.958
|
4.033
746
3.287
|
5.115
803
4.312
|
DVCTT có phát sinh
hồ sơ 3, 4 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa
phương
|
7.454
916
6.538
|
13.013
1.068
11.945
|
15.928
1.151
14.777
|
Bảng 4: Hiệu quả cung
cấp DVCTT
Tiêu chí
|
DVCTT
|
Năm 2019
|
Quý I/2020
|
Quý
II/2020
|
Tỷ lệ DVCTT mức 3,
4
|
DVCTT mức 3 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
29,64%
15,88%
30,08%
|
30,24%
17,36%
30,76%
|
31,63%
16,83%
32,22%
|
DVCTT mức 4 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
10,76%
17,90%
10,48%
|
12,20%
19,25%
11,92%
|
14,63%
28,05%
14,09%
|
DVCTT mức 3, 4 cả
nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
40,40%
33,78%
40,56%
|
42,44%
36,61%
42,68%
|
46,26%
44,88%
46,31%
|
Tỷ lệ DVCTT có phát
sinh hồ sơ
|
DVCTT mức 3 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
13,15%
37,05%
12,57%
|
23,83%
38,42%
23,35%
|
27,84%
43,77%
27,51%
|
|
DVCTT mức 4 cả nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
19,10%
73,89%
15,42%
|
26,53%
80,03%
23,40%
|
29,42%
82,67%
26,32%
|
DVCTT mức 3, 4 cả
nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
14,63%
55,18%
13,19%
|
24,61%
60,44%
23,38%
|
28,34%
64,12%
27,15%
|
Tỷ lệ hồ sơ giải
quyết trực tuyến
|
Cả nước
- Bộ, ngành
- Địa phương
|
-
|
17,93%
22,18%
13,68%
|
19,30%
24,05%
14,56%
|
Biểu đồ 19: Tỷ lệ hồ
sơ giải quyết qua hệ thống một cửa điện tử
c) Tình hình triển khai hệ thống quản
lý chất lượng phù hợp Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 và TCVN ISO 9001:
2015 tại bộ, ngành
Ngày 05 tháng 3 năm
2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg về việc áp
dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008
vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước (sau
đây gọi tắt là Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg). Một trong những nội dung thay đổi
chính của Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg là cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành
chính nhà nước tự công bố hệ thống quản lý chất lượng phù hợp Tiêu chuẩn quốc
gia TCVN ISO 9001. Kết quả triển khai cho thấy, đã có 22/22 bộ, ngành phê duyệt
Kế hoạch triển khai và giao đơn vị chủ trì, giúp việc triển khai thực hiện Quyết
định số 19/2014/QĐ-TTg. Công tác kiểm tra với số lượng các bộ thực hiện tăng
lên hằng năm. Năm 2015 có 09 bộ thực hiện việc kiểm tra, năm 2019 con số này là
18 bộ, ngành. Các Bộ: Công an, Quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công
bố Mô hình khung hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2015 cho các cơ
quan, tổ chức theo hệ thống ngành dọc trực thuộc. Trong khi đó, Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tiếp tục duy trì mô hình khung
theo TCVN ISO 9001:2008 .
Tại địa phương: Đã có
63/63 địa phương phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số
19/2014/QĐ-TTg .
Công tác kiểm tra, báo cáo việc thực hiện ISO cũng được các địa phương triển
khai thực hiện có kết quả. Năm 2015, có 31 địa
phương; năm 2016 có 40 địa phương; năm 2017 có 25 địa phương; năm 2018 có 37
địa phương và năm 2019 có 59 địa phương đã thực hiện kiểm tra. Một số tỉnh,
thành phố đã triển khai tốt, duy trì đầy đủ hoạt động kiểm tra, hoạt động báo
cáo trong các năm vừa qua như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Định, Cà Mau, Thành phố
Hồ Chí Minh, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Tây Ninh, Thanh Hóa, Tiền Giang, Tuyên
Quang, Yên Bái,...
2. Những tồn tại, hạn
chế và nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
- Tình trạng cát cứ dữ liệu vẫn
còn phổ biến ở các bộ, ngành, địa phương, một số cơ sở dữ liệu quốc gia quan
trọng, như dân cư, đất đai, tài chính,... còn chậm triển khai. Việc xử lý, trao
đổi, gửi nhận văn bản điện tử trong nội bộ và giữa các cơ quan nhà nước còn
chưa phát huy được hiệu quả; hệ thống quản lý văn bản và điều hành của một số
bộ, ngành, địa phương khác nhau. Mô hình, giải pháp triển khai chưa đồng bộ,
mức độ quan tâm chỉ đạo triển khai còn có khoảng cách nhất định giữa các bộ,
ngành, các địa phương.
- DVCTT được thiết kế riêng lẻ, rời
rạc, chưa thân thiện, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Mặc dù số
lượng DVCTT mức 3, mức 4 triển khai tại các bộ, ngành, địa phương ngày càng
tăng, tuy nhiên số lượng hồ sơ trực tuyến theo từng dịch vụ rất thấp, thậm chí
nhiều dịch vụ không phát sinh hồ sơ trực tuyến. Quy trình giải quyết TTHC chưa
bảo đảm tính khoa học, gây gánh nặng cho cán bộ, công chức.
- Tỷ lệ người dân sử dụng DVCTT còn
hạn chế, hoạt động của các cơ quan nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên giấy tờ, DVCTT
mức độ 4 cung cấp chưa nhiều, việc số hóa để ra quyết định dựa trên dữ liệu còn
rất hạn chế; an
toàn, an ninh mạng chưa được quan tâm đúng mức.
- Ngân sách đầu tư cho ƯDCNTT, xây
dựng hệ thống thông tin gắn với cải cách hành chính vẫn còn hạn chế, cơ chế đầu
tư tài chính chậm sửa đổi nên chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính,
chưa đủ để tạo ra đòn bẩy nâng cao hiệu quả điều hành của Chính phủ, cũng như
tăng chất lượng dịch vụ công.
b) Nguyên nhân
- Một số thể chế quan trọng tạo hành lang
pháp lý cho triển khai Chính phủ điện tử chưa được ban hành, ví dụ như: Bảo vệ
dữ liệu cá nhân; quy định về định danh, xác thực điện tử,...
- Cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát
triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai, hoặc mức độ hoàn thành còn chậm;
giải pháp thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu chậm triển khai, chưa được các bộ,
ngành chú trọng, quan tâm.
- Lãnh đạo một số cơ quan nhà nước chưa quan
tâm, làm gương, chỉ đạo sát sao; nhiều cán bộ, công chức chậm thay đổi lề lối
làm việc để ƯDCNTT. Nguồn lực tài chính cho triển khai Chính phủ điện tử còn hạn
chế. Công tác truyền thông về phát triển Chính phủ điện tử chưa được chú trọng.
Quá trình thực hiện cải cách hành
chính thời gian qua, gắn với triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ta. Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm 2011 tăng 5,89%, đến năm 2015 tăng 6,68% và GDP
năm 2019 đạt kết quả ấn tượng, với tốc độ tăng 7,02%. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài hàng năm đều tăng cả về số dự án và số vốn thực hiện: Năm 2019 số dự án
tăng hơn 2.842 dự án và tăng gấp hơn 3,3 lần so với năm 2011, số vốn thực hiện
tăng hơn 9,3 tỷ đô la Mỹ, gấp hơn 1,8 lần so với năm 2011. Số lượng doanh
nghiệp thành lập mới năm 2019 tăng hơn 60.600 doanh nghiệp so với năm 2011 và
tăng hơn 1.216.500 nghìn tỷ so với năm 2011. Bên cạnh đó, một loạt chỉ số của
Việt Nam được các cơ quan, tổ chức quốc tế đánh giá có sự cải thiện cả về điểm
số và vị trí xếp hạng ở năm 2019 so với năm 2011. Về Chỉ số Chính phủ điện tử,
năm 2020 Việt Nam xếp ở vị trí thứ 86/193 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm 2018
và đã duy trì tăng hạng liên tục từ năm 2014 đến nay. Về chỉ số năng lực cạnh
tranh toàn cầu, năm 2019, Việt Nam xếp vị trí 67/141 quốc gia và nền kinh tế,
tăng 10 bậc so với năm 2018, mức tăng cao nhất trên thế giới trong năm qua.
Những kết quả này cho thấy sự đóng góp
quan trọng của cải cách hành chính. Khái quát những mặt tích cực, nổi bật đã
đạt được của cải cách hành chính trong giai đoạn vừa qua như sau:
1. Công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thường xuyên, liên tục, tạo sức lan tỏa, có tác
động mạnh mẽ, sâu rộng đến nhận thức và hành động của các cơ quan nhà nước nói
chung và cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong triển khai thực hiện các
nhiệm vụ cải cách hành chính.
2. Công tác chỉ đạo, điều hành cải
cách hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được thể hiện thông qua việc
ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc triển khai công tác cải cách hành chính;
việc tổ chức triển khai theo dõi, đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành
chính, công bố kết quả Chỉ số cải cách hành chính; khảo sát, đo lường, xác định
Chỉ số hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính
nhà nước,... là những nét nổi bật trong chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính
trong thực hiện Chương trình tổng thể.
3. Thể chế của nền hành chính, thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về mối quan hệ giữa nhà
nước và nhân dân được hoàn thiện, củng cố và được triển khai có hiệu quả trên
thực tế. Thông
qua đó, nền hành chính đã có chuyển biến tích cực theo hướng nền hành chính dân
chủ, phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu của người dân, xã hội và sự phát triển của đất nước.
4. Công tác cải cách TTHC, cắt giảm điều
kiện kinh doanh, cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành; đẩy mạnh ứng dụng
côn nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng, phát
triển Chính phủ điện tử đã đạt được kết quả quan trọng, có những chuyển biến
mạnh mẽ, trở thành điểm sáng của nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV, đặc biệt là trong
những năm 2018, 2019 và năm 2020.
5. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước đã tiếp tục được triển khai thực hiện với nhiều nhiệm vụ quan trọng,
đạt được một số kết quả được ghi nhận. Bộ máy hành chính từ trung ương đến địa
phương đã được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục
tình trạng chồng chéo, bỏ trống chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản
lý. Phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương được tăng cường; hiệu lực,
hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính từng bước được
nâng cao.
6. Công tác xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều đổi mới; đã từng bước đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cũng được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn; cải cách tiền lương đã được
quan tâm và đạt được những kết quả tích cực.
7. Cơ chế quản lý tài chính đối với cơ
quan hành chính, ĐVSNCL, tổ chức khoa học và công nghệ công lập được đổi mới,
giúp cho các cơ quan, đơn vị chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, sử dụng
ngân sách và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Các dịch
vụ sự nghiệp công được đổi mới, cải cách, từng bước nâng cao chất lượng, đem lại
lợi ích thiết thực cho người dân, xã hội.
1. Cải cách thể chế vẫn còn những bất
cập, hạn chế. Tính ổn định và khả năng dự báo trong một số lĩnh vực chưa cao;
một số quy định chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn, thậm chí còn có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn. Vẫn còn VBQPPL có dấu
hiệu trái luật. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh
chưa được khắc phục triệt để. Chất lượng báo cáo đánh giá tác động (nhất là tác
động giới) theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL còn hạn chế; chậm ban hành
văn bản hướng dẫn thi hành luật.
2. Cải cách TTHC vẫn chưa thực sự là
động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. TTHC, điều kiện kinh
doanh trên một số lĩnh vực vẫn còn chồng chéo, rườm rà, phức tạp, mâu thuẫn
nhưng chậm được đổi mới, cắt giảm hoặc chỉ cắt giảm TTHC ở những lĩnh vực mà
người dân, doanh nghiệp ít cần được giải quyết. Việc thực hiện TTHC vẫn còn
tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, chậm trễ, gây phiền hà; người thực hiện phải
đi lại nhiều lần, nhiều cơ quan; việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công vẫn
còn chậm, thiếu tổng thể. Tính liên thông trong cải cách TTHC chưa cao.
Chưa triển khai đầy đủ, thống nhất việc đánh giá mức độ hài lòng của người dân,
doanh nghiệp về chất lượng giải quyết TTHC.
3. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng
kềnh, nhiều tầng nấc. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành
chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác
định thật rõ và phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa
thật rành mạch. Việc sắp xếp tổ chức chưa gắn kết với việc rà soát, bổ sung,
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ nên hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Công tác phối hợp giữa các bộ, cơ quan, địa
phương trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước còn hạn chế; phương thức hoạt
động, cách thức giải quyết công việc trong nội bộ cơ quan hành chính chưa có sự
đổi mới.
4. Chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức có nơi chưa đồng đều, thậm chí còn yếu; một bộ phận
cán bộ, công chức, viên chức khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và
người dân chưa làm hết trách nhiệm, còn có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Việc tinh
giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thời gian qua
còn hạn chế, nhất là cơ cấu chức danh ngạch, chức danh nghề nghiệp. Công tác
đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức vẫn là khâu yếu. Công tác quản
lý cán bộ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, chưa tuân thủ đầy đủ các
quy định pháp luật, còn có sai phạm.
