Trong những năm gần đây, người lao động có xu hướng nhận bảo hiểm xã hội một lần ngày càng nhiều. Vậy việc nhận bảo hiểm xã hội một lần có những thiệt thòi gì? Bài viết dưới đây sẽ chỉ ra một số thiệt thòi khi người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần:
>> Có việc làm nhưng vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp thì có bị phạt không?
>> Mức bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động năm 2022
Theo quy định tại điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 được sửa đổi, bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019 có quy định đối tượng được hưởng lương hưu như sau:
"Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của này, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động;
b) Đủ tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021;
c) Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;
d) Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao"
Do đó, khi người lao động quyết định nhận bảo hiểm xã hội một lần thì có thể không còn đáp ứng đủ điều kiện nhận lương hưu.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định 108/2021/NĐ-CP có quy định về mức điều chỉnh lương hưu như sau:
"1. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 điều chỉnh tăng thêm 7,4% trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của tháng 12 năm 2021 đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này.
2. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, điều chỉnh tăng thêm đối với các đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này, cụ thể như sau: Tăng thêm 200.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng từ 2.300.000 đồng/người/tháng trở xuống; tăng lên bằng 2.500.000 đồng/người/tháng đối với những người có mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng từ 2.300.000 đồng/người/tháng đến dưới 2.500.000 đồng/người/tháng.
3. Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng sau khi điều chỉnh theo quy định tại Điều này là căn cứ để tính điều chỉnh lương hưu, trợ cấp ở những lần điều chỉnh tiếp theo."
Do đó, khi người lao động đã mất cơ hội nhận lương hưu hàng tháng thì người lao động đồng thời không nhận được những khoản tiền tăng thêm do điều chỉnh lương hưu hàng năm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định 146/2018/NĐ-CP thì người hưởng lương hưu sẽ thuộc đối tượng được cơ quan bảo hiểm xã hội đóng phí bảo hiểm y tế. Nhưng do người lao động đã nhận bảo hiểm xã hội một lần dẫn đến mất cơ hội nhận lương hưu. Vì vậy, người lao động cũng mất luôn cơ hội được cơ quan bảo hiểm xã hội đóng thay phí bảo hiểm y tế.
Theo quy định tại điều 5 Quyết định 595/QĐ-BHXH thì tổng mức đóng BHXH là 22% trong đó, người lao động đóng 8% và người sử dụng lao động đóng 14% ; tổng mức đóng vào quỹ BHXH hằng năm bằng 2,64 tháng lương.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có quy định mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần như sau:
“Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm được tính như sau:
a) 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm đóng trước năm 2014;
b) 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm đóng từ năm 2014 trở đi”
Căn cứ theo quy định trên nếu người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần thì số tiền người lao động nhận được sẽ thấp hơn số tiền đã đóng vào quỹ từ 0.64 đến 1.14 tháng lương cho mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có quy định về trợ cấp mai táng như sau:
"Những người sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận một lần trợ cấp mai táng:
a) Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này đang đóng bảo hiểm xã hội hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà đã có thời gian đóng từ đủ 12 tháng trở lên;
b) Người lao động chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời gian điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
c) Người đang hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc."
Do đó khi người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần thì sau khi chết người thân không được nhận tiền trợ cấp mai táng.
Theo quy định tại điều 67 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, quy định về các trường hợp hưởng trợ cấp tử tuất hàng tháng như sau:
"1. Những người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:
a) Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần;
b) Đang hưởng lương hưu;
c) Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61 % trở lên.
2. Thân nhân của những người quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm:
a) Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang mang thai;
b) Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ;
d) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên."
Do đó, khi người lao động đã nhận bảo hiểm xã hội một lần thì không còn cơ hội được hưởng lương hưu. Khi này người lao động không thuộc trường hợp khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng. Dẫn đến thân nhân mất cơ hội được nhận trợ cấp tử tuất hàng tháng.
Trên đây là một số quy định và thông tin về Những thiệt thòi khi người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần. Nếu còn thắc mắc khác, độc giả vui lòng để lại câu hỏi tại đây.
Căn cứ pháp lý: