CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 170/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 10
tháng 5 năm 2022
|
BÁO CÁO
VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 41/2021/QH15 VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 2,
QUỐC HỘI KHÓA XV
Kính gửi: Quốc hội.
Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết số
41/2021/QH15 ngày 13/11/2021 về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 2 trong đó
yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
tập trung thực hiện những giải pháp cam kết, khắc phục những tồn tại, hạn chế,
tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước 04 lĩnh vực được chất vấn
bao gồm: y tế, lao động, thương binh và xã hội, giáo dục và đào tạo, kế hoạch
và đầu tư. Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15, Thủ tướng Chính
phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số 9211/VPCP-QHĐP ngày 17/12/2021 trong
đó giao các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách lĩnh vực trực tiếp chỉ đạo,
triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện các nội dung, công việc, nhiệm vụ thuộc
từng lĩnh vực nêu trong Nghị quyết. Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc tổ chức triển khai và kết quả
thực hiện Nghị quyết.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, các Bộ, cơ quan đã nghiêm túc quán triệt, chỉ đạo, điều hành và tổ chức
triển khai các nhiệm vụ được giao; tập trung thực hiện những giải pháp đã đề
ra, từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, tạo sự chuyển
biến tích cực trong công tác quản lý nhà nước. Cụ thể, Bộ Y tế đã ban hành Công
văn số 10430/BYT-VPB1, ngày 08/12/2021 yêu cầu Thủ trưởng các Đơn vị trực tiếp
chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các nội dung được giao tại Nghị
quyết số 41/2021/QH15; Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số
04/KH-BGDĐT ngày 07/01/2022 triển khai thực hiện Nghị quyết trong đó phân công
cụ thể lãnh đạo Bộ để phụ trách chỉ đạo việc thực hiện, giao đơn vị chủ trì thực
hiện và thời hạn hoàn thành; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Kế hoạch triển
khai tại Quyết định số 139/QĐ-BKHĐT ngày 27/01/2022, trong đó đã cụ thể hóa các
nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao tại các Nghị quyết của Quốc hội
thành các nhiệm vụ cụ thể và xác định rõ lộ trình, mốc thời gian thực hiện các
nhiệm vụ.
Theo từng lĩnh vực, các Bộ đã có Báo cáo chi
tiết gửi tới Quốc hội và các vị Đại biểu Quốc hội. Chính phủ xin báo cáo tổng hợp
kết quả thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15 của Quốc hội như sau:
A. LĨNH VỰC Y TẾ
I. Tiến độ thực hiện
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực y tế: 16 nhiệm
vụ, trong đó:
1. Số nhiệm vụ có quy định thời hạn hoàn
thành cụ thể: 04 nhiệm vụ
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định:
02 nhiệm vụ;
- Hoàn thành nhưng chậm so với thời hạn quy định:
02 nhiệm vụ
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn
thành: 12 nhiệm vụ.
- Đã hoàn thành: 03 nhiệm vụ
- Đang thực hiện: 09 nhiệm vụ
II. Kết quả thực hiện
và phương hướng thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Tổng kết việc thực hiện
các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 đã triển khai thực hiện trong các đợt
dịch vừa qua để xây dựng kế hoạch tổng thể phòng, chống dịch trong thời gian tới.
Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả Nghị quyết số
128/NQ-CP của Chính phủ quy định tạm thời về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm
soát hiệu quả dịch COVID-19:
Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế tổng kết việc thực
hiện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 để tham mưu cho Chính phủ ban
hành Kế hoạch tổng thể phòng, chống dịch COVID-19. Ban Chỉ đạo Quốc gia tổ chức
Hội nghị đánh giá kết quả bước đầu công tác phòng, chống dịch COVID-19 (đợt dịch
lần thứ 4) với các địa phương để đánh giá, rút kinh nghiệm, triển khai công tác
phòng, chống dịch các cấp vào ngày 17/10/2021. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19
(2022-2023).
Hiện nay Bộ Y tế đang xây dựng để trình Chính
phủ Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống dịch COVID-19 sau 2 năm thực hiện,
trên cơ sở đó đưa ra các bài học, kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Trên cơ sở diễn biến tình hình dịch bệnh, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế kịp thời
ban hành các văn bản hướng dẫn địa phương triển khai các biện pháp phòng, chống
dịch, quản lý người về từ vùng dịch nhằm thực hiện hiệu quả thích ứng an toàn,
linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, đồng thời, ban hành văn bản đề nghị
các địa phương chủ động rà soát, giám sát, xét nghiệm các trường hợp có nguy cơ
đi/đến/về từ địa bàn có dịch. Nhờ các giải pháp về chuyên môn y tế được triển
khai đồng bộ, kịp thời đã góp phần quan trọng vào những kết quả tích cực trong
kiểm soát tình hình dịch COVID-19, từng bước khôi phục thị trường lao động, xuất
khẩu, thu hút đầu tư; bảo đảm an ninh, trật tự xã hội và an sinh xã hội cho người
dân.
2. Đối với nhiệm vụ: Ban hành Kế hoạch tổng
thể phòng, chống dịch COVID-19 năm 2022 - 2023:
Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng chậm so với
thời hạn quy định tại Nghị quyết của Quốc hội (trước ngày 01/01/2022). Nguyên
nhân chậm là do: (i) sự thay đổi hình thức ban hành văn bản: ngày 15/12/2021,
Ban cán sự đảng Bộ Y tế đã trình và được Bộ Chính trị nhất trí về Chương trình
phòng, chống dịch COVID-19 (2022 - 2023), đồng thời yêu cầu ban hành Chương
trình này dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, do các nội dung của Chương
trình không phù hợp để ban hành theo hình thức này, nên Ban cán sự đảng Bộ Y tế
tiếp tục trình xin ý kiến đồng chí Thường trực Ban Bí thư và đã được đồng ý để
Ban cán sự đảng Bộ Y tế trình Chính phủ ban hành bằng hình thức Nghị quyết của
Chính phủ; (ii) Diễn biến dịch bệnh có thay đổi so với thời điểm Bộ Y tế xây dựng
dự thảo báo cáo Bộ Chính trị (tháng 12/2021), vì vậy cần thêm thời gian để rà
soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Ngày 17/3/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 38/NQ-CP về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 với các nhiệm vụ,
giải pháp về y tế cụ thể và thực hiện trong thời gian 2 năm 2022 - 2023; trường
hợp dịch bệnh kết thúc sớm hơn hoặc kéo dài sang năm 2024, Chính phủ sẽ xem xét
việc tiếp tục thực hiện Chương trình này hoặc sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp
với tình hình dịch bệnh. Nghị quyết số 38/NQ-CP ban hành sẽ tiếp tục thực hiện
bảo đảm kiểm soát dịch hiệu quả, kiểm soát tốc độ lây lan trong cộng đồng, bảo
vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của người dân, hạn chế đến mức thấp nhất các ca bệnh
nặng, tử vong do dịch COVID-19 đồng thời khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
3. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thiện thể chế, cơ
chế, chính sách huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực cho phòng, chống dịch;
khắc phục những vấn đề chưa thống nhất, thiếu nhất quán trong chỉ đạo, điều
hành, triển khai thực hiện; đẩy mạnh việc xã hội hóa, kết hợp công - tư trong
công tác phòng, chống dịch, trong đó có cơ chế huy động hiệu quả các tổ chức y
tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ y tế trong phòng, chống dịch (nhiệm vụ
không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 về việc cho phép thực
hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng,
chống dịch COVID-19; ban hành Nghị định chi tiết thi hành Nghị quyết số
12/2021/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; ban hành Nghị quyết số
168/NQ-CP ngày 31/12/2021 về một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch
COVID-19 kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc trong việc huy động, phân bổ
và sử dụng nguồn lực cho phòng, chống dịch.
- Để kịp thời khắc phục những vấn đề chưa thống
nhất, thiếu nhất quán trong chỉ đạo, điều hành, ngày 04/11/2021, Bộ Y tế đã
thay mặt Chính phủ có văn bản số 1760/BC-BYT báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội
các vấn đề vướng mắc, bất cập về pháp lý trong công tác phòng chống dịch
COVID-19 và đề xuất sửa đổi 03 Luật, 01 Nghị định và xây dựng mới 01 Nghị quyết.
Đối với đề xuất sửa đổi Nghị định số 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y
tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý
trang thiết bị y tế và Nghị quyết số 168/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách
trong phòng, chống dịch COVID-19 kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc. Đối với
các đề xuất sửa đổi các Luật, các cơ quan liên quan của Chính phủ đang tiếp tục
phối hợp với các Ủy ban của Quốc hội đẩy nhanh tiến độ sửa đổi để kịp thời điều
chỉnh nội dung chưa thống nhất, thiếu nhất quán, bất cập trong công tác chỉ đạo
điều hành phù hợp với các quy định và thực tiễn.
- Về việc đẩy mạnh việc xã hội hóa, kết hợp
công - tư trong công tác phòng, chống dịch, trong đó có cơ chế huy động hiệu quả
các tổ chức y tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ y tế trong phòng, chống dịch,
Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 về việc cho phép thực hiện một số cơ chế,
chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19,
trong đó có quy định việc thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh COVID-19 tại
cơ sở y tế tư nhân do chính quyền địa phương cấp tỉnh giao nhiệm vụ tiếp nhận,
quản lý, chăm sóc sức khỏe, điều trị COVID-19 được ngân sách nhà nước chi trả
chi phí điều trị bệnh COVID-19 theo mức thanh toán của bệnh viện đa khoa tuyến
tỉnh hạng cao nhất đóng trên địa bàn.
4. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đề xuất việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng các biện pháp đặc biệt trong tình trạng
khẩn cấp về dịch bệnh, phòng, chống bệnh truyền nhiễm, khám bệnh, chữa bệnh, bảo
hiểm y tế, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh, quản lý và mua sắm trang thiết bị
y tế (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Trong Chương trình công tác của Chính phủ
năm 2022 đã có 14 Đề án để tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản trong lĩnh vực
khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, quản lý dược, trang thiết bị y tế. Bộ Y tế đã
ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 02/2022/TT-BYT ngày 18/02/2022 quy định
giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 (thay thế Thông tư số 16/2021/TT-BYT ngày
08/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2).
- Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế tập
trung hoàn thiện bộ Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng bệnh trên cơ sở tổng
kết 15 năm thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (trong đó tập trung rà
soát, tổng hợp các khó khăn, bất cập trong công tác phòng, chống bệnh truyền
nhiễm đặc biệt là phòng chống dịch COVID-19 có liên quan đến quy định của pháp
luật để xem xét, đề xuất, sửa đổi Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong dự
án Luật Phòng bệnh), các bài học kinh nghiệm và cơ sở triển khai thực tiễn công
tác phòng, chống dịch COVID-19 thời gian qua, dự kiến trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội xem xét vào tháng 12/2022.
5. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu xem xét, đưa
một số loại trang thiết bị, vật tư y tế (bao gồm kit xét nghiệm COVID-19) vào
danh mục quản lý giá, bình ổn giá; ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm
COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn
thành cụ thể):
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số
98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 về quản lý trang thiết bị y tế. Nghị định thay đổi
cơ bản vấn đề về quản lý trang thiết bị y tế, cụ thể: i) Công khai, minh bạch
toàn bộ trong quá trình quản lý; ii) Chuyển từ phương thức quản lý từ tiền kiểm
sang hậu kiểm; iii) Phương thức quản lý phù hợp với quốc tế. Đặc biệt đối với vấn
đề về quản lý giá trang thiết bị cũng như sinh phẩm chẩn đoán đã chính thức được
đưa vào mặt hàng được quản lý giá. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế, Bộ Tài chính
và các Bộ, ngành phối hợp tăng cường công tác quản lý nhà nước về trang thiết bị
y tế trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, trong đó yêu cầu sớm nghiên cứu,
xem xét trình Chính phủ đưa mặt hàng trang thiết bị, vật tư y tế (bao gồm kit
test xét nghiệm) vào diện bình ổn giá trong thời kỳ phòng, chống dịch COVID-19.
- Việc ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm
COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân, tại điểm 5 Điều 88 Luật Khám
bệnh, chữa bệnh quy định: “cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân được quyền
quyết định và phải niêm yết công khai giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh”. Tuy
nhiên, để kiểm soát giá xét nghiệm COVID-19 với các cơ sở y tế tư nhân, Bộ Y tế
đã ban hành nhiều văn bản đề nghị Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Trường hợp
cần thiết báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện các quy định của pháp luật về giá đối với các cơ sở y tế trên địa
bàn, đặc biệt là việc tuân thủ các quy định về giá dịch vụ xét nghiệm COVID-19
của các cơ sở y tế tư nhân; yêu cầu các cơ sở y tế phải thực hiện việc xây dựng,
quyết định mức giá và kê khai, công bố công khai giá dịch vụ xét nghiệm
COVID-19 theo quy định của pháp luật về giá. Xử lý nghiêm các vi phạm nếu có,
không để tình trạng lợi dụng dịch bệnh để tăng giá dịch vụ y tế nói chung và dịch
vụ xét nghiệm COVID-19 của các cơ sở y tế trên địa bàn. Hiện nay, Bộ Tài chính
đang chủ trì phối hợp với Bộ Y tế để ban hành quy định về mức giá trần xét nghiệm
COVID-19 đối với cơ sở y tế tư nhân.
6. Đối với nhiệm vụ: Trình Quốc hội sửa đổi,
bổ sung Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi): Đây là nhiệm
vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể.
- Về xây dựng Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa
đổi): Chính phủ đã có Tờ trình số 47/TTr-CP ngày 11/02/2022, trình Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đề nghị bổ sung Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) vào Chương
trình xây dựng Luật năm 2022. Ngày 16/02/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp
thẩm tra đề nghị xây dựng Dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi). Chính phủ
đã chỉ đạo Bộ Y tế khẩn trương chỉnh lý, tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm tra của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện hồ sơ dự án Luật để kịp thời trình Quốc
hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
- Về xây dựng Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi):
Hiện nay, Bộ Y tế đang khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện Hồ sơ
đề nghị xây dựng dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế,
bất cập và đáp ứng yêu cầu của công khám, chữa bệnh trong tình hình mới.
7. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, đề xuất nâng
Pháp lệnh tình trạng khẩn cấp lên thành Luật, trong đó có nội dung tình trạng
khẩn cấp về dịch bệnh (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế tập
trung hoàn thiện bộ Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng bệnh trên cơ sở tổng
kết 15 năm thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (trong đó tập trung rà
soát, tổng hợp các khó khăn, bất cập trong công tác phòng, chống bệnh truyền
nhiễm đặc biệt là phòng chống dịch COVID-19 có liên quan đến quy định của pháp
luật để xem xét, đề xuất, sửa đổi Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong dự
án Luật Phòng bệnh), các bài học kinh nghiệm và cơ sở triển khai thực tiễn công
tác phòng, chống dịch COVID-19 thời gian qua, dự kiến trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội vào tháng 12/2022.
8. Đối với nhiệm vụ: Tăng độ bao phủ bảo hiểm
y tế đối với nhóm đối tượng theo hộ gia đình; hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế
tài chính; chính sách huy động nguồn lực, thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công -
tư trong lĩnh vực y tế (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Để tăng độ bao phủ bảo hiểm y tế đối với
nhóm đối tượng theo hộ gia đình, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Y tế chủ trì
xây dựng và đang xem xét để ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao chỉ
tiêu thực hiện bao phủ bảo hiểm y tế giai đoạn 2021 - 2025, để bảo đảm đến năm
2025 đạt tỷ lệ bao phủ 95% dân số như mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết số
20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ Sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng,
khóa XII.
- Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp thu ý kiến của các
Thành viên Chính phủ để hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định về vay vốn, huy động
vốn, liên doanh, liên kết, thuê tài sản, thuê đơn vị cung ứng dịch vụ đối với
các đơn vị sự nghiệp y tế công lập thuộc lĩnh vực y tế - dân số trước khi ban
hành.
9. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thành tỷ lệ tiêm chủng
đủ liều vắc xin mũi 2 cho người trên 18 tuổi; bắt đầu tiêm mũi thứ 3 từ ngày
01/12/2021, ưu tiên sớm tiêm vắc xin cho người trên 50 tuổi (trừ đối tượng thuộc
diện chống chỉ định tiêm vắc xin): Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành, kết quả cụ thể
như sau:
- Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế khẩn trương
ban hành các văn bản về hướng dẫn tiêm vắc xin phòng COVID-19 liều cơ bản và liều
nhắc lại và tăng cường miễn dịch phòng bệnh cho những người đã được tiêm chủng
đủ liều cơ bản. Tính đến ngày 31/3/2022, cả nước đã triển khai tiêm chủng được
hơn 206 triệu liều vắc xin cho người từ 12 tuổi trở lên; tỷ lệ tiêm mũi 1 cho
dân số từ 18 tuổi trở lên đạt 100%, mũi 2 đạt 99,7%.
- Để tăng cường miễn dịch phòng bệnh COVID-19
cho những người đã được tiêm chủng đủ liều cơ bản, ngày 17/12/2021, Bộ Y tế đã
ban hành hướng dẫn tiêm liều bổ sung, tiêm nhắc lại cho người từ 18 tuổi trở
lên. Đến ngày 31/3/2021 cả nước đã triển khai tiêm được gần 15 triệu liều bổ
sung (đạt 63% đối tượng có chỉ định tiêm mũi bổ sung) và được hơn 33 triệu liều
nhắc lại (đạt 46% người từ 18 tuổi trở lên).
10. Đối với nhiệm vụ: Tích cực triển khai
tiêm vắc xin cho người từ độ tuổi 12-17 tuổi để phục vụ các cháu đến trường
(nhiệm vụ đã hoàn thành):
Ngay từ tháng 10/2021, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ
Y tế có hướng dẫn triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ từ 12 đến 17
tuổi. Đến nay đã tiêm được hơn 17 triệu liều vắc xin cho nhóm tuổi này, tỷ lệ
bao phủ mũi 1 là 99,6% và mũi 2 là 94,7%.
11. Đối với nhiệm vụ: Báo cáo cấp có thẩm quyền
trước khi tiến hành triển khai tiêm vắc xin cho trẻ em từ độ tuổi 5 - 11 tuổi
ngay sau khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có khuyến cáo (nhiệm vụ đã hoàn
thành):
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP
ngày 05/02/2022 về việc mua vắc xin phòng COVID-19 của Pfizer cho trẻ từ 5 đến
dưới 12 tuổi. Ngày 14/4/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 55/NQ-CP tiếp
tục chỉ đạo Bộ Y tế về việc mua và tiêm vắc xin cho trẻ em từ 5 đến 12 tuổi.
Từ ngày 21/4/2022 nhiều địa phương trên cả nước
đã đồng loạt tổ chức tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho trẻ em từ 5 đến 12 tuổi.
12. Đối với nhiệm vụ: Xem xét cấp phép sản xuất
cho vắc xin, thuốc điều trị COVID-19 trong nước và đưa vào sử dụng, tiến tới tự
chủ nguồn thuốc và vắc xin (nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Y tế chủ động
nghiên cứu, tham mưu, đề xuất Quốc hội, Chính phủ sửa đổi văn bản quy phạm pháp
luật, tạo hành lang pháp lý phù hợp trong tình hình mới đồng thời rút ngắn tối
đa các thủ tục hành chính. Các vắc xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước đáp ứng
quy định tại Thông tư số 11/2021/TT-BYT ngày 19/8/2021 sẽ được Bộ Y tế kịp thời
xem xét cấp phép, đưa vào sử dụng để tiến tới tự chủ nguồn vắc xin.
- Đến nay, Bộ Y tế đã cấp giấy đăng ký lưu
hành có điều kiện cho 3 thuốc điều trị COVID-19 chứa hoạt chất Molnupiravir và
có 3 "ứng cử viên" vắc xin phòng COVID-19 là Nanocovax của Công ty cổ
phần công nghệ sinh học dược Nanogen; Covivac do Viện Vaccine và sinh phẩm y tế
Nha Trang (IVAC) nghiên cứu, vắc xin chuyển giao công nghệ ARCT-154. Cả ba ứng
viên vắc xin COVID-19 của Việt Nam đều đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm
sàng. Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cơ sở sản xuất,
cơ sở nghiên cứu để rà soát, hướng dẫn đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, tổ chức
nghiệm thu và thẩm định đảm bảo khách quan, khoa học theo đúng quy định.
13. Đối với nhiệm vụ: Giải quyết dứt điểm việc
phân cấp quản lý đối với hệ thống trung tâm y tế cấp huyện, trạm y tế cấp xã
theo hướng giao Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý ở những nơi đủ điều kiện theo
quy định của Bộ Y tế:
Nhiệm vụ này thuộc thẩm quyền quyết định của
địa phương theo quy định của pháp luật.
Việc quy định Trung tâm Y tế tuyến huyện trực
thuộc Sở Y tế hay trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện cần bảo đảm cơ chế quản
lý chung phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính (Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương) và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn giúp Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trên địa
bàn. Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo Quyết định ban hành Quy định điều kiện chuyển
Trung tâm Y tế cấp huyện trực thuộc Sở Y tế về Ủy ban nhân dân cấp huyện quản
lý.
14. Đối với nhiệm vụ: Sắp xếp, bố trí mô hình
trung tâm y tế cấp huyện đa chức năng để thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị
quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc nâng
cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới (nhiệm vụ đã hoàn thành):
- Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW; ngày
27/5/2021, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (mô hình
Trung tâm Y tế đa chức năng). Hiện nay, 100% đơn vị cấp huyện có Trung tâm Y tế
huyện; trong đó, 59/63 tỉnh đã thực hiện việc sáp nhập Trung tâm Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình vào Trung tâm Y tế huyện, còn 04 tỉnh còn đang giữ mô hình Trung
tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình ở cấp huyện. Đã có 61/63 địa phương quy định
Trung tâm Y tế huyện là đơn vị sự nghiệp y tế công lập trực thuộc Sở Y tế;
trong đó, thành phố Hồ Chí Minh chuyển Trung tâm Y tế huyện từ Ủy ban nhân dân
cùng cấp về Sở Y tế quản lý từ năm 2020). Còn 02 địa phương đang giao Ủy ban
nhân dân cấp huyện quản lý Trung tâm Y tế huyện: Bình Phước năm 2018; Hà Tĩnh
năm 2020. Đối với trạm y tế xã, phường, thị trấn: Có 62/63 địa phương quy định
Trạm y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện; tỉnh
Quảng Ninh đang giao Phòng Y tế quản lý.
- Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục đôn đốc,
hướng dẫn hỗ trợ các địa phương thực hiện và hoàn thiện mô hình Trung tâm Y tế
huyện theo hướng dẫn tại Thông tư số 07/2021/TT-BYT ; đặc biệt đối với 04 địa
phương đang giữ mô hình Trung tâm Dân số ở cấp huyện và cơ chế quản lý trạm y tế
xã đối với tỉnh Quảng Ninh.
15. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng Đề án tăng cường
năng lực hệ thống y tế trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nâng
cao năng lực y tế cơ sở, y tế dự phòng cả về nhân lực và cơ sở vật chất, trong
đó, ưu tiên bố trí ngân sách cho y tế dự phòng theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nước, y tế cơ sở, đặc biệt là đối với các địa phương còn nhiều
khó khăn; khẩn trương xây dựng các phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4;
sớm hình thành các Trung tâm kiểm soát bệnh tật theo khu vực, theo vùng (nhiệm
vụ không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Chính phủ đã đưa Đề án tăng cường năng lực
hệ thống y tế vào nội dung Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính
sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi; ban hành Nghị quyết số
11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
trong đó đề ra 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong đó nhóm thứ nhất là mở
cửa nền kinh tế gắn với đầu tư năng lực y tế, phòng chống dịch bệnh. Theo đó, Chương
trình đã phân bổ 14.000 tỷ đồng cho ngành y tế để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng
cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, trung tâm kiểm soát bệnh
tật tỉnh, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của Viện và Bệnh viện cấp
trung ương gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y
tế, sản xuất vắc - xin trong nước và thuốc điều trị COVID-19.