5. Cải cách tài chính công còn nhiều
hạn chế. Việc sử dụng ngân sách và vốn đầu tư công còn lãng phí, thất thoát,
kém hiệu quả. Việc đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập còn chậm; chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập trên một số lĩnh vực chưa cao.
6. Việc xây dựng Chính phủ điện tử,
hướng tới Chính phủ số, xã hội số còn chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa
phương. Việc hình thành các hệ thống dữ liệu dùng chung chưa đầy đủ; việc kết
nối, liên thông giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành, dữ liệu dùng chung của
các cơ quan, đơn vị còn khó khăn, gây cản trở cho công tác quản lý và giải
quyết công việc cho người dân, tổ chức. Hiệu quả cung cấp dịch vụ công mức độ
3, 4 cho người dân, tổ chức còn thấp.
1. Cải cách hành chính tiếp tục phải
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều
hành của chính quyền và sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần
chúng. Cần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm
quan trọng của cải cách hành chính đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Từ đó, coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính đối
với các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân để tạo ra sự đồng thuận chung
trong toàn xã hội về thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính; xác định những
lợi ích thiết thực, hiệu quả mà công cuộc cải cách hành chính đem lại cho người
dân, tổ chức, doanh nghiệp.
2. Phải xác định cải cách hành chính
là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Bảo đảm sự nhất quán, kiên trì,
liên tục, có đổi mới, sáng tạo, theo định hướng trong triển khai cải cách hành
chính của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và các địa phương. Duy trì và
tăng cường công tác chỉ đạo triển khai thực hiện cải cách hành chính thống
nhất, đồng bộ từ Chính phủ tới chính quyền địa phương các cấp. Thực hiện cải
cách hành chính phải đồng bộ với từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách kinh tế, cải cách lập pháp và cải cách
tư pháp.
3. Tăng cường hơn nữa vai trò, trách
nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp, của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan, đơn vị, phải xác định
mọi việc vì lợi ích thiết thực, đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu là điều
kiện quan trọng đảm bảo sự thành công của cải cách hành chính. Người đứng đầu
cơ quan hành chính các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc
đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những
phản ánh, kiến nghị của nhân dân.
4. Cần xác định rõ phạm vi, nội dung
cải cách hành chính, phân biệt cải cách hành chính với các cuộc cải cách đang
diễn ra như cải cách, đổi mới kinh tế, cải cách tư pháp,... Việc đặt cải cách
thể chế trong thời gian vừa qua là tương đối rộng, vượt khỏi phạm vi của cải
cách hành chính, trong đó, các nội dung của cải cách thể chế gần như là cải
cách kinh tế, có liên quan đến Quốc hội và các cơ quan khác. Bên cạnh đó, cải
cách tài chính công cũng rộng, nhiều nội dung thuộc cải cách tài chính trong
cải cách kinh tế.
5. Xác định các mục tiêu cải cách hành
chính mang tính định lượng với mức độ phù hợp, thiết thực để bảo đảm tính khả
thi. Tổ chức thực hiện chương trình cải cách hành chính phải gắn với tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ chính của các bộ, ngành, địa phương. Phân công rõ trách
nhiệm và có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong tổ
chức thực hiện chương trình cải cách hành chính.
6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát, theo dõi, đánh giá quá trình triển khai thực hiện công tác cải
cách hành chính. Coi trọng thí điểm, tổng kết, nhân rộng những mô hình, sáng
kiến trong cải cách hành chính. Chú trọng việc đánh giá, biểu dương những cơ
quan, đơn vị, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm các cá nhân, đơn vị vi
phạm.
7. Củng cố, kiện toàn và nâng cao vai trò của cơ quan chủ trì tham mưu cho
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác điều phối chung, tổng hợp, đôn
đốc và theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính có ý nghĩa quan
trọng trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, cần thiết phải nâng cao năng lực
của đội ngũ công chức làm công tác cải cách hành chính; bố trí đủ nguồn lực tài
chính cho cải cách hành chính.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính
nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công
khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình; đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước các cấp tinh gọn, thông suốt và hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân.
1. Tiếp tục quán triệt chủ trương,
đường lối của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và tổ chức thực
hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 một cách
toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực,
hiệu quả nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, nâng cao trách
nhiệm giải trình, từng bước hiện đại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân,
doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước.
2. Nâng cao vai trò chỉ đạo, lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, trách nhiệm của các tổ chức chính trị, xã hội, người dân,
doanh nghiệp đối với công tác cải cách hành chính. Đẩy mạnh công tác thông tin,
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt về mục tiêu, nhiệm vụ cải cách hành chính
tới toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người dân và toàn xã hội để
tạo động lực và sự đồng thuận trong xã hội về thực hiện công cuộc cải cách hành
chính gắn với thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước giai
đoạn 2021 - 2030.
3. Về cải cách thể chế
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ
thống thể chế của bộ máy hành chính nhà nước đầy đủ, đồng bộ, hiện đại. Xây
dựng, hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các chuẩn mực phổ biến của nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; tạo được bước đột phá trong
huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển đất
nước.
- Nâng cao chất lượng xây dựng, ban
hành VBQPPL, kịp thời kiểm tra, rà soát, phát hiện và xử lý quy định trái pháp
luật, mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp.
Triển khai các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức.
4. Về cải cách TTHC
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm
soát TTHC theo hướng gắn kết chặt chẽ với xây dựng Chính phủ điện tử và thực
hiện TTHC trên môi trường điện tử.
- Tiếp tục rà soát toàn bộ, đề xuất
phương án cắt giảm, đơn giản hóa toàn bộ các quy định liên quan đến sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp để tháo gỡ mọi rào cản, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển.
- Tăng cường giải quyết, gắn với kiểm
soát, đánh giá, giám sát việc giải quyết TTHC trên môi trường điện tử; nâng cao
tỷ lệ hồ sơ trực tuyến, giao dịch thanh toán trực tuyến; đảm bảo kết nối, chia
sẻ dữ liệu phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp DVCTT.
- Nâng cao chất lượng phục vụ, gắn với
việc đổi mới cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo
hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết
quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC nhằm nâng cao chất lượng
phục vụ, tăng năng suất lao động, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp
số trong xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số.
- Tập trung rà soát, cải cách TTHC nội
bộ, gắn với việc đẩy mạnh xây dựng nền hành chính phi giấy tờ.
- Tăng cường tiếp nhận, xử lý phản
ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về cơ chế, chính sách, TTHC trên
Cổng Dịch vụ công quốc gia, tạo điều kiện tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho người
dân, doanh nghiệp.
- Tăng cường và phát huy vai trò của
Hội đồng tư vấn cải cách TTHC, trong đó tổ chức có hiệu quả các hội nghị đối thoại
giữa cơ quan nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất
sáng kiến cải cách để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác cải cách TTHC,
cải thiện môi trường kinh doanh.
5. Về cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, thí
điểm một số mô hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy gắn với thực hiện chính sách
tinh giản biên chế. Tăng cường thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ
hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp,
các tổ chức xã hội đảm nhiệm; kịp thời sơ kết, tổng kết và mở rộng dần những mô
hình phù hợp, hiệu quả.
- Đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý và
nâng cao hiệu quả hoạt động để tinh gọn đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải
và trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập; rà soát,
chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần.
- Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh
mẽ, hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn với
quyền hạn và trách nhiệm; khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính
tích cực, chủ động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước.
- Nghiên cứu, triển khai các biện pháp
đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước các cấp trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa
học và công nghệ, nhất là CNTT.
6. Về cải cách chế độ công vụ
- Đổi mới cơ chế, nâng cao chất lượng
tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức. Nghiên cứu triển khai thí điểm chế độ
hợp đồng hành chính.
- Hoàn thiện quy định về xác định vị
trí việc làm của công chức, viên chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và
bổ nhiệm công chức, viên chức.
- Nghiên cứu, đổi mới phương pháp, quy
trình đánh giá phân loại CBCCVC theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, lượng
hóa các tiêu chí đánh giá và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
- Hoàn thiện các quy định về quản lý,
sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với viên chức tại các đơn vị sự
nghiệp công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ.
7. Cải cách tài chính công
Tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ ngân
sách cho cơ quan, đơn vị gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra. Sửa
đổi, bổ sung quy định về thực hiện cơ chế khoán kinh phí quản lý hành chính,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn và cụ thể hóa các chủ trương của Đảng. Tăng cường các
giải pháp để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công lập theo cơ chế thị trường, thúc
đẩy xã hội hóa.
8. Xây dựng Chính phủ điện tử, Chính
phủ số
- Hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý
và xây dựng cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ cho việc triển khai phát triển Chính
phủ điện tử, Chính phủ số. Thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia theo lộ
trình. Tăng cường đầu tư tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin các bộ,
ngành, địa phương; chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng
dụng điện toán đám mây.
- Đẩy mạnh việc ƯDCNTT vào đổi mới
phương thức làm việc, chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu, tăng cường xử lý văn
bản và hồ sơ công việc trên môi trường điện tử, nâng cao năng suất, hiệu quả
hoạt động của cơ quan nhà nước; giảm chi phí và thời gian xử lý công việc. Phát
triển, nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC trực tuyến mức độ 3 và 4 trên Cổng
dịch vụ công, Hệ thống một cửa điện tử các cấp.
- Nghiên cứu, xây dựng và phát triển
mô hình đô thị thông minh.
