|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
102/TCTCCTTHC
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Tổ công tác cải cách thủ tục hành chính
|
|
Người ký:
|
Trần Văn Sơn
|
Ngày ban hành:
|
15/11/2023
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Kính gửi:
|
- Bộ trưởng các Bộ, cơ quan: Nội vụ, Tư pháp, Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên
và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và
Xã hội, Khoa học và Công nghệ, Thông tin và Truyền thông, Văn hóa thể thao và
Du lịch, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
|
Tổ công tác cải cách thủ tục
hành chính của Thủ tướng Chính phủ (sau đây viết tắt là Tổ công tác) nhận được
102 phản ánh, kiến nghị về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính là rào cản
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân
do các cơ quan thành viên Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính cung cấp (chi
tiết theo Phụ lục gửi kèm).
Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng
Chính phủ giao (Quyết định số 932/QĐ-TTg ngày 06 tháng 8 năm 2023 của Thủ tướng
Chính phủ), Tổ công tác trân trọng đề nghị Đồng chí chỉ đạo các cơ quan chức
năng khẩn trương nghiên cứu, xử lý theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền
xem xét, giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền; gửi kết quả giải quyết các phản
ánh, kiến nghị về Văn phòng Chính phủ - Cơ quan thường trực Tổ công tác trước
ngày 30 tháng 11 năm 2023 để tổng hợp, chuẩn bị tổ chức buổi làm việc giữa Tổ
công tác với các cơ quan thành viên Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành
chính, cộng đồng doanh nghiệp trước khi báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Trân trọng cảm ơn sự phối hợp của
các Đồng chí./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- TTgCP, PTTg Trần Lưu Quang (để b/c);
- Thành viên Tổ công tác CCTTHC;
- Thành viên Hội đồng tư vấn CCTTHC;
- VPCP: BTCN, các PCN,
các Vụ, Cục: KSTT, CN, NN, KTTH, NC, PL, KGVX, TCCV, TH, ĐMDN, QHĐP;
- Lưu: VT, TCTCCTTHC (02b).
|
KT. TỔ TRƯỞNG
TỔ PHÓ THƯỜNG TRỰC
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
Trần Văn Sơn
|
PHỤ LỤC
TỔNG HỢP NHỮNG PHẢN ÁNH, KIẾN NGHỊ CỦA CÁC CƠ QUAN THÀNH
VIÊN HỘI ĐỒNG TƯ VẤN CẢI CÁCH TTHC
(Kèm theo Văn bản số 102/TCTCCTTHC ngày 15 tháng 11 năm 2023 của Tổ công tác
cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ)
Số TT
|
Đơn vị có phản ánh, kiến nghị
|
Nội dung phản ánh
|
Đề xuất, kiến nghị
|
I
|
Nội
vụ
|
1
|
Liên đoàn Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI)
|
Theo khoản 2
Điều 1 Luật lưu trữ 2011 "Luật này áp dụng đối với cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức)
và cá nhân".
Luật không giải thích thuật
ngữ "tổ chức kinh tế" tuy nhiên về mặt ngôn ngữ cũng như tham khảo
giải thích thuật ngữ này tại Luật đầu tư 2020 thì Tổ chức kinh tế bao gồm cả
Doanh nghiệp nói chung. Do vậy, đối tượng áp dụng của Luật lưu trữ 2011 bao gồm
tất cả các thành phần doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nội dung các quy định
trong Luật lưu trữ không phù hợp với doanh nghiệp ngoài Nhà nước, Luật dành hẳn
một số điều quy định về lưu trữ cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp Nhà nước,
nhưng không có bất cứ điều khoản nào quy định riêng về lưu trữ của doanh nghiệp
ngoài Nhà nước. Báo cáo rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến Luật lưu
trữ 2011 của Bộ nội vụ cũng khẳng định "Luật Lưu trữ năm 2011 chưa quy định
đến tổ chức lưu trữ tư và quản lý tài liệu lưu trữ tư (tài liệu hình thành
trong hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế...)". Nhiều
doanh nghiệp lúng túng không rõ có thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật lưu trữ
2011 và các văn bản hướng dẫn dưới luật không.
|
Cần có quy định làm rõ đối tượng
áp dụng của Luật lưu trữ có điều chỉnh hoạt động lưu trữ của các doanh nghiệp
ngoài Nhà nước không? Nếu có cần có những quy định cụ thể để quy định về hoạt
động lưu trữ phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
|
II
|
Tư
pháp
|
1
|
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và
vừa
|
Hiện nay, đang có tình trạng
các cơ quan, tổ chức lạm dụng việc yêu cầu công dân cấp phiếu lý lịch tư
pháp, gây ra tình trạng ách tắc hoặc chi phí thời gian cho công dân xin cấp
phiếu lý lịch tư pháp.
Nguyên nhân do dữ liệu chưa
có sự thông suốt giữa ngành công an và tư pháp, đặc biệt các trường hợp đã chấp
hành xong án phạt tù, trở về xã hội, khi xin phiếu lý lịch tư pháp gặp nhiều
trở ngại, đặc biệt là trong trường hợp muốn xi đi làm việc, trong khi cơ quan
tuyển dụng yêu cầu nộp phiếu lý lịch tư pháp.
|
Đề nghị các Cơ quan liên quan
cần sớm rà soát lại quy trình, thủ tục trong trường hợp nên trên, để đảm bảo
cải cách thủ tục hành chính, thực sự tiện lợi cho người dân và doanh nghiệp.
|
III
|
Kế
hoạch và Đầu tư
|
1
|
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và
vừa
|
Mục 6. Phần
III, Nghị quyết 41/NQ-TW ngày 10/10/2023 về xây dựng phát huy vai trò đội
ngũ doanh nhân trong tình hình mới, chỉ rõ: “Nhà nước nghiên cứu, tạo điều
kiện cho các tổ chức đại diện doanh nhân tham gia cung cấp một số dịch vụ
công phù hợp”.
Hiệp hội nhận thấy, Hiện nay,
chúng ta có rất nhiều Cổng thông tin điện tử hỗ trợ doanh nghiệp thuộc các
Ngành lĩnh vực khác nhau, đều mang tính chất quốc gia[1].
Các cổng thông tin này đều do Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc thiết lập,
duy trì vận hành. Tuy nhiên, việc duy trì vận hành nếu do Cơ quan Nhà nước thực
hiện sẽ gặp phải những hạn chế bất cập sau: i) Nhà nước phải duy trì một bộ
máy để trả lương vận hành, duy trì; ii) Nguồn thông tin doanh nghiệp bị thiếu,
không đa dạng; iii) Hiện nay, chưa có cơ chế để huy động nguồn lực bên ngoài
tham gia do đang sử dụng ngân sách nhà nước.
|
Chúng ta cần mạnh dạn thực hiện
chuyển giao việc thiết lập, duy trì, vận hành một số Cổng thông tin về hỗ trợ
doanh nghiệp. Việc chuyển giao này có thể theo Cơ chế giao việc thường xuyên,
hoặc theo cơ chế đấu thầu. Nhà nước thực hiện vai trò xây dựng tiêu chí, kiểm
tra, giám sát và kích hoạt vốn mồi. Các Tổ chức đại diện doanh nghiệp sẽ thực
hiện theo nhiệm vụ được giao hoặc thông qua đấu thầu, nhằm phát huy hiệu quả
tác dụng của Cổng thông tin hỗ trợ. Đây là có thể coi là bước đột phá thực hiện
việc chuyển giao một số dịch vụ công đơn giản sang cho các tổ chức Hội/đoàn
thể thực hiện.
|
2
|
VCCI
|
Luật Đầu tư, Nghị định
31/2021/NĐ-CP , Thông tư số 03/2021/TT-BKHĐT không quy định hoặc đặt ra giới hạn
về việc Nhà đầu tư chỉ được thực hiện đầu tư, kinh doanh ra nước ngoài trong
phạm vi ngành nghề kinh doanh mà Nhà đầu tư đã đăng ký trong nước;
Theo quy định Điều
51, 53, 54 Luật Đầu tư năm 2020, Nhà đầu tư được phép và được khuyến
khích đầu tư ra nước ngoài đảm bảo tuân thủ pháp luật Việt Nam (ví dụ về
ngành nghề, lĩnh vực đầu tư không rơi vào trường hợp bị cấm tại Điều
6 Luật Đầu tư 2020) và phù hợp với quy định của nước tiếp nhận đầu tư. Bên
cạnh đó, theo hướng dẫn tại mẫu BI1 Thông tư 03/2021/TT-BKHĐT thì mục tiêu của
dự án do Nhà đầu tư tự xác định.
Trong thực tiễn, cơ quan chủ
quản có xu hướng yêu cầu Nhà đầu tư phải đăng ký ngành nghề kinh doanh (tại
Việt Nam) tương thích với mục tiêu đầu tư của dự án đầu tư ra nước ngoài
(ĐTRNN). Thực tế này đã gây khó khăn cho Nhà đầu tư khi tìm kiếm, mở rộng cơ
hội đầu tư trong các ngành, nghề, lĩnh vực tiềm năng. Vì Nhà đầu tư dễ dàng
đáp ứng quy định của nước tiếp nhận đầu tư nhưng lại mất thời gian sửa đổi giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hồ sơ pháp lý trong nước để đáp ứng yêu cầu
trong nước. Đặc biệt, có những ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện
theo quy định của Việt Nam (việc xin cấp phép rất phức tạp và mất thời gian)
nhưng, ở nước tiếp nhận lại đơn giản và có thể đáp ứng dễ dàng.
|
Đề nghị quy định theo hướng bộ
chủ quản và/hoặc các cơ quan liên quan trong quá trình phê duyệt, cho phép:
Nhà đầu tư được xác định mục tiêu của dự án, lựa chọn ngành, nghề đầu tư phù
hợp với tinh thần, quy định của Luật đầu tư 2020 để tận dụng được các cơ hội
đầu tư, kinh doanh; hoặc Ở mức độ kiểm soát cao hơn, xem xét chỉ yêu cầu đồng
bộ hóa ngành nghề kinh doanh của Nhà đầu tư tại Việt Nam đối với mục tiêu
chính của dự án ĐTRNN, còn đối với các mục tiêu kinh doanh bổ trợ, không
chính yếu khác thì không áp dụng yêu cầu này.
|
3
|
VCCI
|
Luật Đầu tư và các văn bản hướng
dẫn thi hành không quy định rõ mục tiêu đầu tư của Nhà đầu tư thực hiện ĐTRNN
có phải là: (1) phạm vi đầu tư kinh doanh dự án hay (2) ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh của Doanh nghiệp dự án tại nước ngoài.
Thực tế, doanh nghiệp khi đầu
tư tại nước ngoài, thường gắn liền với việc thành lập Doanh nghiệp dự án hoạt
động độc lập theo pháp luật nước tiếp nhận đầu tư. Hoạt động kinh doanh chính
của doanh nghiệp này là dịch vụ viễn thông. Bên cạnh đó, Doanh nghiệp còn thực
hiện thêm các dịch vụ giá trị gia tăng trên hạ tầng viễn thông (ví dụ: dịch vụ
ví điện tử, dịch vụ chuyển tiền, các trò chơi ...) khi được cơ quan có thẩm
quyền tại nước tiếp nhận đầu tư cho phép.
Việc pháp luật tại Việt Nam
không quy định rõ ràng khiến cho Nhà đầu tư khó xác định trong trường hợp nào
cần phải điều chỉnh mục tiêu của dự án, trong khi nếu thay đổi mục tiêu chính
của dự án thì cần phải có sự chấp thuận về chủ trương của Thủ tướng Chính phủ
(Điều 63 Luật đầu tư 2020).
|
Đề nghị quy định rõ: Mục tiêu
của dự án không đồng thời là ngành nghề kinh doanh của Doanh nghiệp dự án tại
nước ngoài, mà là định hưởng kinh doanh chính của Nhà đầu tư khi thực hiện dự
án tại nước ngoài. Doanh nghiệp dự án tại nước ngoài được hoạt động kinh
doanh theo pháp luật nước tiếp nhận đầu tư và được kinh doanh các ngành nghề,
lĩnh vực mà cơ quan có thẩm quyền nước tiếp nhận đầu tư cho phép.
|
4
|
VCCI
|
Theo quy định tại Khoản 23 Điều 3 của Luật đầu tư “Vốn đầu tư là tiền và tài sản
khác theo quy định của pháp luật về dân sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để thực hiện hoạt động đầu tư
kinh doanh.”
Theo quy định khoản
2 Điều 5 Nghị định 10/2021/NĐ-CP quy định về các chi phí có trong nội
dung của tổng mức đầu tư xây dựng như sau: “Nội dung tổng mức đầu tư xây dựng,
gồm: chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (nếu có); chi phí xây dựng;
chi phí thiết bị; chi phí quản lý dự án; chi phí tư vấn đầu tư xây dựng; chi
phí khác; chi phí dự phòng”
Trên thực tế có nhiều quan điểm
trái chiều giữa việc khi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ
trương đầu tư thì tổng mức đầu tư có bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
hay không. Vì các quy định của pháp luật chưa thực sự rõ ràng gây lúng túng
cho các chủ đầu tư trong quá trình triển khai dự án.
|
- Quy định thống nhất, làm rõ
khái niệm “vốn đầu tư” theo pháp luật đầu tư và “Tổng mức đầu tư” theo pháp
luật xây dựng.
- Quy định rõ về việc Tổng mức
đầu tư có bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hay không để chủ đầu tư áp
dụng pháp luật một cách thống nhất.
|
5
|
VCCI
|
Theo điểm d
khoản 2 điều 138 ĐHĐCĐ sẽ quyết định các hợp đồng bán tài sản có giá trị
từ 35% tổng giá trị tài sản ghi trong BCTC gần nhất của Công ty.Trong khi điểm h khoản 1 điều 153 lại quy định HĐQT có quyền thông qua
các hợp đồng bán có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản ghi trong Báo cáo tài
chính gần nhất của Công ty, trừ hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền của
ĐHĐCĐ quyết định theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 138.
Như vậy, cả hai quy định đều
có nội dung đề cập đến hợp đồng bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị
tài sản công ty ghi trong BCTC gần nhất, nhưng lại thuộc thẩm quyền của 02 cơ
quan khác nhau. Nếu sau khi loại trừ các hợp đồng bán tài sản thuộc thẩm quyền
ĐHĐCĐ quy định tại điểm d khoản 2 điều 138 LDN 2020 thì sẽ
không còn bất cứ hợp đồng bán tài sản nào thuộc thẩm quyền của HĐQT cả.
Nhiều doanh nghiệp đặt câu hỏi:
Công ty sản xuất bán lô hàng cho khách hàng trị giá bằng 35% tổng giá trị tài
sản trong BCTC gần nhất của Công ty chỉ cần HĐQT thông qua là được hay có bắt
buộc phải được ĐHĐCĐ quyết định cho bán. Đây là câu hỏi có nhiều câu trả lời
khác nhau tùy theo cách hiểu của mỗi người khi tiếp cận các quy định nêu
trên.
|
Cần có hướng dẫn cụ thể xác định
đối tượng của "hợp đồng bán” tại điều 153.2.h và
"bán tài sản” tại điều 138.2.d là khác nhau.
Theo đó "bán tài sản” tại
điểm d khoản 2 điều 138 Luật doanh nghiệp 2020 là
"bán tài sản cố định” của doanh nghiệp thì giá trị 35% tổng giá trị tài
sản ghi trong BCTC cân DHCD quyết định. Còn "hợp đồng bản” tại điểm h khoản 2 điều 153 Luật doanh nghiệp 2020 là các loại
tài sản khác, như hàng hóa do doanh nghiệp sản xuất ra mục đích để bán.
|
6
|
VCCI
|
Theo quy định tại khoản 1 điều 195 LDN 2020: "1. Một công ty được coi là
công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ
hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty đó;
b) Có quyền trực tiếp hoặc
gián tiếp quyết định bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa
đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó.
Quy định tại điểm b, c nêu
trên phù hợp trong mô hình Công ty cổ phần khi có nhóm cổ đông nắm giữ cổ phần
ưu đãi biểu quyết. Theo đó, họ không nắm giữ trên 50% cổ phần phổ thông nhưng
các cổ phần của họ có quyền ưu đãi biểu quyết nên nhóm cổ đông này sẽ có các
quyền tại điểm b, c.
Mặc dù vậy, không ít doanh
nghiệp chưa cảm thấy thuyết phục với các giải thích này. Họ cho rằng nếu như
vậy LDN 2020 chỉ cần quy định rõ Công ty mẹ nắm giữ trên 50% cổ phần có quyền
biểu quyết là được, tại sao phải quy định như các điểm b, c nêu trên. Thông
qua quy định trên, nhiều doanh nghiệp hiểu một cách gián tiếp Công ty mẹ có
quyền trực tiếp bổ nhiệm thành viên HĐQT, TGĐ hoặc có quyền sửa đổi điều lệ.
Cách hiểu này mâu thuẫn với các quy định tại:
Theo khoản 2
điều 138 LDN 2020 quyền bổ nhiệm thành viên HĐQT và sửa đổi điều lệ là
quyền của DHDCĐ.
Theo khoản 2
điều 153 LDN 2020 thẩm quyền bổ nhiệm TGĐ/GĐ là quyền của HĐQT.
Theo khoản 1
điều 196 LDN 2020 Công ty mẹ chỉ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty
con.
Theo 03 quy định nêu trên
Công ty mẹ không thể bổ nhiệm thành viên HĐQT, TGĐ/Giám đốc; không thể sửa đổi,
bổ sung điều lệ của Công ty con được.
|
Việc quy định các điểm b, c
là không cần thiết, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Theo đó, LDN chỉ nên sửa
lại điểm a "Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 50% số phiếu
biểu quyết tại Công ty cổ phần" là có thể bao quát được các tình huống tại
điểm b, c. Việc sửa đổi này cũng mở rộng phạm vi Công ty mẹ là Công ty nằm kiểm
kiểm soát Công ty con tương tự như cách tiếp cận tại điều 8
Thông tư tu 202/2014/TT-BTC, không chỉ bó buộc trong việc quyền bổ nhiệm
thành viên HĐQT, TGĐ và sửa đổi điều lệ.
|
7
|
VCCI
|
Điểm a khoản
3 điều 139 LDN 2020 quy định ĐHĐCĐ có quyền thông qua Kế hoạch kinh doanh
hàng năm của Công ty. Tuy nhiên đến điểm a khoản 2 điều 153
LDN 2020 lại quy định HĐQT có quyền quyết định Kế hoạch kinh doanh hàng
năm của Công ty. Nếu HĐQT đã có quyền quyết định sao cần ĐHCĐ thông qua?Nhiều
doanh nghiệp lúng túng trong việc áp dụng quy định này.
|
Sửa đổi theo hướng HĐQT có
quyền xây dựng hoặc thẩm định, phê duyệt kế hoạch kinh doanh hàng năm do Tổng
giám đốc/Giám đốc trình lên, trước khi trình DHCD thông qua.
|
8
|
VCCI
|
Theo quy định tại khoản 3 điều 170 LDN 2020 Ban kiểm soát có quyền/nghĩa vụ thẩm
định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình kinh doanh,
báo cáo tài chính hằng năm và 06 tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác
quản lý của HĐQT và trình báo cáo thẩm định tại cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên.
Tuy nhiên đến khoản 1 điều 175 lại quy định HĐQT có nghĩa
vụ trình Báo cáo thẩm định của Ban kiểm soát trước ĐHĐCĐ.
|
Cần quy định thống nhất Chủ
thể trình Báo cáo thẩm định của Ban Kiểm soát trước ĐHĐCĐ theo hướng bỏ quy định
nghĩa vụ của HĐQT trình báo cáo thẩm định BKS trước ĐHĐCĐ.
|
9
|
VCCI
|
Quy định quyền xác lập giao dịch
dân sự của Người đại diện theo pháp luật tại khoản 1 điều 12
LDN 2020 và điều 142 BLDS 2015. Theo khoản
1, 2 điều 142 BLDS 2015: 1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây: a) Quyết định của cơ
quan có thẩm quyền; b) Điều lệ của pháp nhân; c) Nội dung ủy quyền; d) Quy định
khác của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định
được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại
diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi
ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo khoản 1
điều 12 LDN 2020: "Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là
cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu
giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật"
Như vậy, khác biệt là
trong khi theo BLDS quy định Người đại diện sẽ xác lập các giao dịch dân sự.
Còn Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2020 đại diện thực
hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, không thấy đề cập đến quyền
xác lập giao dịch. Chính vì vậy, điểm e khoản 2 điều 82 LDN
2020 quy định TGĐ/Giám đốc có quyền ký các hợp đồng không thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch mà không phụ thuộc vào việc TGĐ đó có phải Người đại diện hay
không.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp
hiểu theo cách hiểu của BLDS 2015 là Người đại diện mới có quyền đại diện xác
lập (ký kết) các giao dịch. TGĐ mà không phải Người đại diện, thường đối tác
sẽ yêu cầu phải có ủy quyền của Người đại diện theo pháp luật (Chủ tịch) thì
họ mới đồng ý ký kết hợp đồng.
|
Cần sửa đổi LDN theo hướng thống
nhất với BLDS là Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập tất cả các
giao dịch của công ty, trừ trường hợp pháp luật quy định việc xác lập giao dịch
đó thuộc chủ thể khác.
|
10
|
VCCI
|
Khoản 1 Điều
3 Luật Đầu tư quy định: Chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, tiến độ, thời hạn
thực hiện dự án: nhà đầu tư hoặc hình thức lựa chọn nhà đầu tư và các cơ chế,
chính sách đặc biệt (nếu có) để thực hiện dự án đầu tư.
Khoản 3 Điều
4 Luật Đầu tư quy định: Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư
và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về
trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh, bảo đảm đầu tư thì thực hiện theo quy định
của Luật Đầu tư, trừ các trường hợp sau đây:
a) Việc đầu tư, quản lý, sử dụng
vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;
b) Thẩm quyền, trình tự, thủ
tục đầu tư công và việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư công thực hiện theo quy định
của Luật Đầu tư công:
c) Thẩm quyền, trình tự, thủ
tục đầu tư, thực hiện dự án; pháp luật điều chỉnh hợp đồng dự án; bảo đảm đầu
tư, cơ chế quản lý vốn nhà nước áp dụng trực tiếp cho dự án đầu tư theo
phương thức đối tác công tư thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư;
d) Việc triển khai dự án đầu
tư xây dựng, nhà ở, khu đô thị thực hiện theo quy định của Luật Xây dựng, Luật
Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền
chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư theo
quy định tại Luật Đầu tư.
Thực tế: Luật Đầu tư;
Luật Xây dựng; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh tại doanh nghiệp chưa có quy định về trình tự, thủ tục lập, thẩm định,
phê duyệt/chấp thuận chủ trương đầu tư và lập. thẩm định, phê duyệt quyết định
đầu tư các Dự án tham gia cùng các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên thế
giới để đầu tư hệ thống cáp quang biển, các Dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước (sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công) không phải dự án Đầu tư xây dựng
(dự án mua sắm tài sản không có cấu phần xây dựng), dự án PPP, dự án đầu tư
công
|
Đề nghị ban hành quy định, hướng
dẫn thực hiện đối với một số loại dự án tham gia đầu tư cáp quang biển, các dự
án đầu tư mua sắm tài sản không có cấu phần xây dựng sử dụng vốn của Doanh
nghiệp nhà nước để đảm bảo hành lang pháp lý do doanh nghiệp thực hiện.
|
IV
|
Tài
chính
|
1
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ
Chính trị ngày 16/7/2017 có chính sách phù hợp về thuế sử dụng đất và tiền
thuế đất đối với các dự án du lịch có hệ số sử dụng đất cho xây dựng thấp và
hạn chế chiều cao,....Tuy nhiên cho đến nay nội dung này cơ bản chưa thực hiện,
thuế sử dụng đất cho các công trình du lịch ở nhiều nơi còn tăng cao.
|
Có chính sách phù hợp về thuế
sử dụng đất và tiền thuế đất đối với các dự án du lịch có hệ số sử dụng đất
cho xây dựng thấp và hạn chế chiều cao…
|
2
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Nghị quyết số 44/2023/NĐ-CP
ngày 30/06/2023 của Chính phủ quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng:
Tuy ngành Du lịch đang từng bước phục hồi, nhưng do tình hình phức tạp của
chính trị thế giới và một số khó khăn kinh tế của nước ta, Du lịch Việt Nam
phục hồi chậm, việc thu hút khách quốc tế rất khó khăn, nhiều khách sạn cao cấp
còn chưa mở cửa, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn yếu
so với các nước trong khu vực
|
Nguyện vọng của các doanh
nghiệp du lịch mong muốn Chính phủ cho giảm tiếp thuế giá trị gia tăng 2% đến
hết tháng 06/2024.
|
3
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Thông tư số 44/2023/TT-BTC của
Bộ Tài chính ban hành ngày 29/06/2023 quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí
nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp: Điều 1, Mục 6 có
quy định giảm 50% phí thẩm định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc
tế, nội địa, cấp thẻ Hướng dẫn viên, Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện tại
Việt Nam của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài; thời hạn đến
31/12/2023.
|
Hiệp hội Du lịch Việt Nam đề
nghị Bộ Tài chính cho phép tăng thời hạn thực hiện Điều 1, Mục
6 nêu trên đến hết 31/12/2024.
|
4
|
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam (VASEP)
|
Sau nhiều năm vướng mắc liên
quan việc áp mức thuế TNDN cao tới 20% tại Cục thuế nhiều địa phương do Cục
thuế xác định sản phẩm thủy sản là từ “hoạt động sơ chế”, sau kiến nghị của
VASEP và tham vấn ý kiến của Bộ NNPTNT, Bộ KHĐT thì ngày 12/3/2021 Bộ Tài
chính đã ban hành văn bản số 2550/BTC-TCT v/v chính sách thuế TNDN gửi Bộ
NNPTNT và VASEP, đã xác định rõ “là hoạt động chế biến thủy sản” làm căn cứ để
các Cục thuế xác định ưu đãi thuế TNDN theo quy định hiện hành.
|
Kiến nghị: Bộ Tài chính sớm
đưa nội dung xác định trên vào văn bản QPPL để thực hiện thống nhất theo tinh
thần văn bản số 2550/BTC-TCT ngày 12/3/2021 của Bộ Tài chính.
|
5
|
Ban Nghiên cứu Phát triển
Kinh tế tư nhân (Ban IV)
|
Theo phản ánh của các doanh nghiệp
sản xuất bông sợi, thời gian gần đây, một số doanh nghiệp nhập một số loại
bông rơi chải thô và bông được làm sạch từ bông rơi chải thô, để làm nguyên
liệu cho sản xuất sợi OE (sợi sử dụng nguyên liệu bông cấp thấp, xơ, ngắn) bị
cơ quan hải quan chuyển sang luồng đỏ, kiểm hóa, lấy mẫu kiểm định và áp mã
HS 5202: Phế liệu bông (nhóm hàng hóa thuộc danh mục phế liệu không được phép
nhập khẩu). Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp sản xuất bông sợi, nhất là khi nguồn nguyên liệu trong nước
không đủ đáp ứng cho sản xuất.
Mặt khác, trong giai đoạn khó
khăn của ngành sợi hiện nay, các doanh nghiệp chỉ nhập nguyên liệu vừa đủ để
duy trì sản xuất, việc kiểm hóa, kiểm định, thông quan kéo dài sẽ làm tăng
chi phí lưu công, lưu bãi và làm trì trệ hoạt động sản xuất của nhà máy do
thiếu nguyên liệu, ảnh hưởng đến việc làm của người lao động.
Nguyên nhân, bất cập:
Hiện một số chi cục kiểm định
và hải quan áp nhóm HS 5202
- Phế liệu bông - đối với
bông rơi chải thô.
Cách áp dụng này được cho là
chưa phù hợp với bản chất hàng hóa. Cụ thể:
Các loại bông rơi chải thô đều
là xơ bông được lọc và phân loại cẩn thận ngay từ đầu tại từng công đoạn cụ
thể, có cùng tính chất với bông nguyên nhưng vì được lọc ra cùng với quá
trình giảm bớt tạp chất do đó tỷ lệ tạp cao hơn so với bông nguyên. Các loại
bông này vẫn tiếp tục được sử dụng trong các công đoạn sản xuất sợi tiếp theo
và là thành phần nguyên liệu chính cho quá trình sản xuất sợi OE, không thể
coi là phế liệu.
|
Đề xuất Tổng cục Hải quan hướng
dẫn các cục/chi cục hải quan địa phương và các đơn vị chức năng liên quan thống
nhất áp dụng nhóm mã HS phù hợp cho từng loại bông rơi (mã HS nhóm 5201 và
5203) mà doanh nghiệp nhập khẩu để sản xuất loại sợi OE.
Ngoài ra, đối với các trường
hợp doanh nghiệp đã có tờ khai nhập khẩu những loại bông rơi trên hiện đang bị
phân luồng đỏ, kiểm hóa, kiểm định và áp mã HS 5202, đề nghị Tổng cục Hải
quan xem xét hướng dẫn các chi cục hải quan địa phương áp lại mã phù hợp và sớm
cho thông quan hàng hóa.
|
6
|
VCCI
|
Luật 69/2014/QH13 quy định việc
chuyển nhượng vốn đầu tư của doanh nghiệp tại công ty cổ phần chưa niêm yết
hoặc chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thì thực hiện đấu giá
công khai. Trường hợp đấu giá công khai không thành công thì thực hiện chào
bán cạnh tranh. Trường hợp chào bán cạnh tranh không thành công thì thực hiện
theo phương thức thỏa thuận (Điều 31.2.c Luật 69/2014/QH13).Đồng
thời, việc thoái vốn “đảm bảo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch.” (điểm c, Điều 1, điều 31 Luật 69/2014/QH13)
Nghị định 91/2015/NĐ-CP được
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 32/2018/NĐ-CP và Nghị định 140/2020/NĐ-CP quy
định về trình tự, thủ tục và các nội dung liên quan đến việc bán đấu giá cổ
phần.
Các bước quy trình, thủ tục
thực hiện thoái vốn tại Nghị định 91/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định 32/2018/NĐ-CP và Nghị định 140/2020/NĐ-CP chỉ có thể áp dụng với các
giao dịch chuyển nhượng cổ phần thực hiện tại Việt Nam vì quy định các bước
thực hiện, các cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thực hiện chuyển nhượng cổ
phần là các cơ quan, tổ chức thành lập và hoạt động tại Việt Nam. không tương
thích và phù hợp với việc chuyển nhượng cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam ở
nước ngoài. Do vậy, về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện chưa có văn bản quy định
về hình thức, cơ chế thoái vốn tại các dự án nước ngoài.
Về nguyên tắc thoái vốn: Đối
với các dự án tại nước ngoài, ngoài mục đích đầu tư, kinh doanh, dự án còn
đóng vai trò trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Việc công bố thông tin
công khai, rộng rãi ra công chúng về việc đấu giá thoái vốn của Nhà đầu tư tại
dự án nước ngoài sẽ tạo ra hiệu ứng không tốt đối với quan hệ của công ty với
chính quyền nước sở tại và tác động đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Do
vậy, Nhà đầu tư ưu tiên không công bố thông tin thoái vốn rộng rãi ra công
chúng trước khi thoái vốn thành công. Vì lý do này, nguyên tắc thoái vốn phải
bắt đầu từ hình thức đấu giá công khai đối với dự án tại nước ngoài theo đánh
giá của doanh nghiệp là không phù hợp.
Luật Đầu tư năm 2020 quy định,
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của
Luật Đầu tư, quy định khác của pháp luật có liên quan và pháp luật của quốc
gia tiếp nhận đầu tư (Điều 51). Theo phản ánh, tại các nước
mà doanh nghiệp đầu tư, pháp luật tại nước sở tại không giới hạn hình thức
nhà đầu tư được thoái vốn.
Theo thông lệ quốc tế, việc
mua bán sáp nhập doanh nghiệp thường thực hiện theo các quy trình tiêu chuẩn
do đơn vị tư vấn chuyên nghiệp thực hiện. Việc M&A có thể thực hiện thông
qua đấu giá ở quy mô giới hạn. Theo đó, toàn bộ quy trình vẫn hướng tới
nguyên tắc thị trường, cạnh tranh, minh bạch (có định giá độc lập, toàn bộ việc
cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư được thống nhất và thực hiện thông qua
đơn vị tư vấn, việc tiếp nhận và đánh giá các bản chào của các nhà đầu tư thực
hiện theo tiêu chí chung...).
|
Pháp luật Việt Nam hiện hành
chưa có quy định hướng dẫn cách thức, trình tự, thủ tục và các nội dung khác
liên quan đến chuyển nhượng cổ phần của doanh nghiệp nhà nước tại các công ty
con hoạt động theo pháp luật nước ngoài. Nguyên tắc bắt buộc thoái vốn thông
qua đấu giá công khai tại nước ngoài là không phù hợp với thực tế. Do vậy,
doanh nghiệp đề xuất xem xét bỏ nguyên tắc thoái vốn thông qua đấu giá công
khai đối với dự án tại nước ngoài; đồng thời có cơ chế, hành lang pháp lý đối
với các thủ tục quy trình cho nội dung này đảm bảo việc thoái vốn an toàn, hiệu
quả.
|
7
|
VCCI
|
Luật số 71/2014/QH13 đã đưa mặt
hàng phân bón vào diện không chịu thuế GTGT, với mục đích ban đầu nhằm giảm
chi phí cho nông dân. Tuy nhiên khi triển khai thực hiện đã gây rất nhiều bất
cập, cụ thể:
- Luật 71 đã vô hình trung hỗ
trợ, khuyến khích hàng nhập khẩu, giảm cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước.
Giá thành sản xuất phân bón của các doanh nghiệp sản xuất trong nước tăng lên
do không được hoàn thuế đầu vào (trong khi thuế đầu vào của hầu hết các
nguyên liệu, vật tư là 10%), toàn bộ chi phí thuế đầu vào sẽ phải cộng vào
chi phí sản xuất. Nhưng các doanh nghiệp lại không thể tăng giá bán ra của
phân bón được, bởi lẽ giá phân bón tăng hay giảm lại là do yếu tố cung cầu và
thị trường quyết định, việc áp thuế GTGT không ảnh hưởng đến giá phân bón.
- Thuế nhập khẩu phân bón từ
các nước ASEAN bằng 0%, khi nhập vào Việt Nam không phải chịu thuế nhập khẩu,
lại không phải chịu thuế GTGT. Như vậy, nhà nhập khẩu phân bón sẽ có lợi thế
cạnh tranh hơn các nhà sản xuất trong nước (do nhà nhập khẩu phân bón không
có VAT đầu vào). Đây là điều bất bình đẳng giữa nhà sản xuất trong nước và
nhà nhập khẩu phân bón trên chính thị trường nội địa.
- Hạn chế đầu tư các dự án mới
sản xuất phân bón có chất lượng cao, phân bón thế hệ mới. Khi phân bón không
chịu thuế GTGT, toàn bộ máy móc thiết bị... hình thành tài sản trong quá
trình đầu tư không được khấu trừ thuế, phải tính vào giá trị đầu tư đã làm
cho tổng mức đầu tư dự án sản xuất phân bón tăng. Như vậy khi hoàn thành đầu
tư, vận hành nhà máy thì chi phí khấu hao, lãi vay sẽ tăng, làm tăng giá
thành phân bón, càng khó cạnh tranh hơn nữa. Điều này là yếu tố cản trở doanh
nghiệp đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chiều sâu công nghệ để ra các sản
phẩm phân bón mới có chất lượng tốt hơn.
Trong thời gian qua, các
doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước, Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Bộ
Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,... đã có rất nhiều kiến
nghị gửi Chính phủ và các Bộ, ngành để tháo gỡ khó khăn này cho doanh nghiệp.