- Bộ Y tế đang cùng với các chuyên gia JICA
Nhật Bản, giao Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur và các đơn vị liên quan để khảo
sát, xây dựng phương án xây dựng phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp độ 4 phù
hợp cả về hiệu quả đầu tư, kinh phí duy trì hoạt động cũng như các thủ tục cấp
phép của Tổ chức Y tế Thế giới.
- Về việc hình thành các Trung tâm kiểm soát
bệnh tật theo khu vực, theo vùng, Bộ Y tế đang nghiên cứu định hướng sắp xếp,
phân bổ quy hoạch không gian mạng lưới cơ sở thuộc lĩnh vực y tế dự phòng và y
tế công cộng “Thành lập CDC cấp quốc gia và tiếp tục củng cố, tăng cường hệ thống
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh. Tập trung phát triển một số CDC tỉnh/thành
phố thuộc khu vực trọng điểm phải có sức cạnh tranh và khả năng liên kết quốc tế”.
16. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường công tác quản
lý nhà nước về giá, đấu thầu và mua sắm trong lĩnh vực y tế; đẩy mạnh công tác
kiểm tra, giám sát và hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương tổ chức thanh tra, kiểm
tra, giám sát, bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định pháp luật trong lĩnh vực y
tế; chủ động kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập trong
việc triển khai xét nghiệm COVID-19, bảo đảm đúng quy định về giá (nhiệm vụ
không quy định thời hạn hoàn thành cụ thể):
- Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về
giá, đấu thầu và mua sắm trong lĩnh vực y tế, Bộ Y tế đã có các văn bản gửi Sở
Y tế các tỉnh, thành phố, các đơn vị sản xuất, nhập khẩu và cung ứng trang thiết
bị y tế nghiêm cấm việc tăng giá tùy tiện đầu cơ, tích trữ và thực hiện đúng
quy định về quản lý giá thuốc, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
trong kinh doanh thuốc điều trị COVID-19; Nghiêm túc thực hiện việc kê khai, cập
nhật công khai giá trang thiết bị y tế theo quy định tại Nghị định số
98/2021/NĐ-CP ngày 08/11/2021 quy định quản lý trang thiết bị y tế trên Cổng
thông tin điện tử của Bộ Y tế tại địa chỉ https://kekhaigiattbyt.moh.gov.vn/ và trên trang thông tin
điện tử của Cục Quản lý Dược: https://dichvucong.dav.gov.vn/congbogiathuoc/index; Chịu trách nhiệm về
giá công bố và tính chính xác và đầy đủ các thông tin liên quan đến hàng hóa
theo quy định...
- Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã có các văn
bản gửi các lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; Sở Y tế các
tỉnh, thành phố về việc phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực
hiện các biện pháp phòng chống dịch COVID-19; Tăng cường kiểm tra việc nhập khẩu,
kinh doanh, mua sắm các loại test kit xét nghiệm nhanh và xét nghiệm RT-PCR.
- Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương, đơn vị thực hiện
đúng quy định về đấu thầu; thành lập nhiều Đoàn kiểm tra một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương về mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế, việc tiếp nhận, bảo
quản, sử dụng vắc xin và tổ chức buổi tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19, việc sản
xuất, nhập khẩu, kinh doanh các sản phẩm sinh phẩm, trang thiết bị xét nghiệm,
phòng hộ, khẩu trang y tế sử dụng trong công tác phòng, chống dịch COVID-19;
công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại và đầu cơ, tích
trữ, nâng giá bất hợp lý đối với mặt hàng sinh phẩm, trang thiết bị xét nghiệm,
phòng hộ, khẩu trang y tế trong công tác phòng, chống dịch COVID-19. Kiểm tra
các sản phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 trôi nổi trên thị trường và hiện tượng lợi dụng
dịch để nâng giá, đội giá, đảm bảo chất lượng và giá cả thị trường.
- Bộ Y tế đã chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh/thành
phố, các đơn vị thuộc và trực thuộc khẩn trương, nghiêm túc triển khai đúng các
văn bản của Chính phủ; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lợi ích
nhóm trong mua sắm trang thiết bị, thuốc, hóa chất, sinh phẩm phòng, chống dịch
COVID-19.
- Bộ Công an đã tăng cường công tác nắm tình
hình, nhận diện vi phạm, lựa chọn khâu đột phá để kiên quyết đấu tranh, xử lý
triệt để các hành vi vi phạm trong lĩnh vực y tế, như: buôn lậu, gian lận
thương mại, đầu cơ, nâng giá bất hợp lý; vi phạm các quy định về đấu giá, đấu
thầu, mua sắm trang thiết bị y tế. Qua đó, Bộ Công an đã khởi tố, điều tra nhiều
vụ án liên quan đến lĩnh vực này, như vụ án xảy ra tại Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh
viện Tim Hà Nội, Sở Y tế Hà Tĩnh... Qua các vụ án, Chính phủ đã có nhiều giải
pháp khắc phục các sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, góp phần phòng ngừa,
ngăn chặn đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong lĩnh vực này.
B. LĨNH VỰC LAO ĐỘNG,
THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
I. Tiến độ thực hiện
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 07 nhiệm vụ,
trong đó:
1. Số nhiệm vụ quy định thời hạn hoàn thành:
02 nhiệm vụ; trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định:
01 nhiệm vụ.
- Đang hoàn thành trong thời gian quy định:
01 nhiệm vụ.
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn
thành: 05 nhiệm vụ, trong đó: Đã hoàn thành 05 nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện
và phương hướng trong thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Đẩy nhanh việc triển
khai các gói hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng của dịch COVID-19, bảo đảm thuận lợi,
chính xác, nhanh chóng. Rà soát, nghiên cứu, có đề xuất hỗ trợ kịp thời đối với
người dân có hoàn cảnh khó khăn nhưng không thuộc đối tượng được hưởng theo quy
định đã ban hành, quan tâm nhóm đối tượng yếu thế. Tăng cường kiểm tra, xử lý
nghiêm các hành vi tiêu cực, trục lợi chính sách:
Đến ngày 31/3/2022, trung ương và các địa
phương đã dành tổng kinh phí 80.397 tỷ đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ
728.244 lượt người sử dụng lao động và gần 49,15 triệu lượt người lao động và
các đối tượng khác.
Ngày 28/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 08/2022/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê
nhà cho người lao động. Theo đó, 02 nhóm đối tượng sẽ được nhận hỗ trợ là người
lao động đang làm việc trong doanh nghiệp sẽ nhận được 500.000 đồng/người/tháng
và người lao động quay trở lại thị trường lao động được nhận 1.000.000 đồng/người/tháng;
thời gian hỗ trợ tối đa 03 tháng; phương thức chi trả hằng tháng. Đây là chương
trình nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có nhân lực để kịp thời
phục hồi sản xuất kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh
vực tạo động lực để phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, thời gian thực hiện
trong 6 tháng đầu năm 2022.
Kết quả cụ thể thực hiện Nghị quyết số
68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ:
Theo báo cáo của của 63 tỉnh, thành phố, tổng
kinh phí thực hiện Nghị quyết 68, Quyết định 23 toàn quốc là 41.967 tỷ đồng, hỗ
trợ trên 36,55 triệu lượt đối tượng (gồm 381.580 lượt đơn vị sử dụng lao động,
trên 36,17 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác). Trong tổng kinh
phí hỗ trợ, có 14,8% từ các chính sách bảo hiểm; 74,2% từ các chính sách bằng
tiền trực tiếp và 11% từ các chính sách cho vay vốn.
Một số địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ cao
là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần
Thơ, Long An, Bắc Giang. Các địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ thấp là Lai
Châu, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Điện Biên, Yên Bái, Kon Tum.
- Nhóm chính sách về bảo hiểm:
+ Tổng kinh phí hỗ trợ 3 chính sách về bảo hiểm
là 6.191 tỷ đồng hỗ trợ cho 378.079 đơn vị sử dụng lao động và trên 11,46 triệu
người lao động. Các địa phương có hỗ trợ kinh phí qua chính sách về bảo hiểm
cao là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, Bắc
Ninh, Long An, Hải Dương, Đà Nẵng. Các địa phương có hỗ trợ kinh phí qua chính
sách về bảo hiểm thấp là: Bắc Kạn, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Đăk
Nông.
+ Cơ quan bảo hiểm xã hội đã rà soát và thông
báo cho 375.335 đơn vị sử dụng lao động với 11.097.775 người lao động được giảm
mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ tháng 7/2021 đến hết
tháng 6/2022 với tổng số tiền (tạm tính) khoảng 4.322 tỷ đồng.
+ Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và
tử tuất đã được thực hiện với tổng số 2.729 đơn vị sử dụng lao động và 365.383
người lao động, tổng kinh phí 1.864 tỷ đồng. Các địa phương không có đối tượng
được hỗ trợ là: Nam Định, Thái Bình, Đăk Nông và Kon Tum.
+ Tại 10 tỉnh, thành phố (Cao Bằng, Lạng Sơn,
Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Quảng Bình, Bình Định, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai và An Giang), 15 đơn vị sử dụng lao động được phê duyệt hỗ trợ trên 5,44 tỷ
đồng để đào tạo nghề, duy trì việc làm cho 1.540 người lao động.
- Nhóm chính sách hỗ trợ bằng tiền:
+ Tổng kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ bằng
tiền là trên 31.142 tỷ đồng, hỗ trợ trên 23,52 triệu đối tượng. Các địa phương
có tổng kinh phí hỗ trợ bằng tiền cao là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Long An, Khánh Hòa. Các địa phương có
tổng kinh phí hỗ trợ bằng tiền thấp là: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lai
Châu, Phú Thọ, Yên Bái, Quảng Ngãi.
+ Trên 1,59 triệu người lao động tạm hoãn hợp
đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được hỗ trợ với tổng số tiền 5.727 tỷ
đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ cao là: Bình Dương, Đồng Nai, Thành
phố Hồ Chí Minh, Long An, Hà Nội, Bắc Giang.
+ 661.430 người lao động ngừng việc được hỗ
trợ 906 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Đồng Nai, Bắc
Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bình Dương.
+ 3.700 người lao động chấm dứt hợp đồng lao
động được hỗ trợ trên 14,8 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn
là: Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai.
+ 49.730 người lao động đang mang thai và
568.650 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động đã được hỗ trợ bổ sung với
mức 01 triệu đồng/người.
+ Trên 1,17 triệu đối tượng F0, F1 đã được hỗ
trợ tiền ăn với tổng kinh phí 946 tỷ đồng. 178.210 trẻ em, 2.095 người cao tuổi
và 695 người khuyết tật là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu
đồng/người. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Long An, Bình Dương,
Hà Nội, Bắc Giang, Nghệ An, Đồng Nai. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành chính
sách không thu tiền ăn của đối tượng F0, F1 tại các cơ sở cách ly, điều trị tập
trung nên không báo cáo số liệu cụ thể về chính sách này. Tỉnh Quảng Nam đã ban
hành chính sách hỗ trợ tiền ăn cho người điều trị nhiễm COVID-19 tập trung (F0)
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ ngày 01/01/2022 đến ngày 30/6/2022 từ nguồn ngân
sách tỉnh đảm bảo 100%.
+ 1.682 đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa
sĩ giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV được hỗ trợ kinh phí gần 6,25 tỷ đồng. Các
địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế,
Hà Nội, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Thái Nguyên.
+ 15.734 hướng dẫn viên du lịch được hỗ trợ
kinh phí 58,3 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Hà Nội, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Lâm Đồng.
+ 373.700 hộ kinh doanh được hỗ trợ với kinh
phí 877 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai, Đồng Tháp.
+ Trên 18,94 triệu người lao động tự do và
các đối tượng đặc thù đã được hỗ trợ với tổng kinh phí 22.424 tỷ đồng từ các
nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các công ty xổ số kiến thiết,... Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là:
Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Cần
Thơ, Trà Vinh (trong đó có địa phương chi cao hơn mức chung như Cần Thơ, Khánh
Hòa,...). Các tỉnh: Bạc Liêu và Hòa Bình có hỗ trợ bổ sung (mức 01 triệu đồng/người)
cho người lao động tự do đang mang thai (859 người) hoặc nuôi con nhỏ dưới 06
tuổi (27.296 trẻ em). Một số địa phương chưa có số liệu báo cáo hỗ trợ lao động
tự do và đối tượng đặc thù: Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Bái, Bắc Kạn, Sơn La, Điện
Biên, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi.
- Nhóm chính sách cho vay vốn:
+ Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội,
tính đến 25/3/2022 trên cả nước đã giải ngân được 4.633 tỷ đồng (đạt 62,1% tổng
kinh phí dự kiến cho vay theo Nghị quyết số 68/NQ-CP) với 3.501 lượt người sử dụng
lao động vay để trả lương cho gần 1,18 triệu lượt người lao động, trong đó:
+ Vay vốn để trả lương ngừng việc: tổng số tiền
giải ngân là 262 tỷ đồng (chiếm 3,5% tổng số tiền cho vay) với 1.265 lượt người
sử dụng lao động vay để trả lương ngừng việc cho 73.395 lượt người lao động.
+ Vay vốn phục hồi sản xuất kinh doanh đối với
người sử dụng lao động phải ngừng hoạt động theo Chỉ thị số 16/CT-TTg: tổng số
tiền giải ngân là 4.092 tỷ đồng (chiếm 46,8% tổng số tiền cho vay) với 1.863 lượt
người sử dụng lao động vay để trả lương cho 1.036.000 lượt người lao động.
+ Vay vốn phục hồi sản xuất kinh doanh của 05
lĩnh vực (vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú, xuất khẩu lao động): tổng
số tiền giải ngân là 279 tỷ đồng (chiếm 3,0% tổng số tiền cho vay) với 3.73 lượt
người sử dụng lao động vay để trả lương cho 70.285 lượt người lao động.
+ Số vốn cho vay tập trung ở một số tỉnh,
thành phố có nhiều doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch như Đồng Nai,
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Bắc Ninh.
Một số giải pháp trong thời gian tới:
(1) Thực hiện quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết
số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11
tháng 01 năm 2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương
trình; trong đó tập trung triển khai chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người
lao động; tiếp tục rà soát, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành và triển
khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động
và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; triển khai các dự án đầu
tư từ nguồn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
(2) Tiếp tục triển khai Chương trình hỗ trợ
phát triển thị trường lao động đến năm 2030, Chương trình phục hồi và phát triển
thị trường lao động, tập trung vào các hoạt động hỗ trợ người lao động quay trở
lại nơi làm việc, cho vay giải quyết việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao
động; theo dõi chặt chẽ, nắm tình hình lao động, nhất là trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất để kịp thời có phương án hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục
tình trạng thiếu hụt lao động sau Tết. Tăng cường các hoạt động tư vấn, giới
thiệu việc làm, kết nối cung - cầu lao động, đáp ứng đủ lao động cho các địa
phương kinh tế trọng điểm. Hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng phương án tuyển
chọn, đào tạo nguồn để đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài khi các nước mở cửa
trở lại và đón số lao động đã hết hạn hợp đồng, không có nhu cầu ở lại nước
ngoài, về nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
(3) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, hướng
dẫn thực hiện các quy định về pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội, an toàn lao
động. Mở rộng diện bao phủ và phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện. Phấn đấu giảm số đối tượng
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, giảm tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo
hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về tiền lương nhằm khuyến khích,
thu hút người lao động quay trở lại làm việc; xây dựng quan hệ lao động hài
hòa, ổn định và tiến bộ trong bối cảnh mới, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất
kinh doanh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao năng
lực quản lý về an toàn, vệ sinh lao động. Triển khai thực hiện công tác an
toàn, vệ sinh lao động ở khu vực không có quan hệ lao động. Thực hiện các giải
pháp thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu thuộc diện quản lý, kiểm tra chuyên ngành. Làm tốt công tác quản lý,
cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Hướng
dẫn các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động thực hiện các quy định
của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
(4) Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương cho học
sinh, sinh viên trở lại học tập trung tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo
chỉ đạo của Chính phủ. Đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc
làm từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của
Chính phủ. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề cho người lao động, nhất là ở những địa bàn, khu vực kinh tế trọng điểm,
tập trung đông các khu công nghiệp, khu chế xuất để đáp ứng nhu cầu lao động có
kỹ năng nghề cho phục hồi kinh tế, bảo đảm thích ứng với điều kiện sản xuất mới,
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Triển khai thí điểm đào tạo,
đào tạo lại nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở những ngành nghề mới và ngành,
nghề cần bổ sung kỹ năng mới. Đẩy mạnh hướng nghiệp, phân luồng tuyển sinh và
đào tạo thích ứng với sự tác động của dịch bệnh.
(5) Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TW
ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác chăm sóc
người có công với cách mạng, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng nhằm
bảo đảm mọi người có công đều được xác nhận, công nhận, tôn vinh và thụ hưởng đầy
đủ các chế độ, chính sách của Nhà nước. Thực hiện đầy đủ, hiệu quả, công khai,
minh bạch các chính sách và chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân
nhân của người có công với cách mạng. Thực hiện chi trả trợ cấp người có công
thông qua tổ chức dịch vụ bưu chính công ích. Tiếp tục thực hiện Đề án xác định
hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; xác nhận, công nhận người có công với cách
mạng và tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tổ chức các hoạt động tri ân, thăm hỏi,
tặng quà người có công với cách mạng và thân nhân nhân dịp Lễ kỷ niệm 75 năm
ngày thương binh, liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022).
(6) Thực hiện đầy đủ, hiệu quả các chính sách
an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là chính sách ưu đãi người có công, giảm
nghèo, chăm lo đời sống người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt. Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021-2025
với mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát
sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng
cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển
và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Tiếp tục nghiên cứu
hoàn thiện chính sách giảm nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025; xây dựng kế hoạch
và triển khai thực hiện hiệu quả Phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để
ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025 để tất cả xã hội cùng chung tay giúp
đỡ người nghèo.
2. Đối với nhiệm vụ: Khẩn trương đánh giá,
làm rõ nguyên nhân, có giải pháp tổng thể phục hồi, phát triển thị trường lao động
trong nước. Trong năm 2021, ban hành và triển khai thực hiện Chương trình phục
hồi và phát triển thị trường lao động và an sinh xã hội phù hợp với tổng thể Chương
trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, đặc biệt quan tâm việc
phân bổ lại dân cư và lao động trên phạm vi toàn quốc, việc đào tạo, đào tạo lại
nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng nghề, nhà ở cho công nhân, người lao động,
chính sách đối với lao động nữ, lao động khu vực phi chính thức và các đối tượng
dễ bị tổn thương, bảo đảm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban
hành Quyết định số 1405/QĐ-LĐTBXH ngày 13/12/2021 về Chương trình hỗ trợ phục hồi
và phát triển thị trường lao động, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải
pháp:
(1) Hỗ trợ trực tiếp người lao động: tuyên
truyền, định hướng thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tham gia kết nối cung
cầu lao động, hỗ trợ trực tiếp cho người lao động các chi phí để mua nhu yếu phẩm,
đi lại, chi trả tiền điện, tiền nước, nhà trọ, xét nghiệm Covid-19... để người
lao động nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động. Các giải pháp có tính tới
các địa bàn trọng điểm thuộc 4 vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương có khu
kinh tế lớn, các địa phương có lực lượng lao động lớn.
(2) Hỗ trợ người sử dụng lao động phục hồi,
phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm cho người lao động: Tập trung rà
soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để giảm tối đa các chi phí đóng
góp của doanh nghiệp trong năm 2022-2023 về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chi phí công
đoàn; quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phù hợp với trạng thái
“bình thường mới”; các chính sách hỗ trợ giảm chi phí tuyển dụng lao động (miễn
phí chi phí tuyển dụng qua hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm, khuyến khích
doanh nghiệp giảm chi phí, hỗ trợ tham gia các phiên giao dịch việc làm,...);
có chính sách giảm lãi suất, bổ sung nguồn vốn để hỗ trợ hộ kinh doanh, người
lao động phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh,...
(3) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
cung lao động cung ứng kịp thời cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh:
Các giải pháp tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng gấp lao động phục vụ cho doanh
nghiệp theo các cấp độ từ đào tạo phổ cập nghề đến đào tạo chất lượng cao, đào
tạo đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tập trung đào tạo trước
mắt theo các nghề phục vụ phát triển các ngành kinh tế trọng yếu của đất nước.
Đồng thời cũng đưa ra giải pháp để chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp
thích ứng với của trạng thái “bình thường mới”.
(4) Hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động: Các
giải pháp tập trung vào việc hình thành hệ thống thu thập, chia sẻ thông tin về
việc làm trống, người tìm việc để phục vụ kết nối, tăng cường tổ chức các phiên
giao dịch việc làm; tổ chức thực hiện các gói hỗ trợ kết nối việc làm thành
công để nâng cao hiệu quả, chất lượng tư vấn, giới thiệu việc làm; hiện đại hóa
hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và
hạ tầng số của hoạt động kết nối cung - cầu lao động.
(5) Phát triển bền vững thị trường lao động:
Xây dựng và phát triển, hiện đại các thể chế của thị trường lao động; hiện đại
hóa quản trị thị trường lao động. Tập trung rà soát các quy định của pháp luật,
hình thành được cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, việc làm có kết nối chia sẻ
với cơ sở dữ liệu về dân cư để phục vụ quản lý, thực hiện các chính sách về lao
động việc làm chính xác, kịp thời; có phương án kịp thời để huy động, điều tiết
các đối tượng học sinh trường nghề, sinh viên, tham gia phục hồi sản xuất kinh
doanh tại các doanh nghiệp, ngành nghề trọng yếu.
(6) Đảm bảo điều kiện về nơi sinh sống cho
người lao động: Quy hoạch và phát triển các khu nhà cho thuê, nhà giá rẻ cho
người lao động gắn với quy hoạch phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp,
khu chế xuất; có chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư xây dựng, phát triển
các nhà giá rẻ, nhà trọ cho người lao động thuê.
(7) Xây dựng và tổ chức thực hiện nội dung về
thị trường lao động và việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ
tướng Chính phủ), Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I:
từ năm 2021 đến năm 2025 (Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng
Chính phủ).
(8) Triển khai thực hiện Nghị quyết số
11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính
sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, trong đó, dự kiến bổ sung tối đa
10.000 tỷ đồng cho Ngân hàng Chính sách xã hội (tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ
đối với trái phiếu phát hành trong nước cho Ngân hàng Chính sách xã hội) để cho
vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm theo quy định tại Nghị định
số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo
việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP đối với
các người sử dụng lao động, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch
Covid-19.
(9) Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định:
Tập trung vào tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định về pháp
luật lao động, việc làm, phát triển đội ngũ hòa giải viên, trọng tài viên để kịp
thời giải quyết tranh chấp lao động, đình công.
- Trong Quý I/2022, thị trường lao động có sự
phục hồi tốt: Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân
tháng của người lao động tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ
lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2022 là 68,1%, tăng 0,4 điểm phần trăm
so với quý trước. Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2022 ước
tính là 50 triệu người, tăng 132,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, bao gồm
13,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm
27,8% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,7 triệu người, chiếm 33,5%;
khu vực dịch vụ 19,4 triệu người, chiếm 38,7%. Thu nhập bình quân tháng của lao
động làm công hưởng lương trong quý I năm 2022 ước tính là 7,3 triệu đồng/tháng,
tăng 1,2 triệu đồng so với quý trước và tăng 119 nghìn đồng so với cùng kỳ năm
trước, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,7 triệu đồng/tháng, lao động nữ
là 6,8 triệu đồng/tháng.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm
trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước, tuy vẫn cao hơn so với cùng kỳ
năm trước nhưng mức độ giảm dần: Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức
ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I năm 2022 ước tính là 56,2%, trong đó
khu vực thành thị là 48,1%; khu vực nông thôn là 62,9% (Quý I năm 2021 tương ứng
là 57,1%; 48,4%; 64,3%).