|
TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Trương Hòa Bình
|
PHỤ LỤC I
THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020([55])
|
1
|
Số lượng văn bản
chỉ đạo, điều hành
|
1.774
|
1.866
|
1.942
|
2.006
|
2.049
|
481
|
1.1
|
Nghị quyết, Quyết
định, Chỉ thị, Thông báo của Ban Cán sự đảng bộ/Đảng ủy bộ
|
1.515
|
1.536
|
1.626
|
1.628
|
1.688
|
340
|
1.2
|
Quyết định, Chỉ
thị, Thông báo của Bộ trưởng
|
259
|
330
|
316
|
378
|
361
|
141
|
2
|
Số lượng các cơ
quan, đơn vị được kiểm tra cải cách hành chính
|
428
|
348
|
371
|
396
|
383
|
54
|
3
|
Tuyên truyền cải
cách hành chính
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Số lượng các bộ,
ngành tổ chức cuộc thi tìm hiểu cải cách hành chính
|
7
|
5
|
4
|
6
|
6
|
2
|
3.2
|
Số lớp tập huấn
chuyên đề cải cách hành chính
|
72
|
75
|
86
|
75
|
75
|
8
|
3.3
|
Số lượng các bộ,
ngành xây dựng chuyên mục cải cách hành chính trên Cổng Thông tin điện tử của
bộ, ngành
|
19
|
18
|
18
|
18
|
18
|
18
|
3.4
|
Hình thức tuyên
truyền cải cách hành chính khác
|
4([56])
|
4
|
Số lượng mô hình,
sáng kiến cải cách hành chính được triển khai áp dụng
|
67
|
75
|
79
|
87
|
127
|
26
|
5
|
Xây dựng, áp dụng
Bộ tiêu chí đánh giá cải cách hành chính các cơ quan, đơn vị
|
4([57])
|
7([58])
|
6
|
Đo lường sự hài
lòng của người dân, tổ chức
|
|
|
|
|
|
|
6.1
|
Số lượng dịch vụ đã
khảo sát
|
52
|
19
|
362
|
554
|
734
|
308
|
6.2
|
Số lượng mẫu đã
khảo sát
|
1.907
|
3.818
|
1.737
|
2.220
|
22.626
|
22.004
|
6.3
|
Mức độ hài lòng
chung (Tỷ lệ %)
|
78,33
|
85,67
|
86,00
|
84,55
|
86,74
|
-
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020([59])
|
1
|
Số lượng văn bản
chỉ đạo, điều hành
|
1.844
|
2.232
|
2.505
|
2.485
|
2.687
|
1.034
|
1.1
|
Văn bản của Tỉnh
ủy, Thành ủy
|
311
|
555
|
576
|
610
|
683
|
320
|
1.2
|
Văn bản của Ủy ban
nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
|
1.533
|
1.677
|
1.929
|
1.875
|
2.004
|
714
|
2
|
Số lượng các cơ
quan, đơn vị được kiểm tra cải cách hành chính
|
2.204
|
2.355
|
2.715
|
2.868
|
2.950
|
400
|
3
|
Tuyên truyền cải
cách hành chính
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Số lượng các tỉnh
tổ chức cuộc thi tìm hiểu cải cách hành chính
|
39
|
34
|
31
|
37
|
45
|
15
|
3.2
|
Số lượng bản tin
chuyên đề cải cách hành chính trên Đài Phát thanh - Truyền hình cấp tỉnh
|
5.952
|
5.892
|
6.364
|
7.172
|
7.744
|
2.732
|
3.3
|
Số lớp tập huấn
chuyên đề cải cách hành chính
|
242
|
257
|
299
|
305
|
402
|
84
|
3.4
|
Số lượng các tỉnh
xây dựng chuyên mục cải cách hành chính trên Cổng Thông tin điện tử cấp tỉnh
|
53
|
54
|
56
|
59
|
59
|
59
|
3.5
|
Hình thức tuyên
truyền cải cách hành chính khác
|
42
|
46
|
46
|
49
|
49
|
40
|
4
|
Số lượng mô hình,
sáng kiến cải cách hành chính được triển khai áp dụng
|
467
|
502
|
640
|
922
|
950
|
233
|
5
|
Xây dựng, áp dụng
Bộ tiêu chí đánh giá cải cách hành chính các cơ quan, đơn vị
|
|
|
|
|
|
|
5.1
|
Bộ tiêu chí đánh
giá sở, ngành
|
49
|
52
|
56
|
55
|
55
|
45
|
5.2
|
Bộ tiêu chí đánh
giá Ủy ban nhân dân cấp huyện
|
49
|
53
|
57
|
56
|
56
|
47
|
5.3
|
Bộ tiêu chí đánh
giá Ủy ban nhân dân cấp xã
|
44
|
45
|
52
|
56
|
58
|
39
|
5.4
|
Bộ tiêu chí đánh
giá cơ quan ngành dọc tại địa phương
|
12
|
12
|
14
|
16
|
15
|
11
|
6
|
Đo lường sự hài
lòng của người dân, tổ chức
|
|
|
|
|
|
|
6.1
|
Số lượng dịch vụ đã
khảo sát
|
3.833
|
1.680
|
5.015
|
4.018
|
5.459
|
3.005
|
6.2
|
Số lượng mẫu đã
khảo sát
|
119.024
|
179.537
|
250.313
|
305.650
|
338.123
|
37.233
|
6.3
|
Mức độ hài lòng
chung (Tỷ lệ %)
|
76,9
|
83,4
|
80,8
|
79,0
|
81,3
|
94,6
|
PHỤ LỤC II
THỐNG KÊ CÁC NHIỆM VỤ TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH THỂ CHẾ
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(1)
|
1
|
Tổng số VBQPPL chủ
trì soạn thảo đã được ban hành
|
1.292
|
1.357
|
1.090
|
1.044
|
871
|
345
|
Chia theo tên loại
VBQPPL
|
Luật, Nghị quyết
của Quốc hội
|
20
|
11
|
18
|
16
|
18
|
13
|
Pháp lệnh, Nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
|
2
|
8
|
0
|
1
|
4
|
2
|
Lệnh, Quyết định của
Chủ tịch nước
|
0
|
0
|
1
|
0
|
0
|
0
|
Nghị định của Chính
phủ
|
137
|
175
|
168
|
169
|
100
|
67
|
Nghị quyết Liên
tịch giữa Chính phủ với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
|
-
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ
|
66
|
59
|
50
|
51
|
38
|
17
|
Thông tư
|
957
|
1.055
|
874
|
809
|
709
|
260
|
Thông tư Liên tịch
|
123
|
36
|
1
|
7
|
2
|
1
|
2
|
Số VBQPPL được đề
nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát
|
1.610
|
1.108
|
1.246
|
2.611
|
1.894
|
1.395
|
3
|
Số VBQPPL đã được xử
lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà soát
|
777
|
818
|
915
|
1.489
|
1.802
|
1.177
|
4
|
Số VBQPPL đã kiểm
tra theo thẩm quyền
|
5.969
|
6.389
|
10.772
|
8.632
|
7.632
|
7.846
|
5
|
Số VBQPPL trái pháp
luật về nội dung, thẩm quyền
|
124
|
196
|
274
|
125
|
203
|
84
|
6
|
Số VBQPPL trái pháp
luật về nội dung, thẩm quyền đã được xử lý
|
48
|
264
|
1.730
|
695
|
118
|
127
|
7
|
Văn bản không phải
là VBQPPL nhưng có
chứa quy phạm pháp luật
|
14
|
7
|
-
|
-
|
10
|
8
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(2)
|
1
|
Tổng số VBQPPL chủ
trì soạn thảo đã được ban hành
|
56.887
|
50.661
|
25.988
|
14.094
|
9.168
|
2.369
|
Chia theo tên loại
VBQPPL
|
Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
|
3.756
|
4.998
|
4.699
|
3.948
|
4.092
|
153
|
Quyết định của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh
|
933
|
|
|
Nghị quyết của Hội
đồng nhân cấp huyện
|
6.857
|
6.120
|
3.710
|
1.833
|
1.336
|
82
|
Quyết định của Ủy
ban nhân dân cấp huyện
|
211
|
Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp xã
|
46.274
|
39.543
|
17.579
|
8.313
|
3.740
|
880
|
Quyết định của Ủy
ban nhân dân cấp xã
|
110
|
2
|
Số VBQPPL được đề
nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát
|
9.376
|
8.840
|
6.946
|
3.749
|
4.516
|
2.746
|
3
|
Số VBQPPL đã được xử
lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà soát
|
9.451
|
6.997
|
6.230
|
3.131
|
3.260
|
2.068
|
4
|
Số VBQPPL đã kiểm
tra theo thẩm quyền
|
33.509
|
32.870
|
17.084
|
9.603
|
5.759
|
4.595
|
5
|
Số VBQPPL trái pháp
luật về nội dung, thẩm quyền
|
1.204
|
661
|
962
|
305
|
206
|
155
|
6
|
Số VBQPPL trái pháp
luật về nội dung, thẩm quyền đã được xử lý
|
5.199
|
4.385
|
3.022
|
1.388
|
125
|
132
|
7
|
Văn bản không phải
là VBQPPL
nhưng
có chứa quy phạm pháp luật
|
1.697
|
783
|
-
|
-
|
56
|
68
|
PHỤ LỤC III
THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(1)
|
1
|
Tổng số TTHC thuộc
ngành, lĩnh vực do bộ ban hành hoặc tham mưu ban hành
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Số lượng TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của bộ
|
2.807
|
4.046
|
3.851
|
3.971
|
4.054
|
3.715
|
1.2
|
Số lượng TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh
|
1.773
|
1.963
|
1.987
|
1.988
|
1.943
|
2.146
|
1.3
|
Số lượng TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của cấp huyện
|
625
|
631
|
565
|
581
|
559
|
554
|
1.4
|
Số lượng TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của cấp xã
|
156
|
167
|
129
|
132
|
138
|
138
|
2
|
Số lượng điều kiện
kinh doanh thuộc ngành, lĩnh vực do bộ tham mưu ban hành
|
3.032
|
3.030
|
2.452
|
2.549
|
2.165
|
2.126
|
3
|
Số lượng danh mục
hàng hóa xuất/nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành thuộc ngành, lĩnh vực do
bộ quản lý
|
1.062
|
1.170
|
8.975
|
2.625
|
2.541
|
2.510
|
4
|
Số lượng TTHC thuộc
thẩm quyền giải quyết của bộ đã thực hiện việc tiếp nhận/trả kết quả tại Bộ
phận Một cửa
|
1.532
|
1.529
|
1.469
|
2.105
|
3.164
|
2.929
|
5
|
Số TTHC thuộc thẩm
quyền giải quyết của bộ có thực hiện liên thông với các bộ, ngành khác ở
trung ương
|
10
|
10
|
10
|
5
|
7
|
11
|
6
|
Số TTHC thuộc thẩm
quyền giải quyết của bộ có thực hiện liên thông đến các cấp chính quyền địa
phương
|
4
|
5
|
5
|
6
|
6
|
16
|
7
|
Tỷ lệ % hồ sơ TTHC
được giải quyết đúng hẹn (đã trả kết quả đúng hẹn/đã tiếp nhận)
|
92,96
|
94,02
|
94,23
|
90,99
|
92,81
|
93,75
|
8
|
Tiếp nhận và xử lý
phản ánh, kiến nghị về TTHC
|
|
|
|
|
|
|
8.1
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị đã tiếp nhận trong năm
|
258
|
555
|
1.270
|
1.716
|
1.830
|
383
|
8.2
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị đã giải quyết trong năm
|
255
|
551
|
1.264
|
1.693
|
1.810
|
335
|
8.3
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị được xử lý và đã công khai kết quả trả lời trên Cổng Thông tin điện
tử của bộ
|
181
|
258
|
1.133
|
1.565
|
1.541
|
329
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG(2)
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(3)
|
1
|
Số liệu về TTHC của
tỉnh
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Trung bình số lượng
TTHC cấp tỉnh
|
1.129
|
1.272
|
1.337
|
1.446
|
1.433
|
1.423
|
1.2
|
Trung bình số lượng
TTHC cấp huyện
|
219
|
280
|
282
|
328
|
294
|
281
|
1.3
|
Trung bình số lượng
TTHC cấp xã
|
129
|
139
|
138
|
142
|
140
|
138
|
1.4
|
Trung bình số lượng
TTHC do tỉnh ban hành (được giao trong Luật)
|
8
|
14
|
13
|
15
|
15
|
15
|
2
|
Số TTHC được đơn
giản hóa sau rà soát (theo thẩm quyền của tỉnh, như: giảm thời gian giải
quyết…)
|
10.091
|
9.443
|
15.224
|
14.622
|
15.311
|
11.920
|
3
|
Trung bình số lượng
thủ tục hành chính được công khai đầy đủ, đúng quy định trên Cổng/Trang Thông
tin điện tử tại 63 tỉnh, thành phố
|
1.437
|
1.616
|
1.681
|
1.780
|
1.790
|
1.751
|
4
|
Thực hiện cơ chế
một cửa, một cửa liên thông
|
|
|
|
|
|
|
4.1
|
Trung bình số lượng
TTHC thực hiện được giải quyết tại Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh
hoặc Bộ phận Tiếp nhận và trả kế quả cấp sở, ngành của 63 tỉnh, thành phố
|
996
|
1.152
|
1.244
|
1.415
|
1.423
|
1.445
|
4.2
|
Số lượng TTHC thực
hiện việc tiếp nhận, trả kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp huyện
|
203
|
241
|
249
|
269
|
270
|
269
|
4.3
|
Trung bình số lượng
TTHC thực hiện việc tiếp nhận, trả kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp xã của 63
tỉnh, thành phố
|
125
|
124
|
120
|
127
|
128
|
131
|
4.4
|
Trung bình số lượng
TTHC được giải quyết theo cơ chế một cửa liên thông cùng cấp tại 63 tỉnh,
thành phố
|
64
|
71
|
82
|
137
|
146
|
149
|
4.5
|
Trung bình số lượng
TTHC hoặc nhóm TTHC được giải quyết theo hình thức liên thông giữa các cấp
chính quyền của 63 tỉnh, thành phố
|
50
|
55
|
65
|
80
|
84
|
96
|
4.6
|
Trung bình số lượng
TTHC đã thực hiện 4 tại chỗ của 63 tỉnh, thành phố
|
43
|
55
|
61
|
87
|
156
|
164
|
5
|
Kết quả giải quyết
hồ sơ TTHC
|
|
|
|
|
|
|
5.1
|
Tỷ lệ % hồ sơ TTHC
cấp tỉnh giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)
|
93,72
|
93,20
|
95,08
|
95,40
|
94,93
|
87,84
|
5.2
|
Tỷ lệ % hồ sơ TTHC
cấp huyện giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)
|
90,84
|
91,22
|
91,82
|
93,86
|
93,41
|
85,99
|
5.3