Nếu được sửa đổi Luật 71 theo hướng đưa phân bón vào danh mục các mặt hàng chịu
thuế thì theo đánh giá sẽ có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất phân
bón và đời sống nông dân: Do yếu tố tác động đến giá phân bón là cung cầu
trên thị trường nên nếu như Luật 71 được sửa đổi theo hướng đưa phân bón từ đối
tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng chịu thuế GTGT thì mặt bằng giá
phân bón trong nước sẽ không có nhiều biến động, áp lực tăng giá từ nguyên
nhân thay đổi chính sách thuế này là không đáng kể khi hầu hết các doanh nghiệp
sản xuất phân bón trong nước đang phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt từ phân
bón nhập khẩu. Khi các doanh nghiệp sản xuất trong nước được hoàn thuế, hiệu
quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn, đây là động lực để doanh nghiệp tái đầu
tư, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
|
|
8
|
VCCI
|
Chưa có quy định về thuế suất
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) áp dụng cho hoạt động giao dịch hợp đồng quyền
chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa.
Vướng mắc cho doanh nghiệp
trong việc xác định mức thuế suất giá áp dụng cho giao dịch mua, bán hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa. Một số hoạt động, dịch
vụ có tính chất tương đồng (như hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giao dịch chứng
khoán phái sinh, dịch vụ tài chính phái sinh có giao dịch hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng tương lai) đã được xác định là đối tượng không chịu thuế GTGT.
Các Hợp đồng kỳ hạn trong thị
trường điện (dự kiến được đưa vào Luật Điện lực sửa đổi) được Bộ Tài chính xếp
vào đối tượng không chịu thuế (Chi tiết tại ý kiến góp ý của Bộ Tài chính đối
với Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Điện lực sửa đổi).
Chưa phù hợp với thông lệ quốc
tế và xu hướng áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động giao dịch mua, bán hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa:
Đánh giá hoạt động giao dịch
mua, bán hàng hóa (các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn) qua Sở Giao dịch
hàng hóa có đặc điểm của đối tượng không chịu thuế GTGT, đa phần các quốc gia
trên thế giới không áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động này. Một số nước khác
chủ trương áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0% hoặc miễn thuế.
|
Bổ sung quy định xác định hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa là đối tượng không chịu thuế
GTGT trong Đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế Giá trị gia tăng (sửa đổi).
|
9
|
VCCI
|
Luật thuế TNDN và Thông tư
200/2014/TT- BTC hướng dẫn chế độ kế toán Quy đổi tỷ giá ra đồng Việt Nam khi
xác định doanh thu, chi phí không đồng nhất giữa Luật thuế TNDN và hướng dẫn
kế toán. Điều này dẫn đến doanh nghiệp phải theo dõi nhiều loại tỷ giá, Doanh
thu Chi phí tính thuế và Doanh thu/Chi phí kế toán khác nhau gây khó khăn cho
việc xác định nghĩa vụ thuế. TNDN Thực tế cho thấy dùng tỷ giá theo cách nào
cũng không tạo ra chênh lệch số thuế thuế phải nộp lớn
|
Đề xuất đồng nhất quy định về
tỷ giá áp dụng khi quy đổi Doanh thu và Chi phí bằng ngoại tệ giữa Luật thuế
TNDN và các hướng dẫn kế toán hiện hành và trường hợp này đơn vị đề xuất theo
hướng sử dụng tỷ giá giao dịch thực tế của ngân hàng thương mại nơi doanh
nghiệp chỉ định thanh toán. Lý do: Đề xuất đồng nhất quy định về tỷ giá áp dụng
khi quy đổi Doanh thu và Chi phí bằng ngoại tệ giữa Luật thuế TNDN và các hướng
dẫn kế toán hiện hành và trường hợp này đơn vị đề xuất theo hướng sử dụng tỷ
giá giao dịch thực tế của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp chỉ định
thanh toán.
|
10
|
VCCI
|
a. Chưa có quy định về thuế
suất Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) áp dụng cho hoạt động giao dịch hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa.
b. Vướng mắc cho doanh nghiệp
trong việc xác định mức thuế suất áp dụng cho giao dịch mua, bán hợp đồng quyền
chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa.
c. Một số hoạt động, dịch vụ
có tính chất tương đồng (như hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giao dịch chứng
khoán phái sinh, dịch vụ tài chính phái sinh có giao dịch hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng tương lai) đã được xác định là đối tượng không chịu thuế GTGT.
Các Hợp đồng kỳ hạn trong thị
trường điện (dự kiến được đưa vào Luật Điện lực sửa đổi) được Bộ Tài chính xếp
vào đối tượng không chịu thuế (Chi tiết tại ý kiến góp ý của Bộ Tài chính đối
với Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Điện lực sửa đổi).
d. Chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế và xu hướng áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động giao dịch mua, bán hợp
đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn qua Sở Giao dịch hàng hóa:
Đánh giá hoạt động giao dịch
mua, bán hàng hóa (hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn) qua Sở Giao dịch
hàng hóa có đặc điểm của đối tượng không chịu thuế GTGT, đa phần các quốc gia
trên thế giới không áp dụng thuế GTGT đối với hoạt động này; một số nước khác
chủ trương áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0% hoặc miễn thuế.
|
Bổ sung quy định xác định hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa là đối tượng không chịu thuế
GTGT.
|
11
|
VCCI
|
Khoản 1, Điều
90 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 Quy định nguyên tắc lập,
quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử như sau:
“Khi bán hàng hóa, cung cấp dịch
vụ, người bán phải lập hóa đơn điện tử để giao cho người mua theo định dạng
chuẩn dữ liệu và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật về thuế,
pháp luật về kế toán, không phân biệt giá trị từng lần bán hàng hóa, cung cấp
dịch vụ.”
Như vậy, Đối với mô hình kinh
doanh trực tiếp tới người tiêu dùng như các cửa hàng tạp hóa, siêu thị tiện lợi,
điểm bán lẻ thì khối lượng giao dịch bán hàng rất lớn, giá trị nhỏ, người mua
không yêu cầu nhận hóa đơn thì quy định xuất hóa đơn theo từng giao dịch sẽ
gây thêm gánh nặng tuân thủ (bao gồm cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và tốn
kém thời gian, chi phí). Người nộp thuế hoàn toàn có thể lưu trữ dữ liệu chi
tiết để đảm bảo kê khai đầy đủ, chính xác khi được yêu cầu kiểm tra từ cơ
quan chức năng.
|
Đề xuất nên cân nhắc quy định
mức giá trị thanh toán phải xuất hóa đơn (đối với đặc thù mô hình kinh doanh
trực tiếp tới người tiêu dùng) như mức giá trị 200.000 đồng trở xuống mỗi lần
thì không phải lập hóa đơn, trừ trường hợp người mua yêu cầu lập và giao hóa
đơn. Người bán phải lập bảng kê bán lẻ hàng hóa dịch vụ trong ngày. Cuối mỗi
ngày, Cơ sở kinh doanh lập một hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn bán hàng
ghi số tiền bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong ngày thể hiện trên dòng tổng
cộng của bảng kê.
|
12
|
VCCI
|
Hiện nhiều thuật ngữ bảo hiểm
không được Luật KDBH định nghĩa, gây khó khăn trong việc nhận thức và thực hiện
các quy định pháp luật bảo hiểm.
Ngoài ra, một số thuật ngữ đã
được các Nghị định, Thông tư hướng dẫn luật KDBH quy định nhưng lại chưa được
cập nhật trong Luật KDBH như: “Bảo hiểm bảo lãnh”.
|
Cần bổ sung quy định đối với
các thuật ngữ để các đối tượng dễ dàng thực hiện và áp dụng, cụ thể đề xuất
như sau:
- Bảo hiểm bảo lãnh: là hoạt
động kinh doanh bảo hiểm theo đó doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài
chấp nhận rủi ro của người được bảo lãnh, trên cơ sở người được bảo lãnh đóng
phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bên được bảo lãnh phải nhận nợ và
hoàn trả cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài theo thỏa thuận tại
hợp đồng bảo hiểm. Các bên có thể thỏa thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm,
chi nhánh nước ngoài chỉ thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
|
13
|
VCCI
|
Về việc khôi phục hiệu lực bảo
hiểm đối với BH phi nhân thọ: Với tính chất của ngành nghề kinh doanh bảo hiểm
thì việc pháp luật chưa có các quy định cụ thể và rõ ràng về các trường hợp
cho phép Bên mua bảo hiểm và Doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận khôi phục hiệu
lực Hợp đồng bảo hiểm đã và đang gây ra rất nhiều những khó khăn cho cả DNBH
trong việc bán bảo hiểm và BMBH về quyền lợi bảo hiểm. Thực tế, trong nhiều
trường hợp HĐBH đã chấm dứt do BMBH đóng trễ phí nhưng chưa phát sinh sự kiện
bảo hiểm. Trường hợp này, BMBH và DNBH đều có nhu cầu khôi phục lại hiệu lực
HĐBH thay vì ký kết hợp đồng mới.
|
Bổ sung nội dung cho phép
DNBH và BMBH được thỏa thuận “khôi phục hiệu lực HĐBH” và quy định cụ thể các
điều kiện khôi phục hiệu lực HĐBH trong trường hợp bên mua bảo hiểm đóng trễ
phí bảo hiểm mà chưa phát sinh sự kiện bảo hiểm.
|
14
|
VCCI
|
Đối với Điều
24 Luật KDBH:
“Điều 24. Giải thích hợp đồng
bảo hiểm Trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng dẫn đến có
cách hiểu khác nhau thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho
bên mua bảo hiểm.”
Tuy nhiên, Điều 404 và Điều 121 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định cụ thể,
rõ ràng và công bằng về việc nguyên tắc giải thích hợp đồng.
|
Đề xuất lược bỏ quy định này.
|
15
|
VCCI
|
Đối với Khoản
3 Điều 44 Luật KDBH: “Điều 44. Quyền lợi có thể được bảo hiểm của hợp đồng
bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm thiệt hại
3. Tại thời điểm xảy ra tổn
thất, bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được
bảo hiểm.”
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa theo giá mua bán CIF, người bán mua bảo hiểm giúp người mua và khi
hàng đã được giao qua lan can tàu tại cảng đi thì rủi ro về mất mát hay hư hỏng
hàng hóa lúc này chuyển giao từ người bán sang người mua. Căn cứ điều khoản
nêu trên, tại thời điểm xảy ra tổn thất khi hàng đã được giao qua lan can tàu
tại cảng đi, người bán (Người được bảo hiểm trên Đơn bảo hiểm) không còn quyền
lợi có thể được bảo hiểm. Quyền lợi bảo hiểm lúc này đã được chuyển giao cho
người mua hàng hóa.
Tuy nhiên, theo thực tiễn xét
xử, tại Bản án số 02/2022/KDTM-PT ngày 12/01/2022 v/v Tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm giữa Bảo Minh và Công ty Cổ phần Quốc tế Thanh Phú Long, Tòa án cấp Phúc
thẩm (TAND cấp cao tại TP. HCM) đã nhận định rằng: “…tại thời điểm giao kết hợp
đồng, Thanh Phú Long đã cung cấp đầy đủ chứng từ khai báo mua bảo hiểm và đã
thanh toán tiền phí bảo hiểm đầy đủ và Bảo Minh đã chấp nhận bán bảo hiểm và
ghi rõ người được bảo hiểm là Công ty Thanh Phú Long. Mặt khác, do người
mua hàng là Công ty Empro Pty Ltd chưa nhận hàng và chưa thanh toán
tiền (tại Điều 5 của Hợp đồng mua bán giữa Thanh Phú Long và Empro Pty
Ltd thỏa thuận: thanh toán 100% giá trị hàng hóa bằng chuyển khoản sau
khi nhận hàng 15 ngày)…nên căn cứ Điều 305 Luật Hàng hải,
nguyên đơn - Công ty Thanh Phú Long là người có quyền lợi đối với lô
hàng được bảo hiểm tại thời điểm phát hiện tổn thất, việc Bảo Minh
cho rằng do lô hàng bảo hiểm được bán theo giá CIF nên Thanh Phú Long không
có quyền lợi khi hàng đã lên tàu nên không phải là người được bảo hiểm và
không có quyền khởi kiện là không có cơ sở.”
Có thể thấy rằng, Tòa án có
thẩm quyền xác định rằng người bán là bên mua bảo hiểm và được ghi nhận là
NĐBH trên Đơn bảo hiểm, đồng thời do người mua hàng chưa nhận hàng và chưa
thanh toán tiền nên tại thời điểm xảy ra tổn thất, người bán mới là người có
quyền lợi được bảo hiểm chứ không phải là người mua.
Do đó, có sự mâu thuẫn giữa quy
định pháp luật và thực tiễn xét xử.
|
Cần có văn bản hướng dẫn đối
với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa theo giá mua bán CIF để DNBH không gặp khó
khăn khi giải quyết bồi thường trong việc xác định BMBH hay người mua hàng
hóa là người được bảo hiểm.
|
16
|
VCCI
|
5. Đối với Điểm
b Khoản 1 Điều 54 Luật KDBH:
“Điều 54. Chuyển quyền yêu cầu
bồi hoàn
1. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
trường hợp người thứ ba có trách nhiệm bồi thường do hành vi gây thiệt hại
cho người được bảo hiểm thì thực hiện như sau:
b) Doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có quyền khấu trừ số tiền
bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm nếu người được bảo hiểm
từ chối chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.”
Xét thấy, khi xảy ra tổn thất
DNBH có thể yêu cầu NĐBH hoàn tất các thủ tục cần thiết để có căn cứ pháp lý
đòi người thứ ba bồi hoàn tiền bảo hiểm mà DNBH đã bồi thường cho NĐBH, trong
đó bao gồm việc chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn. Trong trường hợp NĐBH không
chuyển quyền yêu cầu đòi người thứ ba cho DNBH thì DNBH có quyền khấu trừ số
tiền bồi thường.
Tuy nhiên, pháp luật KDBH đã
quy định gây bất lợi và khó khăn cho DNBH khi lược bỏ quyền khấu trừ của DNBH
trong trường hợp NĐBH không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu, dẫn đến khó
khăn/mất quyền khi đòi người thứ ba.
|
Cần có văn bản quy định hướng
dẫn cho phép các DNBH được quyền khấu trừ trong trường hợp NĐBH không bảo lưu
hoặc từ bỏ quyền yêu cầu dẫn đến khó khăn/mất quyền đòi người thứ ba bồi hoàn
số tiền bảo hiểm mà DNBH đã bồi thường cho NĐBH.
|
17
|
VCCI
|
Khoản 1, Điều
1 Nghị định số 146/2017/NĐ-CP và Điều 1 Thông tư
25/2018/TT-BTC Sửa đổi, bổ sung Khoản 23 Điều 4 Thông tư
số 219/2013/TT-BTC như sau:
“Điều 4: Đối tượng không chịu
thuế GTGT
23. Sản phẩm xuất khẩu là tài
nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác.
Sản phẩm xuất khẩu là hàng
hóa được chế biến trực tiếp từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoáng sản có
tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51%
giá thành sản xuất sản phẩm trở lên, trừ một số trường hợp theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 146/2017/NĐ-CP. a) Tài nguyên,
khoáng sản là tài nguyên, khoáng sản có nguồn gốc trong nước gồm: Khoáng sản
kim loại; khoáng sản không kim loại; dầu thô; khí thiên nhiên; khí than.
b) Việc xác định tỷ trọng trị
giá tài nguyên, khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá thành được thực hiện
theo công thức:
Tỷ trọng trị giá tài nguyên,
khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá thành sản xuất sản phẩm = ((Trị giá
tài nguyên, khoáng sản + chi phí năng lượng)/Tổng giá thành sản xuất sản phẩm)
x 100% Trong đó:
Trị giá tài nguyên, khoáng sản
đưa vào chế biến được xác định như sau: Đối với tài nguyên, khoáng sản trực
tiếp khai thác là chi phí trực tiếp, gián tiếp khai thác ra tài nguyên,
khoáng sản không bao gồm chi phí vận chuyển tài nguyên, khoáng sản từ nơi
khai thác đến nơi chế biến; đối với tài nguyên, khoáng sản mua để chế biến tiếp
là giá thực tế mua không bao gồm chi phí vận chuyển tài nguyên, khoáng sản từ
nơi mua đến nơi chế biến.
Chi phí năng lượng gồm: nhiên
liệu, điện năng, nhiệt năng. Trị giá tài nguyên, khoáng sản và chi phí năng
lượng được xác định theo giá trị ghi sổ kế toán phù hợp với Bảng tổng hợp
tính giá thành sản phẩm.
Giá thành sản xuất sản phẩm
bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và
chi phí sản xuất chung. Các chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí
quản lý, chi phí tài chính và chi phí khác không được tính vào giá thành sản
xuất sản phẩm.
Tỷ lệ trị giá tài nguyên,
khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá thành sản xuất sản phẩm được xác định
căn cứ vào quyết toán năm trước và tỷ lệ này được áp dụng ổn định trong năm
xuất khẩu. Trường hợp năm đầu tiên xuất khẩu sản phẩm thì tỷ lệ trị giá tài
nguyên, khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá thành sản xuất sản phẩm được
xác định theo phương án đầu tư và tỷ lệ này được áp dụng ổn định trong năm xuất
khẩu; trường hợp không có phương án đầu tư thì tỷ lệ trị giá tài nguyên,
khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá thành sản xuất sản phẩm được xác định
theo thực tế của sản phẩm xuất khẩu.
c) Trường hợp doanh nghiệp
không xuất khẩu mà bán cho doanh nghiệp khác để xuất khẩu thì doanh nghiệp
mua hàng hóa này để xuất khẩu phải thực hiện kê khai thuế GTGT như sản phẩm
cùng loại do doanh nghiệp sản xuất trực tiếp xuất khẩu.
Việc quy định các Doanh nghiệp
sản xuất phải xác định tỷ trọng trị giá tài nguyên, khoáng sản và chi phí
năng lượng trên giá thành sản xuất sản phẩm trên 51% giá thành sản xuất sản
phẩm khi bán cho các Doanh nghiệp xuất khẩu thì thuộc đối tượng không chịu
thuế GTGT đã gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp ở việc:
- Giá nguyên liệu chính (đá)
và giá năng lượng (điện, dầu,...) tăng cao nên Doanh nghiệp sản xuất phải bỏ
ra rất nhiều chi phí;
- Máy móc sản xuất cũ sử dụng
tiêu tốn nhiều năng lượng, chi phí khấu hao thấp, sản lượng sản phẩm sản xuất
thấp; Dẫn đến Tỷ trọng trị giá tài nguyên, khoáng sản và chi phí năng lượng
trên giá thành sản xuất sản phẩm cao lúc nào cũng vượt quá 51% nên khi Doanh
nghiệp sản xuất bán sản phẩm cho các Doanh nghiệp xuất khẩu thì thuộc đối tượng
không chịu thuế GTGT và không được hoàn thuế GTGT. Việc quy định này là ấn định
thuế không khuyến khích các doanh nghiệp chế biến sâu khoáng sản bởi vì càng
chế biến sâu thì càng tiêu thụ năng lượng càng lớn. Chi phí năng lượng và giá
trị tài nguyên bao giờ cũng chiếm từ 51% giá thành sản xuất và không khuyến
khích xuất khẩu.
|
Đề nghị sửa đổi quy định tại Điều 1, khoản 1 Nghị định số 146/2017/NĐ-CP và Điều 1 Thông tư 25/2018/TT-BTC Việc xác định tỷ trọng trị
giá tài nguyên, khoáng sản và chi phí năng lượng trên giá bán được thực hiện
theo công thức:
Tỷ trọng trị giá tài
nguyên, khoáng sản và chi phí năng lượng trên giả bản sản phẩm = (Trị giá tài
nguyên, khoáng sản + chi phí năng lượng)/ Tổng giá bán sản phẩm x 100%.
|
18
|
VCCI
|
Nghị định số 26/2023/NĐ-CP về
Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế
tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan:
Thuế suất xuất khẩu phân bón
Supe lân bị áp mức cố định 5% mà không tính đến tỷ lệ tài nguyên khoáng sản cộng
chi phí năng lượng thấp hơn 51% giá thành sản xuất sản phẩm này như quy định
trước đây. Hiệp hội kiến nghị sửa đổi Nghị định này áp dụng quy định như cũ,
tức thuế suất xuất khẩu Supe lân là 0% với một số lý do như sau: Tổng công suất
sản xuất phân bón Supe lân của các nhà máy tại Việt Nam (Supe lân Lâm Thao
thuộc Công ty Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, Supe lân Apromaco Lào Cai
thuộc Công ty Vật tư nông sản, Supe lân Long Thành thuộc Công ty Phân bón miền
Nam, Supe lân Đức Giang thuộc Công ty Hóa chất Đức Giang) là khoảng 1,5 triệu
tấn/năm. Hiện nay lượng trực tiếp tiêu thụ Supe lân trong nước theo số liệu
thống kê của ngành hàng phân bón và Tổng cục Thuế thì chưa tới 500.000 tấn/năm.
Như vậy năng lực sản xuất đang dư thừa tới cả triệu tấn/năm, cần phải có đầu
ra xuất khẩu thì các doanh nghiệp sản xuất SSP hoặc mới tồn tại để phục vụ sản
xuất nông nghiệp trong nước, hoặc phải thu hẹp sản xuất vì cầu trong nước
đang xuống quá thấp. Mặt khác, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan,
lượng Supe lân xuất khẩu của Việt Nam rất nhỏ (năm 2022 chưa tới 100.000 tấn/năm).
Đối với Lân đơn sản xuất trong nước, ngoài Supe lân với năng lực sản xuất khoảng
1.500.000 tấn/năm, thì lượng Lân nung chảy của 3 Nhà máy (Văn Điển, Ninh
Bình, Lào Cai) có năng lực sản xuất khoảng 600.000 tấn/năm. Tổng sản lượng
hai loại lân, Supe lân và lân nung chảy có thể đạt 2.100.000 tấn/năm. Tuy
nhiên nhu cầu về Lân đơn tại nước ta có xu hướng giảm rõ rệt (hiện vào khoảng
850.000 - 900.000 tấn/năm), người dân đã và đang chuyển dần sang sử dụng các
loại phân phức hợp DAP, MAP và NPK. Do đó, xét tổng thể, năng lực sản xuất so
với nhu cầu phân bón Supe lân trong nước đã và đang không những đáp ứng đủ mà
còn dư thừa, việc xuất khẩu phân bón Supe lân cần được khuyến khích để tăng
giá trị sản phẩm quốc dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thu được
ngoại tệ cho quốc gia, đóng thuế cho địa phương. Sau khi Trung Quốc nới lỏng
chính sách kiểm soát xuất khẩu phân bón từ tháng 5/2023, giá cả các loại phân
bón đều quay đầu giảm nhanh chóng (giảm 60 - 65% so với đầu năm 2022) và có
xu hướng ổn định ở mức thấp như hiện tại, trong đó có phân bón Supe lân. Việc
cạnh tranh gay gắt từ sản phẩm lân giá rẻ của Trung Quốc khiến sản phẩm Supe
lân của Việt Nam kém lợi thế khi xuất khẩu so với các quốc gia khác như Trung
Quốc, Ma Rốc, Ấn Độ, ...nếu bị áp thuế suất xuất khẩu lên 5%.
|
Cần xem xét điều chỉnh mức
thuế suất xuất khẩu phân bón Supe lân về mức 0% như hiện hành.
|
19
|
VCCI
|
Theo Bộ Tài chính thì
"áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu thấp hơn đối với các mặt hàng
trong nước sản xuất đủ nhu cầu hoặc dư thừa, để tạo thuận lợi cho cơ quan hải
quan và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, góp phần tháo gỡ khó khăn cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư máy móc sản
xuất các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, đảm bảo công bằng với các mặt
hàng có chế biến tương tự".
Urea là mặt hàng trong nước sản
xuất dư thừa (công suất 2.5 triệu tấn, nhu cầu dưới 1,8 triệu tấn), việc sản
xuất dư thừa buộc các nhà sản xuất trong nước phải thực hiện xuất khẩu, nên nếu
áp thuế xuất khẩu sẽ mất đi cơ hội kinh doanh và làm giảm hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các đơn vị sản xuất urea. Mặt khác, trong thời gian vừa qua
khi Brunei gia nhập thị trường phân bón với nguồn cung 1,8 triệu tấn urea/năm
với thị trường mục tiêu là các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam thì áp lực
cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt.
|
Nên đề nghị áp dụng thuế xuất
khẩu 0% đối với mặt hàng phân bón urea
|
20
|
VCCI
|
Vào thời điểm hiện nay tại Việt
Nam có Công ty SOP Phú Mỹ là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam và thứ hai tại
Đông Nam Á sản xuất kali sulphate với công suất 25.000 - 30.000 tấn/năm, suất
đầu tư khá lớn, trong khi công ty này cung ứng khoảng 60% cho thị trường
trong nước, số còn lại xuất khẩu vì bà con nông dân chưa quen sử dụng SOP
(thường sử dụng MOP), mặt khác nguyên liệu để sản xuất SOP là kali chlorua và
axit sunphuric hoàn toàn nhập khẩu. Ngoài ra lượng xuất khẩu của Công ty SOP
khoảng hơn 10.000 tấn/năm, giá trị thuế rất nhỏ so với các ngành hàng khác
nhưng lại có đóng vai trò quan trọng với một công ty duy nhất sản xuất SOP tại
Việt Nam.
|
Nên đề nghị áp dụng thuế xuất
khẩu 0% đối với mặt hàng phân bón SOP.
|
21
|
VCCI
|
Tại Điều 13.
Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về hóa đơn, chứng từ
Áp dụng Hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ quy định hiện hành
về hóa đơn điện tử, chưa nêu nguyên tắc, quy định chung về Áp dụng hóa đơn điện
tử đối với họ thuê tài chính
|
Bổ sung Quy định về việc lập
hóa đơn GTGT điện tử đối với hoạt động cho thuê tài chính
|
22
|
VCCI
|
Quy định về quản lý và nộp lệ
phí môn bài chưa rõ ràng dẫn đến tác động hạn chế tiềm năng phát triển quy mô
hoạt động của Doanh nghiệp:
i. Địa điểm kinh doanh không
trực tiếp phát sinh doanh thu không có nghĩa vụ khai và nộp lệ phí môn bài -
hướng dẫn tại một số Công văn, nhưng không có hướng dẫn chính thức tại thời
điểm hiệu lực của Thông tư 80; hoặc không trực tiếp phát sinh doanh thu mà chỉ
có chức năng là nơi lưu trữ hàng hóa, bảo trì/hậu mãi (kho hàng, kho trung
chuyển, trung tâm bảo hành, …). Do đó, việc xác định lệ phí môn bài căn cứ
vào khái niệm “địa điểm kinh doanh” nói chung sẽ không phù hợp với tình hình
thực tế kinh doanh.
ii.Địa điểm kinh doanh không
có Mã số thuế riêng mà chỉ quản lý bằng Mã địa điểm kinh doanh- hướng dẫn tại
Công văn số 1269/TCT-KK của Tổng Cục thuế gửi Cục thuế các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung Ương dẫn đến việc nộp và tra soát lệ phí môn bài đối với Doanh
nghiệp có nhiều địa điểm kinh doanh rất khó khăn, vất vả.
iii. Không có sự liên thông
thông tin giữa Sở kế hoạch và đầu tư và Cơ quan thuế địa phương dẫn đến khi
Doanh nghiệp đóng cửa Địa điểm kinh doanh, không có cơ chế tự ngừng nghĩa vụ
nộp lệ phí môn bài, và không có hướng dẫn cơ chế kê khai thông báo việc kết
thúc nghĩa vụ lệ phí môn bài do đóng cửa địa điểm kinh doanh.
Ngoài ra, khái niệm “địa điểm
kinh doanh” theo quy định của Luật doanh nghiệp đang được định nghĩa “là nơi
mà doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh cụ thể”, không phân biệt có
phát sinh doanh thu hay không, do đó, sẽ bao gồm cả các địa điểm trực tiếp
phát sinh doanh thu (cửa hàng)
|
i.Đề nghị bổ sung hướng dẫn cụ
thể việc xác định nghĩa vụ thuế với địa điểm kinh doanh không trực tiếp phát
sinh doanh thu
ii.Đề nghị có cơ chế liên
thông tự động thông báo giữa Sở kế hoạch và đầu tư và cơ quan thuế địa phương
về việc chấm dứt hoạt động của địa điểm kinh doanh để tạo thuận lợi cho Doanh
nghiệp.
|
23
|
VCCI
|
Thiếu hướng dẫn về việc Doanh
nghiệp Việt Nam được kê khai khấu trừ thuế GTGT đối với khoản đã chi trả cho
Nhà cung cấp nước ngoài mà Nhà cung cấp nước ngoài có đăng ký thuế và kê khai
thuế trực tiếp với Tổng Cục Thuế.
|
Đề nghị hướng dẫn cho phép
Doanh nghiệp Việt Nam được phép khấu trừ số thuế GTGT mà nhà cung cấp nước
ngoài đã trực tiếp kê khai và nộp thuế.
|
24
|
VCCI
|
Nghị định số 46/2023/NĐ-CP của
Chính phủ: Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm
Đối với Khoản
6 Điều 32:
“Điều 32. Thủ tục đăng ký
phương pháp, cơ sở tính phí bảo hiểm:
6. Trong thời gian 02 năm kể
từ ngày Nghị định này có hiệu lực:
c) Doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài phải thực hiện rà soát và
đăng ký lại phương pháp, cơ sở tính phí bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cơ giới nhằm đảm bảo đáp ứng quy định
của Bộ Tài chính. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm
xe cơ giới đã được Bộ Tài chính phê chuẩn, chấp thuận đăng ký trước ngày Nghị
định này có hiệu lực đã đáp ứng phương pháp, cơ sở tính phí bảo hiểm theo quy
định của Bộ Tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài không phải thực hiện đăng ký lại phương pháp, cơ sở
tính phí bảo hiểm.”
Thực tiễn, với khối lượng
sản phẩm bảo hiểm rất lớn cần rà soát thì thời hạn chuyển tiếp là 02 năm như
quy định là không thể đảm bảo cho DNBH có thể thực hiện theo quy định.
|
Đề xuất cần có văn bản quy định
gia hạn để kéo dài thời hạn chuyển tiếp thành 04 năm hoặc một thời hạn khác
dài hơn, tạo điều kiện cho các DNBH có thể thuận lợi thực hiện việc rà soát
khối lượng sản phẩm bảo hiểm.
|
25
|
VCCI
|
Nghị định số 46/2023/NĐ-CP của
Chính phủ: Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm
2. Đối với Điểm
d Khoản 3 Điều 50:
“Điều 50. Chi phí của doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam
3. Số tiền phải chi, phải
trích phát sinh trong kỳ theo quy định tại khoản 2 Điều này bao gồm:
d) Chi hoa hồng đại lý bảo hiểm,
chi thưởng, hỗ trợ đại lý bảo hiểm và quyền lợi khác trong hợp đồng đại lý bảo
hiểm không vượt quá mức tối đa theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Kể từ ngày Nghị định này ký,
các khoản chi này phải từ hoạt động đại lý bảo hiểm và được nêu rõ trong hợp
đồng đại lý bảo hiểm, có tiêu chí định lượng cụ thể gắn với kết quả, thành
tích về khai thác, duy trì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm sức
khỏe trên 01 năm, chất lượng hoạt động đại lý bảo hiểm. Các khoản chi thưởng,
hỗ trợ đại lý bảo hiểm và quyền lợi khác phải được nêu rõ trong chính sách
khen thưởng, hỗ trợ đại lý, quy chế tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, chi
nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài;”
Xét thấy, quy định nêu
trên chưa phù hợp với thị trường. Trên thực tế, khoản hỗ trợ được các
DNBH chi trả cho các đại lý với mục đích và cơ chế xác định khác nhau, ví dụ:
các đại lý vận hành chưa hiệu quả, đại lý ở thị trường mới, thị trường chưa
phát triển, có thể được DNBH chi trả hỗ trợ với mức cao hơn (trong giới hạn
quy định pháp luật cho phép).
|
Đề xuất cần có văn bản loại bỏ
việc quy định các tiêu chí định lượng cụ thể hoặc ban hành văn bản cho phép
các DNBH linh động trong việc chi trả cho các đại lý với mục đích và cơ chế
hoạt động đại lý tương ứng.
|
26
|
VCCI
|
Trong quá trình sản xuất kinh
doanh chúng tôi vướng mắc một số thuế suất nhập khẩu khó cạnh tranh với các sản
phẩm nhập ngoại:
- Dàn ngưng tụ, dàn bay hơi
(mã HS: 84189910) nhập khẩu nguyên bộ có thuế suất thuế nhập khẩu thông thường
5%. Đối với CO từ các nước có Hiệp định tự do thương mại với Việt Nam, thuế
suất cho nhóm sản phẩm này là 0%.
- Quạt gió lắp cho các dàn
ngưng tụ, dàn bay hơi (mã HS: 84145949) thuế suất thuế nhập khẩu thông thường
22.5%. Đối với CO từ các nước có Hiệp định tự do thương mại với Việt Nam, thuế
suất cho nhóm sản phẩm này là 10%.
- Thanh nhôm định hình dùng để
sản xuất FCU và AHU (mã HS: 76042190) thuế chống bán phá giá 35.58%, thuế suất
thuế nhập khẩu thông thường 15%. Đối với CO từ các nước có Hiệp định tự do
thương mại với Việt Nam, thuế suất cho nhóm sản phẩm này là 0%.
- Quạt gió lắp cho dàn ngưng
tụ, dàn bay hơi, thanh nhôm định hình dùng để sản xuất FCU, AHU trong nước
chưa sản xuất được, Công ty chúng tôi phải nhập khẩu và chiếm tỷ trọng 20 -
40% giá thành sản phẩm. Với thuế suất nhập khẩu quạt 10% - 22.5% giá thành sản
phẩm sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với sản phẩm dàn ngưng tụ, dàn
bay hơi nhập khẩu nguyên bộ có thuế suất nhập khẩu bằng 0 -5%.
|
Đề nghị điều chỉnh thuế suất
thuế nhập khẩu dàn ngưng tụ, dàn bay hơi, quạt gió lắp cho dàn ngưng tụ và
dàn bay hơi về cùng một thuế suất hoặc cho công ty chúng tôi hạn ngạch nhập
khẩu quạt gió lắp cho dàn ngưng tụ và dàn bay hơi với thuế suất nhập khẩu bằng
0%.
|
27
|
VCCI
|
Thông tư
152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên, Điều 6: Giá tính thuế tài
nguyên
Giá tính thuế tài nguyên là
giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm
thuế giá trị gia tăng nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do
UBND cấp tỉnh quy định; Trường hợp giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thấp
hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế tài
nguyên theo giá do UBND cấp tỉnh quy định.
Việc đặt ra điều kiện mới ấn
định thuế giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác
chưa bao gồm thuế GTGT nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên
do UBND cấp tỉnh quy định là trái với văn bản quy phạm có giá trị pháp lý cao
hơn là khoản 1 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12
ngày 25/11/2009 của Quốc hội và khoản 1 Điều 4 Nghị định số
50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thuế tài nguyên; điều này không chỉ trái pháp
luật mà còn gây thiệt hại và ảnh hưởng cho các doanh nghiệp hoạt động khai
thác tài nguyên.