Phương hướng triển khai trong thời gian tới
- Tập trung triển khai ngay Chương trình Hỗ
Phục hồi và phát triển thị trường lao động, trong đó có những giải pháp cụ thể,
ngắn hạn để góp phần hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; hỗ trợ
các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, hạn chế thiếu hụt nhân lực, đảm
bảo sự lưu thông của thị trường lao động, đồng thời cũng có những giải pháp đảm
bảo sự phát triển bền vững thị trường lao động sau đại dịch góp phần phục hồi
nhanh nền kinh tế.
- Triển khai thực hiện Quyết định số
08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê
nhà cho người lao động, hướng dẫn bổ sung nguồn vốn, tổ chức thực hiện vay vốn,
tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm, thực hiện các hoạt động để tăng cường
kết nối cung - cầu lao động, nâng cao năng lực dự báo, thực hiện đầu tư có trọng
tâm, trọng điểm để đào tạo những ngành nghề chất lượng cao,…
3. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng phương án hiệu
quả khắc phục tình trạng số lượng lớn người lao động di chuyển tự phát khỏi các
tỉnh, thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, bảo đảm an sinh xã hội tại
các địa phương, nhất là các địa phương có người lao động hồi hương; có giải
pháp “giữ chân” và “thu hút” lực lượng lao động quay trở lại nơi làm việc, khắc
phục tình trạng thiếu hụt lao động tại các vùng kinh tế trọng điểm. Tiếp tục củng
cố quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
- Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
11/NQ-CP , trong đó có các nội dung: hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, hướng
dẫn bổ sung nguồn vốn, tổ chức thực hiện vay vốn, tạo việc làm từ Quỹ quốc gia
về việc làm, thực hiện các hoạt động để tăng cường kết nối cung - cầu lao động,
nâng cao năng lực dự báo, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đào tạo
những ngành nghề chất lượng cao,...
- Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định
số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ
tiền thuê nhà cho người lao động. Mục đích chính của chính sách là chia sẻ, hỗ
trợ cho người lao động còn khó khăn về nhà ở yên tâm làm việc, tham gia phục hồi
sản xuất cùng với người sử dụng lao động; hỗ trợ doanh nghiệp “giữ chân” được
người lao động để có nhân lực cho phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh; hỗ
trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh “thu hút” được lao động vào làm việc,
hạn chế việc phải ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu lao động; đặc biệt
là hút trở lại những lao động do tác động của đại dịch COVID-19 đã phải di chuyển
từ các trung tâm kinh tế - xã hội về quê.
Phương hướng thực hiện trong thời gian tới:
- Tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ tiền
thuê nhà cho người lao động theo quy định của Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày
28/3/2022.
- Triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu
lao động thuộc Chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động (Quyết định
số 1405/QĐ-LĐTBXH ngày 13/12/2021), Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế
- xã hội (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ), về chương
trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết số 43/2022/QH15 của
Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình).
4. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực dài hạn, toàn diện, hướng tới thị trường lao động đa dạng.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động và nâng cao chất lượng
dự báo. Nâng cao chất lượng công tác quản lý, theo dõi việc thực hiện khai
trình lao động của người sử dụng lao động và gắn với chất lượng hoạt động dịch
vụ việc làm của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. Năm 2022, hoàn thành Đề án
nâng cao năng lực dự báo cung - cầu lao động. Năm 2024, thực hiện liên thông cơ
sở dữ liệu về thị trường lao động.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban
hành Thông tư số 01/2022/TT-BLĐTBXH ngày 25/01/2022 hướng dẫn thu thập, lưu trữ
và tổng hợp thông tin thị trường lao động; đang xây dựng, gửi lấy ý kiến về
Thông tư xây dựng cơ sở dữ liệu người tìm việc - việc tìm người, quản lý lao động
gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu
quốc gia về giảm nghèo bền vững đến năm 2025.
- Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đang làm việc với Bộ Công an để triển khai các hoạt động làm cơ sở kết nối cơ sở
dữ liệu an sinh xã hội (việc làm, trẻ em, bảo trợ xã hội...) với cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư.
Phương hướng triển khai trong thời gian tới:
- Triển khai Chiến lược phát triển giáo dục
nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 2239/QĐ-TTg ngày 30/12/2021, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đang hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương triển khai Chiến lược
phát triển giáo dục nghề nghiệp, trong đó sẽ đưa ra các giải pháp đồng bộ để đổi
mới giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng, mở, linh hoạt, liên
thông, dễ tiếp cận về cơ cấu ngành/nghề, trình độ và phương thức đào tạo.
- Triển khai các hoạt động của tiểu dự án
phát triển thị trường lao động, việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về
giảm nghèo bền vững đến năm 2025, trong đó tập trung vào các hoạt động để hoàn
thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo thị trường lao động, hỗ trợ
các hoạt động giao dịch việc làm,...
- Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xây dựng báo cáo nghiên cứu khả
thi, triển khai dự án tăng cường kết nối cung - cầu lao động thuộc Chương trình
phục hồi kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ; phối hợp với các cơ
quan, đơn vị để hoàn thiện Đề án dự báo cung - cầu lao động.
5. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, ban hành chính
sách bảo trợ đối với trẻ em mồ côi do dịch COVID-19, bảo đảm trẻ em có nơi
nương tựa, không bị bỏ rơi. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ
em, đặc biệt quan tâm phòng, chống xâm hại trẻ em.
- Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
68/NQ-CP ngày 01/7/2021, số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành các Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021, số 33/2021/QĐ-TTg
ngày 06/11/2021 quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động
và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, trong đó có quy định:
Hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị COVID-19, cách ly y tế về hỗ trợ
tiền ăn cho trẻ em F0, F1 với 80.000đ/người/ngày và hỗ trợ thêm cho trẻ em F0,
F1 1.000.000đ/trẻ em. Người lao động bị ảnh hưởng bởi COVID-19 đang mang thai
được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/người; người lao động đang nuôi con đẻ hoặc con
nuôi hoặc chăm sóc thay thế trẻ em chưa đủ 06 tuổi được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/trẻ
em.
- Tính đến cuối tháng 3/2022, đã có 49.730
người lao động đang mang thai và 568.650 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người
lao động đã được hỗ trợ bổ sung với mức 01 triệu đồng/người. Trên 1,17 triệu đối
tượng F0, F1 đã được hỗ trợ tiền ăn với tổng kinh phí 946 tỷ đồng. 178.210 trẻ
em, 2.095 người cao tuổi và 695 người khuyết tật là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ
bổ sung với mức 01 triệu đồng/người.
- Hỗ trợ kịp thời trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch
COVID-19 và trẻ em mồ côi do COVID-19 từ nguồn vận động xã hội của Quỹ Bảo trợ
trẻ em Việt Nam: trẻ em là con của sản phụ bị nhiễm COVID-19 (mức hỗ trợ 1 triệu
đồng/em); trẻ em có hoàn cảnh khó khăn mồ côi cha hoặc mẹ (mức hỗ trợ 5 triệu đồng/em);
trẻ em mồ côi cả cha và mẹ chết do COVID-19 (hỗ trợ sổ tiết kiệm với định mức
20.000.000 đồng/sổ/trẻ em). Đến nay, Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã phối hợp với
các tỉnh, thành phố hỗ trợ 3.695 trẻ em với tổng kinh phí là 18,298 tỷ đồng cho
trẻ em, gồm: 3.303 trẻ em mồ côi mất cha, mẹ (mức 05 triệu đồng/trẻ em với tổng
số tiền 16,515 tỷ đồng); 603 trẻ em sơ sinh là con của sản phụ bị nhiễm
COVID-19 (mức 01 triệu đồng/trẻ em với tổng số tiền là 6,03 tỷ đồng); hỗ trợ sổ
tiết kiệm cho 59 trẻ em mồ côi cả cha và mẹ (định mức 20.000.000 đồng/sổ/trẻ em
với tổng số tiền là 1,180 tỷ đồng). Một số địa phương có nhiều đối tượng được hỗ
trợ là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, An Giang, Long An, Đồng
Tháp.
- Ủy ban Quốc gia về trẻ em đã ban hành 01
Công văn chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về việc triển khai kịp thời
các biện pháp chăm sóc trẻ em mồ côi do đại dịch COVID-19, trong đó tập trung
vào việc kịp thời lập danh sách, nguyện vọng của trẻ em mồ côi, người chăm sóc
trẻ em, thực hiện chăm sóc thay thế để bảo đảm trẻ em mồ côi được sống trong
môi trường gia đình, ưu tiên trẻ em được sống cùng người thân thích, nhận con
nuôi; việc chuyển trẻ em đến cơ sở trợ giúp xã hội là biện pháp cuối cùng, hỗ
trợ trẻ em bảo đảm ổn định tâm lý, học tập và pháp lý cho trẻ em .
- Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống COVID-19
chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương, Ban Chỉ đạo phòng, chống COVID-19 của các địa
phương có biện pháp bảo đảm an toàn cho trẻ em trong thời gian dịch bệnh.
- Chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thực hiện tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 và bảo
đảm an toàn cho trẻ em, chăm sóc trẻ em mồ côi trong đại dịch .
- Ban hành chính sách hỗ trợ cho trẻ em sơ
sinh là con của sản phụ nhiễm COVID-19, về hỗ trợ cho trẻ em bị nhiễm COVID-19
và trẻ em phải cách ly tập trung để phòng, chống dịch COVID-19 từ nguồn kinh
phí vận động của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam.
- Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ: Lao động -
Thương binh và Xã hội, Quốc phòng, Y tế, Giáo dục và Đào tạo phối hợp triển
khai hướng dẫn bảo đảm an toàn cho trẻ em trong khu cách ly tập trung, hướng dẫn
kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khỏe, tâm lý xã hội và bảo đảm an toàn cho
trẻ em trong dịch COVID-19.
- Tăng cường công tác truyền thông hướng dẫn
kiến thức, kỹ năng về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đặc biệt chăm sóc, hỗ trợ trẻ em
mồ côi trong dịch COVID-19: xây dựng, phát hành các tài liệu hướng dẫn, sản phẩm
truyền thông; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Quốc phòng
và các tổ chức quốc tế in ấn và phát hành 200.000 sản phẩm truyền thông về hướng
dẫn bảo đảm an toàn cho phụ nữ và trẻ em trong khu cách ly tập trung (bằng tiếng
Việt và tiếng Anh) đến gần 400 cơ sở cách ly tập trung.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối
hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các tổ chức quốc
tế triển khai các chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận thức xã hội về tác
động của COVID-19 đến phụ nữ và trẻ em, hướng dẫn bảo đảm an toàn cho trẻ em tại
gia đình, cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở cách ly tập trung.
- Tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng, qua mạng xã hội, các chiến dịch truyền thông về chăm sóc
trẻ em mồ côi do dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho
trẻ em, phòng ngừa, bạo lực, xâm hại trẻ em, giải đáp chính sách hỗ trợ trẻ em
bị ảnh hưởng bởi COVID-19.
- Triển khai 03 chiến dịch truyền thông về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em trong dịch COVID-19 (chiến dịch “Trái tim xanh phòng, chống
bạo lực trẻ em và phụ nữ”, “Ngày thế giới phòng, chống lao động trẻ em”, tọa
đàm trực tuyến về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước tác động của đại dịch
COVID-19; tọa đàm về chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em nhân
ngày thế giới trẻ em
- Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em
111 đã phối hợp hình thành mạng lưới với các chuyên gia về tâm lý, tình nguyện
sẵn sàng tiếp nhận hỗ trợ, can thiệp các trường hợp trẻ bị sang chấn tâm lý
trong bối cảnh COVID-19, hướng dẫn chăm sóc cho trẻ em trong các khu cách ly tập
trung thông qua hình thức trực tuyến, triển khai chăm sóc, ổn định tâm lý, phòng
ngừa, phát hiện sớm và xử lý những sang chấn tâm lý của trẻ em trong bối cảnh
cách ly, giãn cách xã hội. Tổng đài 111 đã tiếp nhận, tư vấn 1.110 ca liên quan
đến Covid-19; can thiệp hỗ trợ 35 ca trẻ em liên quan đến dịch Covid-19 và 935
ca liên quan đến trẻ em bị bạo lực.
- Hỗ trợ kịp thời trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn và trẻ em mồ côi do COVID-19 về chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng; không bị
gián đoạn việc học tập; triển khai và kết nối các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm
thần, tâm lý xã hội và trợ giúp pháp lý để quyền, lợi ích của trẻ em không bị
xâm hại do các em không có sự giám hộ của cha, mẹ; chăm sóc thay thế cho các
em, ưu tiên bố trí, hỗ trợ để trẻ em được chăm sóc thay thế bởi người thân, bởi
cá nhân, gia đình nhận chăm sóc để trẻ em được sống trong môi trường gia đình
và bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Hiện nay, trẻ em mồ côi do COVID-19 đều
được chăm sóc, nuôi dưỡng bởi gia đình họ hàng, thân thích, được chăm sóc đỡ đầu
bởi các cá nhân, tổ chức.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở,
các cán bộ tại cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về thực hiện chăm sóc trẻ
em mồ côi, quy trình chăm sóc thay thế cho trẻ em mồ côi, phòng chống xâm hại
trẻ em trong dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ
em bao gồm: Xây dựng 05 bộ tài liệu tập huấn, hướng dẫn quy trình can thiệp
phòng ngừa xâm hại trẻ em trong COVID-19, quy trình chăm sóc thay thế trẻ em mồ
côi do COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần và xây dựng bài giảng trực tuyến
cho chương trình đào tạo về Chăm sóc sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội cho trẻ
em; Tổ chức 09 khóa tập huấn cơ bản và nâng cao về chăm sóc sức khỏe tâm thần
và tâm lý xã hội cho trẻ em trong đại dịch COVID-19, phòng ngừa xâm hại bạo lực
trẻ em, phòng ngừa lao động trẻ em, hỗ trợ chăm sóc thay thế trẻ em mồ côi do
COVID-19, phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em.
- Tăng cường công tác liên ngành và phối hợp
chặt chẽ giữa các Bộ ngành triển khai các giải pháp ứng phó hỗ trợ bảo đảm quyền
trẻ em trong COVID-19:
+ Các Bộ ngành, UNICEF và các tổ chức quốc tế
đã phối hợp tổ chức Hội nghị trực tuyến đánh giá và triển khai một số giải pháp
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong đại dịch COVID-19 (vào ngày 8/9/2021);
+ Bộ Y tế triển khai kịp thời công tác điều
trị cho trẻ em nhiễm COVID-19 tại cơ sở điều trị, tại nhà; hướng dẫn phòng chống
lây nhiễm COVID-19 cho trẻ em tại các khu cách ly tập trung, tại nhà, tại trường
học; Chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh bảo đảm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe
cho trẻ em; Chỉ đạo thần tốc việc huy động nguồn vaccin phòng COVID-19 và triển
khai tiêm phòng COVID-19 cho trẻ em theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới;
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai quyết liệt,
mạnh mẽ, hiệu quả các giải pháp phòng, chống dịch với mục tiêu "đảm bảo sức
khỏe, an toàn của học sinh, sinh viên, giáo viên lên trên hết" đồng thời
thực hiện phương châm "tạm dừng đến trường, không dừng học"; kịp thời
ban hành các văn bản nhằm đảm bảo quyền được học tập của trẻ em trong môi trường
giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện. Xây dựng bài tập phát triển thể chất
cho học sinh lớp 1 trong thời gian học tập giãn cách phòng chống COVID-19; xây
dựng tài liệu và tổ chức tập huấn lãnh đạo, cán bộ nòng cốt các Sở Giáo dục và
Đào tạo toàn quốc về giáo dục an toàn mạng cho học sinh;
+ Bộ Tư pháp có văn bản gửi Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố, trong đó yêu cầu các Trung tâm tổ
chức triển khai hiệu quả, các hoạt động trợ giúp pháp lý cho trẻ em, đặc biệt
trẻ em mồ côi trong tình hình dịch COVID-19; phối hợp với các bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cùng Ủy ban nhân dân 22 tỉnh/thành phố khác
tổ chức đợt 2 Lễ giao nhận con nuôi tại Thành phố Hồ Chí Minh cho 91 gia đình
thuộc 8 nước Châu Âu;
+ Bộ Công an đã chủ động nắm chắc tình hình,
phân tích, tham mưu, đề xuất về tác động của dịch bệnh đối với kinh tế, văn
hóa, xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu
tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình thích ứng an
toàn, linh hoạt, kiểm soát dịch bệnh. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất
nhập cảnh, quản lý người nước ngoài, kiểm soát nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh. Tiếp
tục nắm chắc tình hình triển khai việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người
dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-10; kịp thời phát hiện, ngăn
chặn, xử lý hành vi lợi dụng chính sách để vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm
pháp luật trên không gian mạng; chủ động các biện pháp phòng ngừa tội phạm có
liên quan... Đồng thời, tiếp tục phát huy hiệu quả nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư và căn cước công dân phục vụ quản trị xã hội trong điều kiện bình
thường mới. Bên cạnh đó, Bộ Công an đã huy động hơn 150.000 cán bộ, chiến sĩ
tham gia trong hầu hết các khâu công tác phòng, chống dịch; gần 2000 cán bộ y tế
Công an tham gia vận hành các bệnh viện dã chiến điều trị Covid-19 cho cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân... Lực lượng Công an nhân dân đã cùng với các lực lượng
tuyến đầu không quản ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh bản thân mình, tất cả vì
cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
+ Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định
số 512A/QĐ-TANDTC ngày 19/11/2021 về việc triển khai Nghị quyết số 33/2021/QH15
về tổ chức phiên tòa trực tuyến nhằm bảo đảm tư pháp không chậm trễ, xét xử
nhanh chóng, kịp thời.
- Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành, địa
phương, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cá nhân phối hợp triển khai các gói hỗ trợ
trẻ em bị ảnh hưởng, trẻ em mồ côi do COVID-19 bảo đảm cuộc sống trước mắt và
lâu dài: (i) Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động Chương trình “Nối vòng
tay thương”, triển khai chương trình “Triệu ly sữa và hành trình của những cuốn
sách”, “Chia sẻ cùng em thơ, chung tay vượt qua đại dịch”; Thiếu nhi Việt Nam -
Vui khỏe an toàn đánh tan COVID-19”, “Cùng em học trực tuyến”; (ii) Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam thực hiện Chương trình "Phối hợp hỗ trợ đỡ đầu, chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em mồ côi trong đại dịch COVID-19 có hoàn cảnh khó khăn; (iii) Mặt
trận Tổ quốc Việt các cấp đã phối hợp cấp ủy chính quyền cùng cấp vận động hỗ
trợ các gia đình khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19; Hàng triệu trẻ
em được nhận các phần quà, các thiết bị học trực tuyến, các gói về an sinh xã hội
thông qua Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; (iv) Hội Bảo vệ quyền trẻ em
phát động phong trào “sữa yêu thương” cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch
COVID-19; (v) Tập đoàn FPT triển khai hỗ trợ giáo dục và nuôi dưỡng trẻ em mồ
côi do COVID-19 có nhu cầu được học tập tại cơ sở trường nội trú của FPT.
- Thanh tra, kiểm tra thực hiện quyền trẻ em
trong dịch COVID-19: Triển khai các hoạt động kiểm tra, thanh tra liên ngành và
chuyên đề việc thực hiện luật pháp, chính sách, chương trình, đề án về trẻ em,
trong đó chú trọng đến việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của các bộ, ngành,
địa phương trong thực hiện Luật trẻ em, Nghị quyết số 121/2020/QH14 của Quốc hội,
Chỉ thị số 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và trách nhiệm của người đứng đầu
trong việc để xảy ra các vụ việc vi phạm quyền trẻ em, đặc biệt xâm hại trẻ em,
phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em, bảo đảm quyền trẻ em và các chính
sách hỗ trợ cho trẻ em trong đại dịch COVID-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của
Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ưu tiên kiểm
tra, thanh tra liên ngành tại địa phương xảy ra nhiều vấn đề nóng liên quan đến
trẻ em (tại 08 tỉnh, thành phố: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hòa Bình, Quảng
Trị, Hà Tĩnh, Tp Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu). Chỉ đạo các địa phương tiến
hành việc rà soát, kiểm tra, thanh tra việc chăm sóc, nuôi dưỡng, hỗ trợ trẻ em
của các cơ sở trợ giúp xã hội, các quỹ từ thiện nhằm đảm bảo quyền trẻ em (Công
văn số 70/LĐTBXH-TE , ngày 07/01/2022).
- Tăng cường hợp tác quốc tế: phối hợp với Quỹ
Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và các tổ chức quốc tế khác nghiên cứu, đánh
giá tác động của đại dịch COVID-19 đến quyền trẻ em để làm cơ sở xây dựng các
chính sách, kế hoạch đặc thù, thực hiện giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em sau đại
dịch, triển khai xây dựng hướng dẫn, các tài liệu truyền thông, tập huấn cho đội
ngũ cán bộ tại cơ sở về bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi COVID-19, hỗ
trợ chuyên gia tư vấn và triển khai quản lý ca hỗ trợ dịch vụ cho trẻ em.
Phương hướng trong thời gian tới:
- Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và giải quyết các vấn đề về trẻ em
+ Nghiên cứu, đánh giá tác động của đại dịch
COVID-19 đến việc thực hiện quyền trẻ em và các mục tiêu trung hạn, dài hạn về
phát triển toàn diện trẻ em. Rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện chính sách, pháp
luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em thống nhất với Luật
Trẻ em, Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Trẻ em theo hướng đồng bộ, khả thi, đáp ứng yêu cầu về
công tác trẻ em.
+ Nghiên cứu xây dựng, sửa đổi, bổ sung các
cơ chế, chính sách, liên quan đến việc chăm sóc bảo vệ trẻ em trong tình trạng
khẩn cấp, đặc biệt là thiên tai, dịch bệnh. Tham mưu ban hành chính sách, giải
pháp chăm sóc, bảo vệ, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi nói chung và trẻ em mồ côi do ảnh
hưởng bởi dịch COVID-19, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội, trẻ em di
cư, trẻ em phải tách khỏi gia đình do bị bạo lực, xâm hại.
+ Nghiên cứu, xây dựng chương trình khắc phục
hạn chế, ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đối với trẻ em như: chăm sóc sức khỏe tâm
thần, tâm lý xã hội, chăm sóc trẻ em mồ côi nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện
của trẻ em.
+ Phối hợp rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em trong Luật hôn nhân và gia
đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
- Giải pháp về tổ chức thực hiện.
+ Triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết,
Quyết định, Kết luận của Quốc hội, Chính phủ, liên quan đến trẻ em, đặc biệt là
triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày
19/6/2020, đặc biệt là triển khai thực hiện Chỉ thị số 36/CT-TTg ngày
31/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ
em bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Nghị quyết số 38/NQ-CP của Chính phủ ngày
17/3/2022 về việc ban hành Chương trình phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định
số 1472/QĐ-TTg ngày 28/9/2020, Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020; Quyết định
số 23/QĐ-TTg ngày 07/01/2021 và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh
vực trẻ em giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
+ Tăng cường triển khai các quy định pháp luật,
chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em mồ côi, chính sách trợ giúp xã hội đối với
nhóm trẻ em mồ côi theo quy định của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 3
năm 2021 (có hiệu lực ngày 01/7/2021) của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội
đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
+ Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em tại
cộng đồng để cung cấp kịp thời các dịch vụ về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục cho
trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em mồ côi, trẻ em vùng
khó khăn, miền núi dân tộc thiểu số. Tăng cường năng lực cho Tổng đài điện thoại
quốc gia bảo vệ trẻ em 111 trong tiếp nhận, hỗ trợ và chuyển gửi các trường hợp
trẻ em cần hỗ trợ, can thiệp khẩn cấp. Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống
dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội cho trẻ em.
+ Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, chú trọng truyền thông tư vấn, phổ
biến kiến thức trực tiếp đến cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, người cung cấp dịch
vụ y tế, dịch vụ xã hội, người hoạt động tình nguyện, từ thiện xã hội gia đình,
cộng đồng dân cư, truyền thông đến được từng lớp học, đặc biệt vùng khó khăn,
dân tộc thiểu số, miền núi về các nội dung giáo dục kiến thức kỹ năng làm cha mẹ,
về thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em phòng, chống xâm hại trẻ em, phòng, chống
tai nạn thương tích, chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội. Tổ chức các chiến
dịch truyền thông, vận động xã hội, đặc biệt tận dụng ưu thế của công nghệ
thông tin và mạng xã hội. Hướng dẫn kiến thức, kỹ năng cho trẻ em biết tự bảo vệ
mình.
+ Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp liên
ngành về thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp trường hợp trẻ em bị xâm hại, có
nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; nghiên cứu
xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật và khung giá về dịch vụ công về bảo vệ trẻ
em.
+ Tăng cường phối hợp liên ngành và huy động
sự tham gia của các hội, các tổ chức, cộng đồng, các nhóm xã hội thiện nguyện,
các nhóm bác sĩ tình nguyện khám bệnh trực tuyến, các chuyên gia tạo thành mạng
lưới kết nối hỗ trợ trẻ em bị ảnh hưởng bởi COVID-19.
+ Tăng cường phối hợp và trách nhiệm của các
Bộ, ngành trong việc triển khai các quy định của pháp luật, các chính sách hỗ
trợ chăm sóc bảo vệ trẻ em nhằm bảo đảm các quyền trẻ em, trẻ em được phát triển
toàn diện đặc biệt trong việc ứng phó với dịch COVID-19 cụ thể: (i) Bộ Y tế có
trách nhiệm hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch và đẩy mạnh thực hiện việc
tiêm vắc-xin phòng COVID-19 cho trẻ em theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ. Chỉ đạo việc điều trị và chăm sóc trẻ em bị nhiễm COVID-19 và ảnh hưởng
bởi COVID-19; (ii) Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm đẩy mạnh triển khai
các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục
tiêu chất lượng đào tạo, giáo dục. Bảo đảm an toàn khi học sinh trở lại trường
học; (iii) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm phát huy vai trò của
gia đình trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em nhất là trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch
COVID-19; (iv) Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm tiếp tục thực hiện
có hiệu quả Chương trình "Sóng và máy tính cho em". Hướng dẫn các cơ
quan báo chí, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trên môi trường mạng phổ biến kiến
thức, kỹ năng về các hoạt động hỗ trợ thể chất và tinh thần phù hợp với trẻ em,
góp phần chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lý xã hội và phòng, chống bạo lực, xâm
hại, tai nạn, thương tích cho trẻ em.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện các chính sách, pháp luật về quyền trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ
em, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em trong dịch bệnh COVID-19, chỉ đạo thanh tra,
kiểm tra trên phạm vi toàn quốc các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài
công lập. Xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp, trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra bạo lực, xâm hại trẻ em; xử lý nghiêm hành
vi vi phạm quyền trẻ em.
+ Tăng cường nhân lực làm công tác bảo vệ trẻ
em ở cấp xã thông qua việc chủ động phối hợp với Bộ Y tế nghiên cứu, xây dựng,
phát triển mô hình “Mạng lưới cộng tác viên dân số kiêm công tác gia đình và trẻ
em”.
+ Tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực
cho các cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp đặc biệt là cán bộ tại cộng đồng,
cán bộ hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về chăm sóc bảo vệ trẻ em.
+ Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em
trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết một số vấn đề xã hội; lồng
ghép nguồn lực bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em trong các Chương
trình mục tiêu quốc gia. Thúc đẩy sự tham gia của đoàn viên, hội viên thuộc các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và đơn vị có liên quan tham gia mạng
lưới bảo vệ trẻ em.
+ Phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ
chức chính trị xã hội hướng dẫn, điều phối nguồn lực hỗ trợ của doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân hỗ trợ bảo đảm cuộc sống lâu dài cho trẻ em mồ côi nói chung đặc
biệt là mồ côi do COVID-19.
+ Ưu tiên bố trí ngân sách để thực hiện các mục
tiêu, chỉ tiêu về trẻ em, đặc biệt về bảo vệ trẻ em; đẩy mạnh vận động nguồn lực
xã hội thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em.
+ Nâng cấp, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu
trẻ em; tăng cường chất lượng thống kê, theo dõi tình hình trẻ em, đặc biệt trẻ
em bị xâm hại, tai nạn, thương tích trẻ em; triển khai kết nối, liên thông cơ sở
dữ liệu trẻ em với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia và cơ sở dữ liệu khác.
+ Chủ động, tham mưu phối hợp và thực hiện
các Điều ước, Công ước, Khuyến nghị của Liên hợp quốc liên quan đến quyền trẻ
em; tham gia các liên minh, phong trào thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em
toàn cầu và khu vực; tranh thủ vận động sự hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật của các
tổ chức quốc tế đa phương và song phương để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về
trẻ em.
6. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác trợ
giúp xã hội và công tác thiện nguyện, bảo đảm công khai, minh bạch. Khẩn trương
làm rõ các vấn đề dư luận quan tâm trong thời gian qua; đồng thời, tăng cường
kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có sai phạm trong việc thực
hiện chính sách trợ giúp xã hội và quản lý vận động, tiếp nhận, sử dụng nguồn
đóng góp tự nguyện, lợi dụng thiên tai, dịch bệnh, các hoàn cảnh khó khăn để
kêu gọi hỗ trợ từ thiện nhằm trục lợi.
Năm 2021, Chính phủ đã ban hành 01 Nghị định;
Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành 03 Quyết định; Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội đã ban hành 01 Thông tư hướng dẫn về công tác trợ giúp xã hội và công
tác thiện nguyện. Các văn bản soạn thảo, trình ban hành đều xuất phát từ đòi hỏi
thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của đối tượng, ban hành bảo đảm tính kế thừa, đổi mới
theo hướng hiện đại và tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật.
6.1. Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp xã
hội
- Để bảo đảm thực hiện tốt công tác trợ giúp
xã hội, hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện việc cứu trợ, khắc
phục hậu quả thiên tai, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân khi thiên tai, dịch bệnh
xảy ra, theo dõi sát tình hình, diễn biến thiên tai, dịch bệnh, rà soát, thống
kê tình hình thiệt hại, số hộ, số khẩu bị thiệt hại, người chết, mất tích hoặc
bị thương, các hộ có nhà đổ, sập, trôi có nguy cơ thiếu đói trên địa bàn do ảnh
hưởng của mưa, bão, nhất là các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, đồng bào dân
tộc thiểu số; chủ động huy động nguồn lực địa phương để hỗ trợ kịp thời cho người
dân bị thiếu đói; trường hợp địa phương khó khăn không tự giải quyết được thì
chủ động đề nghị Trung ương hỗ trợ.
- Trên cơ sở đề xuất nhu cầu hỗ trợ gạo cứu
đói của 41 tỉnh, thành phố, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định xuất cấp
tổng cộng 158.136,660 tấn gạo để hỗ trợ cho 2.715.530 hộ dân với 10.542.444
nhân khẩu.
- Bên cạnh đó, công tác thu dung, hỗ trợ nơi ở
khẩn cấp cho người lang thang, cơ nhỡ, người không có chỗ ở tạm thời theo Công
điện số 1105/CĐ-TTg ngày 27/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã được các địa
phương quyết liệt triển khai trên địa bàn để xét nghiệm, phân loại, đưa vào các
cơ sở trợ giúp xã hội hoặc tổ chức quản lý để thực hiện các chính sách an sinh
xã hội và phòng, chống dịch COVID-19. Đến nay, đã có hơn 2.000 người được thu
dung đưa vào tạm thời ở các cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm công tác xã hội
như: Thành phố Hồ Chí Minh thu dung hơn 1.039 người, Hà Nội thu dung 133 người;
Khánh Hòa thu dung 80 người; tỉnh Đồng Nai thu dung 40 người (ở thành phố Biên
Hòa)...
- Công tác triển khai các túi an sinh xã hội
để hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại các tỉnh, thành phố đang thực hiện giãn
cách được tập trung vào các nhóm đối tượng người nghèo đô thị, người dân là lao
động tự do, mất việc, bệnh nhân đang bị bệnh hiểm nghèo, gia đình có người thân
là F0, F1, có hoàn cảnh khó khăn... Đến nay, thành phố Hồ Chí Minh đang đi đầu
trong việc cấp phát túi an sinh xã hội để hỗ trợ người dân với hơn 1,8 triệu
túi (trị giá mỗi túi 300 nghìn đồng); Thành đoàn Cần Thơ đã trao tặng gần
19.000 túi an sinh cho người dân và thanh thiếu nhi gặp nhiều khó khăn do dịch
Covid-19 với tổng kinh phí gần 5,2 tỉ đồng; thành phố Hà Nội hỗ trợ cho 900.000
lượt người, hộ gia đình với tổng kinh phí gần 272 tỷ đồng; tỉnh Thanh Hóa hỗ trợ
67.000 hộ gia đình mỗi hộ 1 túi an sinh xã hội trị giá lên tới 1.8 triệu đồng
...
6.2. Về trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng
đồng
Thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013,
theo số liệu báo cáo địa phương, cả nước đã có 3,13 triệu (khoảng 3% dân số)
người hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên (trong đó có 1,808 triệu
người cao tuổi, 1,096 triệu người khuyết tật, 49,1 nghìn trẻ em mồ côi và hơn
180 nghìn hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng); 48.423 người
đang được nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội. Tổng kinh phí thực hiện chính
sách là 17.563 tỷ đồng. Công tác chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng
bảo trợ xã hội tiếp tục được triển khai thông qua cơ quan Bưu điện tại 61/63 tỉnh,
thành phố (còn thành phố Hà Nội và Đồng Tháp chưa triển khai thực hiện).
Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khách
quan như vấn đề già hóa dân số, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, quá trình phát triển
kinh tế dẫn đến những quy định tại nghị định số 136/2013/NĐ-CP không còn phù hợp,
mức trợ giúp xã hội quá thấp, không bảo đảm đời sống tối thiểu của người hưởng;
còn một bộ phận dân cư khó khăn chưa hưởng chính sách, cần được rà soát quy định
bổ sung; trình tự thủ tục, quy trình quyết định chính sách phức tạp, cần đổi mới
xác định đối tượng, cắt giảm và hợp nhất thủ tục hồ sơ và giảm thời gian quyết
định chính sách. Để tăng cường bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội cho đối
tượng có hoàn cảnh khó khăn, từng bước nâng cao chất lượng chính sách, bảo đảm
sự tương đồng với các chính sách xã hội khác; phân cấp trách nhiệm cho các địa
phương trong việc mở rộng đối tượng, nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội và cải cách
thủ tục hành chính.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Thông
tư số 02/2021/TT-BLĐTBXH ngày 24/6/2021 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị
định số 20/2021/NĐ-CP , tổ chức rà soát đối tượng, tăng cường giải quyết chính
sách trợ giúp cho đối tượng theo mức mới bảo đảm kịp thời, đầy đủ từ ngày
01/7/2021. Đến thời điểm hiện nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện các chế độ,
chính sách theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP , bảo đảm đối tượng đang
hưởng chính sách trợ giúp xã hội được chuyển sang hưởng mức mới từ ngày
1/7/2021. Tổng số đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội từ 1/7/2021 dự kiến
theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP là khoảng 3,25 triệu đối tượng, tăng khoảng 120
ngàn đối tượng so với Nghị định 136/2013/NĐ-CP. Kinh phí chi cho 120 ngàn đối
tượng tăng thêm theo Nghị định khoảng 820 tỷ đồng/năm.
Ngân sách chi trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp
thẻ bảo hiểm y tế, mai táng phí cho đối tượng theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP khoảng
23.675 tỷ đồng/năm. Đến thời điểm Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP
đã có 12 tỉnh, thành phố chủ động tăng mức chuẩn trợ cấp, mức trung bình khoảng
390.000 đồng/tháng, cho gần 700.000 đối tượng với kinh phí 3.514 tỷ đồng/năm.
Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội bằng 1/3 mức lương
cơ sở, cao nhất trong cả nước (tương đương khoảng 500.000 đồng/tháng). Do đó
kinh phí tăng thêm năm 2021 khoảng 3.000 tỷ đồng.
Việc thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội
đối với đối tượng bảo trợ xã hội đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an
sinh xã hội, ổn định đời sống người dân, đặc biệt là người dân gặp khó khăn do
thiên tai, dịch bệnh.
6.3. Đối với việc làm rõ các vấn đề dư luận
quan tâm, tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có sai
phạm trong thực hiện chính sách trợ giúp xã hội và quản lý vận động, tiếp nhận,
sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện, lợi dụng thiên tai, dịch bệnh, các hoàn cảnh
khó khăn để kêu gọi hỗ trợ từ thiện nhằm trục lợi
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về chính
sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội phối hợp với các cơ quan liên quan đã tổ chức các đoàn kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã
hội tại các địa phương, việc quản lý, tiếp nhận và sử dụng nguồn đóng góp tự
nguồn hỗ trợ nhân dân và các địa phương bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh bảo
đảm đúng chế độ, chính sách.
Đối với những vấn đề dư luận quan tâm trong
thời gian vừa qua về tiếp nhận, sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện, Bộ Công an đã
chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương có liên quan triển khai các hoạt động điều
tra, xác minh, thu thập, đánh giá tài liệu để kết luận đối với các tố giác, tin
báo về tội phạm liên quan đến hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật. Từ
kết quả công tác điều tra, xác minh, giải quyết các vụ việc, Bộ Công an đã kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành các quy định chi tiết để các hoạt động từ
thiện được minh bạch, chuyên nghiệp, mang lại hiệu quả thiết thực.
7. Đối với nhiệm vụ: Quan tâm giải quyết những
vấn đề quan trọng, bức xúc như: đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp, chính
sách xã hội hóa về bảo trợ xã hội; tình trạng người lao động bán sổ bảo hiểm xã
hội; tiền lương đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước
năm 1995; việc triển khai chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững...
đặt trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19.
7.1. Về nội dung đổi mới giáo dục nghề nghiệp:
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã và
đang tập trung triển khai nâng cao nguồn nhân lực có kỹ năng nghề, phát triển hệ
thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và hội nhập; tập
trung đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người
lao động ở những địa bàn, khu vực kinh tế trọng điểm, tập trung đông các khu
công nghiệp, khu chế xuất để phục vụ cho phục hồi sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, bảo đảm thích ứng với điều kiện sản xuất mới. Một số kết quả cụ
thể đã đạt được như sau:
a) Công tác tuyển sinh, triển khai đào tạo,
đào tạo lại:
- Ước tuyển sinh 3 tháng đầu năm đạt: 369,6
nghìn người (đạt 17,7% kế hoạch), trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp là
19,6 nghìn người (đạt 3,7% kế hoạch giao), trình độ sơ cấp và các chương trình
đào tạo khác là 350 nghìn người (đạt 22,5% kế hoạch giao).
- Hướng dẫn các địa phương đưa học sinh, sinh
viên trở lại trường học tập trung và tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn công tác tuyển
sinh năm 2022. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đẩy mạnh hoạt động hợp
tác với doanh nghiệp để đưa học sinh, sinh viên năm cuối đi thực hành, thực tập
và tham gia vào các hoạt động hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; tiếp
tục đổi mới phương thức đào tạo thích ứng với sự tác động của dịch bệnh.
- Tiếp tục tổ chức đào tạo chất lượng cao tại
các trường được lựa chọn để đầu tư thành trường chất lượng cao theo 22 nghề cấp
độ quốc tế đã chuyển giao từ Đức; Triển khai kế hoạch đào tạo, đào tạo lại nâng
cao kỹ năng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư theo Quyết định số 1446/QĐ-TTg ngày 30/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
Triển khai các hoạt động gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động
và việc làm bền vững và các hoạt động gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường
lao động và việc làm bền vững.
- Hướng dẫn địa phương, cơ sở tổ chức đào tạo
trình độ sơ cấp, đào tạo thường xuyên, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, người
dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo và các đối
tượng chính sách khác.
- Hướng dẫn các địa phương, đơn vị tăng cường
triển khai chính sách hỗ trợ đào tạo để duy trì việc làm cho người lao động
theo Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg .
b) Công tác rà soát, sắp xếp cơ sở giáo dục
nghề nghiệp công lập và lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN thời kỳ 2021-2030, tầm
nhìn đến năm 2045
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo
xem xét rà soát để phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời
kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
c) Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục nghề nghiệp
- Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ nhà
giáo giáo dục nghề nghiệp, người dạy nghề; kế hoạch tổ chức các khóa bồi dưỡng
Nâng cao năng lực giảng dạy số trong giáo dục nghề nghiệp năm 2022; kế hoạch
công tác tổ chức bình chọn Nhà giáo tiêu biểu hàng năm; tôn vinh nhà giáo tiêu
biểu 2022 và Kỷ niệm 40 năm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11; kế hoạch tổ chức cuộc
thi Thiết kế dạy học trực tuyến trong giáo dục nghề nghiệp năm 2022.
- Xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động:
xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật, danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu, tiêu
chuẩn cơ sở vật chất trong thực hành, thực nghiệm và thí nghiệm.
- Xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động
đã được phê duyệt về giáo dục chính trị, đạo đức lối sống và văn hóa ứng xử; khởi
nghiệp. Xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện Kế hoạch triển khai Khung trình độ
quốc gia Việt Nam đối với các trình độ giáo dục nghề nghiệp, giai đoạn 2021 -
2025. Triển khai đánh giá các trường được đầu tư để trở thành trường chất lượng
cao theo các tiêu chí của trường chất lượng cao.
- Phê duyệt kế hoạch thi kỹ năng nghề năm
2022; lựa chọn thí sinh, nhóm chuyên gia và đơn vị đăng cai tổ chức huấn luyện,
tham dự Tuần Lễ chuẩn bị tham dự thi kỹ năng nghề thế giới lần thứ 46; Lễ tổng
kết kỳ thi kỹ năng nghề quốc gia lần thứ 12.
d) Công tác truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp, cải
cách hành chính
- Xây dựng kế hoạch triển khai chương trình chuyển
đổi số trong giáo dục nghề nghiệp; hướng dẫn các địa phương và cơ sở giáo dục
nghề nghiệp về triển khai chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp.
- Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí
để đẩy mạnh truyền thông về giáo dục nghề nghiệp bảo đảm kịp thời, khách quan,
chính xác, trung thực.
- Hoàn thành và công bố dịch vụ công trực tuyến
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và Hệ thống đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9001:2015.
đ) Triển khai các Chương trình mục tiêu quốc
gia
- Xây dựng, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu khả
thi, nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn
đối ứng của ngân sách địa phương của Tiểu dự án “Phát triển giáo dục nghề nghiệp
vùng nghèo, vùng khó khăn” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền
vững.
- Xây dựng, đề xuất phương án phân bổ ngân
sách trung ương thực hiện Tiểu dự án 3 "Phát triển giáo dục nghề nghiệp và
giải quyết việc làm cho người lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi"
thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến
năm 2025.
- Hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu khả thi,
nguyên tắc, tiêu chí phân bổ Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn
mới.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối
hợp với Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Ủy ban Dân tộc, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn xây dựng Thông tư hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương
trong triển khai, thực hiện Chương trình.
e) Hoạt động hợp tác quốc tế
- Hoạt động hợp tác quốc tế lĩnh vực giáo dục
nghề nghiệp được đẩy mạnh cả về quy mô, hiệu quả, hình thức và đa dạng hóa về nội
dung. Tích cực vận động, kết nối để hình thành mạng lưới các đối tác phát triển,
bao gồm các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới.
7.2. Vấn đề tình trạng người lao động bán sổ
bảo hiểm xã hội
Theo quy định tại khoản 6 Điều
18 Luật Bảo hiểm xã hội thì người lao động có quyền: “Ủy quyền cho người
khác nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội”. Quy định này nhằm tạo thuận lợi
cho người lao động trong tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và
hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật về quyền công dân. Tuy nhiên,
xuất phát từ việc nhận thức của người lao động còn chưa đầy đủ, các đối tượng xấu
đã lợi dụng quy định trên để tiếp cận, dụ dỗ, lôi kéo người lao động để thực hiện
việc mua bán sổ bảo hiểm xã hội của người lao động với giá rẻ kèm theo giấy ủy
quyền nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội để sau đó làm thủ tục thanh toán với cơ quan
bảo hiểm xã hội và hưởng chênh lệch.
Trước thực trạng nêu trên, Phó Thủ tướng Thường
trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã có ý kiến chỉ đạo: “giao các Bộ, cơ quan:
Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền thông, Bảo hiểm
xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kịp
thời cảnh báo, xử lý nghiêm các hành vi mua gom sổ bảo hiểm xã hội, siết chặt
quy trình chi trả để ngăn chặn các đối tượng trục lợi” (văn bản số 2858/VPCP-NC
ngày 12 tháng 4 năm 2020 của Văn phòng Chính phủ). Sau khi có chỉ đạo quyết liệt
của Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương tình trạng thu mua sổ
bảo hiểm xã hội đã từng bước được khắc phục.
Hiện nay, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ đã
giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành địa phương
xây dựng trình Chính phủ, Quốc hội hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội
(sửa đổi), trong đó đề xuất nhiều giải pháp nhằm hạn chế hưởng bảo hiểm xã hội
một lần, tăng tính hấp dẫn, thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội để
hưởng lương hưu như: (i) giảm thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để
hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm; (ii) Bổ sung các quyền lợi, nhất là các
quyền lợi ngắn hạn để gia tăng sự hấp dẫn tạo động lực cho người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội; (iii) Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo
hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu
thu hút và tạo động lực để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội; (iv) Củng cố
niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
thông qua đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản
hóa các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, nâng cao chất
lượng cung cấp dịch vụ bảo hiểm xã hội theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch,
tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, để ngăn chặn và xử lý
hành vi thu mua sổ bảo hiểm xã hội, trong hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Bảo hiểm
xã hội (sửa đổi) còn đề xuất bổ sung hành vi bị nghiêm cấm đối với hành vi mua
bán sổ bảo hiểm xã hội dưới mọi hình thức.
7.3. Vấn đề tiền lương đối với nhóm đối tượng
có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995
Triển khai thực hiện nội dung “Thực hiện điều
chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người
đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ” tại
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị Trung ương 7 Khóa
XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, trong đó có việc: quan tâm điều chỉnh
thỏa đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm
1995 nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời
kỳ, Chính phủ đã ban hành ban hành Nghị định số 108/2021/NĐ-CP ngày 07 tháng 12
năm 2021 điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng,
theo đó:
(i) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, điều chỉnh
tăng thêm 7,4% trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng
tháng của tháng 12 năm 2021;
(ii) Riêng đối với người hưởng lương hưu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng trước năm 1995 thì sau khi thực hiện điều
chỉnh 7,4% mà có mức hưởng thấp hơn 2.300.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh
tăng thêm 200.000 đồng/tháng, đối với người sau điều chỉnh có mức hưởng cao hơn
2.300.000 đồng/tháng nhưng thấp hơn 2.500.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh
lên mức bằng 2.500.000 đồng/tháng.
Theo số liệu ước tính, kể từ ngày 01/01/2022,
có khoảng gần 3 triệu người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng
tháng được điều chỉnh tăng thêm 7,4%, trong đó có khoảng hơn 375 nghìn người hưởng
lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng trước năm 1995 có mức hưởng
dưới 2.300.000 đồng/tháng được điều chỉnh tăng thêm 200.000 đồng/tháng, đối với
người sau điều chỉnh có mức hưởng cao hơn 2.300.000 đồng/tháng nhưng thấp hơn
2.500.000 đồng/tháng thì được điều chỉnh lên mức bằng 2.500.000 đồng/tháng.