|
Tỷ lệ % hồ sơ TTHC
cấp xã giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)
|
93,1
|
92,6
|
271,0
|
96,0
|
94,6
|
90,0
|
6
|
Tiếp nhận và xử lý
phản ánh, kiến nghị về TTHC
|
|
|
|
|
|
|
6.1
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị đã tiếp nhận trong năm
|
708
|
2.261
|
1.129
|
1.335
|
23.814
|
7.805
|
6.2
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị đã giải quyết trong năm
|
590
|
2.231
|
1.119
|
1.302
|
23.803
|
7.761
|
6.3
|
Số lượng phản ánh,
kiến nghị được xử lý và đã công khai kết quả trả lời trên Cổng Thông tin điện
tử
|
430
|
1.037
|
608
|
891
|
23.025
|
7.707
|
PHỤ LỤC IV
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP Ở TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. THỐNG KÊ VÀ SO SÁNH
SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP THUỘC CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN
THUỘC CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 VÀ 2011 - 2020
(Đơn vị
tính: Đơn vị)
STT
|
Số lượng
Tổ chức
|
Giai đoạn
2001 - 2010(1)
|
Giai đoạn
2011 - 2020(2)
|
Biến động(3)
|
1
|
Tổng cục và tương
đương
|
27
|
31
|
+ 4
|
1.1
|
Số Vụ thuộc Tổng
cục (ở trung ương)
|
187
|
227
|
+ 40
|
1.2
|
Số Cục thuộc
Tổng cục
|
330
|
419
|
+ 89
|
1.3
|
Số Chi cục thuộc
Tổng cục
|
3.457
|
3.110
|
- 347
|
2
|
Cục và tương đương
thuộc bộ
|
101
|
129
|
+28
|
|
Số Phòng thuộc
Cục
|
712
|
714
|
+ 2
|
3
|
Vụ và tương đương
thuộc bộ
|
242
|
236
|
- 6
|
|
Số Phòng thuộc
Vụ và tương đương
|
597
|
495
|
- 102
|
4
|
Tổ chức tham mưu,
giúp việc cho Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
|
42
|
22
|
- 20
|
5
|
Số đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc bộ
|
499
|
557
|
+ 58
|
6
|
Số tổ chức khoa học
và công nghệ trực thuộc bộ
|
59
|
61
|
+ 2
|
II. THỐNG KÊ VÀ SO
SÁNH SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH,
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 VÀ 2011 - 2020
(Đơn vị
tính: Đơn vị)
STT
|
Số lượng
Tổ chức
|
Giai đoạn
2001 - 2010(4)
|
Giai đoạn
2011 - 2020(5)
|
Biến động([60])
|
1
|
Số lượng, cơ cấu tổ
chức thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp tỉnh
|
|
|
|
1.1
|
Số cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp tỉnh
|
1.245
|
1.221
|
- 24
|
1.2
|
Số Chi cục thuộc Sở
|
1.039
|
929
|
- 110
|
1.3
|
Số Phòng, Văn phòng,
Thanh tra thuộc Sở
|
8.524
|
7.568
|
- 956
|
1.4
|
Số đơn vị sự nghiệp
thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp tỉnh
|
6.015
|
5.080
|
- 935
|
2
|
Số lượng, cơ cấu tổ
chức thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp huyện
|
|
|
|
2.1
|
Số Ủy ban nhân
dân
cấp huyện
|
679
|
713
|
+ 34
|
2.2
|
Số Phòng chuyên môn
thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp huyện
|
7.236
|
7.129
|
- 107
|
2.3
|
Số Văn phòng, Thanh
tra thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp huyện
|
1.297
|
1.264
|
- 33
|
2.4
|
Số đơn vị sự nghiệp
thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp huyện
|
40.927
|
39.828
|
- 1.099
|
3
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập theo các lĩnh vực
|
|
|
|
3.1
|
Sự nghiệp Giáo dục
- Đào tạo
|
|
|
|
3.1.1
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp tỉnh
|
125
|
129
|
+ 4
|
3.1.2
|
Thuộc cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh
|
3.068
|
2.702
|
- 366
|
3.1.3
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp huyện
|
36.515
|
36.149
|
- 366
|
3.2
|
Sự nghiệp Y tế
|
|
|
|
3.2.1
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp tỉnh
|
5
|
4
|
- 1
|
3.2.2
|
Thuộc cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh
|
3.978
|
3.057
|
- 921
|
3.2.3
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp huyện
|
549
|
102
|
- 447
|
3.3
|
Sự nghiệp Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
|
|
|
|
3.3.1
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp tỉnh
|
52
|
38
|
- 14
|
3.3.2
|
Thuộc cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh
|
619
|
492
|
- 127
|
3.3.3
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp huyện
|
1.196
|
788
|
- 408
|
3.4
|
Sự nghiệp khác
|
|
|
|
3.4.1
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp tỉnh
|
217
|
323
|
+ 106
|
3.4.2
|
Thuộc cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh
|
3.227
|
2.534
|
- 693
|
3.4.3
|
Thuộc Ủy ban nhân
dân
cấp huyện
|
2.664
|
2.608
|
- 56
|
PHỤ LỤC V
THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(1)
|
1
|
Số tiêu chuẩn chức
danh công chức được ban hành
|
194
|
314
|
289
|
303
|
310
|
292
|
2
|
Số lượng tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức được ban hành
|
94
|
61
|
63
|
84
|
106
|
99
|
3
|
Tổng số biên chế
cán bộ, công chức
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Tổng số biên chế
được giao
|
114.712
|
114.506
|
113.270
|
111.666
|
114.544
|
111.842
|
3.2
|
Tổng số biên chế có
mặt
|
108.297
|
112.427
|
111.875
|
109.441
|
112.191
|
108.340
|
4
|
Tổng số biên chế
viên chức
|
|
|
|
|
|
|
4.1
|
Tổng số biên chế
được giao
|
94.179
|
89.871
|
84.339
|
81.194
|
73.828
|
73.378
|
4.2
|
Tổng số biên chế có
mặt
|
93.681
|
89.369
|
81.790
|
79.128
|
65.054
|
45.805
|
5
|
Số công chức được
tuyển dụng theo hình thức thi cạnh tranh
|
218
|
107
|
470
|
345
|
430
|
493
|
6
|
Số công chức được
bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh
|
8
|
8
|
18
|
23
|
16
|
6
|
7
|
Số lượng công chức được tinh giản biên chế
|
166
|
1.575
|
2.582
|
3.719
|
5.284
|
6.552
|
8
|
Số lượng công chức
được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm
|
38.776
|
51.252
|
63.220
|
35.806
|
36.591
|
4.553
|
9
|
Số lượng viên chức
được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm
|
42.700
|
42.040
|
46.214
|
42.984
|
50.709
|
1.831
|
10
|
Số lượng các lớp
đào tạo, bồi dưỡng
|
1.022
|
1.096
|
1.171
|
931
|
1.033
|
138
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(2)
|
1
|
Tổng số biên chế
cán bộ, công chức
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Tổng số biên chế
được giao
|
158.467
|
157.330
|
154.067
|
150.487
|
141.485
|
138.932
|
1.2
|
Tổng số biên chế có
mặt
|
149.762
|
148.329
|
144.182
|
136.211
|
125.553
|
125.711
|
2
|
Tổng số biên chế
viên chức
|
|
|
|
|
|
|
2.1
|
Tổng số biên chế
được giao
|
1.704.447
|
1.717.913
|
1.748.635
|
1.684.522
|
1.651.464
|
1.598.257
|
2.2
|
Tổng số biên chế có
mặt
|
1.611.480
|
1.556.706
|
1.596.103
|
1.552.243
|
1.533.201
|
1.548.969
|
3
|
Số công chức được
tuyển dụng theo hình thức thi cạnh tranh
|
3.934
|
2.442
|
2.331
|
1.512
|
2.693
|
206
|
4
|
Số công chức được
bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh
|
2.315
|
4.128
|
4.909
|
5.025
|
6.767
|
3.484
|
5
|
Số lượng cán bộ, công chức được tinh giản biên chế
|
3.654
|
7.050
|
8.334
|
7.808
|
10.245
|
5.202
|
6
|
Số lượng công chức
được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm
|
287.265
|
405.381
|
371.391
|
453.172
|
415.853
|
28.662
|
7
|
Số lượng viên chức
được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm
|
337.586
|
447.807
|
580.523
|
592.226
|
822.093
|
45.490
|
8
|
Số lượng các lớp
đào tạo, bồi dưỡng
|
24.712
|
22.388
|
15.659
|
20.265
|
32.151
|
6.662
|
PHỤ LỤC VI
THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(1)
|
1
|
Số cơ quan hành
chính trực thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ
|
951
|
958
|
969
|
968
|
966
|
958
|
2
|
Số đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ
|
761
|
773
|
816
|
858
|
855
|
848
|
2.1
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
|
23
|
23
|
29
|
34
|
38
|
44
|
2.2
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
|
189
|
199
|
217
|
253
|
261
|
255
|
2.3
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
|
448
|
455
|
478
|
495
|
488
|
481
|
2.4
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
|
101
|
96
|
92
|
76
|
68
|
68
|
3
|
Số tổ chức khoa học
và công nghệ công lập thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ
|
50
|
54
|
54
|
121
|
118
|
117
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(2)
|
1
|
Số cơ quan hành
chính thực hiện cơ chế tự chủ
|
14.162
|
14.482
|
14.731
|
14.956
|
14.476
|
14.319
|
2
|
Số đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp tỉnh thực hiện cơ chế tự chủ
|
3.850
|
3.780
|
3.778
|
3.776
|
3.660
|
3.649
|
2.1
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
|
0
|
0
|
7
|
27
|
32
|
33
|
2.2
|
Số lượng đơn vị sự nghiệp
công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
|
160
|
168
|
235
|
271
|
273
|
282
|
2.3
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
|
1.093
|
1.097
|
1.036
|
1.018
|
984
|
967
|
2.4
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
|
2.597
|
2.515
|
2.500
|
2.460
|
2.371
|
2.367
|
3
|
Số đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện
cơ chế tự chủ
|
5.876
|
6.143
|
6.186
|
5.902
|
5.664
|
5.607
|
3.1
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
|
11
|
19
|
63
|
108
|
124
|
129
|
3.2
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
|
565
|
624
|
739
|
937
|
1.028
|
1.051
|
3.3
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
|
4.093
|
4.218
|
4.123
|
3.819
|
3.546
|
3.472
|
3.4
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập
do
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
|
1.207
|
1.282
|
1.261
|
1.038
|
966
|
955
|
4
|
Số đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc Ủy
ban nhân dân
cấp huyện thực hiện cơ chế tự chủ
|
21.412
|
22.336
|
23.360
|
22.903
|
22.933
|
22.810
|
4.1
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
|
33
|
37
|
47
|
73
|
78
|
82
|
4.2
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
|
1.053
|
1.005
|
892
|
984
|
1.058
|
1.024
|
4.3
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
|
8.976
|
9.342
|
10.406
|
10.208
|
10.388
|
10.395
|
4.4
|
Số lượng đơn vị sự
nghiệp công lập
do
Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
|
11.350
|
11.952
|
12.015
|
11.638
|
11.409
|
11.309
|
5
|
Số tổ chức khoa học
và công nghệ công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị
định số 54/2016/NĐ-CP của Chính phủ
|
115
|
132
|
155
|
151
|
138
|
136
|
PHỤ LỤC VII
THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC HIỆN ĐẠI HÓA HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(1)
|
1
|
Số đơn vị thuộc bộ
kết nối Trục liên thông văn bản quốc gia
|
87
|
144
|
207
|
311
|
483
|
523
|
2
|
Số lượng văn bản
nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia
|
-
|
8.257
|
12.578
|
30.154
|
253.897
|
92.761
|
3
|
Số lượng văn bản
gửi trên Trục liên thông văn bản quốc gia
|
-
|
176
|
228
|
1.570
|
104.125
|
29.055
|
4
|
Số lượng Chữ ký số
|
2.174
|
2.203
|
3.487
|
6.789
|
12.625
|
8.223
|
5
|
Tỷ lệ % công chức
có hộp thư điện tử công vụ
|
100
|
94,43
|
94,71
|
94,91
|
95,23
|
95,23
|
6
|
Số cơ quan hành chính
thuộc bộ, ngành triển khai ứng dụng Phần mềm Quản lý văn bản
|
442
|
577
|
601
|
1.456
|
1.509
|
1.443
|
7
|
Số cơ quan hành
chính thuộc bộ, ngành sử dụng mạng nội bộ (mạng LAN) để trao đổi công việc
|
608
|
607
|
605
|
638
|
675
|
675
|
8
|
Số dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, mức độ 4
|
439
|
847
|
1.218
|
1.616
|
1.723
|
1.895
|
9
|
Tỷ lệ % dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 có phát sinh hồ sơ
|
42,97
|
55,16
|
57,06
|
56,50
|
63,84
|
59,93
|
10
|
Số đơn vị xây dựng,
sử dụng Phần mềm Một cửa điện tử
|
16
|
24
|
36
|
127
|
173
|
190
|
11
|
Tỷ lệ % hồ sơ giải
quyết qua Hệ thống Một cửa điện tử
|
64,15
|
65,70
|
75,30
|
69,06
|
77,08
|
72,05
|
12
|
Số cơ quan hành
chính thuộc bộ, ngành (Cục, Tổng cục và tương đương) có bản Công bố ISO
|
250
|
212
|
212
|
214
|
215
|
216
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Số lượng
Chỉ tiêu
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020(2)
|
1
|
Tỷ lệ % văn bản
hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử
|
90,00
|
88,00
|
93,00
|
100
|
100
|
100
|
2
|
Số đơn vị kết nối
Trục liên thông văn bản quốc gia
|
-
|
1.333
|
1.915
|
5.961
|
17.173
|
17.851
|
3
|
Số lượng văn bản
nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia
|
-
|
8.790
|
153.723
|
519.575
|
5.346.559
|
1.862.481
|
4
|
Số lượng văn bản
gửi trên Trục liên thông văn bản quốc gia
|
-
|
16.386
|
65.759
|
386.158
|
2.21.5937
|
737.625
|
5
|
Số lượng Chữ ký số
|
15.265
|
23.910
|
38.020
|
54.328
|
88.819
|
100.933
|
6
|
Tỷ lệ % công chức
có hộp thư điện tử công vụ
|
78,57
|
82,84
|
88,08
|
93,23
|
96,91
|
97,25
|
7
|
Số cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện triển khai ứng dụng Phần mềm Quản
lý văn bản
|
1.737
|
1.864
|
1.928
|
1.951
|
2.027
|
2.028
|
8
|
Số cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện sử dụng mạng nội bộ (mạng LAN) để
trao đổi công việc
|
2.023
|
2.079
|
2.086
|
2.086
|
2.088
|
2.086
|
9
|
Số cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện có Cổng/Trang Thông tin điện tử
|
1.890
|
1.930
|
1.943
|
1.954
|
2.069
|
2.067
|
10
|
Số dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, mức độ 4
|
6.025
|
10.408
|
24.330
|
34.499
|
47.027
|
45.174
|
11
|
Tỷ lệ % dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 có phát sinh hồ sơ
|
7,91
|
12,04
|
17,31
|
23,78
|
30,49
|
38,64
|
12
|
Số đơn vị xây dựng,
sử dụng Phần mềm Một cửa điện tử
|
2.357
|
3.389
|
5.709
|
8.153
|
8.590
|
7.634
|
13
|
Tỷ lệ % hồ sơ giải
quyết qua Hệ thống Một cửa điện tử
|
37,55
|
42,60
|
61,54
|
74,59
|
85,95
|
85,73
|
14
|
Số cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện có bản Công bố ISO
|
2.344
|
2.477
|
2.711
|
2.963
|
3.317
|
3.327
|
PHỤ LỤC VIII
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
TT
|
Mức độ
hoàn thành
Các mục tiêu cải
cách
|
Tỷ lệ %
|
1
|
Quy trình xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới cơ bản
|
100
|
2
|
Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
|
95
|
3
|
Thể chế về sở hữu,
đất đai, doanh nghiệp nhà nước được xây dựng và ban hành ngày càng phù hợp
với cơ chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
|
90
|
4
|
Đến năm 2020, hoàn
thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với chi phí tuân
thủ thấp, dựa trên hệ thống chính sách đã được hoạch định trong từng lĩnh vực
phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
|
90
|
5
|
Thực hiện bước
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn
thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác
xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật
|
90
|
6
|
Thủ tục hành chính
liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn
giản; mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi
giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước
|
100
|
7
|
Thủ tục hành chính
được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục
hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020
|
100
|
8
|
Sắp xếp, tổ chức
lại các cơ quan, đơn vị để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
|
90,91
|
9
|
Chuyển giao những
công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp
cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận
|
89,47
|
10
|
Sự hài lòng của cá
nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên
80% vào năm 2020
|
95
|
11
|
Sự hài lòng của cá
nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020 (Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào
tạo)
|
100
|
12
|
Đội ngũ công chức,
viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công
vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100% các
cơ quan, đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm
|
95,45
|
13
|
Chính sách tiền
lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản
|
81,82
|
14
|
Đến năm 2020: 90%
các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà
nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường
xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử công vụ trong công việc; bảo đảm dữ liệu
điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao
dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện
tử mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu
hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử
hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ
người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác
nhau
|
90,48
|
15
|
Các Trang tin, Cổng
Thông tin điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoàn
thành việc kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, hình thành đầy đủ
Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet
|
100
|
16
|
20%
số lượng người dân và doanh nghiệp tham gia Hệ thống thông tin Chính phủ điện
tử được xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ
thống thông tin của các cơ quan
|
78,95
|
17
|
Tỷ
lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành
chính của từng bộ, ngành đạt từ 20% trở lên; tích hợp 30% các dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công
quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua
Hệ thống thông tin Một cửa điện tử cấp bộ
|
75
|
18
|
Tối
thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4; 50% Cổng Dịch vụ công
cấp bộ cung cấp giao diện cho các thiết bị di động; 100% dịch vụ công được hỗ
trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp; 50% cơ quan nhà nước công
khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến; 100%
Cổng Thông tin điện tử các bộ, ngành công khai thông tin đầy đủ theo quy định
tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính
phủ; 20% dịch vụ công trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để
thực hiện thủ tục hành chính; 50% dịch vụ công trực tuyến xử lý bằng hồ sơ
điện tử; 20% thông tin của người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực
tuyến; 50% dịch vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia
về Đăng ký doanh nghiệp
|
60
|
19
|
100%
phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành được kết nối, liên
thông qua Trục liên thông văn bản Quốc gia phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử;
90% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước (trừ văn bản mật theo quy định
của pháp luật) dưới dạng điện tử; tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ,
cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã
được xử lý trên môi trường mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội
dung mật)
|
95,24
|
20
|
Tối
thiểu 30% báo cáo định kỳ (không bao gồm nội dung mật) được gửi, nhận qua Hệ
thống thông tin báo cáo quốc gia
|
73,68
|
21
|
Rút
ngắn từ 30% - 50% thời gian họp, giảm tối đa việc sử dụng tài liệu giấy thông
qua Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc, văn phòng điện tử
|
100
|
22
|
100%
cơ quan kết nối vào Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà
nước
|
84,21
|
II. ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
STT
|
Mức độ
hoàn thành
Các mục tiêu cải
cách
|
Tỷ lệ %
|
1
|
Thủ tục hành chính
liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn
giản; mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi
giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước
|
98,39
|
2
|
Thủ tục hành chính
được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục
hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020
|
96,67
|
3
|
Sắp xếp, tổ chức
lại các cơ quan, đơn vị để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
|
98,39
|
4
|
Chuyển giao những
công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp
cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận
|
84,75
|
5
|
Sự hài lòng của cá
nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên
80% vào năm 2020
|
96,77
|
6
|
Sự hài lòng của cá
nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020
|
98,36
|
7
|
Đội ngũ công chức,
viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công
vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100% các
cơ quan, đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm;
|
|
7.1
|
Đội ngũ công chức,
viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công
vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước
|
93,55
|
7.2
|
100% các cơ quan,
đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm
|
91,80
|
8
|
Đến năm 2020: 90%
các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà
nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường
xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử
phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của
các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử mọi
lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các
dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính
ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp
mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau
|
|
8.1
|
Đến năm 2020: 90% các
văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước
được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên
sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ
hầu hết các hoạt động trong các cơ quan
|
96,77
|
8.2
|
Hầu hết các giao
dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện
tử mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu
hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử
hành chính ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và
doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau
|
93,55
|
9
|
Các Trang tin, Cổng
Thông tin điện tử hoàn thành việc kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính
phủ, hình thành đầy đủ Mạng thông tin điện tử hành chính trên Internet
|
86,67
|
10
|
20%
số lượng người dân và doanh nghiệp tham gia Hệ thống thông tin Chính quyền
điện tử được xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả
các hệ thống thông tin của các cơ quan
|
40,98
|
11
|
Tỷ
lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành
chính của từng bộ, ngành đạt từ 20% trở lên; tích hợp 30% các dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công
quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua
Hệ thống thông tin một cửa điện tử
|
45,90
|
12
|
Tối
thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4; 50% Cổng Dịch vụ công
cấp tỉnh cung cấp giao diện cho các thiết bị di động; 100% dịch vụ công được
hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp; 50% cơ quan nhà nước
công khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến;
100% Cổng Thông tin điện tử công khai thông tin đầy đủ theo quy định tại Nghị
định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ; 20%
dịch vụ công trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để thực hiện
thủ tục hành chính; 50% dịch vụ công trực tuyến xử lý bằng hồ sơ điện tử; 20%
thông tin của người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực tuyến; 50% dịch
vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh
nghiệp
|
|
12.1
|
Tối thiểu 30% dịch
vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4
|
49,18
|
12.2
|
50% Cổng Dịch vụ
công cấp tỉnh cung cấp giao diện cho các thiết bị di động
|
59,32
|
12.3
|
100% dịch vụ công
được hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp
|
65,00
|
12.4
|
50% cơ quan nhà
nước công khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực
tuyến
|
59,02
|
12.5
|
100% Cổng Thông tin
điện tử công khai thông tin đầy đủ theo quy định tại Nghị định số
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ
|
63,93
|
12.6
|
20% dịch vụ công
trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để thực hiện thủ tục hành
chính
|
49,18
|
12.7
|
50% dịch vụ công
trực tuyến xử lý bằng hồ sơ điện tử
|
60,66
|
12.8
|
20% thông tin của
người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực tuyến
|
54,10
|
12.9
|
50% dịch vụ công
trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp
|
45,76
|
13
|
100%
phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành được kết nối, liên
thông qua Trục liên thông văn bản Quốc gia phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử;
90% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước (trừ văn bản mật theo quy định
của pháp luật) dưới dạng điện tử; tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ,
cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã
được xử lý trên môi trường mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội
dung mật)
|
95,08
|
14
|
Tối
thiểu 30% báo cáo định kỳ (không bao gồm nội dung mật) được gửi, nhận qua Hệ
thống thông tin báo cáo quốc gia
|
55,36
|
15
|
Rút
ngắn từ 30% - 50% thời gian họp, giảm tối đa việc sử dụng tài liệu giấy thông
qua Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc, văn phòng điện tử
|
81,97
|
16
|
100%
cơ quan kết nối vào Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà
nước
|
83,33
|
PHỤ LỤC IX
CHỈ SỐ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH - PARINDEX QUA 08 NĂM (2012 - 2019) GIAI
ĐOẠN 2011 - 2020
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
I. CÁC BỘ, CƠ QUAN
NGANG BỘ
(Đơn vị tính:
Par Index: %)
STT
|
Các bộ, cơ
quan ngang bộ
|
Năm 2019
|
Năm 2018
|
Năm 2017
|
Năm 2016
|
Năm 2015
|
Năm 2014
|
Năm 2013
|
Năm 2012
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
1
|
Bộ Công Thương
|
84,36
|
10
|
84,38
|
5
|
83,59
|
5
|
79,17
|
12
|
82,19
|
18
|
76,15
|
12
|
79,36
|
6
|
81,18
|
2
|
2
|
Bộ GD&ĐT
|
84,24
|
11
|
82,18
|
11
|
80,01
|
11
|
78,39
|
15
|
82,27
|
16
|
71,19
|
18
|
77,32
|
10
|
76,48
|
10
|
3
|
Bộ GTVT
|
80,53
|
17
|
75,13
|
18
|
77,88
|
14
|
84,48
|
4
|
88,77
|
3
|
81,83
|
1
|
81,06
|
1
|
80,58
|
4
|
4
|
Bộ KH&CN
|
84,96
|
6
|
82,90
|
7
|
80,60
|
8
|
86,54
|
3
|
82,21
|
17
|
71,00
|
19
|
77,27
|
11
|
76,20
|
11
|
5
|
Bộ KH&ĐT
|
82,96
|
13
|
80,72
|
14
|
72,61
|
17
|
80,59
|
9
|
86,81
|
5
|
78,78
|
7
|
74,74
|
17
|
78,00
|
7
|
6
|
Bộ LĐ-TB&XH
|
84,42
|
9
|
82,20
|
10
|
80,00
|
12
|
71,91
|
19
|
83,56
|
14
|
73,72
|
15
|
75,48
|
16
|
67,06
|
18
|
7
|
Bộ Ngoại giao
|
87,64
|
5
|
83,77
|
6
|
82,92
|
6
|
80,85
|
8
|
85,34
|
10
|
80,07
|
4
|
80,31
|
3
|
79,64
|
5
|
8
|
Bộ NN và PTNN
|
88,23
|
4
|
85,34
|
4
|
82,40
|
7
|
79,12
|
13
|
83,73
|
13
|
75,42
|
13
|
78,34
|
7
|
80,71
|
3
|
9
|
Bộ Nội vụ
|
84,61
|
8
|
82,73
|
8
|
80,54
|
9
|
79,94
|
10
|
86,99
|
4
|
80,06
|
5
|
77,79
|
8
|
74,39
|
12
|
10
|
Bộ Tài chính
|
94,77
|
2
|
90,19
|
2
|
84,42
|
3
|
87,27
|
2
|
89,21
|
2
|
81,54
|
2
|
79,89
|
4
|
77,03
|
8
|
11
|
Bộ TN&MT
|
84,78
|
7
|
82,52
|
9
|
80,02
|
10
|
77,47
|
16
|
84,29
|
11
|
78,69
|
8
|
77,09
|
14
|
69,75
|
16
|
12
|
Bộ TT&TT
|
81,58
|
15
|
79,21
|
16
|
86,13
|
2
|
84,02
|
5
|
82,04
|
19
|
73,88
|
14
|
76,28
|
15
|
73,63
|
14
|
13
|
Bộ Tư pháp
|
90,12
|
3
|
86,53
|
3
|
83,93
|
4
|
82,90
|
6
|
86,47
|
9
|
78,27
|
9
|
79,53
|
5
|
82,47
|
1
|
14
|
Bộ VHTT&DL
|
82,46
|
14
|
81,24
|
12
|
78,74
|
13
|
81,57
|
7
|
86,78
|
6
|
78,97
|
6
|
77,57
|
9
|
77,01
|
9
|
15
|
Bộ Xây dựng
|
83,98
|
12
|
79,60
|
15
|
72,65
|
16
|
79,11
|
14
|
86,74
|
7
|
78,03
|
10
|
77,25
|
12
|
73,85
|
13
|
16
|
Bộ Y tế
|
80,68
|
16
|
77,87
|
17
|
72,40
|
18
|
79,69
|
11
|
86,58
|
8
|
73,55
|
17
|
74,19
|
18
|
64,78
|
19
|
17
|
NHNN Việt Nam
|
95,40
|
1
|
90,57
|
1
|
92,36
|
1
|
92,68
|
1
|
89,42
|
1
|
80,48
|
3
|
80,38
|
2
|
72,91
|
15
|
18
|
Thanh tra Chính phủ
|
86,50
|
-
|
81,10
|
13
|
75,18
|
15
|
76,03
|
18
|
84,07
|
12
|
77,66
|
11
|
77,20
|
13
|
79,38
|
6
|
19
|
Ủy ban Dân tộc
|
76,37
|
-
|
74,87
|
-
|
72,13
|
19
|
76,20
|
17
|
83,27
|
15
|
73,57
|
16
|
66,71
|
19
|
67,19
|
17
|
GIÁ TRỊ
TRUNG BÌNH
|
85,63
|
|
82,68
|
|
79,92
|
|
80,94
|
|
85,30
|
|
76,99
|
|
77,35
|
|
75,38
|
|
II. UBND CÁC TỈNH,
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Đơn vị tính:
PARINDEX: %)
STT
|
UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
|
Năm 2019
|
Năm 2018
|
Năm 2017
|
Năm 2016
|
Năm 2015
|
Năm 2014
|
Năm 2013
|
Năm 2012
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
Par Index
|
Thứ hạng
|
1
|
An Giang
|
83,32
|
11
|
80,77
|
8
|
83,54
|
8
|
72,89
|
36
|
85,56
|
31
|
84,84
|
15
|
82,41
|
15
|
83,25
|
5
|
2
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
83,45
|
9
|
79,27
|
12
|
81,58
|
16
|
75,12
|
29
|
85,26
|
35
|
85,69
|
8
|
82,70
|
14
|
86,14
|
2
|
3
|
Bắc Giang
|
81,84
|
25
|
78,14
|
25
|
82,74
|
13
|
80,31
|
13
|
88,51
|
10
|
85,40
|
11
|
83,22
|
12
|
82,75
|
8
|
4
|
Bắc Kạn
|
79,02
|
55
|
74,62
|
49
|
73,92
|
49
|
65,12
|
60
|
78,59
|
59
|
64,21
|
63
|
68,82
|
58
|
67,62
|
58
|
5
|
Bạc Liêu
|
81,20
|
30
|
76,85
|
31
|
76,89
|
36
|
71,12
|
45
|
88,23
|
12
|
84,14
|
20
|
81,91
|
16
|
80,56
|
14
|
6
|
Bắc Ninh
|
82,20
|
18
|
78,44
|
23
|
79,44
|
26
|
81,31
|
9
|
83,95
|
45
|
82,87
|
27
|
77,63
|
35
|
78,29
|
28
|
7
|
Bến Tre
|
73,87
|
63
|
73,49
|
55
|
67,35
|
62
|
70,47
|
47
|
84,96
|
36
|
83,45
|
23
|
81,40
|
18
|
79,80
|
21
|
8
|
Bình Định
|
79,86
|
46
|
73,80
|
53
|
70,29
|
59
|
72,17
|
41
|
81,77
|
53
|
80,79
|
39
|
74,87
|
45
|
75,65
|
37
|
9
|
Bình Dương
|
82,30
|
17
|
79,00
|
15
|
83,71
|
7
|
84,34
|
5
|
89,78
|
7
|
85,22
|
12
|
86,86
|
3
|
81,26
|
11
|
10
|
Bình Phước
|
80,79
|
37
|
75,61
|
39
|
77,49
|
33
|
67,54
|
57
|
80,62
|
55
|
78,34
|
49
|
71,06
|
55
|
69,69
|
53
|
11
|
Bình Thuận
|
79,74
|
47
|
75,54
|
42
|
78,94
|
28
|
78,72
|
18
|
85,30
|
34
|
84,65
|
17
|
84,75
|
7
|
77,24
|
32
|
12
|
Cà Mau
|
79,64
|
49
|
73,85
|
52
|
73,07
|
53
|
69,75
|
50
|
84,30
|
41
|
80,99
|
38
|
76,37
|
42
|
75,36
|
38
|
13
|
Cần Thơ
|
81,25
|
29
|
81,10
|
6
|
83,53
|
9
|
79,23
|
16
|
90,52
|
5
|
87,81
|
5
|
84,49
|
8
|
80,87
|
12
|
14
|
Cao Bằng
|
78,53
|
58
|
71,22
|
59
|
74,55
|
45
|
62,97
|
62
|
75,83
|
62
|
67,18
|
62
|
68,25
|
59
|
64,04
|
62
|
15
|
Đà Nẵng
|
83,68
|
6
|
83,70
|
4
|
84,40
|
4
|
90,32
|
1
|
93,31
|
1
|
92,54
|
1
|
87,02
|
1
|
87,12
|
1
|
16
|
Đắk Lắk
|
79,53
|
50
|
75,43
|
43
|
75,37
|
43
|
75,30
|
26
|
81,15
|
54
|
81,51
|
34
|
77,69
|
34
|
75,86
|
36
|
17
|
Đắk Nông
|
78,92
|
56
|
71,03
|
60
|
72,81
|
56
|
68,14
|
55
|
82,41
|
52
|
76,25
|
55
|
77,48
|
36
|
73,25
|
45
|
18
|
Điện Biên
|
81,42
|
27
|
77,00
|
28
|
79,53
|
24
|
71,98
|
42
|
74,99
|
63
|
68,68
|
61
|
65,13
|
61
|
62,58
|
63
|
19
|
Đồng Nai
|
81,99
|
21
|
78,62
|
20
|
84,52
|
3
|
85,12
|
4
|
92,53
|
3
|
88,56
|
4
|
81,73
|
17
|
74,07
|
43
|
20
|
Đồng Tháp
|
84,43
|
3
|
83,71
|
3
|
81,91
|
14
|
81,39(1)
|
7
|
89,08
|
8
|
85,49
|
10
|
83,08
|
13
|
83,41
|
4
|
21
|
Gia Lai
|
80,58
|
41
|
74,56
|
50
|
73,68
|
50
|
76,04
|
25
|
88,08
|
13
|
77,76
|
51
|
66,24
|
60
|
70,19
|
51
|
22
|
Hà Giang
|
79,23
|
53
|
76,84(2)
|
33
|
79,52
|
25
|
75,20
|
28
|
79,16
|
57
|
73,37
|
59
|
69,43
|
57
|
65,08
|
60
|
23
|
Hà Nam
|
79,91
|
45
|
75,66
|
38
|
76,70
|
38
|
76,82
|
23
|
82,79
|
51
|
69,44
|
60
|
73,97
|
48
|
73,53
|
44
|
24
|
Hà Nội
|
84,64
|
2
|
83,98
|
2
|
85,46
|
2
|
85,23
|
3
|
88,79
|
9
|
91,21
|
3
|
85,43
|
5
|
82,77
|
7
|
25
|
Hà Tĩnh
|
83,25
|
12
|
79,11
|
13
|
81,55
|
17
|
78,95
|
17
|
87,88
|
15
|
84,83
|
16
|
83,37
|
10
|
78,86
|
27
|
26
|
Hải Dương
|
80,94
|
33
|
75,55
|
41
|
76,60
|
39
|
69,74
|
51
|
84,18
|
43
|
79,26
|
45
|
74,18
|
47
|
74,87
|
40
|
27
|
Hải Phòng
|
84,35
|
4
|
83,68
|
5
|
84,35
|
5
|
87,24
|
2
|
92,59
|
2
|
91,81
|
2
|
86,93
|
2
|
83,05
|
6
|
28
|
Hậu Giang
|
81,05
|
31
|
76,42
|
35
|
76,32
|
41
|
62,55
|
63
|
86,05
|
28
|
78,85
|
47
|
76,98
|
39
|
80,52
|
15
|
29
|
Hòa Bình
|
79,44
|
52
|
74,94
|
46
|
72,91
|
55
|
72,88
|
37
|
84,03
|
44
|
81,24
|
36
|
78,41
|
30
|
67,81
|
56
|
30
|
Hưng Yên
|
81,98
|
22
|
77,04
|
27
|
78,76
|
29
|
73,80
|
31
|
79,49
|
56
|
80,18
|
41
|
75,53
|
43
|
69,40
|
54
|
31
|
Khánh Hòa
|
80,90
|
34
|
79,54
|
11
|
83,97
|
6
|
80,84
|
12
|
87,23
|
17
|
83,62
|
22
|
78,15
|
32
|
76,84
|
34
|
32
|
Kiên Giang
|
79,13
|
54
|
75,02
|
45
|
74,30
|
47
|
71,06
|
46
|
82,98
|
50
|
82,91
|
26
|
77,75
|
33
|
71,17
|
48
|
33
|
Kon Tum
|
78,49
|
59
|
69,57
|
62
|
71,48
|
58
|
66,24
|
58
|
75,92
|
61
|
74,89
|
58
|
70,82
|
56
|
67,68
|
57
|
34
|
Lai Châu
|
79,51
|
51
|
72,23
|
58
|
71,94
|
57
|
69,14
|
53
|
79,12
|
58
|
76,75
|
52
|
63,17
|
62
|
66,46
|
59
|
35
|
Lâm Đồng
|
80,66
|
40
|
74,90
|
47
|
73,99
|
48
|
70,17
|
48
|
86,22
|
26
|
81,94
|
30
|
78,69
|
28
|
70,22
|
50
|
36
|
Lạng Sơn
|
80,33
|
42
|
77,25
|
26
|
79,10
|
27
|
69,61
|
52
|
86,53
|
24
|
83,09
|
25
|
79,21
|
26
|
70,64
|
49
|
37
|
Lào Cai
|
82,85
|
15
|
78,47
|
21
|
79,94
|
21
|
75,28
|
27
|
84,42
|
39
|
85,52
|
9
|
83,32
|
11
|
80,36
|
17
|
38
|
Long An
|
84,33
|
5
|
81,02
|
7
|
82,82
|
12
|
74,76
|
30
|
86,63
|
23
|
78,54
|
48
|
73,36
|
50
|
79,96
|
20
|
39
|
Nam Định
|
80,70
|
39
|
75,60
|
40
|
76,50
|
40
|
72,27
|
40
|
83,29
|
47
|
79,20
|
46
|
73,80
|
49
|
75,29
|
39
|
40
|
Nghệ An
|
81,93(3)
|
24
|
76,97
|
29
|
78,27
|
31
|
72,75
|
38
|
86,80
|
21
|
80,00
|
44
|
74,33
|
46
|
77,31
|
31
|
41
|
Ninh Bình
|
83,47
|
8
|
80,32
|
9
|
81,64
|
15
|
81,21
|
11
|
88,07
|
14
|
80,43
|
40
|
79,15
|
27
|
80,73
|
13
|
42
|
Ninh Thuận
|
80,95
|
32
|
76,84(4)
|
32
|
76,99
|
35
|
78,07
|
19
|
86,32
|
25
|
82,28
|
28
|
77,30
|
37
|
77,63
|
30
|
43
|
Phú Thọ
|
82,01
|
20
|
78,45
|
22
|
82,93
|
11
|
77,33
|
21
|
88,37
|
11
|
86,45
|
7
|
85,79
|
4
|
79,56
|
23
|
44
|
Phú Yên
|
77,36
|
60
|
69,53
|
63
|
72,96
|
54
|
77,41
|
20
|
85,58
|
30
|
80,01
|
43
|
79,50
|
25
|
74,57
|
42
|
45
|
Quảng Bình
|
80,80
|
36
|
75,67
|
37
|
76,86
|
37
|
71,37
|
43
|
85,41
|
33
|
81,81
|
32
|
75,36
|
44
|
70,16
|
52
|
46
|
Quảng Nam
|
80,84
|
35
|
75,22
|
44
|
73,27
|
52
|
73,66
|
32
|
84,43
|
38
|
81,29
|
35
|
73,11
|
52
|
78,16
|
29
|
47
|
Quảng Ngãi
|
76,86
|
61
|
73,39
|
56
|
59,69
|
63
|
66,19
|
59
|
77,22
|
60
|
76,31
|
54
|
79,53
|
24
|
72,90
|
46
|
48
|
Quảng Ninh
|
90,09
|
1
|
89,06
|
1
|
89,45
|
1
|
82,73
|
6
|
90,22
|
6
|
84,89
|
14
|
79,59
|
23
|
80,21
|
19
|
49
|
Quảng Trị
|
81,32
|
28
|
76,90
|
30
|
81,50
|
18
|
80,03
|
14
|
84,41
|
40
|
81,19
|
37
|
72,79
|
53
|
71,60
|
47
|
50
|
Sóc Trăng
|
82,03
|
19
|
78,35
|
24
|
74,51
|
46
|
69,95
|
49
|
86,15
|
27
|
81,72
|
33
|
78,41
|
29
|
77,05
|
33
|
51
|
Sơn La
|
81,93(4)
|
23
|
78,83
|
17
|
81,25
|
19
|
73,62
|
33
|
84,18
|
42
|
75,43
|
56
|
58,91
|
63
|
64,08
|
61
|
52
|
Tây Ninh
|
80,05
|
44
|
74,84
|
48
|
77,76
|
32
|
71,30
|
44
|
85,98
|
29
|
84,63
|
18
|
78,17
|
31
|
80,29
|
18
|
53
|
Thái Bình
|
80,76
|
38
|
76,20
|
36
|
77,00
|
34
|
76,41
|
24
|
87,31
|
16
|
81,95
|
29
|
80,99
|
20
|
81,95
|
9
|
54
|
Thái Nguyên
|
83,01
|
14
|
78,78
|
18
|
78,55
|
30
|
69,03
|
54
|
86,71
|
22
|
80,05
|
42
|
77,01
|
38
|
79,03
|
26
|
55
|
Thanh Hóa
|
80,15
|
43
|
73,19
|
57
|
69,94
|
61
|
73,07
|
35
|
86,88
|
20
|
83,97
|
21
|
80,90
|
21
|
80,41
|
16
|
56
|
Thừa Thiên Huế
|
83,06
|
13
|
78,90
|
16
|
79,87
|
23
|
81,24
|
10
|
91,14
|
4
|
84,31
|
19
|
76,72
|
41
|
74,85
|
41
|
57
|
Tiền Giang
|
79,68
|
48
|
73,69
|
54
|
73,64
|
51
|
72,42
|
39
|
85,49
|
32
|
81,83
|
31
|
80,84
|
22
|
79,38
|
24
|
58
|
TP. Hồ Chí Minh
|
83,56
|
7
|
79,63
|
10
|
83,50
|
10
|
79,93
|
15
|
87,22
|
18
|
87,12
|
6
|
83,52
|
9
|
83,83
|
3
|
59
|
Trà Vinh
|
78,89
|
57
|
69,85
|
61
|
70,25
|
60
|
63,95
|
61
|
83,39
|
46
|
83,11
|
24
|
81,21
|
19
|
79,57
|
22
|
60
|
Tuyên Quang
|
82,82
|
16
|
78,71
|
19
|
79,89
|
22
|
77,28
|
22
|
83,24
|
49
|
76,45
|
53
|
72,69
|
54
|
68,90
|
55
|
61
|
Vĩnh Long
|
76,61
|
62
|
74,39
|
51
|
74,77
|
44
|
73,23
|
34
|
87,20
|
19
|
75,10
|
57
|
76,76
|
40
|
81,67
|
10
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
83,37
|
10
|
79,05
|
14
|
80,29
|
20
|
81,39(5)
|
8
|
84,89
|
37
|
84,97
|
13
|
84,90
|
6
|
79,16
|
25
|
63
|
Yên Bái
|
81,66
|
26
|
76,61
|
34
|
76,26
|
42
|
67,78
|
56
|
83,26
|
48
|
78,17
|
50
|
73,18
|
51
|
76,55
|
35
|
GIÁ TRỊ
TRUNG BÌNH
|
81,15
|
|
76,92
|
|
77,72
|
|
74,64
|
|
85,11
|
|
81,21
|
|
77,56
|
|
76,08
|
|
PHỤ LỤC X
CHỈ SỐ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI DÂN, TỔ CHỨC ĐỐI VỚI SỰ PHỤC VỤ CỦA CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC - SIPAS QUA 03 NĂM (2017 - 2019)
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của
Chính phủ)
(Đơn vị
tính: SIPAS: %)
STT
|
UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
|
SIPAS 2019
|
SIPAS 2018
|
SIPAS 2017
|
1
|
An Giang
|
89,81
|
89,62
|
87,57
|
2
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
83,70
|
83,04
|
72,18
|
3
|
Bắc Giang
|
89,18
|
82,45
|
93,14
|
4
|
Bắc Kạn
|
85,16
|
79,87
|
76,14
|
5
|
Bạc Liêu
|
81,08
|
88,89
|
89,66
|
6
|
Bắc Ninh
|
87,05
|
81,92
|
80,79
|
7
|
Bến Tre
|
86,58
|
86,56
|
88,49
|
8
|
Bình Phước
|
84,87
|
80,25
|
75,33
|
9
|
Bình Định
|
81,81
|
71,81
|
81,43
|
10
|
Bình Dương
|
88,02
|
85,03
|
79,58
|
11
|
Bình Thuận
|
73,81
|
73,33
|
70,23
|
12
|
Cà Mau
|
91,57
|
91,14
|
81,84
|
13
|
Cần Thơ
|
80,39
|
79,67
|
76,47
|
14
|
Cao Bằng
|
75,91
|
70,46
|
70,17
|
15
|
Đà Nẵng
|
85,49
|
87,43
|
86,19
|
16
|
Đắk Lắk
|
75,07
|
80,33
|
73,09
|
17
|
Đắk Nông
|
77,69
|
77,51
|
78,15
|
18
|
Điện Biên
|
85,00
|
86,01
|
79,31
|
19
|
Đồng Nai
|
86,89
|
87,48
|
88,70
|
20
|
Đồng Tháp
|
87,62
|
89,37
|
82,50
|
21
|
Gia Lai
|
84,45
|
74,21
|
74,29
|
22
|
Hà Giang
|
84,80
|
69,98
|
79,50
|
23
|
Hà Nam
|
88,33
|
87,99
|
83,08
|
24
|
Hà Nội
|
80,09
|
83,00
|
76,53
|
25
|
Hà Tĩnh
|
86,05
|
92,17
|
84,68
|
26
|
Hải Dương
|
90,74
|
91,83
|
92,18
|
27
|
Hải Phòng
|
92,22
|
90,86
|
88,92
|
28
|
Hậu Giang
|
87,84
|
86,38
|
82,87
|
29
|
Hòa Bình
|
85,33
|
79,72
|
78,58
|
30
|
Hưng Yên
|
91,03
|
95,24
|
76,18
|
31
|
Khánh Hòa
|
77,64
|
79,79
|
69,42
|
32
|
Kiên Giang
|
78,73
|
80,35
|
80,13
|
33
|
Kom Tum
|
86,94
|
81,81
|
67,70
|
34
|
Lai Châu
|
82,33
|
74,95
|
75,39
|
35
|
Lâm Đồng
|
86,78
|
80,04
|
72,83
|
36
|
Lạng Sơn
|
81,17
|
75,70
|
87,57
|
37
|
Lào Cai
|
83,05
|
79,45
|
79,16
|
38
|
Long An
|
85,59
|
76,68
|
86,35
|
39
|
Nam Định
|
75,95
|
87,90
|
69,80
|
40
|
Nghệ An
|
80,04
|
81,87
|
78,99
|
41
|
Ninh Bình
|
84,63
|
96,60
|
82,44
|
42
|
Ninh Thuận
|
81,04
|
77,40
|
95,10
|
43
|
Phú Thọ
|
85,89
|
75,87
|
86,65
|
44
|
Phú Yên
|
84,54
|
82,04
|
77,01
|
45
|
Quảng Bình
|
83,43
|
84,78
|
78,71
|
46
|
Quảng Nam
|
81,41
|
83,31
|
83,16
|
47
|
Quảng Ngãi
|
79,40
|
81,07
|
74,84
|
48
|
Quảng Ninh
|
95,26
|
91,15
|
92,88
|
49
|
Quảng Trị
|
85,26
|
73,31
|
83,13
|
50
|
Sóc Trăng
|
88,78
|
84,40
|
80,43
|
51
|
Sơn La
|
90,61
|
97,88
|
79,38
|
52
|
Tây Ninh
|
83,45
|
81,24
|
79,76
|
53
|
Thái Bình
|
85,17
|
91,62
|
75,66
|
54
|
Thái Nguyên
|
86,26
|
86,02
|
94,04
|
55
|
Thanh Hóa
|
86,33
|
86,75
|
80,58
|
56
|
Thừa Thiên Huế
|
78,37
|
82,25
|
81,35
|
57
|
Tiền Giang
|
83,39
|
76,42
|
79,18
|
58
|
TP. Hồ Chí Minh
|
80,80
|
71,91
|
71,19
|
59
|
Trà Vinh
|
89,95
|
83,91
|
86,08
|
60
|
Tuyên Quang
|
85,81
|
76,31
|
74,64
|
61
|
Vĩnh Long
|
79,77
|
73,93
|
82,30
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
88,37
|
88,20
|
95,75
|
63
|
Yên Bái
|
86,84
|
79,37
|
77,71
|
GIÁ TRỊ
TRUNG BÌNH
|
84,45
|
82,99
|
80,90
|
[1] Như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự…
[2] Trong số này, dự án Luật Thỏa thuận
quốc tế đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020. Có 03 dự án luật, pháp lệnh đã đưa vào
Chương trình, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến nhưng cần tiếp tục
chuẩn bị nên chưa được ban hành (Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt,
Luật về Hội, Pháp lệnh Đào tạo một số chức danh tư pháp).
[3] Ngày 18/6/2020, Quốc hội khóa XIV đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật số 63/2020/QH14 với nhiều nội dung đáng chú ý.
[4] Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức…
[5] Giai đoạn 2011 - 2015, các bộ, cơ
quan ban hành 3.017 thông tư, thông tư liên tịch; giai đoạn 2016 - 2020 (tính
đến 31/5/2020) là 3.707 thông tư, thông tư liên tịch.
[6] Tính từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm
2019, Quốc hội đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản luật, pháp
lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với
Hiến pháp năm 2013. Trong số đó có những đạo luật cơ bản, quan trọng như Bộ
luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015,
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật An toàn
thông tin mạng năm 2015, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Luật Trẻ em năm
2016, Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Quản lý, sử
dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2017, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật An ninh mạng
năm 2018, Luật Đặc xá năm 2018, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Thi
hành án hình sự năm 2019…
[7] Giai đoạn 2011 - 2015: Tổng số VBQPPL
của địa phương là 283.546; giai đoạn 2016 - 2020 là 102.280 VBQPPL.
[8] Năm 2019, cuối năm nợ ban hành là 10
văn bản; đến thời điểm hiện tại, số văn bản nợ là 41 văn bản quy định chi tiết
13 luật đã có hiệu lực. Đến ngày 28/10/2020, số văn bản nợ ban hành là 21 văn
bản quy định chi tiết 09 luật đã có hiệu lực.
[9] Tính từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ khóa
XIV đến nay, đã cắt giảm 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh; 6.776/9.926 danh mục
hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; tổng chi phí xã hội tiết kiệm được khoảng
hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm. Các bộ, ngành đã
có phương án xử lý 1.501 mặt hàng có chồng chéo về thẩm quyền.
[10] Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày
08/6/2010; Nghị
định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị
định liên quan đến kiểm soát TTHC; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC;
Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông trong giải quyết TTHC; Nghị định số 09/2019/NĐ-CP về chế độ báo cáo
trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP
ngày 22/5/2020 về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử. Luật Ban hành VBQPPL
2015, các văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật đã điều chỉnh 02
nội dung về thẩm quyền quy định TTHC và yêu cầu đánh giá tác động TTHC ngay từ
giai đoạn lập đề nghị xây dựng cho đến giai đoạn soạn thảo VBQPPL.
[11] Ngày
25/3/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg về Quy
chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương thay thế Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007.
Tiếp theo đó, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 về cơ chế một cửa,
một cửa liên thông trong giải quyết TTHC (sau đây gọi tắt là Nghị định số
61/2018/NĐ-CP), thay thế Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg.
[13] Theo kết quả thống kê từ năm 2011
đến tháng 12/2016, các bộ, ngành, địa phương đã tiếp nhận trên 8.000 phản
ánh, kiến nghị về quy định hành chính, trong đó đã xử lý trên 7.000
phản ánh, kiến nghị thuộc thẩm quyền, đạt trên 85%. Kể từ khi thành lập (ngày
03/4/2017 đến hết năm 2020), Hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người
dân đã tiếp nhận 4.855 phản ánh, kiến nghị, trong đó, 1.914 phản ánh, kiến nghị
thuộc phạm vi xem xét, xử lý; đã tiến hành phân loại và chuyển 1.364 phản ánh,
kiến nghị đến các bộ, ngành, địa phương để xem xét, xử lý theo thẩm quyền; số
còn lại đang đề nghị người dân bổ sung thông tin làm cơ sở xem xét, chuyển xử
lý; các bộ, ngành, địa phương
đã trả lời 1.153/1.364 phản ánh, kiến nghị (đạt 84,53%).
[15] Công văn số 4173/VPCP-KSTT ngày
08/5/2018 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của TTCP.
[16] Văn bản số 4798/BC-VPCP ngày
23/5/2018 của Văn phòng Chính phủ; Văn bản số 4979/VPCP-KSTT ngày 28/5/2018 của
Văn phòng Chính phủ.