Ngày 05/8/2020, Cục kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp có Giấy mời số 416/GM-KTrVB mời đại
diện Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Thuế, có Cục, Vụ thuộc
Bộ Tư pháp, lãnh đạo Cục Thuế tỉnh Tuyên Quang, lãnh đạo Hiệp hội Doanh nghiệp
tỉnh Tuyên Quang có buổi làm việc vào hồi 14 giờ 00 ngày 16/8/2020 tại trụ sở
Bộ Tư pháp; qua trao đổi, tranh luận lãnh đạo Cục đã thống nhất đưa ra kết luận
nội dung của Điều 6 Thông tư 152/2015/TT- BTC về Giá tính
thuế tài nguyên là “quy định ấn định thuế” trái với văn bản quy phạm có giá
trị pháp lý cao hơn là Luật Thuế tài nguyên năm 2009 và Nghị định số
50/2010/NĐ-CP của Chính phủ; đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi, tuy nhiên từ đó đến
nay Bộ tài chính vẫn chưa thực hiện ý kiến kết luận trên.
|
Căn cứ vào khoản
1 Điều 170 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, kiến nghị rà
soát lại nội dung tại Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC
ngày 02/10/2015 đúng quy định khoản 1 Điều 6 Luật Thuế Tài
nguyên 2009 và khoản 1 Điều 4 Nghị định 50/2010/NĐ-CP
của Chính phủ: “1. Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài
nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng”.
|
28
|
VCCI
|
Thông tư 80/2021/TT-BTC hướng
dẫn Luật Quản lý thuế và Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
của Luật Quản lý thuế.
Tại điểm b4
khoản 5 Điều 13 của Thông tư quy định Kho bạc Nhà nước không thực hiện khấu
trừ thuế giá trị gia tăng đối với: Các trường hợp người nộp thuế chứng minh
đã nộp đầy đủ thuế vào ngân sách nhà nước; các nhà thầu khi thanh toán khối
lượng hoàn thành sử dụng phần vốn ngân sách nhà nước phải chứng minh là không
nợ đọng thuế của công trình này; trong khi cơ quan thuế không thể theo dõi từng
công trình của từng nhà thầu có nợ đọng thuế công trình riêng như vậy dẫn đến
việc nhà thầu rất khó khăn khi xin xác nhận của cơ quan Thuế và chủ đầu tư
khi không đơn vị nào xác nhận kéo theo việc nhà thầu không được Kho bạc tỉnh
thanh toán khối lượng hoàn thành. Còn việc kê khai nợ thuế là trách nhiệm của
nhà thầu, doanh nghiệp với cơ quan Thuế và Pháp luật. Đây là một rào cản gây
khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp, nhà thầu thi công xây dựng sử dụng vốn
ngân sách nhà nước.
|
Đề nghị bãi bỏ điểm
b4 khoản 5 Điều 13 của Thông tư 80/2021/TT- BTC
|
29
|
VCCI
|
Hiện tại các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực đang gặp khó khăn về chứng từ, hóa đơn nhân công trong
các công trình mà cơ quan thuế lại không bán hóa đơn lẻ nhân công. Các doanh
nghiệp xây dựng khi thực hiện công tác xây dựng thì phải sử dụng nhiều nhân
công thời vụ trong xã hội, trong khi các nhân công thời vụ hầu hết là những
người đi làm công khoán, hoặc thời vụ nên không mở đăng ký để có hóa đơn nhân
công; các doanh nghiệp, nhà thầu đang phải xoay xở, tập hợp chứng từ nhân
công như hóa đơn, thẻ CCCD, nên rất khó khăn cho việc giải trình với các cơ
quan chức năng.
|
Đề nghị BTC ban hành Thông tư
cho phép các cơ quan thuế địa phương được phát hành, bán hóa đơn VAT nhân
công để các doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng được mua hóa đơn VAT nhân công hợp
lệ và nhà nước thu được tiền thuế vào ngân sách
|
30
|
VCCI
|
Thông tư số 219/2013/TT-BTC
hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia
tăng
|
Áp dụng chính sách thuế GTGT
đối với sản phẩm mủ cao su sơ chế như những nông sản khác: Xếp loại mặt hàng
mủ cao su sơ chế được áp dụng các quy định về thuế GTGT tương tự như các sản
phẩm trồng trọt khác (cà phê, điều, tiêu...) vì cao su thiên nhiên cũng là sản
phẩm trồng trọt, dù qua sơ chế tại nhà máy nhưng là sơ chế thông thường, vẫn
chưa chế biến thành các sản phẩm khác.
Do vậy, đề nghị được áp dụng
chính sách thuế GTGT như những nông sản sơ chế khác theo Thông tư
219/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, cụ thể, đề nghị mủ cao su sơ chế được áp dụng
theo khoản 5, Điều 5, Thông tư 219/2013/TT-BTC, doanh
nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ bán sản phẩm cho doanh nghiệp
thương mại không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT: “Doanh nghiệp, hợp tác xã
nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ bán sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi,
thuỷ sản, hải sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế
thông thường cho doanh nghiệp, hợp tác xã ở khâu kinh doanh thương mại không
phải kê khai, tính nộp thuế GTGT. Trên hoá đơn GTGT, ghi dòng giá bán là giá
không có thuế GTGT, dòng thuế suất và thuế GTGT không ghi, gạch bỏ”.
Về khấu trừ thuế giá trị gia
tăng đầu vào của các doanh nghiệp trồng cao su, cung cấp mặt hàng cao su sơ
chế được áp dụng theo khoản 11, Điều 14, “Thuế GTGT đầu
vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho các hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ
không kê khai, tính nộp thuế GTGT hướng dẫn tại Điều 5 Thông tư này (trừ khoản 2, khoản 3 Điều 5) được khấu trừ toàn bộ”.
Thực chất, 5% thuế GTGT của mặt
hàng mủ cao su sơ chế là tiền của các doanh nghiệp đã ứng trước khi mua hàng
hóa này. Mủ cao su sơ chế có tỷ trọng xuất khẩu trên 80% nên ngân sách nhà nước
sẽ phải hoàn lại số tiền thuế GTGT này. Đối với hàng bán nội địa, mủ cao su
sơ chế là nguồn nguyên liệu để tiếp tục sản xuất ra những sản phẩm khác và sản
phẩm này là đối tượng chịu thuế GTGT.
Theo nguyên tắc khấu trừ thuế
GTGT đầu vào, 5% thuế GTGT đầu vào khi các doanh nghiệp sản xuất mua mủ cao
su sơ chế để chế biến ra sản phẩm khác sẽ được khấu trừ toàn bộ (Điều 14, Thông tư 219/2013/TT-BTC). Như vậy, dù xuất khẩu
hay bán nội địa, đối với mặt hàng mủ cao su sơ chế, tiền thuế GTGT không phải
là một khoản thu của ngân sách nhà nước. Nói khác đi, thực chất ngân sách nhà
nước không thu được tiền từ thuế GTGT trên mặt hàng mủ cao su sơ chế.
Do đó, thực hiện đề nghị trên
không làm ảnh hưởng đến số thu của ngân sách nhà nước, không trái với Thông
tư 219/2013/TT-BTC mà sẽ tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu cao su
do không phải ứng vốn trả thuế đầu vào sau đó kê khai để được khấu trừ, hoàn
thuế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
cao su; giảm gian lận trong khấu trừ hoàn thuế; phản ánh đúng thực chất số
thu của ngân sách; góp phần đơn giản thủ tục và tiết kiệm chi phí cho người nộp
thuế và giảm chi phí quản lý cho cơ quan thuế, tiết kiệm chi phí xã hội.
|
31
|
VCCI
|
Thông tư số 219/2013/TT-BTC
Hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia
tăng.
Chưa có quy định rõ ràng về
việc hoàn thuế đối với thuế giá trị gia tăng của tài sản Công ty cho thuê tài
chính mua nội địa cho doanh nghiệp chế xuất thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính
mua tài sản nội địa cho doanh nghiệp chế xuất thuê tài chính. Theo quy định tại
Điểm 2.12, Phụ lục 4, Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài
chính, Công ty cho thuê tài chính sẽ chuyển giao thuế GTGT cho Bên đi thuê để
khách hàng khấu trừ. Tuy nhiên do Doanh nghiệp chế xuất không thuộc đối tượng
được khấu trừ nên Công ty cho thuê tài chính không chuyển giao thuế GTGT của
tài sản cho doanh nghiệp chế xuất thuê tài chính được. Nhưng nếu không xuất
GTGT lại cho khách hàng thì khoản tiền thuế Công ty cho thuê tài chính đã bỏ
ra sẽ được hoàn? Hiện tại, điều 18 thông tư 219/2013/TT-BTC
ngày 31/12/2013 chưa quy định rõ điểm này.
Từ bản chất của dịch vụ cho
thuê tài chính thì dịch vụ cho thuê tài chính là hoạt động cấp tín dụng trực
tiếp bằng tài sản (cho khách hàng thuê tài sản và hoàn trả tiền thuê gồm giá
trị gốc và một phần lãi), do vậy trong một giao dịch cho thuê tài chính sẽ
bao hàm 02 nội dung kinh tế:
- Dịch vụ cấp tín dụng: cho
phép sử dụng tài sản trên nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi
- Trung gian chuyển quyền sở
hữu một tài sản từ bên bản (Nhà sản xuất/Nhà cung ứng) đến người sử dụng (Bên
thuê) vì về pháp lý Công ty cho thuê tài chính là người nắm quyền sở hữu
trong suốt thời gian thuê, đồng thời hóa đơn xuất bản từ nhà cung cấp là cho
công ty cho thuê tài chính.
i) Đối với phần dịch vụ cho
thuê tài chính thuộc dịch vụ cấp tín dụng và thuộc đối tượng không chịu thuế
giá trị gia tăng, cụ thể:
- Phần giá trị lãi và phí
phát sinh từ dịch vụ cho thuê tài chính: không chịu thuế giá trị gia tăng;
ii) Đối với phần trung gian
chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên bán đến người sử dụng: do bản chất công ty
cho thuê tài chính chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng còn đối với tài sản chỉ là
trung gian chuyển giao quyền sở hữu giữa bên bán và người sử dụng nên không tạo
ra giá trị gia tăng (cụ thể theo Nghị định 39/2014/NĐ-CP thì bên thuê/người sử
dụng tài sản quyết định giá mua). Công ty cho thuê tài chính chỉ là bên trung
gian chuyển tiếp phần thuế giá trị gia tăng từ bên bán sang cho người sử dụng/bên
thuê trên pháp lý. Người quyết định mua và người sử dụng tài sản là doanh
nghiệp chế xuất, tài sản được sử dụng trong khu chế xuất suốt thời hạn thuê để
phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chế xuất. Căn cứ bản chất kinh
tế của giao dịch, chính sách thuế GTGT áp dụng với tài sản mua nội địa phục vụ
hoạt động của Doanh nghiệp chế xuất trong trường hợp doanh nghiệp vay ngân
hàng mua (áp dụng thuế suất 0% đối với tài sản) hoặc thông qua hoạt động cho
thuê Tài chính cần thống nhất. Vậy phần thuế GTGT của tài sản mua nội địa cần
được hoàn tại Công ty Cho thuê Tài chính.
|
Bổ sung trường hợp thuế giá
trị gia tăng của tài sản Công ty cho thuê tài chính mua nội địa, cho doanh
nghiệp chế xuất thuê tài chính và chỉ được sử dụng trong doanh nghiệp chế xuất,
chưa được khấu trừ từ 300 triệu trở lên sẽ được hoàn. Trong trường hợp hợp đồng
thuê tài chính chấm dứt trước hạn:
+ Nếu Công ty cho thuê tài
chính tiếp tục cho doanh nghiệp nội địa mới thuê tài chính => phần thuế
chưa được hoàn tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng thuê => sẽ được
chuyển giao cho bên thuê nội địa mới.
+ Nếu công ty cho thuê tài
chính tiếp tục cho doanh nghiệp chế xuất mới thuê tài chính => tiếp tục được
hoàn phần thuế còn lại tương đương với thời gian còn lại của hợp đồng thuê. +
Nếu công ty cho thuê tài chính bán tài sản cho bên thứ 3, hoặc cho thuê hoạt
động=> thuế đầu vào chưa được hoàn sẽ được tiếp tục khấu trừ.
|
32
|
VCCI
|
Miễn thuế theo Hiệp định thuế:Thủ
tục xin miễn thuế theo Hiệp định thuế được quy định tại Thông tư
80/2021/TT-BTC , cơ quan thuế sau khi nhận đề nghị miễn thuế đáp ứng đủ các
yêu cầu theo quy định, sẽ ra quyết định miễn thuế trong vòng 30 ngày (hoặc 40
ngày nếu cần kiểm tra thực tế) và ra thông báo cho người nộp thuế biết mình
có thuộc đối tượng được miễn thuế hay không.
- Pháp luật hiện hành không
có quy định nào xử lý các trường hợp đến hạn nộp tờ khai thuế theo luật pháp
Việt Nam trước khi nhận được phản hồi từ cơ quan thuế về hồ sơ xin miễn thuế
- Việc tính lãi chậm nộp và xử
phạt hành chính việc nộp chậm nếu không được miễn thuế theo văn bản trả lời
cuối cùng của cơ quan thuế là không hợp lý trong tình hình cơ quan thuế không
tuân thủ thời hạn giải quyết nêu trên
- Dựa trên thỏa thuận của
OECD, Nhật Bản cũng dự định sẽ đưa ra quy định pháp lý mới áp dụng từ năm 2024,
theo đó yêu cầu nộp phần thuế chênh lệch tại Nhật nếu thuế suất thuế TNDN của
công ty con nước ngoài dưới 15%. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nhiều công ty đang
được hưởng ưu đãi về thuế. Trong xu hướng toàn cầu này, chúng tôi muốn đề xuất
về ba điểm sau đây.
|
- Đề nghị các ban ngành có thể
cân nhắc sửa đổi nội dung điều luật để quy định rõ về việc không phải khai
thuế cho đến khi nhận được phản hồi của cơ quan thuế hoặc Bộ Tài chính có thể
ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ điểm này
- Làm rõ các quy định về việc
miễn kê khai, nộp thuế đối với các trường hợp đang chờ phản hồi từ cơ quan
thuế.
- Cho phép doanh nghiệp được
lựa chọn áp dụng mức ưu đãi thuế doanh nghiệp dài hạn 15% hay các ưu đãi thuế
hiện hành
Hiệp hội chúng tôi kính mong
Quý Bộ xem xét áp dụng ưu đãi thuế doanh nghiệp 15% trong thời gian dài 20
năm cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp và các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực phát triển phần mềm, năng lượng tái tạo. Ngoài ra,
Nhật Bản quy định thuế doanh nghiệp tối thiểu chỉ áp dụng đối với các doanh
nghiệp có doanh thu hợp nhất trên 100 tỷ Yên (khối OECD là 7.5 triệu Euro), vẫn
còn nhiều doanh nghiệp không thuộc phạm vi áp dụng. Hiệp hội chúng tôi kính
mong Quý Bộ xem xét ban hành cơ chế về việc cho phép các công ty này được lựa
chọn áp dụng các ưu đãi thuế doanh nghiệp mới hay các ưu đãi thuế hiện hành.
- Về việc nới lỏng biểu thuế
thu nhập cá nhân lũy tiến từng phần
Các doanh nghiệp không chỉ
xem xét thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn cả thuế thu nhập cá nhân, thuế giá
trị gia tăng, thuế nhà thầu nước ngoài cũng như phí bảo hiểm xã hội trong tổng
chi phí nộp ngân sách nhà nước, để quyết định quốc gia sẽ đầu tư. Thuế suất
thuế thu nhập cá nhân (sau đây gọi là “thuế TNCN”) tại Việt Nam cao dẫn đến
thuế TNCN rất cao. Điều này làm tăng gánh nặng về chi phí lao động của công
ty, và cản trở việc gia tăng tuyển dụng. Hiện nay, mức thu nhập bình quân đầu
người và GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, Hiệp hội
chúng tôi kính mong Quý bộ xem xét nới lỏng thuế suất lũy tiến hiện tại với mức
thuế suất tối đa là 35% khi thu nhập đạt 80 triệu đồng/tháng. Ví dụ đối với mức
thuế suất 35%, chúng tôi kính mong Quý Bộ xem xét tăng gấp đôi thu nhập bị áp
mức thuế này lên 160 triệu đồng/tháng. Điều này sẽ làm giảm chi phí lao động
cho các công ty, khuyến khích việc tuyển dụng và thúc đẩy đầu tư.
Chúng tôi được biết có một số
ý kiến đề nghị giảm thuế TNCN cho một số ngành nghề nhất định, tuy nhiên
chúng tôi hiểu thu nhập của những người lao động ở vị trí này thường cao. Từ
góc độ áp dụng biểu thuế lũy tiến nhằm mục đích nới lỏng thuế suất cho người
lao động thu nhập thấp thì việc áp dụng giảm thuế cho ngành nghề nhất định
này dẫn đến bất công do chỉ làm giảm thuế đối với người lao động thu nhập
cao, từ đó gây ra bất mãn của người lao động thu nhập thấp. Ngoài ra, Hiệp hội
chúng tôi không tán thành việc áp dụng cơ chế này vì không có biện pháp chứng
minh người lao động thực sự tham gia vào công việc và nếu áp dụng giảm thuế
chỉ cần bằng cách nêu tên công việc thì người lao động có thể dễ dàng lách luật
và được giảm thuế. Vì vậy Hiệp hội chúng tôi kính mong Quý Bộ xem xét áp dụng
chung việc nới lỏng mức thuế suất trong biểu thuế thu nhập cá nhân lũy tiến từng
phần.
- Về việc áp dụng các khoản hỗ
trợ Hiệp hội chúng tôi kính mong Quý Bộ xem xét áp dụng các khoản hỗ trợ đối
với tiền sử dụng đất, chi phí đầu tư trang thiết bị mới, chi phí nghiên cứu
và phát triển, chi phí đầu tư nguồn nhân lực, v.v. Quý Bộ có thể xem xét các
hình thức hỗ trợ phù hợp nhất, như theo hướng miễn giảm tiền sử dụng đất, ghi
nhận chi phí hợp lý gấp đôi với chi phí kế toán hạch toán cho đầu tư trang
thiết bị mới, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí nhân sự, chi phí đào tạo.
|
33
|
VCCI
|
Thông tư 80/2021/TT-BTC về quản
lý thuế: Quy định về bù trừ khoản nộp thừa thuế với khoản nợ hoặc khoản thu
phát sinh tiếp theo phải đáp ứng điều kiện có cùng nội dung kinh tế (tiểu mục)
và cùng địa bàn thu ngân sách với khoản nộp thừa.
Người nộp thuế có khoản nộp
thừa sau khi thực hiện bù trừ mà vẫn còn khoản nộp thừa hoặc không có khoản nợ
thì người nộp thuế được gửi hồ sơ đề nghị hoàn trả hoặc hoàn trả kiêm bù trừ
khoản thu ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 42 Thông tư này.
Người nộp thuế được hoàn trả
khoản nộp thừa khi người nộp thuế không còn khoản nợ. Nghĩa là nếu Doanh nghiệp
có khoản thuế nộp nhầm/ nộp thừa ở thuế TNCN tạm nộp do phân bổ ở tỉnh X, thì
chỉ được bù trừ với nghĩa vụ thuế TNCN phải nộp ở tỉnh X, không được cấn trừ
với nghĩa vụ thuế phải nộp ở tỉnh Y. Trong trường hợp tỉnh X không còn phát
sinh nghĩa vụ thuế phải nộp, khoản thuế nộp thừa không được cấn trừ mà Doanh
nghiệp cần phải nộp đủ thuế và thực hiện thủ tục hoàn thuế, tạo thêm áp lực hồ
sơ cho cả Doanh nghiệp và cơ quan thuế.
|
Đề nghị cho phép bù trừ thuế
nộp thừa với khoản nợ hoặc khoản thu phát sinh khác nội dung kinh tế và khác
địa bàn thu ngân sách bằng thủ tục tra soát, và không giới hạn thời gian phụ
thuộc thời gian quyết toán ngân sách. Điều này nhằm giảm bớt gánh nặng tài
chính cho Doanh nghiệp, đồng thời giảm áp lực thủ tục hành chính cho Doanh
nghiệp và Cơ quan thuế.
|
34
|
VCCI
|
Thông tư 80/2021/TT-BTC về quản
lý thuế; Quy định về tra soát, điều chỉnh thông tin nộp thuế giới hạn trường
hợp người nộp thuế chủ động phát hiện sai sót nhưng chỉ được đề nghị điều chỉnh
chứng từ nộp ngân sách đối với Chứng từ nộp ngân sách của năm trước nhưng đề
nghị điều chỉnh vào năm sau chỉ được điều chỉnh trong thời gian chỉnh lý quyết
toán ngân sách. Điều này có nghĩa nếu Doanh nghiệp nộp tiền thuế nhầm nội
dung mã thanh toán, hoặc nhầm Cơ Quan Thuế nhận thu, nhưng hai năm sau mới
phát hiện, dẫn đến số tiền đã nộp nhầm trước đó không được ghi nhận để điều
chỉnh về đúng thông tin, Doanh nghiệp mất chi phí thuế này, ngoài ra, doanh
nghiệp phải nộp lại tiền thuế cộng với bị tính lãi chậm nộp.
|
Đề nghị bãi bỏ điều kiện giới
hạn về thời gian Người nộp thuế được quyền đề nghị điều chỉnh khoản nộp ngân
sách vì các khoản thuế đã nộp, nếu nộp nhầm, nên được cho phép Doanh nghiệp
làm đề nghị điều chỉnh tra soát để được ghi nhận về đúng nghĩa vụ thuế phải nộp
của Doanh nghiệp, chứ không nên tạo thêm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp.
|
35
|
VCCI
|
Thông tư 80/2021/TT-BTC ngày
29/09/2021 Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế
Điều 81.
Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam có liên quan trong trường hợp
mua hàng hoá, dịch vụ của nhà cung cấp ở nước ngoài
2. Cá nhân có mua hàng hóa, dịch
vụ của nhà cung cấp ở nước ngoài mà nhà cung cấp ở nước ngoài không thực hiện
đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định tại Điều 76, Điều
77, Điều 78, Điều 79 Thông tư này thì ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng
dịch vụ trung gian thanh toán có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay theo quy định
tại điểm a khoản 3 Điều 30 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
Tổng cục Thuế có trách nhiệm
thông báo tên, địa chỉ website của nhà cung cấp ở nước ngoài chưa thực hiện
đăng ký, kê khai, nộp thuế mà người mua hàng hóa, dịch vụ có thực hiện giao dịch
cho Hội sở chính của Ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán. Hội sở chính có trách nhiệm thông báo danh sách nhà cung cấp ở nước
ngoài cho các chi nhánh của ngân hàng để các chi nhánh thực hiện kê khai, khấu
trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế khi thực hiện thanh toán cho các giao dịch với
nhà cung cấp ở nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày
17/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh
ngoại hối và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ngoại hối.
Số thuế kê khai, khấu trừ, nộp thay được xác định trên cơ sở doanh thu mà nhà
cung cấp ở nước ngoài nhận được, tỷ lệ phần trăm để tính thuế giá trị gia
tăng và tính thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu theo quy định tại điểm
d, đ khoản 1 Điều 77 Thông tư này. Trường hợp không xác định được loại hàng
hoá, dịch vụ của từng giao dịch thì áp dụng tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp theo tỷ lệ cao nhất.
- Mục 4: Trường hợp cá nhân
có mua hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài có thanh toán bằng thẻ
hoặc các hình thức khác mà ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ
trung gian thanh toán không thể thực hiện khấu trừ, nộp thay thì ngân hàng
thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có trách nhiệm
theo dõi số tiền chuyển cho các nhà cung cấp ở nước ngoài và định kỳ ngày thứ
10 hằng tháng gửi về Tổng cục Thuế theo mẫu số 04/NCCNN ban hành kèm theo phụ
lục I Thông tư này.
|
Quy định chưa phân biệt trường
hợp ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán
không trực tiếp kết nối với nhà cung cấp ở nước ngoài mà chỉ là đơn vị cung cấp
dịch vụ thanh toán cho các sàn giao dịch thương mại điện tử trong nước hoặc
là giải pháp thanh toán được tích hợp trên các sàn giao dịch thương mại điện
tử trong nước--là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa/dịch vụ có sự tham
gia của nhà cung cấp ở nước ngoài. Ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán chỉ tham gia cung cấp dịch vụ theo sự điều phối/yêu
cầu của sàn giao dịch thương mại điện tử trong nước.
Trong trường hợp này, các
thông tin chi tiết để xác định mức thuế phải nộp (loại hàng hóa, dịch vụ, giá
trị đơn hàng) cho giao dịch trên sàn giao dịch không do ngân hàng thương mại,
tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nắm giữ. Vì vậy, vai trò của
ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán trong
trường hợp này chỉ có thể là phối hợp với sàn Giao dịch TMĐT để cung cấp
thông tin cho cơ quan quản lý Nhà nước khi được yêu cầu.
Đề nghị làm rõ và chỉnh sửa
quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP và Thông tư 80/2021/TT-BTC theo đề
xuất trên.
|
36
|
VCCI
|
Thông tư số 78/2014/TT-BTC Hướng
dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP quy định và hướng dẫn thi hành Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Hiện nay, việc ghi nhận chi
phí đầu tư tại các đối tác là cửa hàng bán lẻ, tiệm tạp hóa như quầy kệ, tủ
mát, tủ đông, công cụ dụng cụ… đang gặp phải vướng mắc do các cục thuế địa
phương không trả lời rõ ràng và thấu đáo vấn đề Doanh nghiệp có được khấu trừ
chi phí này hay không
|
Để nghị xem xét vấn đề này và
căn cứ vào bản chất của khoản chi chính đáng, phục vụ hoạt động kinh doanh
này của doanh nghiệp để có hướng dẫn nhất quán cho các cơ quan thuế địa
phương và doanh nghiệp về việc doanh nghiệp được phép khấu trừ chi phí tính
thuế TNDN đối với khoản chi này.
|
37
|
VCCI
|
Thông tư số 78/2014/TT-BTC
(Thông tư 78) ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính; Thông tư số 219/2013/TT-BTC
(Thông tư 219) ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính;
Đối với ngành kinh doanh bán
lẻ, các hàng hóa tiêu hao mất mát trong quá trình kinh doanh với nhiều nguyên
nhân khác nhau là không tránh khỏi ví dụ hao hụt do chuyển đổi, chế biến như
làm bánh, cắt xẻ thịt,…hoặc buộc phải hủy bỏ để đảm bảo chất lượng và tránh
nguy hại người tiêu dùng như bao bì, hộp đã bị chuột, gián cắn.
Quy định hiện hành chỉ giới hạn
một số lý do, chưa đề cập tới số trường hợp ngành nghề đặc thù với một số lý
do không thể tránh khỏi nêu trên, và việc công ty chấp nhận thiệt hại để đảm
bảo sức khỏe quyền lợi người tiêu dùng là cần thiết, theo đó, Chúng tôi nhận
thấy nên cân nhắc vấn đề này để hỗ trợ doanh nghiệp bán lẻ.
|
Đề xuất nên có quy định mức
hao hụt, mất mát nhất định phù hợp với ngành kinh doanh siêu thị, bán lẻ cho
mục đích chi phí được trừ và được phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào tương ứng.
|
38
|
VCCI
|
Thông tư liên tịch
64/2015/TTLT-BTC-BCT-BCA-BQP quy định chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng
hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường;
Các quy định tại Điều 3.2.a, 3.2b, Điều 4, Điều 6.1.a … đều yêu cầu cơ sở sản
xuất kinh doanh hàng hóa nhập khẩu “bản sao hóa đơn” và/hoặc “chứng từ có
đóng dấu”, “hóa đơn, chứng từ bản chính” để làm căn cứ xác định hàng hóa nhập
khẩu là hợp pháp.
Hiện nay toàn bộ việc
khai báo xuất nhập khẩu đã thực hiện hoàn toàn bằng phương thức điện tử. Vì vậy,
cơ quan chức năng có thể dễ dàng truy cập hệ thống một cửa quốc gia để kiểm
tra tính hợp pháp của hàng hóa, theo số lô hàng, số tờ khai hải quan tương ứng.
Tuy nhiên, các lực lượng chức
năng luôn yêu cầu hóa đơn, chứng từ bản giấy và không chấp nhận đề xuất tra cứu
chứng từ điện tử, dẫn đến rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc yêu cầu xuất trình “chứng
từ có đóng dấu" (ví dụ tờ khai) là không cần thiết, đi ngược lại những nỗ
lực số hóa, đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ. Hơn nữa, đối với
các lô hàng thương mại điện tử (gồm nhiều món hàng nhỏ lẻ), việc yêu cầu xuất
trình chứng từ giấy “có đóng dấu” với từng món hàng sẽ dẫn đến hệ quả là mỗi
lô hàng phải đi kèm lượng chứng từ giấy khổng lồ, gây khó khăn, tốn kém cho
doanh nghiệp một cách không cần thiết. Việc áp dụng cứng nhắc yêu cầu này có
thể dẫn đến rủi ro hàng hóa hợp pháp của doanh nghiệp bị coi là hàng nhập lậu
(theo quy định tại Điều 6.1.a của Thông tư này) trong khi đã hoàn thành các
thủ tục cần thiết.
Nếu cơ quan chức năng áp dụng
quy định một cách cứng nhắc, yêu cầu chứng từ giấy bản chính trong thời hạn 24
giờ kể từ thời gian kiểm tra (Điều 3.2.b. và Điều 6.1.a.)
sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và không khả thi vì để có chứng từ
giấy bản chính, doanh nghiệp phải liên hệ và cần có thời gian để có được sự hỗ
trợ của cơ quan hải quan ở cửa khẩu.
Ví dụ, một ô tô chở hàng nhập
khẩu đi từ cửa khẩu Hữu Nghị đến tỉnh Bình Thuận, bị cơ quan chức năng dừng
xe kiểm tra và yêu cầu cung cấp chứng từ nhập khẩu, việc doanh nghiệp liên lạc
cơ quan hải quan để xin dấu xác nhận hàng đã qua khu vực giám sát để xác nhận
tính hợp pháp của hàng hóa và chuyển vào đến tỉnh Bình Thuận trong vòng 24 giờ
là hoàn toàn không khả thi.
|
Đề nghị sửa đổi điều khoản
này hoặc có hướng dẫn thực thi theo hướng chấp nhận chứng từ điện tử để phù hợp
với chiến lược chuyển đổi số và đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ.
|
39
|
VCCI
|
Theo Công văn số
913/UBCK-GSĐC ngày 23/02/2022 của UBCKNN thì UBCK Nhà nước không đồng ý ĐHĐCĐ
của Công ty đại chúng ủy quyền cho HĐQT quyết định một số vấn đề thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ. Mặc dù UBCK không nêu đầy đủ căn cứ pháp lý vì sao ĐHĐCĐ
không được ủy quyền, tuy nhiên có thể suy luận việc ủy quyền này: (i) không
phù hợp với BLDS, chủ thể ủy quyền và nhận ủy quyền theo điều
138 BLDS phải là Pháp nhân hoặc Cá nhân; mà cả ĐHCĐ và HĐQT đều không có
phải cá nhân, cũng không phải pháp nhân; (ii) Việc ủy quyền này ảnh hưởng đến
quyền lợi của cổ đông nhỏ.
Đây chỉ là văn bản của
UBCKNN, vì vậy chỉ tác động đến các Công ty đại chúng, các Công ty không phải
công ty đại chúng hoạt động theo LDN vẫn đang nằm ngoài sự điều chỉnh của văn
bản 913/UBCK-GSĐC.
Trong khi tình trang ĐHĐCĐ ủy
quyền/giao quyền cho HĐQT, hoặc HĐQT ủy quyền/giao quyền cho TGĐ/Giám đốc diễn
ra phổ biến ở các công ty, không riêng gì Công ty đại chúng. Nhiều doanh nghiệp
băn khoăn không rõ nếu có tranh chấp liệu có dẫn đến các giao dịch gặp rủi ro
về vô hiệu do việc ủy quyền/trao quyền không đúng, tương tự như vấn đề được
Văn bản 913/UBCK-GSĐC của UBCKNN nêu ra
|
Cần có hướng dẫn cụ thể để
xác định các chủ thể như HĐTV, ĐHĐCĐ, HĐQT nói chung trong doanh nghiệp có được
ủy quyền/giao quyền cho chủ thể khác mà quyền đó theo luật đã ấn định cho các
chủ thể này hay không.
|
40
|
VCCI
|
Công văn 2688/BTC-TCT ngày
23/03/2022 của Bộ Tài Chính; Công văn 3522/TCT-CS ngày 22/09/2022 của Tổng Cục
thuế; Công văn 2121/TCT-CS ngày 29/05/2023 của Tổng Cục Thuế; Công văn
6778/CTHN-TTHT ngày 02/03/2022 của Cục thuế Hà Nội ; Công văn
20935/CTBDU-TTHT ngày 29/12/2022 của Cục thuế Bình Dương.
Quy định về hướng dẫn xử lý
hóa đơn trong giai đoạn áp dụng giảm thuế GTGT 2% của năm 2022 không kịp thời
và nhất quán.
1. Hướng dẫn chưa kịp thời và
chưa phù hợp với thực tế hoạt động của Doanh nghiệp
Các vướng mắc của Doanh nghiệp
liên quan các chính sách ưu đãi giảm thuế GTGT đã phát sinh rất nhiều từ khi
áp dụng chính sách giảm thuế GTGT 30% theo Nghị định 92/2021/NĐ- CP, và sau
đó là chính sách giảm thuế GTGT 20% theo Nghị định 15/2022/NĐ-CP. Qua 2 lần
thực hiện ưu đãi giảm thuế, các vấn đề vướng mắc liên quan việc xuất hóa đơn
trong giai đoạn chuyển giao và về việc làm rõ đối tượng được áp dụng ưu đãi đều
đã được kiến nghị rất nhiều lần, nhưng đến nay việc hướng dẫn vẫn không kịp
thời, thường chỉ có hướng dẫn sau khi đã phát sinh vấn đề và nhận được câu hỏi
của Người nộp thuế.
2. Hướng dẫn chưa phù hợp với
nguyên tắc áp dụng chung của luật thuế, chưa thống nhất và gây ra nhiều cách
hiểu khác nhau, gây hoang mang cho người nộp thuế kể cả trong tình huống được
hưởng ưu đãi.
Nguyên tắc áp dụng thuế suất
thuế GTGT là dựa trên bản chất hàng hóa dịch vụ và đối tượng áp dụng, không dựa
vào thời điểm xuất hóa đơn. Quyết định 43 và Nghị định 15 hướng dẫn về việc
giảm thuế GTGT cũng đang căn cứ vào bản chất hàng hóa dịch vụ để xác định đối
tượng giảm thuế.
Đối với việc xuất hóa đơn sai
thời điểm, đã có chế tài riêng về việc phạt xuất hóa đơn sai thời điểm. Do
đó, thời điểm xuất hóa đơn không nên được sử dụng làm căn cứ để xác định thuế
suất GTGT và điều kiện giảm thuế GTGT. Việc xác định giảm thuế GTGT nên căn cứ
vào thời điểm cung cấp hàng hóa dịch vụ có thuộc giai đoạn được giảm thuế hay
không, không phân biệt thời điểm xuất hóa đơn của từng đối tượng cung cấp
hàng hóa dịch vụ.
Tuy nhiên, các văn bản hướng
dẫn ở cấp độ công văn hiện đang không thống nhất và đa số dựa vào thời điểm
xuất hóa đơn để xác định thuế suất.
Ví dụ, căn cứ vào thực tế đã
phát sinh trong giai đoạn 2022 - 06/2023:
Việc xuất hóa đơn cho hoạt động
mua bán hàng hóa - dịch vụ thuộc đối tượng được giảm thuế GTGT 2% đã thực hiện
trước 31/12/2022 nhưng xuất hóa đơn sau ngày 31/12/2022: Công văn 3522/TCT-CS
ban hành vào tháng 9/2022 của Tổng Cục Thuế hướng dẫn chỉ được giảm thuế đối
với các hóa đơn dịch vụ đặc thù lập từ ngày 01/02/2022 đến hết ngày
31/12/2022;
Công văn 20935/CTBDU-TTHT ban
hành vào tháng 12/2022 của Cục thuế Bình Dương hướng dẫn chỉ được giảm thuế đối
với các hóa đơn dịch vụ nói chung lập từ ngày 01/02/2022 đến hết ngày
31/12/2022;
Công văn 2121/TCT-CS ban hành
tại tháng 5/2023 của Tổng Cục Thuế hướng dẫn áp dụng thuế suất 8% với đối tượng
thỏa điều kiện.
