Kỳ báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội bắt đầu và kết thúc khi nào? Hình thức thể hiện báo cáo?
Kỳ báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội bắt đầu và kết thúc khi nào?
Kỳ báo cáo thống kê được quy định tại khoản 4 Điều 3 Quy định chế độ báo cáo thống kê và một số nội dung về công tác thống kê ngành Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Quyết định 456/QĐ-BHXH năm 2019 như sau:
Nội dung chế độ báo cáo thống kê ngành BHXH
...
4. Kỳ báo cáo
Kỳ báo cáo thống kê là khoảng thời gian nhất định quy định đối tượng báo cáo thống kê phải thể hiện kết quả hoạt động bằng số liệu theo các tiêu chí thống kê trong biểu mẫu báo cáo thống kê (sau tên biểu báo cáo). Kỳ báo cáo thống kê được tính theo ngày dương lịch, bao gồm:
a) Báo cáo tháng: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 cho đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo.
b) Báo cáo quý: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng đầu tiên của quý cho đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba của quý báo cáo.
c) Báo cáo 6 tháng: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 đến hết ngày 30 tháng 6 và từ ngày 01 tháng 7 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
d) Báo cáo năm: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 cho đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
e) Báo cáo thống kê đột xuất: được thực hiện khi có yêu cầu đột xuất ngoài các kỳ báo cáo nêu trên.
f) Thời hạn báo cáo:
Ngày nhận báo cáo được ghi cụ thể tại góc trên bên trái của từng biểu mẫu thống kê.
...
Như vậy, kỳ báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội được tính theo ngày dương lịch, cụ thể như sau:
(1) Báo cáo tháng: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 cho đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo.
(2) Báo cáo quý: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng đầu tiên của quý cho đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba của quý báo cáo.
(3) Báo cáo 6 tháng: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 đến hết ngày 30 tháng 6 và từ ngày 01 tháng 7 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
(4) Báo cáo năm: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 cho đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
(6) Báo cáo thống kê đột xuất: được thực hiện khi có yêu cầu đột xuất ngoài các kỳ báo cáo nêu trên.
Kỳ báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội bắt đầu và kết thúc khi nào? (Hình từ Internet)
Báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội được thực hiện dưới những hình thức nào?
Hình thức thể hiện báo cáo được quy định tại khoản 4 Điều 3 Quy định chế độ báo cáo thống kê và một số nội dung về công tác thống kê ngành Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Quyết định 456/QĐ-BHXH năm 2019 như sau:
Nội dung chế độ báo cáo thống kê ngành BHXH
...
4. Kỳ báo cáo
...
b) Báo cáo quý: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng đầu tiên của quý cho đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba của quý báo cáo.
c) Báo cáo 6 tháng: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 đến hết ngày 30 tháng 6 và từ ngày 01 tháng 7 đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
d) Báo cáo năm: được tính bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 01 cho đến hết ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
e) Báo cáo thống kê đột xuất: được thực hiện khi có yêu cầu đột xuất ngoài các kỳ báo cáo nêu trên.
f) Thời hạn báo cáo:
Ngày nhận báo cáo được ghi cụ thể tại góc trên bên trái của từng biểu mẫu thống kê.
g) Phương thức gửi báo cáo
Các báo cáo thống kê được thực hiện dưới hai hình thức: bằng văn bản và qua thư điện tử (tệp dữ liệu định dạng bảng tính Excel). Báo cáo bằng văn bản phải có chữ ký, đóng dấu của Thủ trưởng đơn vị, đảm bảo số liệu chính xác, khớp đúng với số liệu điện tử và gửi đến đơn vị nhận báo cáo qua Hệ thống thông tin quản lý văn bản điều hành.
Như vậy, theo quy định, báo cáo thống kê ngành Bảo hiểm xã hội được thực hiện dưới hai hình thức: bằng văn bản và qua thư điện tử (tệp dữ liệu định dạng bảng tính Excel).
Lưu ý: Báo cáo bằng văn bản phải có chữ ký, đóng dấu của Thủ trưởng đơn vị, đảm bảo số liệu chính xác, khớp đúng với số liệu điện tử và gửi đến đơn vị nhận báo cáo qua Hệ thống thông tin quản lý văn bản điều hành.
Thông tin thống kê của ngành Bảo hiểm xã hội được công bố thông qua những hình thức và phương tiện nào?
Việc công bố thông tin thống kê được quy định tại Điều 6 Quy định chế độ báo cáo thống kê và một số nội dung về công tác thống kê ngành Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Quyết định 456/QĐ-BHXH năm 2019 như sau:
Công bố thông tin thống kê
1. Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quyết định việc công bố thông tin thống kê thuộc phạm vi quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ngành BHXH theo quy định. Không công bố các thông tin thống kê có trong các tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ tối mật và độ mật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành BHXH.
2. Thông tin thống kê do BHXH Việt Nam quyết định công bố là thông tin có giá trị pháp lý, không một tổ chức, cá nhân nào được sửa chữa, thay đổi.
3. Thông tin thống kê của ngành BHXH được công bố thông qua các hình thức và phương tiện: Niên giám thống kê; đăng trên Cổng thông tin điện tử của BHXH Việt Nam và các văn bản chính thức khác trên cơ sở phê duyệt của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam.
4. Vụ KHĐT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam xây dựng Niên giám thống kê của ngành BHXH; phối hợp với Trung tâm Công nghệ thông tin, Trung tâm Truyền thông và các cơ quan, tổ chức khác thuộc BHXH Việt Nam biên tập để công bố thông tin thống kê trên Cổng thông tin điện tử của Ngành.
Như vậy, theo quy định, thông tin thống kê của ngành Bảo hiểm xã hội được công bố thông qua các hình thức và phương tiện sau đây:
(1) Niên giám thống kê;
(2) Đăng trên Cổng thông tin điện tử của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các văn bản chính thức khác trên cơ sở phê duyệt của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Người nước ngoài được sở hữu bao nhiêu nhà ở tại Việt Nam? Người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam tối đa bao nhiêu năm?
- Công dân được tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở khi từ đủ 18 tuổi đến đủ 70 tuổi đúng không?
- Phải nộp tờ khai hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu trước ngày hàng hóa đến cửa khẩu trong vòng bao nhiêu ngày?
- Chức năng của công tác xã hội là gì? Công tác xã hội có góp phần thúc đẩy công bằng xã hội hay không?
- Khi xảy ra tai nạn trong phạm vi giới hạn trách nhiệm bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có phải bồi thường thiệt hại không?