Sau khi Cơ quan Điều tra đề nghị gia hạn điều tra vụ án hình sự và quyết định gia hạn điều tra này có cần thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nào hay không?
- Quyết định gia hạn điều tra vụ án hình sự có được xem là văn bản tố tụng không?
- Quyết định gia hạn điều tra thì có cần thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nào hay không?
- Việc thông báo Quyết định gia hạn điều tra được thực hiện như thế nào?
- Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự có được xem là văn bản tố tụng không?
Quyết định gia hạn điều tra vụ án hình sự có được xem là văn bản tố tụng không?
Theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, về vấn đề văn bản tố tụng như sau:
- Văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác trong hoạt động tố tụng được lập theo mẫu thống nhất.
- Văn bản tố tụng ghi rõ:
+ Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng;
+ Căn cứ ban hành văn bản tố tụng;
+ Nội dung của văn bản tố tụng;
+ Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.
Như vậy, Quyết định gia hạn điều tra vụ án hình sự được xem là văn bản tố tụng.
Điều tra vụ án
Quyết định gia hạn điều tra thì có cần thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nào hay không?
Và theo quy định tại Điều 142 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định về trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi niêm yết, thông báo văn bản tố tụng như sau:
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của Bộ luật này.
- Người được giao trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng nhưng không thực hiện, thực hiện không đầy đủ theo quy định của Bộ luật này thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Theo đó cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định có trách nhiệm phải cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong vụ án.
Việc thông báo Quyết định gia hạn điều tra được thực hiện như thế nào?
Theo Điều 137 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về việc cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng như sau:
- Việc cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện thông qua các phương thức:
+ Cấp, giao, chuyển trực tiếp;
+ Gửi qua dịch vụ bưu chính;
+ Niêm yết công khai;
+ Thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Việc cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng phải thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Và theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thủ tục thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng như sau:
- Việc thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện khi việc niêm yết công khai không có kết quả hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được đăng trên báo hàng ngày của trung ương trong 03 số liên tiếp và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.
Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày kết thúc việc thông báo.
Như vậy, thông báo Quyết định gia hạn điều tra được thực hiện qua phương tiện thông tin đại chúng.
Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự có được xem là văn bản tố tụng không?
Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự như sau:
- Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra; ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định còn tội phạm khác chưa bị khởi tố.
- Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định kèm theo các tài liệu liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Bên cạnh đó, Điều 8 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP cũng giải thích rheem về việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, cụ thể như sau:
- Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải xem xét, xử lý như sau:
+ Nếu thấy chưa rõ căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để làm rõ;
+ Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định đó; trường hợp Cơ quan điều tra không nhất trí thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Khi có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu; chậm nhất 03 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Không thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu qua điều tra xác định được hành vi của bị can phạm vào khoản khác của tội danh đã khởi tố.
Ví dụ: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn A về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; quá trình điều tra xác định được hành vi trộm cắp của Nguyễn Văn A phạm vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự hoặc phạm vào khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự, thì không phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem là văn bản tố tụng.
Do đó, cách thức xử lý về việc cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng thực hiện tương tự như Quyết định gia hạn điều tra.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.