Vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa trẻ chết, người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Khung hình phạt dành cho tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định như thế nào?

Dạo gần đây trên các trang báo mạng hay các kênh tin tức, tôi thường xuyên thấy có các vụ người mẹ vứt bỏ con mới để khiến đứa bé chết. Cho tôi hỏi nếu người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa bé chết thì người mẹ đó có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Khung hình phạt dành cho tội vứt bỏ con mới đẻ được quy định như thế nào? Hình phạt cao nhất dành cho tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa bé chết là bao nhiêu?

Trường hợp vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa bé chết thì người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Căn cứ vào Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định như sau:

"Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm."

Như vậy, theo quy định trên thì người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Nếu như đủ các điều kiện sau thì người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ chết sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "Tội vứt bỏ con mới đẻ" theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015:

+ Giết con mình hoặc vứt bỏ con mình dẫn đến đứa trẻ chết.

+ Đứa trẻ phải nhỏ hơn 07 ngày tuổi

+ Người mẹ phải chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt.

Vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa trẻ chết, người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa trẻ chết, người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? (Hình từ Internet)

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội vứt bỏ con mới đẻ là bao lâu?

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:

"Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ."

Mà theo quy định thì tội vứt bỏ con mới đẻ là tội ít nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm.

Vứt bỏ con mới đẻ nhưng đứa trẻ không chết thì có bị phạt hành chính không?

Căn cứ vào Điều 21 Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định về xử phạt trường hợp vứt bỏ con mới đẻ nhưng đứa trẻ không chết như sau:

"Điều 21. Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật;
b) Cha mẹ, người chăm sóc trẻ em không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em có hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em."

Như vậy, trường hợp cha mẹ có hành vi cố ý bỏ rơi, vứt bỏ con thì có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Vứt bỏ con mới đẻ
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Pháp luật
Vứt bỏ con khi vừa mới sinh ra, người mẹ phải chịu trách nhiệm như thế nào? Liệu có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Pháp luật
Xử lý hình sự với hành vi vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì chịu hình phạt như thế nào?
Pháp luật
Vứt bỏ con mới đẻ tại cổng chùa thì người mẹ có bị phạt tù không? Nếu có thì mức phạt là bao nhiêu năm tù?
Vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa trẻ chết, người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Vứt bỏ con mới đẻ khiến đứa trẻ chết, người mẹ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Khung hình phạt dành cho tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định như thế nào?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Vứt bỏ con mới đẻ
Nguyễn Hoàng Tuấn Kiệt Lưu bài viết
3,115 lượt xem

TÌM KIẾM LIÊN QUAN
Vứt bỏ con mới đẻ

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Vứt bỏ con mới đẻ

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào