Lần đầu tiên Đảng ta chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội nào?
Lần đầu tiên Đảng ta chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội nào?
Theo Tài liệu Các đại hội và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2018) Tải về nêu rõ nội dung sau:
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IX CỦA ĐẢNG (THÁNG 4-2001)
...
Gắn liền với toàn bộ công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, cần phải ra sức chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đó là nhiệm vụ then chốt, là cội nguồn thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng nước ta.
Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế, Đại hội xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là đưa nước ta “ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”
...
Như vậy, lần đầu tiên Đảng ta chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
*Trên đây là thông tin "Lần đầu tiên Đảng ta chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội nào?"

Lần đầu tiên Đảng ta chính thức khẳng định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tại Đại hội nào? (Hình từ Internet)
Ủy ban kiểm tra các cấp của Đảng có nhiệm vụ gì?
Căn cứ theo Điều 32 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 Uỷ ban kiểm tra các cấp của Đảng thực hiện các nhiệm vụ dưới đây:
- Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
- Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
- Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
- Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp.
Bao nhiêu đảng viên thì được phép thành lập đảng bộ cơ sở?
Căn cứ tại khoản 4 Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định như sau:
Điều 21.
1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Theo đó, tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên trở lên thì được phép thành lập chi bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.