Việc xuất hóa đơn điều chỉnh
cho HH-DV trong quá trình chuyển giao chính sách thuế:
Công văn 2688/BTC-TCT ban
hành vào tháng 03/2022 của Bộ Tài Chính hướng dẫn nếu có sai sót cần điều chỉnh
hóa đơn đã lập trước ngày 01/02/2022 thì hóa đơn điều chỉnh được lập theo thuế
suất của hóa đơn gốc (10%)
Công văn 6778/CTHN-TTHT của Cục
thuế Hà Nội hướng dẫn lập hóa đơn điều chỉnh được áp dụng thuế suất theo hóa
đơn gốc (8%)
Công văn 2121/TCT-CS hướng dẫn
cách xử lý điều chỉnh theo thuế suất 8% hoặc 10% tùy thuộc trường hợp có thay
đổi giá trị tính thuế và thuế suất trên hóa đơn hay không.
|
Đề nghị Tổng Cục Thuế xem xét
để có hướng dẫn kịp thời đối với các vấn đề về thuế liên quan trước khi ban
hành chính sách thuế để tránh rủi ro cho Doanh nghiệp trong quá trình vận
hành do chính sách ưu đãi thuế gây ra. Đồng thời nhằm đảm bảo tính tin cậy của
hướng dẫn/ tư vấn của cán bộ thuế địa phương.
a. Việc xem xét và áp dụng
thuế suất ưu đãi GTGT cần dựa trên bản chất hàng hóa dịch vụ và đối tượng áp
dụng, không dựa vào thời điểm xuất hóa đơn.
b. Thời điểm xuất hóa đơn
không nên được sử dụng làm căn cứ để xác định thuế suất GTGT và điều kiện giảm
thuế GTGT.
c. Phương án xử lý điều chỉnh/
thay thế hóa đơn không nên được sử dụng làm căn cứ để xác định thuế thuế GTGT
được áp dụng;
|
41
|
VCCI
|
Công văn 42535/CTHN-TTHT của
CT Hà Nội ngày 29/08/2022 và nhiều công văn khác tương tự.
Thiếu hướng dẫn về xử lý kê
khai thuế liên quan đến việc điều chỉnh hoặc thay thế hoặc hủy hóa đơn phát
sinh trong quá trình vận hành, đối soát của Doanh nghiệp.
Trong khi đó, các Cơ quan thuế
địa phương tham chiếu về Điều 47, Luật Quản lý thuế số
38/2019/QH14 hướng dẫn về quy định điều chỉnh kê khai thuế nói chung để
hướng dẫn về kê khai thuế do việc xử lý điều chỉnh hoặc thay thế hóa đơn, và
yêu cầu doanh nghiệp phải quay về điều chỉnh lại tờ khai của tháng phát sinh
hóa đơn gốc
Ví dụ: Doanh nghiệp ký hợp đồng
cung cấp dịch vụ cả năm 2023, và thu tiền một lần trước khi thực hiện dịch vụ.
Hóa đơn gốc xuất tại tháng 12/2022, sau đó, do hợp đồng chấm dứt giữa chừng
và cần điều chỉnh hóa đơn tại tháng 5/2023 để giảm trừ giá trị dịch vụ chưa
được thực hiện, Doanh nghiệp được hướng dẫn phải điều chỉnh tờ khai tháng
12/2022 tại tháng 5/2023 tương ứng với tăng/giảm của hóa đơn điều chỉnh, và nếu
khai bổ sung dẫn đến tăng số thuế phải nộp, Doanh nghiệp cần nộp bổ sung số
tiền thuế tăng thêm, đồng thời chịu lãi chậm nộp nếu có.
Yêu cầu này không phù hợp
nguyên tắc kế toán và thuế do không phản ánh đúng thời điểm phát sinh giao dịch
điều chỉnh/ chấm dứt dịch vụ, và cũng không khả thi đối với thực tế vận hành
liên tục của Doanh nghiệp với các đối tác, dẫn đến khó khăn trong việc quản
lý kê khai tờ khai thuế và các điều chỉnh thuế trong quá trình hoạt động.
|
Đề nghị cho phép doanh nghiệp
được đơn giản hóa thủ tục kê khai thuế bằng việc cho phép thể hiện các xử lý
điều chỉnh/ thay thế hóa đơn tại thời điểm thực tế phát hiện sai sót và diễn
ra hoạt động điều chỉnh/ thay thế hóa đơn.
|
42
|
VCCI
|
Công văn 5250 của Tổng cục
Thuế, Bộ Tài chính về việc tổ chức triển khai việc hướng dẫn các tổ chức là
chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT cung cấp thông tin theo quy định lại Nghị định
Nghị định 91/2022/NĐ-CP ;
Nghị định 91/2022/NĐ-CP chỉ
yêu cầu sàn TMĐT cung cấp các trường thông tin sau của người bán: “tên người
bán hàng, mã số thuế hoặc số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân hoặc
căn cước công dân hoặc hộ chiếu; địa chỉ, số điện thoại liên lạc; doanh thu
bán hàng thông qua chức năng đặt hàng trực tuyến của sàn”.
Tuy nhiên, theo Công văn hướng
dẫn và trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan Thuế, thì sàn TMĐT phải cung cấp
thêm nhiều trường thông tin nằm ngoài phạm vi quy định như: thông tin về mã
quản lý trên sàn TMĐT; loại hình kinh doanh; số giấy phép kinh doanh; thông
tin tài khoản ngân hàng; số lượng đơn hàng giao thành công và không thành
công; v.v.
Yêu cầu này chưa có cơ sở
pháp lý rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi làm việc và dẫn đến nhiều
tình huống khiếu nại của người bán về việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế.
Ngoài ra, yêu cầu cung cấp thêm nhiều trường thông tin cũng làm tăng chi phí
tuân thủ của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp phải đầu tư thêm nhân lực, thời
gian, hệ thống để thu thập, xử lý và báo cáo dữ liệu
|
Đề nghị Chính phủ rà soát và
yêu cầu Cơ quan Thuế không yêu cầu doanh nghiệp chủ sở hữu sàn TMĐT cung cấp
các trường thông tin của người bán nằm ngoài phạm vi thông tin quy định tại
Nghị định số 91/2022/NĐ-CP .
|
43
|
VCCI
|
Xúc tiến cơ chế Thỏa thuận
trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA)
Hiệp hội chúng tôi được biết
rằng chưa có trường hợp APA nào được ký kết. Chúng tôi nhận thấy đây là một vấn
đề lớn khi mà phương pháp này được giới thiệu vào năm 2014 mà đến nay vẫn
chưa có trường hợp nào được ký kết. Nhiều công ty có vốn Nhật Bản cũng đã nay
làm thủ tục xin được áp dụng phương pháp này nhưng chưa có trường hợp nào đạt
được thỏa thuận, điều này đã khiến các doanh nghiệp không được hưởng những
quyền lợi chính đáng được quy định trong Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa
Việt Nam và Nhật Bản, dẫn đến tình trạng vi phạm quy định trong Hiệp định.
Trong trường hợp truy thu thuế khi thanh kiểm tra giao dịch liên kết, APA phải
được áp dụng để đảm bảo rằng doanh nghiệp đối tác cũng sẽ có thể nhận được
khoản hoàn thuế phù hợp nếu có.
|
Tuân thủ các điều ước, các
cam kết quốc tế và thúc đẩy việc xúc tiến, sớm ký kết và ban hành hướng dẫn
áp dụng APA.
|
44
|
VCCI
|
Khi sử dụng phương pháp so
sánh tỷ suất lợi nhuận trong phân tích giá giao dịch liên kết, trường hợp phải
loại bỏ các đối tượng so sánh độc lập ghi nhận lỗ trung bình nhiều năm, hoặc lỗ
liên tục nhiều năm thì chúng tôi hiểu rằng điều kiện tiền đề về mặt lý thuyết
là các đối tượng so sánh độc lập này phải hoạt động liên tục.
Trong trường hợp công ty
không thể hoạt động do ảnh hưởng của COVID-19, chỉ thị của chính phủ hoặc do
chính sách cắt điện luân phiên theo kế hoạch, không phát sinh doanh thu bán
hàng nhưng chi phí phát sinh tăng mạnh, thì các điều chỉnh giả định cần được
thực hiện để phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố ngoài giá giao dịch trong phân
tích tỷ suất lợi nhuận. Cũng như vậy đối với các trường hợp mà doanh nghiệp
giảm mạnh tỷ suất lợi nhuận, phát sinh lỗ do các yếu tố ngoài giá giao dịch,
như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn gây lỗ, sản xuất không
thuận lợi làm giá vốn cao hơn so với giá bán của bên thứ 3, chất lượng sản phẩm
không tốt gây hoàn hàng nhiều...
Trong các cuộc thanh kiểm tra
về giá chuyển nhượng, có rất nhiều trường hợp việc giải thích sử dụng các yếu
tố ngoài giá giao dịch không được chấp thuận do doanh nghiệp không thể tìm được
thông tin được công bố chứng minh các đối tượng so sánh độc lập không bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố ngoài giá tương tự như có sự cố mất điện theo kế hoạch
hay hàng hóa không đạt tiêu chuẩn, do đó chúng tôi mong muốn chấm dứt việc
không chấp thuận của cơ quan thuế trong; kiểm tra thuế trong tình trạng không
thể chứng minh được như hiện nay.
|
Chỉ thị hoặc ban hành hướng dẫn
tới cơ quan địa phương để thực hiện các cuộc thanh kiểm tra thuế trên cơ sở
xem xét đến các yếu tố ngoài giá giao dịch trong phân tích tỷ suất lợi nhuận
|
45
|
VCCI
|
Đối với các giao dịch trong tập
đoàn mà áp dụng cùng thuế suất tại Việt Nam, không có lỗ lũy kế nhưng vẫn có
trường hợp bị truy thu thuế liên quan đến giá giao dịch liên kết. Động cơ
chuyển giá giữa các doanh nghiệp như này là không có, do đó nếu truy thu thuế
đối với các giao dịch này là không hợp lý
|
Điều chỉnh lại quy định hiện
hành miễn trừ các giao dịch này khỏi đối tượng áp dụng các quy định về giao dịch
liên kết, hoặc có hướng dẫn để miễn trừ các giao dịch này loại khỏi đối tượng
thanh kiểm tra thuế, hoặc là quy định rõ việc giao dịch của phía đối tác sẽ
được hoàn thuế
|
46
|
VCCI
|
Doanh nghiệp cho biết việc
thuế GTGT không được hoàn lại theo một cách thích hợp đang là một vấn đề lớn,
gây ra các vấn đề về dòng tiền và trở thành nguyên nhân dẫn đến việc phá sản
của một số doanh nghiệp tại Việt Nam. Khi tiến hành xin hoàn thuế GTGT, việc
phát sinh khá nhiều các yêu cầu và chứng từ ngoài quy định của pháp luật là yếu
tố chính dẫn đến việc chậm hoàn thuế.
|
Doanh nghiệp rất mong muốn việc
hoàn thuế được diễn ra thuận lợi mà không có các yêu cầu về điều kiện và nộp
chứng từ vượt quá quy định pháp lý.
Ví dụ, đã có trường hợp, tại
thời điểm kiểm tra việc hoàn thuế GTGT, ngoài những giấy tờ theo quy định của
pháp luật, văn bản xác nhận tình trạng hồ sơ chuyển giá cũng được liệt kê là
một trong những giấy tờ cần thiết, và cũng có trường hợp dù là xin hoàn thuế
GTGT nhưng lại không cho hoàn với lý do chưa hoàn thành việc thanh kiểm tra
thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hoàn thuế GTGT rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp và nếu không được thông qua do các yêu cầu vượt quá quy định
pháp lý, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn về dòng tiền, thậm chí có thể phá sản.
Trong tình trạng như vậy, doanh nghiệp không thể xây dựng kế hoạch tài chính,
vận hành công ty một cách phù hợp. Khi chính phủ, cơ quan thuế không tuân thủ
quy định pháp luật thì làm thế nào để có thể hướng dẫn các doanh nghiệp tuân
thủ pháp luật và nộp thuế một cách thích hợp.
Doanh nghiệp nếu đã đáp ứng đủ
điều kiện hoàn thuế GTGT thì có quyền lợi được hoàn thuế. Chúng tôi hy vọng
các quy định về pháp luật sẽ được tuân thủ mà không có thêm các yêu cầu ngoài
pháp lý để đảm bảo quyền lợi được hoàn thuế GTGT của doanh nghiệp
|
47
|
VCCI
|
Thông tư hướng dẫn Luật Quản
lý thuế quy định rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy phép xây dựng
là giấy tờ bắt buộc phải nộp trong hồ sơ xin hoàn thuế, nhưng trong nhiều trường
hợp, công ty quản lý khu công nghiệp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp cũng không thể có được.
Thêm vào đó, sự chậm trễ trong các thủ tục hành chính cũng khiến các doanh
nghiệp mất rất nhiều thời gian để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
Giấy phép xây dựng. Mặt khác, các doanh nghiệp vẫn cần được hoàn thuế GTGT để
giải quyết các vấn đề liên quan đến dòng tiền. Nhưng sự chậm trễ trong thủ tục
hành chính lại gây khó khăn trong việc hoàn thuế GTGT.
|
Xem xét để giải quyết một
cách linh hoạt việc hoàn thuế GTGT theo tình hình thực tế cũng như trong thời
gian sớm nhất điều chỉnh luật để xóa bỏ quy định liên quan.
|
48
|
VCCI
|
Mặc dù Luật Quản lý thuế đã
có quy định về thời hạn hoàn thuế GTGT, từ khi nộp hồ sơ xin hoàn thuế đến
khi thực hiện kiểm tra và hoàn thuế, nhưng nhiều trường hợp không tuân thủ thời
hạn này gây chậm trễ trong việc thực hiện hoàn thuế. Đặc biệt, đã có nhiều
trường hợp không được hoàn thuế GTGT với những lý do không phù hợp như chưa
hoàn thành thanh kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc do cơ quan thuế
không tiến hành kiểm tra thuế trong vòng 40 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ nhưng
cũng không có bất kỳ thông báo nào. Các hoạt động không tuân thủ quy định này
của các cơ quan thuế đang khiến các doanh nghiệp phải chịu nhiều thiệt hại.
|
Đề xuất có các biện pháp để
các quy định pháp luật được tuân thủ một cách chặt chẽ hơn
|
49
|
VCCI
|
Miễn thuế theo Hiệp định thuế
Thủ tục xin miễn thuế theo Hiệp
định thuế được quy định tại Thông tư 80/2021/TT-BTC , cơ quan thuế sau khi nhận
đề nghị miễn thuế đáp ứng đủ các yêu cầu theo quy định, sẽ ra quyết định miễn
thuế trong vòng 30 ngày (hoặc 40 ngày nếu cần kiểm tra thực tế) và ra thông
báo cho người nộp thuế biết mình có thuộc đối tượng được miễn thuế hay không.
Mặc dù các doanh nghiệp đã nộp
đơn xin miễn thuế chuyển nhượng vốn, thuế thu nhập cá nhân và thuế nhà thầu
nước ngoài theo Hiệp định thuế nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp cơ quan
thuế không phản hồi trong khoảng thời gian quy định như đã nêu ở trên. Có những
trường hợp đã nộp đơn hơn 1 năm nhưng không nhận được phản hồi. Ngoài ra,
cũng có nhiều trường hợp bị yêu cầu bổ sung các tài liệu không liên quan đến
yêu cầu miễn thuế như tính hợp lý của các khoản nộp thuế tại thời điểm chuyển
nhượng vốn ban đầu hoặc tính hợp lý của giá mua.
|
Đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền không yêu cầu các giấy tờ mà bên nhận chuyển nhượng không thể xin được,
chẳng hạn như sổ cái tài sản cố định của công ty Việt Nam là đối tượng chuyển
nhượng vốn, v.v. Và mong các cơ quan chức năng tuân thủ đúng quy định như
không yêu cầu các giấy tờ, các thủ tục mà không được yêu cầu trong luật định
và không liên quan đến điều kiện miễn thuế, thực hiện trả lời doanh nghiệp
trong thời hạn quy định.
|
V
|
Công
Thương
|
1
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Điều chỉnh giá điện áp dụng
cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng với giá điện sản xuất. Chính phủ đã
ban hành Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW
đã chỉ đạo Bộ Công Thương triển khai việc chuyển đổi giá điện nêu trên nhưng đến
nay đã gần 6 năm, Bộ Công Thương chưa thực hiện.
|
Đề nghị Bộ Công Thương thực
hiện triển khai việc chuyển đổi giá điện theo Nghị quyết 08/NQ-TW.
|
2
|
VCCI
|
Nghị định 09/2018/NĐ-CP quy định
thêm Giấy phép kinh doanh cho tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài kinh
doanh dịch vụ thương mại điện tử (bên cạnh Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
Đăng ký thiết lập website/ứng dụng TMĐT, v.v). Để tránh gián đoạn hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, Nghị định đã quy định điều khoản chuyển tiếp,
theo đó các đơn vị đã hoạt động trước khi Nghị định được ban hành và có đầy đủ
các giấy phép chứng minh đủ điều kiện kinh doanh thì chỉ cần làm thủ tục điều
chỉnh Giấy phép kinh doanh khi có thay đổi, bổ sung các thông tin cơ bản.