[17] Việc chậm sửa đổi, bổ sung quy trình
xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quy chế phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị có liên quan trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của
cá nhân, tổ chức về quy định hành chính và việc công bố, công khai TTHC đã
ảnh hưởng đến kết quả triển khai công tác kiểm soát TTHC của bộ, ngành,
địa phương nói riêng cũng như kết quả cải cách thủ tục hành chính
nói chung trên phạm vi cả nước.
[18] Thành phố Hồ Chí Minh đã điều
chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Giao thông vận tải khác với Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ;
điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ của các phòng Tài chính - Kế
hoạch, Văn hóa - Thông tin, Kinh tế khác với Nghị định số
37/2014/NĐ-CP ; 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã báo cáo Thủ
tướng Chính phủ cho phép thành lập Sở Du lịch. Việc nhập các trung
tâm thuộc các lĩnh vực y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn ở
huyện được thực hiện ở nhiều địa phương.
[19] Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 về thực hiện Nghị quyết số
18-NQ/TW; Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 về việc sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp huyện, cấp xã; Kết luận số 17-KL/TW ngày 11/9/2018 về tình hình
thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống chính trị
năm 2015 - 2016, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
giai đoạn 2017
- 2021; Kết luận số 34-KL/TW ngày
07/8/2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết
số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp
tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai
đoạn 2019 - 2021; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của Chính phủ về Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Kế hoạch số
07-KH/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội; Nghị
quyết số 32/NQ-CP ngày 14/5/2019 về ban hành kế hoạch thực hiện sắp xếp các đơn
vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021; Văn bản số 2115/BNV-CQĐP ngày 16/5/2019 của Bộ Nội vụ hướng dẫn mẫu hồ sơ đề án
sắp xếp các ĐVHC cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021....
[20] Trong giai đoạn 2011 - 2020, tổ chức
bộ máy lực lượng Công an đã giảm 06 tổng cục, 01 đơn vị tương đương tổng cục,
55 đơn vị cấp cục, 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy cấp tỉnh, 07 trường Công
an nhân dân.
[23] Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016
của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương.
[24] Đồng Tháp, Kiên Giang, Vĩnh Long,
An Giang, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Phú Yên, Bình Định,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Quảng Trị, Quảng
Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Lào Cai, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hải Dương, Tây Ninh, Trà Vinh, Cần Thơ, Sơn La, Thái
Nguyên, Quảng
Ninh, Thừa Thiên Huế.
[25] Cụ thể với các nội dung: (1) Kết hợp
đặt trụ sở Bộ phận Một cửa các cấp tại trụ sở của Bưu điện (đã triển khai tại
14 Trung tâm Hành chính công, 28 Bộ phận Một cửa cấp huyện, 48 Bộ phận Một cửa
cấp xã); (2) Bố trí nhân viên bưu điện hỗ trợ công chức, viên chức tại Bộ phận
Một cửa các cấp trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (tại 16 Trung tâm
Hành chính công, 36 Bộ phận Một cửa cấp huyện, 38 Bộ phận Một cửa cấp xã); (3)
Hỗ trợ, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công
trực tuyến.
[26] Báo cáo số 392/BC-CP ngày
22/9/2017 của Chính phủ, Phụ lục XVIII.
[28] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Nghị định số 03/NĐHN-BNV ngày 21/5/2019 về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý viên chức; Nghị
định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định về
tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và
thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà
nước, ĐVSNCL; Quyết
định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức
giai đoạn 2019 - 2030”; Nghị định số 62/2020/NĐ-CP ngày 01/6/2020 về vị trí
việc làm và biên chế công chức; Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về
đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số
106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 về vị trí việc làm và số người làm việc trong
ĐVSNCL; Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên
chức; Nghị định
số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức.
[29] Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày
09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số
88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020
về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
[30] Tại Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày
19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ.
[31] Trong số 5,4 triệu lượt người được
đào tạo, bồi dưỡng nói trên, có khoảng 697.036 lượt người được đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị; 447.181 lượt người được bồi dưỡng kiến thức về quản
lý nhà nước và khoảng hơn 4,2 triệu lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ (gấp hơn 2,3 lần so với giai đoạn 2011 - 2015).
[32] Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày
18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; Chỉ thị
số 07/CT-TTg ngày 19/3/2014 về việc đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công
tác quản lý công chức, viên chức và thi đua khen thưởng; Chỉ thị số 26/CT-TTg
ngày 05/9/2016 về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp; Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 08/9/2016 về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...
[33] Bộ luật Lao động năm 2012; Nghị quyết
số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018, Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018, Kế hoạch số
547-KH/BCSĐ ngày 12/9/2018 của Ban cán sự Đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội về kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Quyết định số 1477/QĐ-LĐTBXH
ngày 25/10/2018 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về kế hoạch triển khai
thực hiện phân công của Chính phủ tại Nghị quyết số 107/NQ-CP ; Nghị định số
51/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 và Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 quy
định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý
trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ.
[34] Nghị định số 334/2012/NĐ-CP ngày
15/4/2012 của Chính phủ về chế độ phụ cấp công vụ.
[35] Gồm các Nghị định số: 22/2011/NĐ-CP, 31/2012/NĐ-CP , 66/2013/NĐ-CP ,
47/2016/NĐ-CP , 47/2017/NĐ-CP , 72/2018/NĐ-CP , 38/2019/NĐ-CP .
Giai đoạn 2011 - 2020,
Chính phủ đã 06 lần điều chỉnh mức lương cơ sở, từ 730.000 đồng lên 1.490.000
đồng, tăng 104%, bình quân tăng 7,6%/năm.
[36] Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày
21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội.
[37] Trong đó có 1 doanh nghiệp do Cục
PTTTDN cấp Giấy chứng nhận.
[38] Trong đó có 6 doanh nghiệp do Cục
PTTTDN cấp Giấy chứng nhận.
[39] Gặp khó khăn trong việc cấp Giấy
chứng nhận DNKHCN do những vướng mắc, khó khăn trong việc giao quyền kết quả
nhiệm vụ KHCN sử dụng NSNN theo Nghị định số 70/2018/NĐ-CP .
[40] Tỷ lệ
này năm 2014 là 69,7%; năm 2015 là 68,6% và tăng dần trong giai đoạn 2016 -
2018 (năm 2016 là 67,9%, năm 2017 là 71,2% và năm 2018 là 73,2%).
[41] Năm
2014 là 58,9%; năm 2015 là 59,1%; năm 2016 là 55%; năm 2017 là 52,3%; năm 2018
là 52,3%.
[42] Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015; Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định
cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và
sự nghiệp khác; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ quy
định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
[43] Số liệu ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh,
thành phố bao gồm: đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh; đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh; đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc UBND cấp huyện.
[44] Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày
10/4/2007 của Chính phủ về ƯDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày
27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ƯDCNTT
trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày
01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế và Nghị quyết số
36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Quyết định số
1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc
gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 -
2020; Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/05/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Danh mục Cơ sở dữ liệu Quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển
Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một
số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 -
2020, định hướng đến 2025; Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính
phủ quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân
sách nhà nước; Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 30/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình mục tiêu Công nghệ thông tin giai đoạn 2016 - 2020; Nghị
định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về triển khai thực hiện TTHC
trên môi trường điện tử; Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính
phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước...
[45] Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày
13/6/2011 của Chính phủ quy định cung cấp thông tin DVCTT trên Trang thông tin điện tử hoặc Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà
nước.
[46] Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày
03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc
gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt
Nam giai đoạn 2018
- 2025 và định hướng đến năm 2030.
[47] Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
[48] Các đơn vị chưa tích hợp chữ ký số: Đài Tiếng nói Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước,
Bạc Liêu, Hải Dương.
[49] Báo cáo tình hình phát triển và ứng
dụng chữ ký số tại Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông phát hành thường
niên về lĩnh vực chứng thực chữ ký số từ năm 2016. Trong các năm qua, Báo cáo
đã được phát hành rộng rãi và trở thành tài liệu tham khảo hữu ích của nhiều cơ
quan, tổ chức, chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực chữ ký số nói riêng
và phát triển Chính phủ điện tử nói chung.
[50] Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối,
tích hợp với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp
tỉnh từ ngày 09/12/2019. Đến nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã tích hợp, cung
cấp hơn 2.650 dịch vụ công trực tuyến trên tổng số gần 6.700 TTHC tại 4 cấp
chính quyền; hơn 97 triệu lượt truy cập, trên 406 nghìn tài khoản đăng ký, hơn
26,6 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn 687 nghìn hồ sơ thực hiện trực tuyến
trên Cổng; tiếp nhận, hỗ trợ trên 41 nghìn cuộc gọi, xử lý hơn 9.000 phản ánh,
kiến nghị; chi
phí xã hội tiết kiệm được khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến khoảng 8.000 tỷ
đồng/năm.
[51] Tính từ ngày khai trương 24/6/2019
đến tháng 11/2020, Hệ thống đã phục vụ 24 Hội nghị, phiên họp của Chính phủ và
thực hiện xử lý 625 phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ thay thế việc phát
hành hơn 230 nghìn phiếu giấy, hồ sơ, tài liệu kèm theo. Chi phí tiết kiệm được
khi sử dụng Hệ thống khoảng 169 tỷ đồng/năm.
[52] Hệ thống thông tin
báo cáo Quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo,
điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến
nay Hệ thống đã kết nối 14 bộ, cơ quan, 37 địa phương và 106/200 chỉ tiêu kinh
tế - xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chi
phí tiết kiệm khi vận hành Hệ thống này khoảng 460 tỷ đồng/năm. Hiện tại,
106/106 chỉ tiêu kết nối đã cung cấp dữ liệu, hiển thị trên các Bảng theo dõi
trực quan (Infographic) tại Trung tâm thông tin; kết nối ổn định, thông suốt
của 12 thông tin, dữ liệu trực tuyến của các bộ, cơ quan: Tài chính, Tài nguyên
và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn, Ủy ban An toàn
giao thông Quốc gia; phối hợp với 54/63 tỉnh cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 08
chỉ tiêu kinh tế - xã hội; tương tác, điều hành trực tuyến thông qua hệ thống
mạng dữ liệu của Bộ Quốc phòng, mạng chuyên dùng, Internet với gần 30 điểm cầu
tại các bộ, ngành, địa phương.
[53] Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày
05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư; Thông tư số 01/2019/TT-BNV ngày
24/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Thông tư số 02/2019/TT-BNV ngày 24/01/2019
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Kế hoạch thực hiện Quyết định số 458/QĐ-TTg ngày
03/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Lưu trữ tài liệu
điện tử của các cơ quan nhà nước giai đoạn 2020 - 2025”.
[54] Ví dụ: Thực hiện kết nối mạng các cơ
sở cung ứng thuốc nhằm tăng cường quản lý, kiểm soát thuốc đối với cơ quan quản
lý, các cơ sở cung ứng thuốc và cơ sở y tế: Đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố
đã triển khai phần mềm quản lý; trong đó có 56.817/61.000 cơ sở kết nối liên
thông (nhà thuốc, quầy thuốc) đạt 93,1%; với nhà thuốc, có 21.000/21.000 nhà
thuốc đã triển khai phần mềm, đạt 100%; với quầy thuốc, có 31.055/40.000 quầy
thuốc đã triển khai phần mềm, đạt 77,6%. Xây dựng và triển khai quản lý hồ sơ
sức khỏe điện tử đến từng người dân, thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin cơ
bản với dữ liệu quốc gia về dân cư: Đến nay, Bộ Y tế đã triển khai phần mềm hồ
sơ sức khỏe tại 08 tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Nghệ An, Phú Yên, Bình Dương, Nam
Định, Thái Bình, Lâm Đồng, Phú Thọ.
[56] Các hình thức: Hội thảo, tọa đàm, báo
chí, truyền hình.
[57] Năm 2015: Các Bộ: Tài chính, Tư pháp,
Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
[58] Từ năm 2016 - 2020: Các Bộ: Tài
chính, Tư pháp, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Thông tin và Truyền thông, Công an, Y tế.
2 Số liệu trung bình TTHC của 63 tỉnh, thành phố.
1 ParIndex 2016: Giá trị tuyệt đối của tỉnh
Đồng Tháp là 81,38994.
2 ParIndex 2018: Giá trị
tuyệt đối của tỉnh Hà Giang là 76,8359.
3 ParIndex 2019: Giá trị
tuyệt đối của tỉnh Nghệ An là 81,92632.
4 ParIndex 2018: Giá trị
tuyệt đối của tỉnh Ninh Thuận là 76,8384.
4 ParIndex 2019: Giá
trị tuyệt đối của tỉnh Sơn La là 81,92736.
5 ParIndex 2016: Giá trị tuyệt đối của tỉnh
Vĩnh Phúc là 81,38982.
Báo cáo 128/BC-CP năm 2021 tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030 do Chính phủ ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Báo cáo 128/BC-CP ngày 19/04/2021 tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030 do Chính phủ ban hành
20.273
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|