Như vậy, thông qua việc điều chỉnh lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng theo Nghị định số 108/2021/NĐ-CP đã
góp phần cải thiện đời sống của người nghỉ hưu nói chung, đặc biệt Chính phủ đã
có sự quan tâm hơn đối với những người có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước
năm 1995 theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 28-NQ/TW.
7.4. Việc triển khai chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững đặt trong bối cảnh tác động của dịch COVID-19
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tổ chức
triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn
2021-2025 kịp thời, đầy đủ, đảm bảo tính khách quan và minh bạch như việc xây dựng
các tiêu chí huyện nghèo, tiêu chí xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) vùng bãi ngang,
ven biển và hải đảo; xây dựng, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức
phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn
2021-2025.
Đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật thuộc
thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là cơ sở pháp lý triển
khai Chương trình và phân bổ vốn thực hiện Chương trình được ban hành đầy đủ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ,
ngành trung ương đang hoàn thiện để sớm ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện
các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình đúng theo tiến độ đã được Thủ
tướng Chính phủ phân công.
Nhiệm vụ trọng tâm năm 2022:
- Tập trung xây dựng thể chế, hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách giảm nghèo giai đoạn 2021-2025.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và tổ chức
thực hiện cơ chế, chính sách giảm nghèo, bảo đảm đồng bộ, khắc phục chồng chéo,
trùng lắp; hỗ trợ hiệu quả người nghèo, ưu tiên hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc
thiểu số; tập trung đầu tư và kết nối địa bàn nghèo, vùng lõi nghèo; đáp ứng
nhu cầu của người dân về sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp (y tế, giáo
dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin và việc làm).
- Hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương thực hiện
hiệu quả các chính sách, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2021-2025
- Tăng cường hiệu quả công tác vận động các tập
đoàn kinh tế, doanh nghiệp hỗ trợ người nghèo, địa bàn nghèo, đẩy mạnh công tác
truyền thông để huy động tối đa nguồn lực cho người nghèo, khơi dậy ý chí vươn
lên chủ động thoát nghèo của người nghèo.
- Ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đáp ứng tốt
hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ về giảm nghèo từ Trung
ương đến cơ sở.
C. LĨNH VỰC GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
I. Tiến độ thực hiện
Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 19 nhiệm vụ,
trong đó:
1. Số nhiệm vụ có có quy định thời hạn hoàn
thành: 19 nhiệm vụ (theo Kế hoạch chi tiết), trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định:
02 nhiệm vụ.
- Hoàn thành nhưng chậm so với thời hạn quy định:
0 nhiệm vụ.
- Chưa hoàn thành so với thời hạn quy định: 0
nhiệm vụ.
- Đang thực hiện trong thời hạn quy định: 17
nhiệm vụ.
2. Số nhiệm vụ không quy định thời hạn hoàn
thành: 0 nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện
và phương hướng thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược tổng
thể, kế hoạch triển khai của ngành giáo dục và đào tạo thích ứng với tình hình
dịch bệnh COVID-19 (có lộ trình, phương án cụ thể cho học sinh, sinh viên trở lại
trường học tập trung): Đây là nhiệm vụ đã hoàn thành đúng hạn.
Ngày 29/3/2022, Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành Kế hoạch tổng thể của ngành Giáo dục thích ứng với tình
hình dịch COVID-19 bảo đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng, với 07 nhóm
nhiệm vụ, giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức các hoạt động dạy và học thích ứng an
toàn với dịch COVID-19, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh, củng cố và
duy trì chất lượng giáo dục và đào tạo. Kế hoạch đã phân công trách nhiệm cụ thể
cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các cơ sở giáo dục đại học và trường cao đẳng sư phạm trong việc tổ chức
triển khai.
2. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo: Đây là nhiệm vụ dài hạn.
- Trong quý I năm 2022, Chính phủ đã ban hành
một số chương trình, đề án quan trọng liên quan đến ngành GDĐT, cụ thể như: Chương
trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với
giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”; Chương trình y tế
trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông gắn với y tế cơ sở
giai đoạn 2021-2025; Đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và
chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm
2030"; Chương trình "Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng dân tộc
thiểu số trong chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2030"... Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thẩm quyền 05 Thông tư bảo đảm thống nhất
với các quy định của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và phù hợp với yêu cầu
thực tiễn, nâng cao hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành theo thẩm
quyền quyết định phê duyệt danh mục sách giáo khoa lớp 3, lớp 7, lớp 10 để thực
hiện theo đúng lộ trình thực hiện đổi mới Chương trình và sách giáo khoa giáo dục
phổ thông quy định tại Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội. Bộ Giáo dục và
Đào tạo cũng đã xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị cơ sở
vật chất để nâng cao hiệu quả thực hiện đổi mới Chương trình và sách giáo khoa
giáo dục phổ thông bảo đảm theo đúng lộ trình Quốc hội giao.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch
tổng thể của ngành giáo dục và đào tạo thích ứng với tình hình dịch COVID-19, bảo
đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa
phương tổ chức mở cửa trường học trở lại bảo đảm an toàn trong phòng, chống dịch
COVID-19, đồng thời củng cố chất lượng, khắc phục các tác động của dịch bệnh đối
với ngành Giáo dục.
- Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 11/2022/QĐ-TTg ngày 27/4/2022 về tín dụng đối với các cơ sở giáo
dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch COVID và Quyết định
số 09/2022/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có
hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến.
- Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm học
2021 - 2022 và Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung
học đã được tổ chức thành công theo hình thức trực tuyến đảm bảo an toàn,
nghiêm túc, khách quan. Các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì toàn bộ
công tác tổ chức thi tại địa phương theo khung thời gian tổ chức thi do Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định. Phương án tuyển sinh năm 2022 tiếp tục thực hiện theo
Quy chế năm 2021 được xây dựng trên nguyên tắc tự chủ các trường, đảm bảo công
khai quy trình đào tạo, tổ chức kiểm tra đánh giá, mở rộng chính sách tạo điều
kiện để sinh viên chuyển ngành, chuyển trường, chuyển phân hiệu khi đáp ứng quy
định, sinh viên đăng ký học thêm các chương trình đào tạo; thống nhất hệ thống
thang đo đánh giá sinh viên, phù hợp với với chuẩn quốc tế.
- Chính phủ đang xem xét ban hành Nghị định
quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học. Nghị
định này sau khi được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt động
nghiên cứu khoa học trong cơ sở giáo dục đại học thời gian tới.
Phương hướng, giải pháp thời gian tới:
Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức triển khai thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
bảo đảm thiết thực, hiệu quả để đạt mục tiêu theo Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã đề ra.
3. Đối với nhiệm vụ: Triển khai có hiệu quả
Nghị quyết số 88/2014/QH13; kiểm soát chặt chẽ chất lượng biên soạn, thẩm định
sách giáo khoa: Đây là nhiệm vụ dài hạn.
- Tiếp tục triển khai bồi dưỡng, tập huấn
giáo viên về các mô đun bồi dưỡng theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 29/4/2016
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ
quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ
thông giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025. Việc tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng giáo viên theo hình thức từ giáo viên cốt cán đến giáo viên đại trà đã đảm
bảo 100% giáo viên được tiếp cận với tài liệu, học liệu do các chuyên gia của
các trường đại học Sư phạm biên soạn.
- Hướng dẫn các cơ sở giáo dục chủ động điều
chỉnh, sắp xếp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phòng học, phòng thực hành sẵn có đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông 2018;
Ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu thực hiện Chương trình giáo dục phổ
thông 2018 (Thông tư số 37/2021/TT-BGDĐT ban hành danh mục thiết bị dạy học tối
thiểu cấp tiểu học và Thông tư số 38/2021/TT-BGDĐT ban hành danh mục thiết bị dạy
học tối thiểu cấp Trung học cơ sở) đầy đủ các môn học đảm bảo hỗ trợ, nâng cao
chất lượng dạy học và tiết kiệm chi phí. Cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng được yêu
cầu đặt ra.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thẩm định,
phê duyệt cho phép sử dụng 40 bản mẫu sách giáo khoa lớp 7; 60 bản mẫu sách
giáo khoa lớp 10; 43 bản mẫu sách giáo khoa lớp 3; 62 bản mẫu Tài liệu Giáo dục
địa phương lớp 6 (đến thời điểm hiện tại). Hệ thống các sách giáo khoa sau khi
được thẩm định, phê duyệt đã được đưa vào triển khai thực hiện theo đúng lộ
trình và bước đầu đi vào ổn định.
- Chuẩn bị sẵn sàng tổ chức dạy lớp 3, 7, 10
theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đáp ứng lộ trình triển khai quy định
tại Thông tư 32/2018 với các điều kiện cơ sở vật chất được đáp ứng.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư
số 05/2022/TT-BGDĐT ngày 19/3/2022 sửa đổi, bổ sung 33/2017/TT-BGDĐT theo hướng
tăng cường tính phù hợp của Thông tư với thực tế đã triển khai trong những năm
qua; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để ban hành các chế độ, chính sách
liên quan đến triển khai Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; hướng
dẫn các địa phương tổ chức lựa chọn sách giáo khoa chuẩn bị triển khai năm học
2022-2023.
- Tổ chức giám sát quá trình tuyển chọn tác
giả, thực nghiệm sách giáo khoa của các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn
sách giáo khoa tại các cơ sở giáo dục theo đúng quy định đảm bảo chủ động về tiến
độ chuẩn bị sách giáo khoa theo đúng lộ trình; tăng cường kiểm tra các địa
phương triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018, kiểm tra việc tổ chức lựa
chọn sách giáo khoa; lựa chọn chặt chẽ hơn các thành viên tham gia Hội đồng thẩm
định, tăng cường trách nhiệm và tăng cường giám sát việc thực hiện của các hội
đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.
- Triển khai việc biên soạn sách giáo khoa
dân tộc, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng theo Kế hoạch đã ban hành; chỉ đạo,
huy động các nguồn lực để tổ chức dịch một số sách giáo khoa được phê duyệt
sang sách chữ nổi Braille; phát huy việc biên soạn sách giáo khoa điện tử, học
liệu điện tử theo đúng tinh thần xã hội hóa của Nghị quyết 122/2020/QH14 của Quốc
hội.
- Phối hợp với các bộ, ngành xây dựng các văn
bản về định mức biên chế giáo viên. Rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ kế
hoạch bồi dưỡng; kế hoạch kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo từng năm để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung phù hợp đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Các địa phương tăng cường cơ sở vật chất
trường, lớp học đáp ứng điều kiện tối thiểu để thực hiện Chương trình giáo dục
phổ thông và lộ trình đổi mới Chương trình, sách giáo khoa. Chỉ đạo các cơ sở
giáo dục phổ thông chủ động kiểm tra, rà soát và phát huy cao độ tính chủ động,
tự chủ trong việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ đổi mới Chương
trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Phương hướng, giải pháp thời gian tới:
- Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để ban
hành các chế độ, chính sách liên quan đến triển khai Chương trình sách giáo khoa
giáo dục phổ thông. Tăng cường hướng dẫn lựa chọn sách giáo khoa, tập huấn hướng
dẫn sử dụng sách giáo khoa trong các môn học/hoạt động giáo dục tại các cơ sở
giáo dục phổ thông đảm bảo linh hoạt, hiệu quả và đáp ứng mục tiêu của Chương
trình giáo dục phổ thông 2018.
- Tăng cường giám sát quá trình tuyển chọn
tác giả, thực nghiệm sách giáo khoa của các tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn
sách giáo khoa tại các cơ sở giáo dục theo đúng quy định đảm bảo chủ động về tiến
độ chuẩn bị sách giáo khoa theo đúng lộ trình; tăng cường kiểm tra các địa
phương triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, kiểm tra việc
tổ chức lựa chọn sách giáo khoa; lựa chọn chặt chẽ hơn các thành viên tham gia
Hội đồng thẩm định, tăng cường trách nhiệm và tăng cường giám sát việc thực hiện
của các hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.
- Tiếp tục chỉ đạo triển khai việc biên soạn
sách giáo khoa dân tộc, đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng theo Kế hoạch đã
ban hành; chỉ đạo, huy động các nguồn lực để tổ chức dịch một số sách giáo khoa
được phê duyệt sang sách chữ nổi Braille; phát huy việc biên soạn sách giáo
khoa điện tử, học liệu điện tử theo đúng tinh thần xã hội hóa của Nghị quyết
122/2020/QH14 của Quốc hội.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định
về định mức biên chế giáo viên. Tiếp tục rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ
kế hoạch bồi dưỡng; kế hoạch kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo từng năm để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung phù hợp đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Tiếp tục đôn đốc các địa phương tăng cường
cơ sở vật chất trường, lớp học đáp ứng điều kiện tối thiểu để thực hiện Chương
trình giáo dục phổ thông và lộ trình đổi mới Chương trình, sách giáo khoa. Chỉ đạo
các cơ sở giáo dục phổ thông chủ động kiểm tra, rà soát và phát huy cao độ tính
chủ động, tự chủ trong việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ đổi
mới Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
4. Đối với nhiệm vụ: Chú trọng việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho học sinh - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là
nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
1895/QĐ-TTg ngày 11/11/2021 phê duyệt Chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng giai đoạn 2021-2030”; Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày
05/3/2022 phê duyệt Chương trình “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hóa cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trên không gian mạng giai đoạn
2022-2030”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch 585/QĐ-BGDĐT ngày
28/02/2022 và Kế hoạch 227/KH-BGDĐT ngày 07/3/2022 về việc triển khai Quyết định
số 1895/QĐ-TTg trong ngành Giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực chỉ đạo
hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với Chương
trình Giáo dục phổ thông 2018; chú trọng giáo dục hành vi và chuẩn mực đạo đức,
ý thức tuân thủ pháp luật, kỹ năng sống và giá trị sống cho học sinh. Thực hiện
đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá
các môn học, các hoạt động giáo dục từ Tiểu học đến Trung học phổ thông theo hướng
giảm áp lực cho học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh; giáo dục hài hòa đức,
trí, thể, mỹ cho học sinh; chú trọng vào việc thực hành, vận dụng các kiến thức,
kỹ năng đã được trang bị trong quá trình học tập để giải quyết các vấn đề trong
thực tiễn cuộc sống.
Phương hướng thời gian tới:
- Tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục triển
khai quy định về công tác phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội trong Luật
Giáo dục 2019, văn bản chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo để
giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình
trong việc chăm sóc và giáo dục học sinh, sinh viên; nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa cơ sở giáo dục và gia đình, cơ quan, tổ chức trên địa bàn để triển khai
các biện pháp giáo dục học sinh, sinh viên; tạo điều kiện thuận lợi để học
sinh, sinh viên học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ và khẳng định năng lực của
bản thân.
- Tiếp tục chỉ đạo hoạt động giáo dục đạo đức,
lối sống, kỹ năng sống cho học sinh phù hợp với Chương trình GDPT 2018; chú trọng
giáo dục hành vi và chuẩn mực đạo đức, ý thức tuân thủ pháp luật, kỹ năng sống
và giá trị sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, rà
soát, bổ sung, hoàn thiện chính sách, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ quản lý, giáo viên, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, lối
sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo.
5. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - thời
hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Đối với nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát, đánh
giá các chính sách đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTSMN): Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào Chương trình công tác năm 2022 của Bộ thực hiện
các nhiệm vụ: “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách cho học sinh vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi.”; khảo sát, đánh giá 5 năm thực hiện chính
sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh
viên dân tộc thiểu số rất ít người.
- Đối với nhiệm vụ xây dựng các chính sách hỗ
trợ học sinh vùng DTTSMN: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào chương trình soạn
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quyết định cá biệt của Bộ GDĐT năm
2022, theo đó trong năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xây dựng, trình cấp có
thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản sau:
+ Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định
thay thế Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ quy định
chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn
(trong đó có tích hợp chính sách quy định tại Thông tư liên tịch số
109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT), bao gồm: chính sách hỗ trợ đối với học sinh ở vùng đồng
bào DTTSMN, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo; chính
sách đối với học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, dự bị đại học; học viên
người DTTS thuộc hộ nghèo ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn học tại cơ sở giáo dục thường xuyên theo chương trình giáo dục phổ thông.
+ Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 20/2014/NĐ-CP ngày 24/3/2014 về phổ cập giáo dục,
xóa mù chữ.
+ Xây dựng Thông tư ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của trường phổ thông dân tộc bán trú (thay thế Thông tư số
24/2010/TT-BGDĐT).
+ Xây dựng Thông tư ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú (thay thế Thông tư số
01/2016/TT-BGDĐT).
Phương hướng thời gian tới:
- Đối với nhiệm vụ nghiên cứu, rà soát, đánh
giá các chính sách đối với học sinh vùng DTTSMN: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành kế hoạch chi tiết (Kế hoạch số 185/KH-BGDĐT ngày 28/02/2022; Kế hoạch số
193/KH-BGDĐT ngày 28/02/2022) và tổ chức triển khai thực hiện đúng tiến độ được
phê duyệt. Nhiệm vụ này dự kiến hoàn thành trong năm 2022.
- Đối với nhiệm vụ xây dựng các chính sách hỗ
trợ học sinh vùng DTTSMN: việc soạn thảo các văn bản nêu trên đang được triển
khai thực hiện đúng tiến độ (hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch chi tiết, thành
lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập, đã hoàn thiện dự thảo 1 và chuẩn bị tổ chức Hội
thảo xin ý kiến). Dự kiến sẽ trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành
theo thẩm quyền trong năm 2022.
6. Đối với nhiệm vụ: Bố trí đủ kinh phí thực
hiện các chương trình, dự án, đề án đã được Quốc hội, Chính phủ phê duyệt liên
quan đến chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào DTTSMN. Có giải pháp cụ
thể, sớm thu hẹp khoảng cách về giáo dục giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt
là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn - thời hạn hoàn thành là tháng 8/2022 (đây là nhiệm vụ đang
thực hiện chưa đến hạn):
Hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản
hướng dẫn các địa phương, Bộ, ngành thực hiện xây dựng Kế hoạch phát triển giáo
dục và dự toán NSNN, trong đó có việc Đánh giá việc thực hiện các chính sách hỗ
trợ giáo dục- đào tạo năm hiện hành và xây dựng dự toán năm sau và kế hoạch 3
năm theo quy định; tổng hợp báo cáo Kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm của
ngành, gửi các Bộ, ngành, Ủy ban theo yêu cầu. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổng hợp
tổng nhu cầu kinh phí thực hiện các chế độ chính sách cho người học, trong đó
có dự toán kinh phí liên quan đến chế độ, chính sách cho học sinh vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi là 35.568 tỷ đồng.
Theo quy định của Luật NSNN, nội dung chi cấp
nào, do NSNN cấp đó chi trả. Do đó thực hiện các chương trình, dự án, đề án đã
được Quốc hội, Chính phủ phê duyệt liên quan đến chế độ, chính sách cho học
sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các địa phương, Bộ, ngành chủ
động xây dựng kế hoạch, cân đối kinh phí thực hiện các chế độ chính sách cho
người học theo quy định.
Phương hướng thời gian tới:
- Tiếp tục phối hợp với các địa phương thực
hiện rà soát, sắp xếp mạng lưới các cơ sở giáo dục vùng DTTSMN, đảm bảo cơ sở
khoa học, cơ sở pháp lý, phù hợp với quy hoạch và điều kiện thực tế của địa
phương và có lộ trình cụ thể theo nguyên tắc tạo thuận lợi cho việc học tập của
học sinh, gắn với các điều kiện bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương
trình giáo dục mầm non, phổ thông; khắc phục tình trạng nhiều điểm trường lẻ,
trường học có quy mô nhỏ, chất lượng giáo dục chưa cao để tập trung đầu tư nguồn
lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
- Củng cố phát triển bền vững quy mô, mạng lưới
hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị
đại học ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Thực hiện tốt các nhóm chính sách
đã ban hành về phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp; chính sách đối với người
dạy, người học; chính sách phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số;
chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào,... đồng
thời rà soát, đề xuất điều chỉnh, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách
ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi để giúp
cho các đối tượng yếu thế giảm bớt khó khăn, yên tâm học tập có thêm động lực tới
trường; hỗ trợ gia đình người học giảm bớt gánh nặng về chi phí học tập; góp phần
hỗ trợ thiết thực vào nâng cao tỷ lệ huy động dân số trong độ tuổi đến trường,
hạn chế tình trạng bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần ổn định trật
tự xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
- Triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu
quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu đổi mới hoạt động, củng cố phát triển các
trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ
thông có học sinh ở bán trú và xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2021 - 2025 để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho
các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
- Huy động các nguồn lực của xã hội để hỗ trợ
việc dạy và học trực tuyến cho học sinh vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số thông qua Chương trình "Sóng và máy tính cho em" theo Chỉ thị
số 24/CT-TTg ngày 03/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai
các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức dạy học an toàn, bảo đảm chương trình và mục
tiêu chất lượng giáo dục, đào tạo ứng phó với đại dịch COVID-19 để hỗ trợ sóng
và máy tính cho học sinh học trực tuyến vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Đến nay, chương trình đã phủ sóng được gần 1000 điểm lõm sóng trên
toàn quốc tập trung vào các địa phương bị ảnh hưởng lớn của dịch phải dạy và học
trực tuyến, dự kiến sẽ phủ sóng tất cả điểm lõm sóng còn lại trong thời gian tới.
Các tổ chức, đơn vị đã cam kết ủng hộ 1.000.600 máy tính, kèm theo đó là trên
01 triệu SIM di động miễn phí data trong 03 tháng của các doanh nghiệp viễn
thông được giao kèm với máy để hỗ trợ việc dạy và học trực tuyến của Chương
trình.
- Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 11/2022/QĐ-TTg ngày 27/4/2022 về tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu
học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
7. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, tham mưu
Chính phủ ban hành các chính sách đặc thù, bảo đảm chế độ, chính sách cho cán bộ
quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non
khắc phục hậu quả do dịch COVID-19 - thời hạn hoàn thành là tháng 06/2022 (đây
là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên trong các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập: Bộ Giáo dục và Đào tạo
đang nghiên cứu, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ ban hành
Nghị quyết thực hiện một số chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non khắc phục hậu quả do đại
dịch COVID-19.
- Đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân
viên trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành Kế hoạch rà soát thực trạng chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập để nắm
bắt tình hình thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên,
nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập. Từ đó, đề
xuất các chính sách đặc thù nhằm nâng cao đời sống đối với cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên, người lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập nhằm
khắc phục hậu quả do dịch COVID-19.
8. Đối với nhiệm vụ: Sớm khắc phục tình trạng
thừa, thiếu giáo viên tại các địa phương, nhất là ở các tỉnh miền núi - thời hạn
hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn):
- Năm 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm việc
với Bộ Nội vụ để có phương án khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên. Bên cạnh
đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển
khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết tình trạng thừa, thiếu giáo
viên.
- Trên cơ sở đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo
và Bộ Nội vụ, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã báo cáo và Bộ Chính trị đã cho phép
xem xét bổ sung 65.980 biên chế giáo viên giai đoạn 2021-2026 (trước mắt đề xuất
bổ sung 27.850 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông năm học 2021-2022).
- Triển khai Nghị quyết số 41 của Quốc hội, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển
dụng, sử dụng, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để tiếp tục chỉ đạo,
đôn đốc các địa phương thực hiện tốt các quy định về công tác tuyển dụng, sử dụng,
đánh giá, tinh giản biên chế ngành giáo dục và khắc phục tình trạng thừa, thiếu
giáo viên, nhất là các tỉnh miền núi.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức triển khai thực
hiện Kế hoạch rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển dụng, sử dụng, đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục bảo đảm hiệu quả, đúng thời hạn.
9. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đánh giá hiệu
quả học tập trực tuyến, học tập qua truyền hình của các nhóm đối tượng học
sinh, sinh viên, nhất là học sinh tiểu học; có giải pháp bảo đảm chất lượng, bổ
sung kiến thức cho học sinh khi trở lại trường học: Đây là nhiệm vụ đã hoàn
thành đúng hạn.
- Đối với giáo dục phổ thông: Từ ngày
24/02/2022 đến ngày 28/02/2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức khảo sát đánh
giá quá trình tổ chức dạy học trực tuyến với 5.175 cán bộ quản lý, 95.359 giáo
viên và 341.830 học sinh của các tỉnh tổ chức dạy học trực tuyến và qua truyền
hình của các cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của đại diện
những nơi có điều kiện tổ chức dạy học trực tuyến và dạy học trên truyền hình
trên cả nước.
- Đối với giáo dục đại học: Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 208/KH-BGDĐT ngày 02/3/2022 thực hiện nhiệm vụ
rà soát, đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến đối với giáo dục đại học; thành lập
Tổ công tác triển khai khảo sát trực tuyến đối với các cơ sở giáo dục đại học
và cao đẳng sư phạm trên toàn quốc bao gồm: Nghiên cứu, xây dựng phiếu khảo sát
và công cụ thu thập dữ liệu khảo sát trực tuyến; gửi công văn đến các cơ sở đào
tạo đề nghị triển khai thực hiện; thu thập, phân tích số liệu báo cáo, khảo sát
từ các đối tượng có liên như cơ sở đào tạo, giảng viên, người học; khảo sát thực
tế, đánh giá hiệu quả tại một số cơ sở giáo dục đại học đại diện các vùng, miền
trên các đối tượng sinh viên về hiệu quả thực hiện tổ chức dạy học trực tuyến.
Phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới:
- Tổ chức triển khai dạy học trực tiếp trong
tình hình mới
+ Chú trọng công tác tư vấn, hỗ trợ tâm lý
cho học sinh; tăng cường sự tương tác, gắn kết giữa các học sinh trong lớp học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đặc biệt quan tâm với các
em học sinh lớp 1 chưa từng tới trường, nhà trường cần: phổ biến các quy định về
học tập và sinh hoạt tại trường; tổ chức các hoạt động để tạo hứng thú và trạng
thái thoải mái cho học sinh tới trường; hướng dẫn học sinh kiến thức phòng dịch,
những việc cần làm và nguyên tắc cần tuân thủ trong phòng dịch để bảo vệ bản
thân và cộng đồng; tổ chức tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho học sinh; tăng cường sự
tương tác, gắn kết giữa các học sinh trong lớp học; tuyệt đối không được để xảy
ra việc kỳ thị đối với các trường hợp không may bị F0.
+ Tiếp tục tổ chức dạy học tại trường các nội
dung cơ bản, cốt lõi theo các văn bản hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học,
không gây áp lực, quá tải đối với học sinh; tổ chức ôn tập, củng cố, bổ sung nội
dung kiến thức phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh có điều kiện học trực
tuyến khác nhau ngay trong nội dung dạy học chính khóa, nhất là đối với các học
sinh không được học qua truyền hình, học sinh chuyển trường do phải di chuyển
nơi cư trú để phòng, tránh dịch bệnh.
- Đảm bảo chất lượng giáo dục
+ Đối với giáo dục mầm non: tăng cường công
tác tuyên truyền, hướng dẫn phụ huynh thực hiện chế độ dinh dưỡng khoa học, hợp
lý và tổ chức cho trẻ em mầm non hoạt động vui chơi tại nhà; xây dựng kho tài
liệu, học liệu trực tuyến hướng dẫn nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em mầm
non. Khi đi học trực tiếp trở lại thì hướng dẫn các biện pháp đảm bảo an toàn
cho học sinh và giáo viên trong phòng chống dịch.
+ Đối với giáo dục phổ thông: tiếp tục hỗ trợ
điều kiện kỹ thuật, ban hành khung định mức tài chính cho các hoạt động giáo dục
của giáo viên khi thực hiện giảng dạy trực tuyến. Chủ động rà soát, đánh giá,
phân loại kết quả học tập trực tuyến, qua truyền hình của các nhóm đối tượng học
sinh để điều chỉnh kế hoạch giáo dục của nhà trường phù hợp điều kiện thực tế
và tình hình kiểm soát dịch COVID-19 tại địa phương. Việc kiểm tra, đánh giá định
kì theo hình thức trực tiếp tại trường cần được thực hiện sau một thời gian học
sinh đã được ôn tập, củng cố, bổ sung nội dung kiến thức.
+ Đối với giáo dục đại học: tiếp tục tổ chức
triển khai thực hiện Kế hoạch số 208/KH-BGDĐT ngày 02/3/2022 thực hiện nhiệm vụ
rà soát, đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến đối với giáo dục đại học bảo đảm
thiết thực, hiệu quả.
- Đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, hạ
tầng công nghệ thông tin
+ Tăng cường triển khai hoạt động quản lý
ngành trên mạng như: Hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông; tích hợp các hệ thống thông tin quản lý ngành hiện có vào cơ sở dữ
liệu ngành; xây dựng và triển khai các phần mềm quản lý, kết nối liên thông dữ
liệu với phần mềm cơ sở dữ liệu ngành; tăng cường triển khai giải pháp tuyển
sinh trực tuyến đầu cấp học và sử dụng hồ sơ điện tử (sổ điểm, học bạ, ……).
+ Phủ sóng cho toàn bộ các điểm lõm sóng phục
vụ học tập trực tuyến (hiện các doanh nghiệp số và nhà mạng ký cam kết và đã thực
hiện phủ các vùng lõm sóng trong năm 2021); cung cấp các nền tảng phần mềm dạy
học trực tuyến (hiện đã huy động các doanh nghiệp cung cấp miễn phí tên miền
giáo dục, nền tảng dạy học trực tuyến).
10. Đối với nhiệm vụ: Phối hợp với Bộ Y tế và
các địa phương nghiên cứu, sớm triển khai chương trình tiêm vắc xin phòng, chống
COVID-19 cho học sinh; thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn trường học, hệ
thống y tế trường học - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ
đang thực hiện chưa đến hạn)
- Tổ chức thành công chiến dịch tiêm vắc-xin
phòng dịch cho người học theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Các địa phương tích cực
triển khai chương trình tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 cho học sinh từ
12-17 tuổi. Kết quả tiêm đến thời điểm hiện tại: mũi 1 đạt 98,4% học sinh, mũi
2 đạt 94,1% học sinh và đang tiếp tục được triển khai tại các địa phương;
- Ban hành Công văn số 892/BGDĐT-GDTC ngày
14/3/2022 về việc hướng dẫn thực hiện phối hợp tiêm vắc xin cho trẻ em, học
sinh từ 5 đến dưới 12 tuổi và cập nhật, báo cáo thông tin.
- Ban hành Công điện gửi Giám đốc các Sở Giáo
dục và Đào tạo về một số lưu ý khi học sinh trở lại trường học trực tiếp. Trong
đó, yêu cầu Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo tổ chức dạy học trực tiếp tại địa phương thống
nhất, đầy đủ tạo thuận lợi cho phụ huynh trong việc đưa đón, chăm sóc học sinh;
đồng thời chỉ đạo các cơ sở giáo dục tiếp tục triển khai thực hiện các hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Tổ chức kiểm tra hoạt động dạy học trực tiếp
đảm bảo an toàn phòng chống, dịch tại một số địa phương nhằm đánh giá tình hình
tổ chức hoạt động dạy học trực tiếp tại các cơ sở giáo dục theo Nghị quyết
128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch
COVID-19 hiệu quả; đồng thời thúc đẩy việc mở cửa trường học an toàn tại các địa
phương. Qua các cuộc kiểm tra có thể khẳng định, được đi học trở lại là mong muốn
rất lớn của học sinh, giáo viên, các cấp quản lý; đồng thời các địa phương cũng
đã quan tâm, chủ động xây dựng kịch bản, lộ trình, tổ chức diễn tập, chuẩn bị
các điều kiện với quyết tâm đưa học sinh trở lại trường học tập.
- Triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền
giáo dục sức khỏe, phòng, chống dịch bệnh cho cán bộ, giáo viên và phụ huynh học
sinh; phối hợp chặt chẽ với gia đình theo dõi, quản lý sức khỏe của người học để
phòng ngừa, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh nhằm xử lý, ngăn chặn
kịp thời; ban hành các văn bản tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trường
học, kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học: phê duyệt Sổ tay
đảm bảo an toàn phòng, chống dịch COVID-19 trong trường học (sửa đổi, bổ sung lần
2) nhằm đảm bảo an toàn khi tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo trực tiếp tại
các cơ sở giáo dục phù hợp với tình hình dịch COVID-19 và góp phần giảm thiểu
tác động tiêu cực của dịch bệnh, duy trì việc dạy và học trong các cơ sở giáo dục.
Chỉ đạo triển khai Chương trình “Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm
non, phổ thông gắn với y tế cơ sở” nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống y tế trường
học, đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch trong trường học.
Phương hướng thời gian tới:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Y tế
xây dựng kế hoạch chuẩn bị triển khai tiêm vắc xin phòng, chống COVID-19 cho trẻ
em mầm non và học sinh từ 5 đến dưới 12 tuổi, tổ chức tập huấn trực tuyến về việc
xử trí các trường hợp F0 và điều trị bệnh nhân COVID-19 là trẻ em, học sinh cho
ngành Y tế và ngành Giáo dục trên toàn quốc.
- Tổ chức kiểm tra hoạt động dạy học trực tiếp
đảm bảo an toàn phòng chống, dịch tại một số địa phương nhằm đánh giá tình hình
tổ chức hoạt động dạy học trực tiếp tại các cơ sở giáo dục theo Nghị quyết số
128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch
COVID-19 hiệu quả.
- Triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền
giáo dục sức khỏe, phòng, chống dịch bệnh cho cán bộ, giáo viên và phụ huynh học
sinh; phối hợp chặt chẽ với gia đình theo dõi, quản lý sức khỏe của người học để
phòng ngừa, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh nhằm xử lý, ngăn chặn
kịp thời; kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học nhằm đảm bảo
an toàn khi tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo trực tiếp tại các cơ sở giáo dục
phù hợp với tình hình dịch COVID-19 và góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của
dịch bệnh, duy trì việc dạy và học trong các cơ sở giáo dục. Tiếp tục chỉ đạo
triển khai Chương trình “Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ
thông gắn với y tế cơ sở” nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống y tế trường học, đáp
ứng yêu cầu phòng, chống dịch trong trường học.
11. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục rút kinh nghiệm
tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông, hoàn thiện phương án tổ chức thi
cho năm 2022, bảo đảm an toàn, chất lượng, phù hợp với tình hình dịch bệnh.
Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm triển khai của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các địa phương trong công tác tổ chức thi - thời hạn
hoàn thành là tháng 6/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Kế thừa các kết quả đạt được trong công tác tổ
chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) các năm 2020 và 2021, Bộ Giáo dục
và Đào tạo quyết định phương án tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 với một
số nội dung chính như sau:
- Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 được tổ chức
cơ bản giữ ổn định như năm 2021. Các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là tỉnh) chủ trì toàn bộ công tác tổ chức thi tại địa phương theo khung
thời gian tổ chức thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Thời gian tổ chức Kỳ
thi tại các tỉnh có thể được xem xét điều chỉnh phù hợp với tình hình dịch bệnh
tại địa phương.
- Nội dung thi nằm trong chương trình giáo dục
THPT hiện hành, chủ yếu là chương trình lớp 12; không bao gồm các nội dung được
tinh giản đi nhằm phục vụ dạy và học ứng phó dịch COVID-19 mà Bộ GDĐT đã công bố;
đề thi được xây dựng đáp ứng yêu cầu của Kỳ thi, bảo đảm độ phân hóa phù hợp và
hạn chế học tủ, học lệch, khuyến khích sáng tạo của thí sinh.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các địa phương
tổ chức thanh tra, kiểm tra tất cả các khâu của Kỳ thi để bảo đảm an toàn,
nghiêm túc, thiết thực, khách quan, công bằng.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến tổ chức kỳ thi
vào đầu tháng 7/2022. Đến thời điểm này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể để chuẩn bị tổ chức Kỳ thi: công bố đề thi tham khảo vào ngày
31/3/2022; rà soát hoàn thiện ngân hàng câu hỏi thi; rà soát và nâng cấp phần mềm
quản lý thi tốt nghiệp THPT; chuẩn bị công tác tập huấn tổ chức thi vào tháng
4/2022.
12. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục rút kinh nghiệm
tổ chức tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2021, hoàn thiện phương án tổ chức tuyển
sinh cho năm 2022, bảo đảm an toàn, chất lượng, phù hợp với tình hình dịch bệnh.
Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm triển khai của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở giáo dục trong công tác tuyển sinh, đào tạo
- thời hạn hoàn thành là tháng 6/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến
hạn)
Kế thừa các kết quả đạt được trong công tác tổ
chức tuyển sinh các năm 2020 và 2021, Bộ Giáo dục vả Đào tạo quyết định phương
án tổ chức tuyển sinh năm 2022 cơ bản giữ ổn định như năm 2021. Tuy nhiên, sẽ
có một số nội dung dự kiến điều chỉnh để áp dụng trong công tác tuyển sinh năm
2022, cụ thể:
- Việc đăng ký dự thi Kỳ thi tốt nghiệp THPT
và xét tuyển ĐH, CĐ phải thực hiện trên Cổng thông tin của Bộ GDĐT và Cổng dịch
vụ công quốc gia;
- Thí sinh đăng ký xét tuyển đợt 1: Tất cả
các nguyện vọng xét tuyển (theo các ngành, các phương thức, cơ sở đào tạo) được
đăng ký xét tuyển trực tuyến sau khi kết thúc Kỳ thi tốt nghiệp THPT, các nguyện
vọng được xếp thứ tự từ 1 đến hết (nguyện vọng 1 là nguyện vọng ưu tiên cao nhất
của thí sinh);
- Tất cả các nguyện vọng ĐKXT của thí sinh
vào các cơ sở đào tạo được lọc ảo chung trên hệ thống và thí sinh trúng tuyển ở
nguyện vọng cao nhất khi đáp ứng điều kiện của cơ sở đào tạo;
- Đối với những ngành sử dụng đồng thời nhiều
phương thức xét tuyển, nhiều tổ hợp môn thi, các trường phải giải trình được sự
phù hợp của sự lựa chọn này, đảm bảo sự công bằng cho thí sinh. Nếu mỗi phương
thức (hoặc mỗi tổ hợp môn thi) có chỉ tiêu riêng thì đề án tuyển sinh của các
trường phải giải trình được căn cứ phù hợp cho việc phân chỉ tiêu cho từng
phương thức (hoặc tổ hợp môn thi);
- Các trường xác định chỉ tiêu cho phương thức,
tổ hợp xét tuyển mới phải có căn cứ và lộ trình; các trường khi bỏ đi phương thức
tuyển sinh cũng cũng cần có lộ trình, việc giảm chỉ tiêu hàng năm cần thông báo
để không ảnh hưởng tới việc học tập, ôn tập của thí sinh; vi) Các địa phương cập
nhật kết quả học tập (lớp 10, lớp 11, lớp 12) lên cơ sở dữ liệu ngành, đồng thời
kiểm tra rà soát dữ liệu này sau khi được đồng bộ sang hệ thống quản lý thi và
xét tuyển phục vụ công tác tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học, các trường
cao đẳng sư phạm;
- Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm giải trình
các tình huống có thể phát sinh, rủi ro và phương án giải quyết, phối hợp giải
quyết giữa các cơ sở đào tạo trong quá trình tuyển sinh.
Ngày 18/3/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành Quy chế đào tạo trình độ đại học kèm Thông tư số 08/2021/TT-BGDĐT áp dụng
từ khóa tuyển sinh năm 2021-2022. Quy chế được xây dựng trên nguyên tắc tự chủ
các trường, đảm bảo công khai quy trình đào tạo, tổ chức kiểm tra đánh giá, mở
rộng chính sách tạo điều kiện để sinh viên chuyển ngành, chuyển trường, chuyển
phân hiệu khi đáp ứng quy định, sinh viên đăng ký học thêm các chương trình đào
tạo; thống nhất hệ thống thang đo đánh giá sinh viên, phù hợp với với chuẩn quốc
tế.
Phương hướng thời gian tới:
Các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng sư phạm
thực hiện quyền tự chủ trong tuyển sinh theo quy định của pháp luật và quy chế,
hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; thực hiện công tác tuyển sinh theo đề án
tuyển sinh của trường, bảo đảm công bằng cho các nhóm đối tượng và các phương
thức tuyển sinh; khuyến cáo những trường đại học, ngành học có mức độ cạnh
tranh cao chỉ sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT làm công cụ sàng lọc, sơ tuyển,
sau đó, cần có thêm các hình thức chọn lọc bổ sung nhằm phân loại tốt hơn đối
tượng tuyển chọn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường hoạt động
kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện công tác tuyển sinh của các cơ sở
giáo dục đại học bảo đảm khách quan, công bằng; phát hiện, xử lý những trường hợp
sai phạm nếu có.
13. Đối với nhiệm vụ: Đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong cơ sở giáo dục đại học - thời hạn
hoàn thành là tháng 10/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở
giáo dục đại học (trực thuộc) tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ,
giảng viên, người học về nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, thực hiện chức
năng nhiệm vụ về nghiên cứu khoa học của giảng viên, của chính cơ sở giáo dục đại
học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nghiên cứu đề xuất các chính sách đẩy mạnh
khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong cơ sở giáo dục đại học,
nổi bật là chính sách thúc đẩy tự chủ đại học về khoa học và công nghệ, các chỉ
đạo, định hướng đối với cơ sở giáo dục đại học trong KHCN và ĐMST, cụ thể:
- Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học có trách
nhiệm chỉ đạo, tổ chức xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển KHCN và ĐMST của
cơ sở cho từng giai đoạn và hằng năm.
- Có chính sách đẩy mạnh công bố trên các tạp
chí khoa học quốc tế uy tín.
- Phát triển hợp tác quốc tế về nghiên cứu, gắn
kết chặt chẽ giữa hợp tác nghiên cứu với đào tạo nhân lực chất lượng cao.
- Chủ động tìm kiếm và phát triển các hình thức
hợp tác với khu vực doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển
giao công nghệ, gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội.
- Huy động các nguồn lực để đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu trình độ cao.
- Huy động và dành nguồn lực phát triển hạ tầng
nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo của cơ sở giáo dục đại học như các
phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, tạp chí khoa học, trung tâm khởi nghiệp
sáng tạo, dịch vụ KHCN, ...
Phương hướng thời gian tới:
Trong năm 2022, các cơ sở giáo dục đại học trực
thuộc tổ chức thực hiện tốt kế hoạch KHCN&ĐMST đã được phê duyệt, đề xuất,
xây dựng kế hoạch KHCN&ĐMST năm 2023 đúng tiến độ, khoa học và khả thi để tận
dụng tối đa nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, đồng thời phát huy tự chủ, liên
kết với khu vực doanh nghiệp, hợp tác quốc tế để thực hiện nghiên cứu, phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ ban
hành Nghị định quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục
đại học trong năm 2022 làm cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt động nghiên cứu
khoa học, đổi mới sáng tạo trong cơ sở giáo dục đại học thời gian tới.
14. Đối với nhiệm vụ: Có giải pháp hiệu quả hỗ
trợ việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp - thời hạn hoàn thành là tháng
12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Nhiệm vụ được triển khai thành 02 hoạt động gồm:
i) Tổ chức hội thảo, tọa đàm để chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất mô hình triển
khai; ii) Khảo sát đánh giá tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Mỗi hoạt
động Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cụ thể đơn vị chủ trì và thời hạn hoàn
thành để tổ chức thực hiện và theo dõi, đôn đốc. Đây là nhiệm vụ mang chiến lược
dài hơi và cần có chính sách phù hợp giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng nguồn nhân
lực.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai hoạt
động “Khảo sát đánh giá tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp” và Hoạt động
“Tổ chức hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất mô hình triển khai
thực hiện, dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2022. Trên cơ sở kết quả của các hoạt
động này, Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu cơ quan có thẩm quyền xem xét, để có
chính sách tương ứng nhằm giải quyết việc làm cho sinh viên và đáp ứng nhu cầu
nhân lực của xã hội.
15. Đối với nhiệm vụ: Rà soát, đẩy mạnh việc
đổi mới, sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
sắp xếp hợp lý các đầu mối, trường, lớp, bảo đảm chất lượng, số lượng giáo
viên, cán bộ quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2025 (đây
là nhiệm vụ dài hạn)
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo, hướng dẫn
địa phương tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Các địa phương đã chủ động thực hiện rà
soát, đánh giá thực trạng các điểm trường, các trường có quy mô nhỏ; xây dựng lộ
trình cụ thể, phù hợp để triển khai sắp xếp các trường và bố trí số lượng học
sinh/lớp theo quy định đảm bảo nguyên tắc tạo thuận lợi cho người dân, quyền lợi
học tập của học sinh; phù hợp với quy hoạch, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Phương hướng thời gian tới:
Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo
tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các địa
phương nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện sắp xếp,
tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và thường xuyên đạt hiệu quả.
16. Đối với nhiệm vụ: Tiến hành rà soát, đẩy
mạnh việc đổi mới, sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực
hiện chưa đến hạn)
- Về việc sắp xếp, tổ chức lại các trường dự
bị đại học, hữu nghị, phổ thông vùng cao: Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang
triển khai, rà soát và phối hợp với Ủy ban Dân tộc để trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định việc chuyển 07 trường, gồm: Trường Dự bị Đại học Dân tộc
Trung ương, Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn, Trường Dự bị Đại học Dân tộc
Nha Trang, Trường Dự bị Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Hữu Nghị T78, Trường
Hữu Nghị 80 và Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc về trực thuộc Ủy ban Dân tộc.
Thời gian thực hiện: giai đoạn 2021 - 2023.
- Về các đơn vị sự nghiệp công lập khoa học -
công nghệ: đang nghiên cứu chuyển Viện Nghiên cứu Thiết kế trường học thành công
ty cổ phần theo quy định của pháp luật. Thời gian thực hiện: giai đoạn 2022 -
2025.
- Về tổ chức lại Trường Cán bộ quản lý giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh thành Phân hiệu của Học viện Quản lý giáo dục tại Thành
phố Hồ Chí Minh: đang rà soát, triển khai. Thời gian thực hiện: giai đoạn 2022
- 2025.
- Về chuyển Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng
nhân lực về trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam: đang rà soát, triển
khai. Thời gian thực hiện trong năm 2022.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện
dự thảo Nghị định để trình Chính phủ xem xét ban hành thay thế Nghị định số
69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu chức của Bộ Bộ
Giáo dục và Đào tạo
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phối hợp với
Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số
69/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu chức của Bộ
Giáo dục và Đào tạo để trình Chính phủ xem xét, ban hành trong năm 2022.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định thay thế
Nghị định số 69/2017/NĐ-CP , Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định về danh sách các đơn vị sự nghiệp lập trực thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo (thay thế Quyết định số 960/QĐ-TTg ngày 06/8/2018) trên cơ sở rà soát,
sắp xếp tổ chức lại các đơn vị theo Quyết định số 1292/QĐ-TTg .
17. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường quản lý các
cơ sở giáo dục đại học công lập đã tự chủ tài chính - thời hạn hoàn thành là
tháng 8/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn số
747/BGDĐT-KHTC ngày 07/3/2022 tăng cường công tác quản lý tài chính, tài sản tại
các đơn vị thuộc và trực thuộc, trong đó nhấn mạnh tăng cường thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính, đặc biệt đối với các cơ sở GDĐH đã được giao tự chủ chi thường
xuyên và chi đầu tư phải tự cân đối chi thường xuyên từ các nguồn thu hợp pháp,
ngân sách nhà nước không hỗ trợ kinh phí chi thường xuyên, chỉ cấp kinh phí
không thường xuyên theo các nhiệm vụ nhà nước giao, đặt hàng, đấu thầu. Nếu áp
dụng cơ chế tự chủ tài chính theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP thì thực
hiện đúng các quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về quản lý thu chi tài
chính, cơ chế trả lương, thu nhập tăng thêm và quy định trích lập, quản lý và sử
dụng các quỹ,... Nếu tiếp tục thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
thì phải thực hiện thu chi tài chính, cơ chế tiền lương, đầu tư mua sắm,...
theo đúng đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đồng thời đảm bảo tuân thủ
đúng Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đầu tư
công,...
Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã
thông báo Kế hoạch thẩm tra, xét duyệt quyết toán ngân sách năm 2021 (bao gồm
các nội dung kiểm tra về việc thực hiện các quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính của các cơ sở GDĐH tự chủ chi thường xuyên, chi đầu tư) tại Công văn
số 680/BGDĐT-KHTC ngày 03/3/2022; tăng cường kiểm tra công tác đấu thầu, giám
sát, đánh giá đầu tư dự án, tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ đóng học phí
và sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm tại Trường ĐH Luật TP.HCM, Trường ĐH Cần
Thơ, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội tại Quyết định số 4837/QĐ-BGDĐT ngày
23/12/2021.
18. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường thanh tra,
kiểm tra, nhất là đối với hoạt động dạy thêm, học thêm - thời hạn hoàn thành là
tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang thực hiện chưa đến hạn)
- Ngày 18/02/2022, Ban Cán sự đảng Bộ Giáo dục
và Đào tạo có Thông báo số 17-TB/BCSĐ về tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn
số 623/BGDĐT-TTr ngày 28/02/2022 về việc tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực giáo dục. Tại văn bản này, ngoài việc quán triệt thực hiện các
văn bản, quy định liên quan, Bộ GDĐT đã yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo tập
trung thanh tra, kiểm tra 06 nhóm nội dung trọng tâm.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số
624/BGDĐT-TTr ngày 28/02/2022 về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội
bộ trong cơ sở giáo dục đại học trong đó đã chỉ rõ 06 nhóm nội dung có thiếu
sót, vi phạm trong hoạt động tự chủ của cơ sở giáo dục đại học; đồng thời yêu cầu
các cơ sở giáo dục đại học tập trung công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, trong
đó chú trọng 05 nhóm nội dung trọng tâm. Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển
khai đúng thời hạn các cuộc thanh tra, kiểm tra trong kế hoạch thanh tra, kế hoạch
kiểm tra năm 2022 với tổng số 10 cuộc thanh tra; 43 cuộc kiểm tra, bảo đảm chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Tiến hành bổ sung nội dung kiểm tra hoạt động
dạy thêm, học thêm và việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục
phổ thông vào các cuộc kiểm tra khối sở giáo dục và đào tạo trong kế hoạch kiểm
tra năm 2022.
- Điều chỉnh, bổ sung nội dung kiểm tra hoạt
động dạy thêm, học thêm và việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở
giáo dục phổ thông vào cuộc kiểm tra tại Sở GDĐT Bắc Ninh và Sở GDĐT Hải Dương
.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai: 01 cuộc
thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND tỉnh Quảng Ninh; 01
cuộc thanh tra đột xuất chuyên đề mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, sinh phẩm,
kít xét nghiệm, vắc xin, thuốc phòng, chống dịch COVID-19 đối với Trường ĐH
Y-Dược - ĐH Huế; 02 cuộc kiểm tra đối với 02 sở GDĐT; 04 cuộc kiểm tra về công
tác tuyển sinh trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, việc thành lập và hoạt động
của hội đồng trường và điều kiện đảm bảo chất lượng đối với 05 cơ sở giáo dục đại
học. Các cuộc thanh tra, kiểm tra đã kết thúc kiểm tra tại các đơn vị và đang
hoàn thiện Thông báo kết quả kiểm tra.
Phương hướng, giải pháp trong thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo, tổ
chức thực hiện các văn bản, kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2021, trong đó có
nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 41; theo dõi, đôn đốc, các sở GDĐT, các cơ sở
giáo dục đại học nghiêm túc triển khai nhiệm vụ và báo cáo kết quả thực hiện
theo đúng quy định.
19. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế tự chủ cho các trường đại học, định hướng phát triển các trường đại học,
cao đẳng sư phạm. Tăng cường quản lý việc mở ngành đào tạo khối sức khỏe của
các trường đại học - thời hạn hoàn thành là tháng 12/2022 (đây là nhiệm vụ đang
thực hiện chưa đến hạn)
a) Về nội dung tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự
chủ cho các trường đại học
Triển khai tự chủ đại học là việc thực hiện
chủ trương của Đảng, Nhà nước đã được thể chế hóa trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật đối với GDĐH. Có thể nói, tự chủ đại học đã góp phần đổi mới hệ thống
GDĐH Việt Nam, cũng như tạo động lực để hệ thống GDĐH và các cơ sở GDĐH phát
triển, một số cơ sở GDĐH phát triển vượt bậc trong giai đoạn 2016 - 2021. Điều
này được thể hiện ở việc lần đầu tiên Việt Nam có các trường đại học nằm trong
các bảng xếp hạng những trường đại học hàng đầu thế giới, trong số này, phần lớn
là các trường đại học thực hiện theo cơ chế tự chủ và có cả trường đại học tư
thục là Trường Đại học Duy Tân.
Phương hướng thời gian tới:
Để tiếp tục đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học,
bên cạnh việc cần đẩy mạnh công tác truyền thông về tự chủ đại học và trách nhiệm
giải trình của cơ sở GDĐH trong toàn xã hội để nâng cao và thống nhất nhận thức
về tự chủ đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ cho
các trường đại học:
- Rà soát các nhóm vấn đề bất cập, mâu thuẫn,
chồng chéo, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Luật Giáo dục đại học
và đề xuất các giải pháp, phương án xử lý, khắc phục, hoàn thiện hành lang pháp
lý, như: trình các cấp có thẩm quyền ban hành các quy định về đào tạo liên
thông, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 99/2019/NĐ-CP , ban hành theo thẩm quyền
các chuẩn chương trình đào tạo cho các khối ngành, chuẩn cơ sở GDĐH; hoàn thiện
các quy định, yêu cầu về công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng và trách
nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học;...
- Triển khai lập quy hoạch mạng lưới cơ sở
GDĐH và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- Xây dựng báo cáo tham chiếu khung trình độ
quốc gia Việt Nam với khung trình độ các nước ASEAN;
- Tăng cường kiểm định chất lượng, thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm, công khai kết quả kiểm định, danh sách các trường vi
phạm để xã hội giám sát, người học lựa chọn, tạo động lực để các trường tiếp tục
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.
b) Về nội dung định hướng phát triển các trường
đại học, cao đẳng sư phạm
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
209/QĐ-TTg ngày 17/02/2021 phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở
GDĐH và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 với một trong những mục tiêu
trọng tâm là: “Quy hoạch để rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học
và sư phạm bảo đảm hợp lý về quy mô, cơ cấu ngành nghề và phân bố vùng miền,
đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các địa
phương”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung huy động các
nguồn lực để hoàn thiện Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH và sư phạm, dự kiến
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trong Quý IV năm 2022.
c) Về nội dung tăng cường quản lý việc mở
ngành đào tạo khối sức khỏe của các trường đại học
Ngày 18/01/2022 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở
ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ (Thông tư 02), trong đó, quyết định cho phép mở ngành thuộc lĩnh vực sức
khỏe đã được quy định, bổ sung để đảm bảo kiểm soát các điều kiện đảm bảo chất
lượng chặt chẽ hơn các quy định trước đó, cụ thể như sau:
- Quy định giảng viên và người hướng dẫn thực
hành các môn học, học phần liên quan đến khám, chữa bệnh phải có chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh, đã hoặc đang làm việc trực tiếp tại các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh đủ điều kiện là cơ sở thực hành trong đào tạo ngành thuộc lĩnh vực sức
khỏe theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối
ngành sức khỏe;
- Có hợp đồng hợp tác đào tạo thực hành, thực
tập với các cơ sở thực hành, thực tập bên ngoài nhà trường phù hợp với kế hoạch
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học cho toàn khóa học;
- Các cơ sở thực hành đối với ngành đào tạo
thuộc lĩnh vực sức khỏe phải có hợp đồng nguyên tắc về đào tạo thực hành bảo đảm
tuân thủ theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo
khối ngành sức khỏe;
- Riêng đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh
vực sức khỏe phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về đội ngũ giảng viên để thực hiện chương
trình đào tạo cho toàn bộ khóa học tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị mở ngành đào
tạo;
- Điều kiện về cơ sở vật chất đối với các
ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về cơ sở vật
chất cho toàn bộ khóa học tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị mở ngành đào tạo; đáp
ứng các điều kiện cụ thể về phòng thí nghiệm, thực hành đối với từng ngành đào
tạo theo quy định;
- Có đủ hợp đồng nguyên tắc về đào tạo thực
hành theo quy định của Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối
ngành sức khỏe;
- Đối với các đại học: cần có công văn của đại
học chấp thuận về mặt chủ trương đối với các đơn vị thành viên thuộc đại học
khi mở ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe; Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp nhận
và thẩm định hồ sơ; trong trường hợp cần thiết Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
quyết định việc tổ chức đoàn kiểm tra thực tế các điều kiện bảo đảm chất lượng
tại cơ sở đào tạo.
- Riêng đối với mở ngành đào tạo thuộc lĩnh vực
sức khỏe, Bộ GDĐT lấy ý kiến (bằng văn bản) của Bộ Y tế về nhu cầu nhân lực
ngành đề xuất mở và các điều kiện về tổ chức đào tạo thực hành trong khối ngành
sức khỏe theo quy định của Chính phủ.
Phương hướng thời gian tới:
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức thực
hiện và tăng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc triển khai thực hiện mở ngành bảo
đảm theo quy định tại Thông tư 02 nêu trên, trên cơ sở tiếp thu đầy đủ các ý kiến
góp ý, bổ sung của các bộ, ngành có liên quan và đặc biệt là ý kiến đóng góp của
Bộ Y tế để đảm bảo và tăng cường kiểm soát chất lượng trong công tác mở các
ngành đào tạo thuộc lĩnh vực sức khỏe.
D. LĨNH VỰC KẾ HOẠCH
VÀ ĐẦU TƯ
I. Tiến độ thực hiện
1. Tổng số nhiệm vụ thuộc lĩnh vực: 16 nhiệm
vụ; trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì thực hiện 10 nhiệm vụ, Bộ
Tư pháp chủ trì 01 nhiệm vụ và 05 nhiệm vụ giao chung các bộ, ngành và địa
phương thực hiện.
2. Tiến độ thực hiện 10 nhiệm vụ do Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì thực hiện như sau:
Số nhiệm vụ có quy định thời hạn hoàn thành:
10/10 nhiệm vụ; trong đó:
- Hoàn thành đúng và trước thời hạn quy định:
04 nhiệm vụ.
- Chưa hoàn thành so với thời hạn quy định:
02 nhiệm vụ.
- Đang thực hiện trong thời hạn quy định: 04
nhiệm vụ.
II. Kết quả thực hiện
và phương hướng trong thời gian tới
1. Đối với nhiệm vụ: Khẩn trương xây dựng,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành và triển khai thực hiện Chương
trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, gắn với nâng cao năng lực nội tại
và tính tự chủ của nền kinh tế, kế hoạch tài chính, kế hoạch đầu tư công trung
hạn, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025
- Căn cứ Kết luận số 24-KL/TW ngày 30/12/2021
của Bộ Chính trị, các Nghị quyết số 43/2022/QH15 và số 46/2022/QH15 ngày
11/01/2022 của Quốc hội, trên cơ sở các chính sách, nhiệm vụ giải pháp chủ yếu
được nêu tại Báo cáo số 01/BC-CP ngày 02/01/2022 của Chính phủ, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội
(sau đây viết tắt là Chương trình).
- Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết
số 11/NQ-CP , Thủ tướng Chính phủ đã liên tục có các Công điện số: 126/CĐ-TTg
ngày 12/02/2022, 252/CĐ-TTg ngày 12/02/2022 và 290/CĐ-TTg ngày 31/03/2022 đôn đốc
các bộ, cơ quan trung ương và địa phương bảo đảm tiến độ công việc được giao.
Về kết quả thực hiện Chương trình: Nhìn
chung, các bộ, cơ quan và địa phương đã tích cực, khẩn trương triển khai công
việc được giao; đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, hoặc báo cáo Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo một số nội dung cụ thể về văn bản pháp luật
để triển khai nhiều chính sách thuộc Chương trình như: quyết định về hỗ trợ tiền
thuê nhà cho người lao động; nghị định về hỗ trợ lãi suất cho vay thông qua các
ngân hàng thương mại; các quyết định về hỗ trợ lãi suất, phê duyệt hạn mức bảo
lãnh phát hành trái phiếu và giao bổ sung kế hoạch tín dụng năm 2022 cho Ngân
hàng Chính sách xã hội, cho vay học sinh, sinh viên để mua máy tính học tập trực
tuyến do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện các nhiệm
vụ:
+ Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính
phủ Lê Văn Thành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện các văn bản hướng dẫn
thực hiện cơ chế đặc thù về chỉ định thầu đối với các gói thầu thuộc Chương
trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và Dự án xây dựng đường bộ cao tốc
Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2021-2025.
+ Trên cơ sở văn bản của 16/16 địa phương tự
đánh giá năng lực, kinh nghiệm và khẳng định việc làm cơ quan chủ quản thực hiện
các đoạn tuyến đường cao tốc thuộc Chương trình qua địa bàn mình, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đang phối hợp với Bộ Giao thông vận tải để báo cáo Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định phân cấp cho UBND cấp tỉnh làm cơ quan chủ quản thực hiện
các dự án, dự án thành phần đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc theo hình thức
đầu tư công thuộc Chương trình.
+ Tham gia hoàn thiện trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 09/2022/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 về tín dụng đối với học
sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để mua máy tính, thiết bị học tập trực
tuyến; ban hành Quyết định quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền
thuê nhà cho người lao động; Quyết định về điều kiện, trình tự, thủ tục, mức
lãi suất cho vay đối với các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập.
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm từ nay đến hết
quý II năm 2022:
Các bộ, cơ quan, địa phương cần tiếp tục thực
hiện đồng bộ, thống nhất, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị
quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 11/NQ-CP , các Công điện số 126/CĐ-TTg ,
252/CĐ-TTg và 290/CĐ-TTg ; theo dõi chặt chẽ, chủ động nghiên cứu, dự báo, có
phương án ứng phó đồng bộ, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm
phát, các cân đối lớn. Trong đó, chú trọng một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau
đây:
- Tập trung, ưu tiên toàn lực để triển khai đồng
bộ, hiệu quả Chương trình phòng chống dịch Covid-19 (2022-2023); tiếp tục tổ chức
tiêm vắc-xin hiệu quả cho trẻ em từ 5-12 tuổi; chuyển giao công nghệ, nghiên cứu,
sản xuất vắc-xin, thuốc điều trị trong nước; bảo đảm nguồn cung, tiếp tục tăng
cường công tác quản lý giá thuốc, trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch.
- Điều hành đồng bộ, linh hoạt, phối hợp chặt
chẽ các công cụ chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách khác để góp phần
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì mức lãi suất cho
vay hợp lý nhằm hỗ trợ tích cực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội;
tăng cường quản lý, giám sát thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu
doanh nghiệp, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính.
- Triển khai thực hiện nhanh, đồng bộ, quyết
liệt, hiệu quả hơn nữa các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số
11/NQ-CP , xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là một trong các tiêu
chí quan trọng để đánh giá, xếp loại cuối năm đối với tổ chức, cá nhân, nhất là
người đứng đầu.
2. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng những chương
trình quản lý rủi ro, đảm bảo cho việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực
được công khai, minh bạch, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí,
chống lợi ích nhóm, tiêu cực và tham nhũng
Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ
quan phối hợp cùng các bộ, ngành và địa phương thực hiện trong khuôn khổ triển
khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ các
nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Chương trình đã được phê duyệt tại Nghị
quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 41/NQ-CP của Chính phủ, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan cụ thể hóa thành các
nhiệm vụ, giải pháp nhằm giảm thiểu, hạn chế các vấn đề tiêu cực, rủi ro có thể
xảy ra liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực đầu tư công, đảm bảo tính công
khai, minh bạch, đúng mục đích, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí, như: (i)
Kiểm soát chặt chẽ tổng số dự án sử dụng vốn NSTW triển khai trong giai đoạn
2021-2025; (ii) Kiểm soát chặt chẽ việc dự án quá hạn, ứng trước; (iii) Phân bổ
kế hoạch vốn hằng năm theo nguyên tắc, thứ tự ưu tiên ngành, lĩnh vực và phục vụ
trực tiếp cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; tiến độ thực hiện
dự án;...
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên sẽ được định
kỳ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội về tình hình thực
hiện giao kế hoạch, giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN hằng năm (2021, 2022,
2023), kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 5 năm 2021-2025.
3. Đối với nhiệm vụ: Xây dựng Dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối
tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật
Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự trình Quốc hội xem xét, quyết
định.
Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp bất
thường thứ nhất, Quốc hội khóa XV thông qua Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác
Công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp,
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.
Tại Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 25/1/2022 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo
văn bản quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội khóa XV thông qua tại
Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được phân công chủ trì
xây dựng 02 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật số 03/2022/QH15. Tiến độ
xây dựng các Nghị định cụ thể như sau:
- Nghị định quy định chi tiết việc tổ chức quản
lý và hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết
hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là doanh nghiệp nhà nước và công ty trách
nhiệm hữu hạn do doanh nghiệp nhà nước quy định tại khoản 2 Điều
88 Luật Doanh nghiệp nắm giữ 100% vốn điều lệ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
hoàn thiện dự thảo Nghị định, hiện nay đang lấy ý kiến Thành viên Chính phủ trước
khi ban hành.
- Nghị định quy định chi tiết khoản
1 Điều 1 và khoản 1 Điều 5 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công,
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu
thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi
hành án dân sự: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định
này (Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 114/2021/NĐ-CP
ngày 16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài) tại Tờ trình số 2440/TTr-BKHĐT ngày
14/4/2022.
4. Đối với nhiệm vụ: Nghiên cứu, đề xuất hoàn
thiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ, phát triển hộ kinh doanh; xây dựng, ban
hành Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tổ chức triển
khai nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ, phát triển
hộ kinh doanh; dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ xem xét thông
qua trong năm 2023.
- Về dự thảo Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025: Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Thủ
tướng Chính phủ tại công văn số 2585/BKHĐT-PTDN về tiếp thu ý kiến thành viên
Chính phủ và hoàn thiện dự thảo Nghị quyết để trình Chính phủ ban hành.
5. Đối với nhiệm vụ: Ban hành Chương trình hỗ
trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh giai đoạn
2021-2025
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục phối hợp
với các bộ, cơ quan liên quan để làm rõ, hoàn thiện Chương trình hỗ trợ chuyển
đổi số trong doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh giai đoạn 2021-2025 để
báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
6. Đối với nhiệm vụ: Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trong đầu tư công, đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan và
chủ quan, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan và trách nhiệm của người
đứng đầu, có biện pháp quyết liệt trong việc chuẩn bị đầu tư, phân bổ vốn, giải
ngân và quyết toán vốn đầu tư. Các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương đề xuất
bố trí vốn sát với khả năng thực hiện, khả năng giải ngân; kịp thời điều chuyển
vốn không có khả năng giải ngân và giải ngân chậm cho những dự án có tỷ lệ đã
giải ngân cao để đẩy nhanh tiến độ giải ngân
Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật số
03/2022/QH15 ngày 11/01/2022 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư
công, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật
Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật
thi hành án dân sự; chủ động xây dựng, ban hành theo thẩm quyền các Nghị định
hướng dẫn về quản lý đầu tư xây dựng, hướng dẫn Luật Đầu tư theo phương thức đối
tác công tư, trình tự thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát,
đánh giá đầu tư; quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn
đầu tư công; sửa đổi các nội dung vướng mắc về các thủ tục điều chỉnh chủ
trương đầu tư, thủ tục cho vay lại các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của
các nhà tài trợ nước ngoài.
- Trong năm 2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đã rất quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai kế hoạch đầu
tư công; nhiều giải pháp được ban hành kịp thời thông qua các Nghị quyết phiên
họp Chính phủ thường kỳ, Nghị quyết chuyên đề số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 về
thúc đẩy tăng trưởng và giải ngân vốn đầu tư công, các công điện, văn bản chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ; 2 Hội nghị trực tuyến toàn quốc về giải ngân và hoạt động
của các Tổ công tác được thành lập theo chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ,... nhờ đó,
tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 đã có những bước cải thiện rõ rệt,
nhất là những tháng cuối năm 2021 khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa trở lại và
thay đổi phương thức phòng, chống dịch theo hướng “thích ứng an toàn, linh hoạt,
kiểm soát hiệu quả”.
- Vốn NSNN năm 2021 được bố trí tập trung, từng
bước khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, số lượng dự án chuyển tiếp chiếm gần
70% tổng số dự án được giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2021. Đầu tư công thực
sự là động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền
kinh tế, có tác động lan tỏa lớn, nhất là đối với các dự án phát triển kết cấu
hạ tầng giao thông, năng lượng... NSNN đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
nhất là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, thúc đẩy liên kết vùng. Nhiều
dự án trọng điểm quốc gia được khởi công.
- Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công đã được
tăng cường. Đến hết niên độ NSNN năm 2021, tất cả các bộ, cơ quan trung ương và
địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp (dưới 90% kế hoạch được giao) đều tổ chức
đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm của
các cá nhân có liên quan và người đứng đầu, rút ra bài học kinh nghiệm để triển
khai kế hoạch đầu tư công năm 2022 được tốt hơn, phấn đấu đạt mục tiêu giải
ngân 100% kế hoạch vốn.
Tại văn bản số 2349/VPCP-KTTH ngày 15/4/2022,
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương
không phân bổ hết kế hoạch vốn được giao năm 2021 hoặc có tỷ lệ giải ngân năm
2021 thấp hơn mức bình quân chung cả nước (nhất là các bộ, cơ quan, địa phương
giải ngân dưới 20% kế hoạch) tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ lưỡng, nghiêm túc
nguyên nhân phân bổ chậm, giải ngân chậm, kiểm điểm xử lý nghiêm các tập thể,
cá nhân liên quan đến việc chậm phân bổ, chậm giải ngân do nguyên nhân chủ
quan, chưa nỗ lực cố gắng, theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản
số 572/VPCP-KTTH ngày 21 tháng 01 năm 2022; từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm để
tập trung lãnh đạo chỉ đạo, triển khai thực hiện các giải pháp quyết liệt, đồng
bộ, hiệu quả, khắc phục triệt để các hạn chế, tồn tại nhằm đẩy nhanh tiến độ giải
ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022.
7. Đối với nhiệm vụ: Năm 2022, phân bổ và giải
ngân vốn ngân sách nhà nước đạt 100% dự toán Quốc hội giao
- Tình hình phân bổ, triển khai kế hoạch đầu
tư công vốn ngân sách nhà nước năm 2022:
Thực hiện Luật Đầu tư công, các Nghị quyết của
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 2048/QĐ-TTg và
97/QĐ-TTg ngày 06/12/2021 về giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2022, các bộ, cơ
quan trung ương và địa phương đã chủ động, tích cực triển khai giao kế hoạch đầu
tư vốn NSNN năm 2022 kịp thời, đáp ứng yêu cầu dự án có thể giải ngân kế hoạch
đầu tư vốn NSNN năm 2022 ngay từ đầu năm.
Tính đến hết ngày 25/4/2022, tổng số vốn các
bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã có quyết định giao chi tiết cho các dự
án đủ thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giải ngân trong năm 2022 là 479.527,271 tỷ đồng,
đạt 92,6% so với số vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch cho các bộ, cơ
quan trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, số vốn các bộ, cơ quan trung ương
và địa phương chưa phân bổ còn khá lớn (38.578,624 tỷ đồng), bằng khoảng 7,4% kế
hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, nguyên nhân chủ yếu là do một số bộ, cơ quan
trung ương và địa phương đang hoàn thiện thủ tục đầu tư (Quyết định đầu tư) cho
các dự án vừa được Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn
NSNN giai đoạn 2021-2025.
- Tình hình giải ngân vốn đầu tư nguồn NSNN
04 tháng đầu năm 2022:
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, vốn NSNN năm
2022 ước thanh toán đến 30/4/2022 là 95.724,49 tỷ đồng, đạt 18,48% kế hoạch Thủ
tướng Chính phủ giao, xấp xỉ cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 đạt 18,65% kế
hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Trong đó: vốn trong nước là 94.592,89 tỷ đồng
đạt 19,57% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; vốn nước ngoài là 1.131,61 tỷ đồng
đạt 3,25% kế hoạch. Trong đó:
+ Có 07 Bộ và 08 địa phương có tỷ lệ giải
ngân đạt trên 25%. Một số bộ, địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt cao gồm: Ngân
hàng Chính sách xã hội (91,12%), Ngân hàng Phát triển (59,64%), Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (48,86%), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (35,76%),
Bình Thuận (33,9%), Phú Thọ (33,4%).
+ Có 43/51 Bộ và 28/63 địa phương có tỷ lệ giải
ngân đạt dưới 17%, trong đó có 17 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân kế hoạch
vốn.
Theo báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương
và địa phương, nguyên nhân chủ yếu do có một số dự án khởi công mới đang trong
quá trình hoàn thiện thủ tục đấu thầu, chấm thầu, thương thảo hợp đồng. Bên cạnh
đó, một yếu tố khách quan tác động đến tiến độ giải ngân vốn, lặp lại tương tự
như những tháng đầu năm 2021 là giá vật tư, vật liệu xây dựng sắt thép, cát đá,
xi măng... tăng làm cho tiến độ thi công dự án bị chậm lại. Tuy nhiên, nguyên
nhân giải ngân chậm vẫn là do công tác tổ chức triển khai thực hiện tại các bộ,
ngành và địa phương còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc,
vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác
tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch; một số chủ đầu tư chưa tích cực thực hiện các
thủ tục thanh toán, quyết toán; năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý dự
án, tư vấn giám sát, nhà thầu... còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu; công
tác đôn đốc nhà thầu triển khai thi công chưa quyết liệt và hiệu quả.
- Một số giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu
tư công kế hoạch năm 2022:
+ Tập trung triển khai quyết liệt các giải
pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ tại các Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2022, số 11/NQ-CP ngày
30/01/2022, các văn bản số 572/VPCP-KTTH ngày 21/01/2022, số 1684/VPCP-KTTH
ngày 17/3/2022, công điện số 252/CĐ-TTg ngày 16/3/2022, Thông báo số
106/TB-VPCP ngày 09/4/2022 của Văn phòng Chính phủ.
+ Yêu cầu người đứng đầu bộ, cơ quan trung
ương và địa phương phải xác định việc giải ngân vốn đầu tư công là một trong những
nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2022, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
liên quan đến đất đai, tài nguyên; làm tốt công tác quy hoạch khai thác mỏ và
quản lý các mỏ vật liệu, rà soát, điều chuyển kế hoạch đầu tư vốn giữa các dự
án chậm giải ngân sang dự án có tiến độ giải ngân tốt, có nhu cầu bổ sung vốn,...
chịu trách nhiệm giải trình về kết quả giải ngân cũng như hiệu quả đầu tư của
các dự án được giao quản lý.
+ Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng
công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục về đầu tư công như: kiểm soát chi
ngân sách nhà nước, hồ sơ thẩm định dự án, đơn rút vốn nhà tài trợ nước
ngoài,...
+ Kiên quyết siết chặt kỷ luật, kỷ cương,
tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát, hậu kiểm, xử lý nghiêm vi
phạm; kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư bảo đảm công bằng,
công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm. Tăng cường giám
sát của các cơ quan chuyên trách và nâng cao khả năng tham gia cộng đồng vào việc
giám sát các dự án đầu tư công. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực chất lượng
cao về quản lý đầu tư công góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
8. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt quy hoạch tổng thể quốc gia theo quy định của Luật Quy hoạch
- Chính phủ đã phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch
tổng thể quốc gia tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 04/10/2020. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã xây dựng Báo cáo các quan điểm, mục tiêu, định hướng ưu tiên phát triển
quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 báo cáo tại Hội nghị trực tuyến
toàn quốc về quy hoạch năm 2022.
- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành
Quyết định số 142/QĐ-BKHĐT ngày 08/02/2022 về Kế hoạch chi tiết lập Quy hoạch tổng
thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050; Quyết định số 232/QĐ-BKHĐT
ngày 14/3/2022 phê duyệt danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật Gói thầu
số 9 thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến 2050.
- Ngày 15/3/2022, Ban cán sự đảng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã có Tờ trình số 114/TTr-BCSĐ trình Ban cán sự đảng Chính phủ về Định
hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hiện
nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc
gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo ý kiến chỉ đạo của Thường trực
Chính phủ để trình Bộ Chính trị.
9. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt quy hoạch vùng theo quy định của Luật Quy hoạch
Quy hoạch vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022.
Tại Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 14/4/2022,
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch của 04 vùng thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (vùng Tây Nguyên, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ).
10. Đối với nhiệm vụ: Trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt quy hoạch tỉnh theo quy định của Luật Quy hoạch
Đến nay, có 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh. Đối
với quy hoạch của thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, Hội
đồng thẩm định đã tổ chức phiên họp thẩm định Nhiệm vụ lập quy hoạch ngày
08/3/2022; hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh đang hoàn thiện Hồ sơ trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch.
Đến nay, đã có quy hoạch tỉnh Bắc Giang được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 219/QĐ-TTg ngày 17/2/2022; 04
quy hoạch tỉnh của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Tuyên Quang, Lào Cai đã được tổ chức họp
thẩm định, hiện đang hoàn thiện Hồ sơ quy hoạch để gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định.
Hiện nay, Chính phủ đang hoàn thiện báo cáo
trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 ban hành 01 Nghị quyết theo trình tự, thủ tục
rút gọn, theo đó cho phép điều chỉnh tiến độ lập quy hoạch, tập trung hoàn
thành các quy hoạch cấp quốc gia mang tính cấp thiết để hoàn thành trong năm
2022, phấn đấu thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch còn lại cơ bản
trong năm 2023 hoặc giai đoạn tiếp theo.
11. Đối với nhiệm vụ: Phê duyệt quy hoạch Đồng
bằng sông Cửu Long
Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022; Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu xây dựng dự thảo Kế hoạch thực hiện
quy hoạch gửi các Bộ, ngành và địa phương có liên quan và trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt trong Quý II/2022.
12. Đối với nhiệm vụ: Trình Quốc hội xem xét,
quyết định Đề án thí điểm tách công tác giải phóng mặt bằng và dự án tái định
cư ra khỏi dự án đầu tư công
Thực hiện Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc
hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Chính phủ đã có Tờ
trình số 520/TTr-CP ngày 15/11/2021 báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về Đề án
và dự thảo Nghị quyết thí điểm tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,
giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập và một số cơ chế, chính sách đẩy nhanh
tiến độ thực hiện.
Văn phòng Quốc hội có Thông báo số
2831/TB-VPQH ngày 27/11/2021, trong đó thông báo ý kiến của Chủ tịch Quốc hội đề
nghị Chính phủ: Tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết
của Quốc hội theo đúng phạm vi, nội dung được Quốc hội giao tại Nghị quyết số
29/2021/QH15 và quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trình Ủy
ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến để trình Quốc hội xem xét, quyết định vào thời
điểm thích hợp.
Tại văn bản số 8748/VPCP-NN ngày 30/11/2021,
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài
nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan nghiên cứu, báo cáo giải trình
rõ, kỹ lưỡng các nội dung Kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại thông báo nêu
trên.
Căn cứ chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đang tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan,
hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết và để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, làm
cơ sở để ban hành các chính sách thí điểm liên quan đến việc tách công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư. Đồng thời,
thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị
về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng, trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem
xét, quyết định ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù cho tỉnh Khánh Hòa,
trong đó, có nội dung về tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải
phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư đối với dự án đầu tư công. Nội dung này đã
được xây dựng phù hợp với chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội tại Thông báo số
2831/TB-VPQH, chỉ áp dụng đối với địa phương cụ thể (trong phạm vi tỉnh Khánh
Hòa), cho dự án cụ thể (các dự án nhóm B thuộc ngành giao thông, thủy lợi), có
thời hạn cụ thể (trong thời gian hiệu lực của dự thảo Nghị quyết) và bảo đảm
phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật về đất đai về quản lý đất đai, giải
phóng mặt bằng.
13. Đối với nhiệm vụ: Kiểm tra, đôn đốc, tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư công, trong đó tập trung cho các dự án quan trọng
quốc gia, dự án lớn, các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà
tài trợ nước ngoài
- Tổ công tác kiểm ha, đôn đốc, tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ
quan trung ương và địa phương
Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập
Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân
vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương (Quyết
định số 1962/QĐ-TTg ngày 22/11/2021). Từ ngày 06/12/2021 đến ngày 15/12/2021,
06 Tổ công tác do các Phó Thủ tướng Chính phủ và một số Bộ trưởng làm Tổ trưởng
đã tổ chức các cuộc họp với các bộ, cơ quan trung ương và các địa phương có kết
quả giải ngân 10 tháng đầu năm 2021 dưới 60% kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính
phủ giao để giải thích, làm rõ các quy định của pháp luật về đầu tư công, xây dựng,
trực tiếp tháo gỡ vướng mắc khó khăn về các dự án đầu tư.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ cùng với kết quả tích cực từ hoạt động của các Tổ công tác
trong việc kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư công, tiến
độ giải ngân vốn NSNN năm 2021 ước đạt 94,94% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ
giao. Đây là kết quả tích cực trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá
cả nguyên nhiên vật liệu tăng cao.
- Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 tại một số bộ, cơ
quan trung ương và địa phương
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
548/QĐ-TTg ngày 02/5/2022 thành lập 06 Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 tại các bộ, cơ
quan trung ương và địa phương đến ngày 30/4/2022 chưa phân bổ hết kế hoạch vốn
đầu tư công năm 2022 được giao; có tỷ lệ giải ngân đến ngày 30/4/2022 dưới mức
trung bình của cả nước (18,48%) (tổng cộng có 44 bộ, cơ quan trung ương và 31 địa
phương).
Sau khi kết thúc cuộc kiểm tra, đôn đốc của Tổ
công tác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ nguyên
nhân, “nút thắt”, “điểm nghẽn” của việc phân bổ, giải ngân chậm; trách nhiệm của
từng cấp, từng đơn vị sử dụng vốn và giải pháp tháo gỡ, thúc đẩy giải ngân vốn
đầu tư công.
14. Đối với nhiệm vụ: Xử lý nghiêm các trường
hợp cố tình làm chậm, gây khó khăn, nhũng nhiễu, vi phạm quy định, tham nhũng,
lãng phí về đầu tư công
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Kế hoạch
thanh tra, kiểm tra hàng năm, trong đó chú trọng tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong đầu tư công. Trong năm 2022, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã có kế hoạch tổ chức 6 cuộc thanh tra chuyên ngành về việc chấp
hành pháp luật về đầu tư công giai đoạn 2016-2020 tại các tỉnh Cao Bằng, Hòa
Bình, Bình Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế và Tuyên Quang. Đã triển khai các cuộc
thanh tra chuyên ngành tại tỉnh Hòa Bình, Cao Bằng và Bình Định.
Qua công tác thanh tra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị, tổ chức có liên quan
nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, sai
sót trong việc triển khai và chấp hành pháp luật trong đầu tư công, đồng thời
kiến nghị xử lý về mặt kinh tế với tổng số tiền là: 35,36 tỷ đồng
Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả trong sử dụng vốn đầu tư công trong thời gian tới, cụ thể như sau:
- Chấn chỉnh, khắc phục sai sót trong công
tác phê duyệt dự án đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; việc
thẩm định cấp và điều chỉnh Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư, quyết định chủ
trương đầu tư theo quy định pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật có
liên quan.
- Có biện pháp xử lý đối với các dự án không
triển khai thực hiện hoặc chậm tiến độ, không thực hiện đúng các nội dung quy định
trong quyết định chủ trương đầu tư, Giấy Chứng nhận đăng ký đầu tư.
- Tổ chức rà soát và có các biện pháp xử lý đối
với các sai sót liên quan đến tài chính của dự án theo kết quả thanh tra để
tránh gây thất thoát Ngân sách nhà nước.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát đối với các dự án sau khi quyết định chủ trương đầu tư, Giấy Chứng nhận
đăng ký đầu tư.
- Tiếp tục triển khai các cuộc thanh tra pháp
luật về đầu tư công theo kế hoạch đã được phê duyệt và sẵn sàng bố trí mọi nguồn
lực để hoàn thành các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất cũng như các nhiệm vụ
khác có liên quan theo yêu cầu, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Tiếp tục thực hiện công tác theo dõi, hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các Kết luận, kiến nghị sau thanh tra
trong lĩnh vực đầu tư công để đảm bảo các nội dung kiến nghị tại kết luận thanh
tra được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
15. Đối với nhiệm vụ: Hoàn thiện Nghị định
thay thế Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 về quản lý và sử dụng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi
của nhà tài trợ nước ngoài, thay thế Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020,
bảo đảm các quan điểm, nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và phù hợp
với các quy định của hệ thống pháp luật liên quan đến công tác quản lý và sử dụng
vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, đặc biệt là các văn bản
pháp luật ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung trong thời gian gần đây (Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường) và những văn bản
pháp luật liên quan việc doanh nghiệp vay lại 100% vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước
ngoài (Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư theo phương thức hợp tác
công tư, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp).
- Đổi mới công tác quản lý, đơn giản hóa thủ
tục, tăng cường phân cấp để tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận vốn ODA không hoàn
lại.
- Kế thừa những mặt được của Nghị định số
56/2020/NĐ-CP đồng thời giải quyết những hạn chế, bất cập trong quá thực hiện
Nghị định này.
- Bổ sung những nội dung mới xuất phát từ các
chủ trương, chính sách mới của Đảng và nhà nước và xu thế mới trong quan hệ hợp
tác phát triển của các nhà tài trợ với Việt Nam.
Giải pháp trong thời gian tới:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
130/QĐ-TTg ngày 25/1/2022 về danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo
văn bản quy định chi tiết thi hành các luật được Quốc hội khóa XV thông qua tại
Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Tờ trình
số 768/TTr-BKHĐT ngày 07/02/2022 về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày 16/12/2022 của Chính phủ về quản
lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
Nghị định sửa đổi để phù hợp với Luật số
03/2022/QH15 ngày 11/01/2022, trong đó quy định: (i) việc phân cấp thẩm quyền
quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư nhóm B, C sử dụng vốn ODA, vốn
vay ưu đãi; và (ii) phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng
vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để chuẩn bị dự án đầu
tư. Việc phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư nhóm B,
C sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi là biện pháp quan trọng nhằm rút ngắn thời
gian phê duyệt dự án và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nói chung và vốn
ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài nói riêng.
16. Đối với nhiệm vụ: Tiếp tục đẩy mạnh công
tác phối hợp, trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài nhằm tăng cường công tác
vận động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, đặc
biệt chú trọng đối với các dự án có quy mô lớn về phát triển kinh tế - xã hội,
các dự án kết nối hạ tầng có tính chất liên vùng, có tác động lan tỏa, các dự
án về ứng phó biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, các khoản hỗ trợ cho việc
phòng, chống dịch Covid-19
Về thu hút vốn ODA, vốn vay ưu đãi năm 2021:
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2021 đạt khoảng 1.180 triệu USD
(954,36 triệu USD ODA vốn vay và 225,64 triệu USD ODA viện trợ không hoàn lại).
Về huy động sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nước
ngoài trong công tác phòng, chống dịch Covid-19: Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch
và Đầu tư phối hợp với các bộ ngành liên quan, huy động sự hỗ trợ của các nhà tài
trợ nước ngoài trong công tác phòng, chống dịch Covid-19; hỗ trợ Bộ Y tế hoàn
thiện các thủ tục tiếp nhận vắc - xin phòng chống Covid-19 từ các đối tác với tổng
vốn viện trợ dành cho phòng chống dịch Covid-19 khoảng 150 triệu USD và 58,4
triệu liều vắc xin, bao gồm: (i) Quỹ COVAX, các Chính phủ (Nhật Bản, Trung Quốc,
Pháp, Ý, Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, EU, Hungary, Cu Ba) viện trợ vắc xin, ô tô, trang thiết
bị y tế; (ii) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức Liên hợp quốc, như: triển
khai tiêm chủng vắc xin Covid-19 tại Việt Nam, hỗ trợ vật tư tiêu hao (găng
tay, khẩu trang, vải nylon y tế), hỗ trợ 113 tủ âm sâu đựng vắc-xin, đào tạo
năng lực cán bộ y tế để đối phó dịch Covid-19; (iii) Vận động Chính phủ Đức viện
trợ 15 triệu Euro vốn ODA không hoàn lại cho Dự án “Hỗ trợ công tác dự báo và
quản lý dịch bệnh, đặc biệt là Covid-19 dựa trên ứng dụng trí tuệ nhân tạo” và
30 triệu Euro vốn vay ODA cho Dự án Trung tâm Hồi sức cấp cứu Vùng của Phú Thọ;
EU viện trợ 19 triệu Euro hỗ trợ ngân sách cho Chính phủ Việt Nam trong công
tác phòng, chống dịch; 03 Dự án khẩn cấp phòng chống Covid-19 do Quỹ Toàn cầu
phòng chống HIV/AIDS, Lao và sốt rét viện trợ trị giá 15 triệu USD.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham gia xác định
nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển từ nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi, đặc biệt là
các dự án liên quan đến phòng, chống dịch Covid-19; tổng hợp và trình Thủ tướng
Chính phủ các đề xuất chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi.
Phương hướng trong thời gian tới:
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình
Minh đã có chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương thực hiện một số nhiệm vụ, giải
pháp sau:
- Về thể chế, chính sách:
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan, khẩn trương hoàn thiện,
trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 114/2021/NĐ-CP ngày
16/12/2021 về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước
ngoài sau khi Luật sửa đổi 9 Luật đã được Quốc hội thông qua; trong đó, quy định
đơn giản hóa về quy trình, thủ tục đối với các chương trình, dự án ODA, vay ưu
đãi nước ngoài nhóm B, C.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục tổ chức hội
thảo, phổ biến cho các bộ ngành, địa phương về Quyết định số 2109/QĐ-TTg ngày
15/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025.
+ Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và các Bộ ngành, địa phương thực hiện tổng kết, đánh giá Chỉ thị số
18/CT-TTg ngày 29/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài trong tình hình mới
cho chi đầu tư phát triển, không vay cho chi thường xuyên; kiến nghị giải pháp
chỉnh sửa cần thiết nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai thực
hiện, điều chỉnh các dự án ODA, vay ưu đãi nước ngoài; báo cáo Thủ tướng Chính
phủ trước ngày 15/6/2022.
- Về công tác kế hoạch vốn:
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương tổng hợp bổ sung kế hoạch đầu tư công
trung hạn nguồn vốn nước ngoài giai đoạn 2021-2025 và năm 2022 đối với các dự
án đã có đủ điều kiện, báo cáo Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.
+ Các cơ quan chủ quản theo dõi sát sao tình
hình và khả năng giải ngân của từng dự án trong từng tháng, kịp thời điều chuyển
kế hoạch vốn từ dự án giải ngân thấp sang dự án giải ngân cao theo quy định; ưu
tiên bố trí đủ vốn cho các dự án kết thúc hiệp định trong năm kế hoạch; bố trí
đủ thanh toán cho các cam kết hợp đồng đã ký với nhà thầu; ưu tiên các dự án khẩn
cấp, trọng điểm, đang gặp vướng mắc do thiếu kế hoạch vốn...
- Về xử lý các vướng mắc nhằm thúc đẩy giải
ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi:
+ Các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực
hiện theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về
các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu
tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022.
+ Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ
Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn thủ tục xuất nhập cảnh,
tạo thuận lợi cho các chuyên gia, tư vấn vào Việt Nam, nhất là phục vụ các dự
án đầu tư.
+ Bộ Tài chính: Tiếp tục đơn giản hóa quy
trình kiểm soát chi và hồ sơ yêu cầu rút vốn; tăng cường công tác hậu kiểm
trong giải ngân vốn đầu tư công. Triển khai đơn rút vốn của các nhà tài trợ bằng
chứng từ điện tử, chữ ký số; chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn
trương hướng dẫn các cơ quan chủ quản, chủ đầu tư giải quyết các vướng mắc về
thuế, thủ tục thanh toán, rút vốn... đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay
ưu đãi nước ngoài; có cơ chế tạo thuận lợi cho việc nhập khẩu vật tư, trang thiết
bị của các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài; đẩy nhanh tiến độ
ký kết các hiệp định vay vốn, hợp đồng vay lại.
+ Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì, trao đổi với
các nhà tài trợ về các nội dung của ý kiến pháp lý, đảm bảo phù hợp với quy định
của pháp luật và hài hòa giữa hai bên, do cơ quan chủ quản không thể trao đổi với
nhà tài trợ.
+ Các Bộ, ngành và địa phương phối hợp chặt
chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan và nhà tài
trợ để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.
+ Các Bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh hoàn
thiện thủ tục đầu tư (thiết kế kỹ thuật, dự toán...); bố trí đủ vốn đối ứng, đẩy
nhanh hoàn thành thủ tục để ký, trao hợp đồng cho các gói thầu.
- Về công tác thu hút, vận động, tổ chức thực
hiện dự án:
+ Cung cấp kịp thời thông tin cho cơ quan chủ
quản: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp thông tin về các lĩnh vực, khu vực ưu tiên
và tài khóa của nhà tài trợ; Bộ Tài chính cung cấp thông tin về khả năng vay trả
nợ của quốc gia, của từng địa phương. Căn cứ các thông tin trên và quy định về
quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi, các bộ, ngành và địa phương xây dựng
đề xuất dự án phải nằm trong cân đối tổng thể đầu tư công trung hạn và nợ công
trung hạn, phù hợp với khả năng vay lại của các địa phương và đảm bảo tính hiệu
quả của chương trình, dự án.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan tiếp tục trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài nhằm
tăng cường công tác vận động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và vốn
vay ưu đãi.
+ Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện dự án
ODA, vay ưu đãi nước ngoài ở các cấp từ cơ quan chủ quản, chủ đầu tư, ban quản
lý dự án và đội ngũ cán bộ quản lý dự án.
Chính phủ trân trọng báo cáo và xin nghiêm
túc tiếp thu ý kiến của Quốc hội về việc thực hiện Nghị quyết số 41/2021/QH15 của
Quốc hội khóa XV./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
- Chủ tịch Quốc hội;
- Hội đồng dân tộc của Quốc hội;
- Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Tổng Thư ký Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội: HC (5b), PVHĐGS;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký của TTg và các PTTg, các Vụ, Cục: CN,
NN, ĐMDN, KTTH, KGVX, NC, PL, TCCV, V.I, KSTT, TH, TKBT, Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, QHĐP (2b).
|
TM.CHÍNH PHỦ
TUQ.THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
Trần Văn Sơn
|