Chế tài khi doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam là gì?
- Doanh nghiệp gián tiếp mua một phần vốn góp đủ để chi phối một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại có phải là hành vi mua lại doanh nghiệp không?
- Khả năng doanh nghiệp sau tập trung kinh tế loại bỏ doanh nghiệp khác mở rộng thị trường có là yếu tố để đánh giá khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của tập trung kinh tế không?
- Chế tài khi doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam là gì?
Doanh nghiệp gián tiếp mua một phần vốn góp đủ để chi phối một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại có phải là hành vi mua lại doanh nghiệp không?
Việc một doanh nghiệp gián tiếp mua một phần vốn góp của doanh nghiệp khác đủ để chi phối một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại có phải là hành vi mua lại doanh nghiệp hay không? (Hình từ Internet)
Căn cứ tại Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018 về các hình thức tập trung kinh tế như sau:
Các hình thức tập trung kinh tế
1. Tập trung kinh tế bao gồm các hình thức sau đây:
a) Sáp nhập doanh nghiệp;
b) Hợp nhất doanh nghiệp;
c) Mua lại doanh nghiệp;
d) Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
đ) Các hình thức tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
…
4. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Như vậy, việc một doanh nghiệp gián tiếp mua một phần vốn góp của doanh nghiệp khác đủ để chi phối một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại là hành vi tập trung kinh tế, cụ thể là hình thức mua lại doanh nghiệp.
Khả năng doanh nghiệp sau tập trung kinh tế loại bỏ doanh nghiệp khác mở rộng thị trường có là yếu tố để đánh giá khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của tập trung kinh tế không?
Căn cứ tại điểm e khoản 1 Điều 31 Luật Cạnh tranh 2018 về đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế
Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế
1. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế căn cứ vào một trong các yếu tố hoặc kết hợp giữa các yếu tố sau đây:
a) Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trên thị trường liên quan;
b) Mức độ tập trung trên thị trường liên quan trước và sau khi tập trung kinh tế;
c) Mối quan hệ của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định hoặc ngành, nghề kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế là đầu vào của nhau hoặc bổ trợ cho nhau;
d) Lợi thế cạnh tranh do tập trung kinh tế mang lại trên thị trường liên quan;
đ) Khả năng doanh nghiệp sau tập trung kinh tế tăng giá hoặc tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu một cách đáng kể;
e) Khả năng doanh nghiệp sau tập trung kinh tế loại bỏ hoặc ngăn cản doanh nghiệp khác gia nhập hoặc mở rộng thị trường;
g) Yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế.
2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Như vậy, khả năng doanh nghiệp sau tập trung kinh tế loại bỏ doanh nghiệp khác mở rộng thị trường là một trong các yếu tố để Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế.
Chế tài khi doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam là gì?
Căn cứ tại Điều 12 Nghị định 75/2019/NĐ-CP về hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm như sau:
Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm
1. Phạt tiền doanh nghiệp mua lại từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại đối với hành vi mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác bị cấm theo quy định tại Điều 30 của Luật Cạnh tranh.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản mà doanh nghiệp đã mua;
b) Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn nhất định về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp mua lại.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 30 Luật Cạnh tranh 2018 về tập trung kinh tế bị cấm là việc doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.
Mặc khác, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 29 Luật Cạnh tranh 2018 về các hình thức tập trung kinh tế thì mua lại doanh nghiệp là một trong các hình thức tập trung kinh tế.
Như vậy, khi doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam thì sẽ phạt tiền doanh nghiệp mua lại từ 01% đến 05% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại.
Đồng thời, thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
- Buộc bán lại một phần hoặc toàn bộ vốn góp, tài sản mà doanh nghiệp đã mua;
- Buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn nhất định về giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác trong hợp đồng của doanh nghiệp mua lại.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Truyện 18+ là gì? Viết truyện 18+ có bị coi là vi phạm pháp luật? Nếu có thì có bị phạt tù không?
- Trách nhiệm cá nhân với hạn chế tập thể tại Bản kiểm điểm đảng viên cuối năm ghi như thế nào? Căn cứ kiểm điểm đảng viên?
- Cần làm gì khi nghi người khác lấy cắp đồ mà không được khám xét người? Ai có thẩm quyền khám xét người?
- Mẫu hợp đồng thi công xây dựng công trình trọn gói mới nhất hiện nay là mẫu nào? Tải về file word ở đâu?
- Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật có bắt buộc phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản không?