Trên thực tế, hầu như tất cả
các đơn vị đã hoạt động trước khi Nghị định 09/2018/NĐ-CP được ban hành và có
hiệu lực đều phải thực hiện thủ tục tương tự xin cấp Giấy phép kinh doanh lần
đầu, và thủ tục, quy trình hết sức phức tạp do không có trường hợp điển hình
và hồ sơ mẫu, mất nhiều năm vẫn chưa có kết quả, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
|
Đề nghị có hướng dẫn rõ ràng
theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, ấn định thời gian xử lý hồ sơ điều
chỉnh Giấy phép cụ thể và cấp Giấy phép kinh doanh cho các đơn vị đã hoạt động
hợp lệ, hợp pháp trước thời điểm Nghị định 09/2018/NĐ-CP được ban hành và có
hiệu lực để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
|
3
|
VCCI
|
Theo phản ánh, để thực hiện đầu
tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư sẽ phải thực hiện các thủ tục đầu tư được quy
định tại Luật đầu tư. Sau đấy, với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện
được quy định tại Luật đầu tư, các doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục xin giấy
phép kinh doanh theo quy định của văn bản quản lý chuyên ngành, ví dụ như đối
với dịch vụ thương mại điện tử, dịch vụ giám định thương mại phải thực hiện
thủ tục tại Bộ Công Thương theo quy định, dịch vụ vận tải hàng không sẽ thực
hiện thủ tục tại cơ quan cấp giấy phép liên quan đến vận tải hàng không. Việc
phải thực hiện thủ tục cập Giấy phép kinh doanh theo nghị định 09/2018/NĐ-CP
khiến cho cùng một ngành nghề kinh doanh cần phải thực hiện ít nhất 03 thủ tục
xin phép.
Nghị định 09/2018/NĐ-CP là
văn bản quy định chi tiết Luật thương mại và Luật quản lý ngoại thương về hoạt
động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng
hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Trong khi đó Luật quản lý ngoại thương, Luật thương mại năm 2005
không có quy định rõ ràng về điều, khoản, điểm giao cho Chính phủ quy định về
một số hoạt động, ví dụ như dịch vụ thương mại điện tử, giám định thương mại.
Điều này có thể chưa phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật;
Thủ tục hành chính được quy định
trong Nghị định 09/2018/NĐ-CP có nhiều quy định chưa rõ ràng chẳng hạn như:
(i) Không có hồ sơ mẫu dẫn đến việc áp dụng các cách hiểu về các tiêu chí,
yêu cầu, điều kiện để thể hiện trong hồ sơ không thống nhất giữa các cơ quan
nhà nước dẫn đến các doanh nghiệp khó khăn trong việc chuẩn bị tài liệu; (ii)
Không có quy chế, quy định thẩm định hồ sơ để áp dụng một cách thống nhất giữa
các Sở công thương, (iii) thời hạn giải quyết hồ sơ trên thực tế kéo dài rất
nhiều so với quy định.
|
Đề nghị rà soát lại các quy định
tại Nghị định 09/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính minh bạch đối với các thủ tục
hành chính.
|
4
|
VCCI
|
Điều 102 Luật
thương mại ;Điều 2, Khoản 1 Luật Quảng cáo; Điều 117 Luật Thương mại
Quảng cáo thương mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt
động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình.
Quảng cáo là việc sử dụng các
phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục
đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân
kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự;
chính sách xã hội; thông tin cá nhân Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ
là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hoá, dịch vụ và
tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hoá, dịch
vụ đó
|
Đề nghị có hướng dẫn làm rõ sự
khác nhau giữa các dịch vụ “Quảng cáo thương mại”, “Trưng bày, giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ” và “Quảng cáo”.
Trong quá trình hoạt động
cung ứng dịch vụ TMĐT, nhiều cơ quan nhà nước coi hành vi đăng bán trên Sàn
TMĐT là hoạt động quảng cáo và áp dụng các quy định quảng cáo để xử lý các
hành vi vi phạm quy định của pháp luật quảng cáo.
Trong khi việc đăng bán trên
Sàn TMĐT hiện đang được hiểu là hành vi trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ trực tuyến theo quy định của Luật thương mại.
Do có nhiều cách hiểu khác
nhau nên dẫn đến sự áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
|
5
|
VCCI
|
Tại Điều 36,
khoản 11, điểm b văn bản số 14/VBHN-BCT ngày 19/11/2021 văn bản hợp nhất
nghị định về thương mại điện tử "Đại diện cho người bán nước ngoài trên
sàn giao dịch thương mại điện tử giải quyết các khiếu nại của người tiêu dùng
liên quan đến hàng hóa, dịch vụ do thương nhân nước ngoài cung cấp và có
trách nhiệm thông báo nghĩa vụ thuế của người bán nước ngoài khi tham gia sàn
giao dịch thương mại điện tử theo quy định của pháp luật Việt Nam;"
|
Đề nghị điều chỉnh phù hợp với
quy định về đại diện/ủy quyền của Bộ luật dân sự
Đề nghị làm rõ nghĩa vụ
“thông báo nghĩa vụ thuế của người bán nước ngoài” cụ thể là gì, thuộc phạm
vi thủ tục hành chính nào theo quy định của Luật quản lý thuế.
|
6
|
VCCI
|
Yêu cầu sàn TMĐT cung cấp
thông tin của người bán trên sàn ngoài phạm vi quy định để phục vụ quản lý
thuế
Nghị định 91/2022/NĐ-CP chỉ
yêu cầu sàn TMĐT cung cấp các trường thông tin sau của người bán: “tên người
bán hàng, mã số thuế hoặc số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân hoặc
căn cước công dân hoặc hộ chiếu; địa chỉ, số điện thoại liên lạc; doanh thu
bán hàng thông qua chức năng đặt hàng trực tuyến của sàn”.
Tuy nhiên, theo Công văn hướng
dẫn và trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan Thuế, thì sàn TMĐT phải cung cấp
thêm nhiều trường thông tin nằm ngoài phạm vi quy định như: thông tin về mã
quản lý trên sàn TMĐT; loại hình kinh doanh; số giấy phép kinh doanh; thông
tin tài khoản ngân hàng; số lượng đơn hàng giao thành công và không thành
công…
Yêu cầu cung cấp thông tin với
phạm vi rộng là chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng và gây khó khăn cho doanh nghiệp
khi làm việc và xin chấp thuận của người bán về việc cung cấp thông tin cho
cơ quan thuế
Việc yêu cầu cung cấp thêm
nhiều trường thông tin cũng làm tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp, khi
doanh nghiệp phải đầu tư thêm nhân lực, thời gian, hệ thống để thu thập, xử
lý và báo cáo dữ liệu
Văn bản liên quan:
Khoản 7 Điều
1 Nghị định số 91/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số
126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều của Luật Quản lý thuế Công văn số
4205/TCT-DNNCN ngày 14/11/2022 của Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính về việc tổ chức
triển khai việc hướng dẫn các tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT cung cấp
thông tin theo quy định lại Nghị định số 91/2022/NĐ-CP
|
Đề nghị chỉ yêu cầu chủ sở hữu
sàn TMĐT cung cấp đúng và đủ các trường thông tin của người bán như đã được
quy định tại Nghị định số 91/2022/NĐ-CP
|
7
|
VCCI
|
Khoản 2 và
khoản 3 Điều 21 về Quyền và nghĩa vụ của đại lý bán lẻ xăng dầu
“2. Chỉ được ký hợp đồng
làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một (01) tổng đại lý hoặc một (01) thương nhân
phân phối xăng dầu hoặc một (01) thương nhân đầu mối. Nếu tổng đại lý hoặc
thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối đó không kinh doanh
nhiên liệu sinh học, đại lý được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho một (01) tổng
đại lý hoặc một (01) thương nhân phân phối xăng dầu hoặc một (01) thương nhân
đầu mối khác chỉ để kinh doanh nhiên liệu sinh học.
3. Thương nhân đã ký hợp đồng
làm đại lý cho tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương
nhân đầu mối, không được ký thêm hợp đồng làm đại lý cho tổng đại lý hoặc
thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương nhân đầu mối khác.
Đại lý phải nằm trong hệ thống
phân phối của tổng đại lý hoặc thương nhân phân phối xăng dầu hoặc thương
nhân đầu mối và chịu sự kiểm soát của thương nhân đó.”
Như vậy theo Quy định này,
Doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu gặp rất nhiều bất cập, khó khăn trong việc nhập
nhiên liệu đầu vào để bán lẻ.
Quy định chỉ được ký Hợp đồng
với 01 thương nhân phân phối nên vào thời điểm khó khăn, khan hiếm nhiên liệu,
thương nhân đầu mối cũng không có nhiên liệu cung cấp thì kéo theo cả một chuỗi
cửa hàng bán lẻ cũng phải dừng hoạt động, các hoạt động của người tiêu dùng
cũng phải tạm dừng do thiếu hụt nguồn cung nhiên liệu, còn chưa nói đến việc
1 nhà cung cấp đầu mối nhiều khi gây khó khăn cho các nhà bán lẻ về chiết khấu
và các dịch vụ hỗ trợ cho các thương nhân bán lẻ hoặc đại lý sẽ gặp nhiều khó
khăn và giảm sút doanh thu, lợi nhuận; làm triệt tiêu sự cạnh tranh của các
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, không có sự lựa chọn dẫn đến làm ăn thua lỗ
bị phá sản.
|
Đề nghị sửa đổi quy định khoản 2 và khoản 3 điều 21 của Nghị định 83/2014/NĐ-CP cho
phép doanh nghiệp bán lẻ, đại lý được ký hợp đồng với nhiều nhà cung cấp đầu
mối, để linh hoạt trong kinh doanh và không bị gãy chuỗi cung ứng nhiên liệu
cũng như đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ, Đại lý. Cũng như các
nhà cung cấp đầu mối phải chịu trách nhiệm về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa và
các hóa đơn chứng từ hợp pháp trước Nhà nước và Pháp luật.
|
8
|
VCCI
|
Hiện nay việc các doanh nghiệp
có mua điện cao thế giá thấp hơn điện hạ thế trung bình là 476 đ/kw thì phải
đầu tư trạm hạ thế kèm theo thiết bị tụ bù là bộ phận không thể tách dời của
trạm hạ thế để xử lý triệt tiêu hết công suất phản kháng là đương nhiên.
Các doanh nghiệp và người dân
mua điện hạ thế của ngành điện, hoặc nhà đầu tư trạm hạ thế thì ngành điện hoặc
nhà đầu tư trạm hạ thế phải lắp thiết bị tụ bù chung của trạm gắn liền với trạm
để xử lý triệt tiêu hết công suất phản kháng là đúng bởi vì doanh nghiệp và
người dân mua điện hạ thế phải mua giá cao hơn so với điện cao thế trung bình
là 476 đồng/kw. Tại Nghị định 137/2013/NĐ-CP và Thông tư số 15/2014/TT-BCT lại
yêu cầu doanh nghiệp và người dân phải mua công suất phản kháng hoặc đầu tư
thiết bị tụ bù là chưa công bằng gây lãng phí tiền của và thiệt hại cho doanh
nghiệp và người dân.
|
Đề nghị sửa đổi Thông tư
15/2014/TT-BCT và trình Chính phủ sửa đổi Điều 15 Nghị định
137/2013/NĐ-CP:
1. Nếu Doanh nghiệp mua điện
cao thế để đầu tư trạm biến áp thì phải chịu trách nhiệm tiền công suất phản
kháng hoặc đầu tư tụ bù để triệt tiêu công suất phản kháng.
2. Bên mua điện hạ thế thì
bên bán điện đầu tư trạm biến áp phải chịu trách nhiệm tiền công suất phản
kháng hoặc đầu tư tụ bù để triệt tiêu công suất phản kháng.
|
9
|
VCCI
|
Điều 77 Nghị
định 98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng: Hành vi vi phạm về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa với
mức phạt tối đa là 50.000.000 VNĐ
Mức phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi vi phạm trong lĩnh vực này đang ở mức thấp, tối đa chỉ đến
50.000.000 VNĐ, không tương xứng với quy mô giao dịch của thị trường.
Chưa có chế tài xử lý hình sự
cụ thể áp dụng đối với những hành vi vi phạm trong lĩnh vực này.
|
Sửa đổi, bổ sung các quy định
về mức phạt vi phạm hành chính, tương xứng với quy mô và giá trị giao dịch
trên thị trường.
|
10
|
VCCI
|
Điều 36.4 của
Văn bản số 14/VBHN-BCT ngày 19/11/2021 văn bản hợp nhất nghị định về thương
mại điện tử quy định Sàn TMĐT có trách nhiệm ”Có cơ chế kiểm tra, giám sát để
đảm bảo việc cung cấp thông tin của người bán trên sàn giao dịch thương mại
điện tử được thực hiện chính xác, đầy đủ”
Các Sàn gặp khó khăn trong việc
thực thi quy định này ở nội dung: kiểm tra, giám sát việc cung cấp thông tin
về địa chỉ của Người bán trên sàn. Địa chỉ của Người bán là tự khai, miễn là
địa chỉ có thực để thực hiện được việc giao nhận hàng hóa, địa chỉ đó có thể
là nhà nhưng cũng có thể là kho hàng (thuê lại) hay địa điểm mượn của Người
bán để làm nơi lưu giữ hàng hóa, hoặc cùng một lúc Người bán có nhiều địa chỉ
giao hàng khác nhau (thuê nhiều kho) thì việc bắt buộc Sàn phải xác thực được
các địa chỉ do Người bán đăng ký là không khả thi về mặt vận hành. Trong thực
tiễn, một số cơ quan chức năng như Quản lý thị trường có thể phạt Sàn TMĐT vì
lỗi “không xác thực thông tin địa chỉ người bán” theo Điều
64.3.d.Nghị định 98/2020/NĐ-CP, gây khó khăn trong hoạt động của Sàn.
Trách nhiệm của Sàn TMĐT được
coi là hoàn thành khi “có cơ chế kiểm tra giám sát” thông tin địa chỉ của Người
bán. Còn Sàn TMĐT không phải chịu trách nhiệm về việc thông tin địa chỉ có
đúng hay không, nếu đăng ký địa chỉ nào cũng phải cung cấp Hợp đồng thuê thì
rất khó cho Sàn, không kể nhà mượn thì cũng ko có HĐ, hoặc Người bán có thể
làm giả HĐ thuê, mượn nhà….Nếu thủ tục phiền hà như vậy thì sẽ khó cạnh tranh
được với các nền tảng khác như Facebook, instagram... khi không phải chịu sự
giám sát quản lý nào của của cơ quan quản lý Việt Nam.
|
Đề nghị xem xét lại quy định
này để đảm bảo tính khả thi.
|
11
|
VCCI
|
Có cơ chế kiểm tra, giám sát
để đảm bảo việc cung cấp thông tin của người bán trên sàn giao dịch thương mại
điện tử được thực hiện chính xác, đầy đủ.
|
Đề nghị có hướng dẫn về “Cơ
chế kiểm tra, giám sát” theo quy định của Nghị định để có thể được hiểu và áp
dụng một cách thống nhất.
Đồng thời, cần có tiêu chí định
lượng cụ thể để xác định tính hiệu quả của cơ chế làm căn cứ để xác định hành
vi vi phạm hành chính.
|
12
|
VCCI
|
Tại Nghị định số 81/2018/NĐ-CP
Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Điều 6, khoản
1 Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được
khuyến mại không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại đó trước thời gian khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại bằng các hình thức
quy định tại Khoản 8 Điều 92 Luật thương mại, Điều 8, Khoản
2 Điều 9, Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định này.
|
Trong trường hợp cung cấp dịch
vụ miễn phí cho khách hàng, giá trị dịch vụ được khuyến mại trước thời điểm
thực hiện chương trình khuyến mại được tính như thế nào?
|
13
|
VCCI
|
Tại Nghị định số
81/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương
mại.
Điều 13. Bán
hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi
mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc
trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng
đã công bố (chương trình khuyến mại mang tính may rủi)
|
Trong trường hợp 100% người
tham gia chương trình đều trúng thưởng, chỉ khác nhau về giá trị giải thưởng
thì có được coi là chương trình khuyến mại mang tính may rủi không?
|
14
|
VCCI
|
Tại Nghị định số
81/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương
mại.
Điều 17.
Thông báo hoạt động khuyến mại
|
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có quyền từ chối hồ sơ thông báo hay không do theo quy định của Nghị định
81/2018/NĐ-CP , đối với thủ tục thông báo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ
tiếp nhận hồ sơ.
Trong trường hợp chương trình
khuyến mại được thực hiện trên nhiều tỉnh thành phố, thì có cần phải chi tiết
giá trị chương trình khuyến mại của từng tỉnh hay không? Hay chỉ cần quy định
tổng giá trị chương trình khuyến mại.
|
15
|
VCCI
|
Tại Nghị định số
81/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương
mại.
Điều 19 khoản
6
Trong thời hạn 05 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được hồ sơ (căn cứ theo ngày nhận ghi trên vận đơn bưu điện
hoặc các hình thức có giá trị tương đương trong trường hợp gửi qua đường bưu
điện, căn cứ theo ngày ghi trên giấy tiếp nhận hồ sơ trong trường hợp nộp trực
tiếp hoặc căn cứ theo ngày ghi nhận trên hệ thống trong trường hợp nộp qua hệ
thống dịch vụ công trực tuyến), cơ quan quản lý nhà nước về thương mại có thẩm
quyền quy định tại Khoản 2 Điều này xem xét, trả lời xác nhận hoặc không xác
nhận việc đăng ký thực hiện chương trình khuyến mại của thương nhân; trong
trường hợp không xác nhận, phải nêu rõ lý do theo quy định của pháp luật. Nội
dung xác nhận hoặc không xác nhận thực hiện theo Mẫu số 04 hoặc Mẫu số 05 Phụ
lục ban hành kèm theo Nghị định này
|
Các lý do từ chối hồ sơ hiện
đang được áp dụng không thống nhất bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có
nhiều lý do từ chối không rõ ràng, không được quy định bởi pháp luật đang được
áp dụng bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
|
16
|
VCCI
|
Yêu cầu kết nối hệ thống báo
cáo làm điều kiện chấp thuận đăng ký website/ứng dụng thương mại điện tử
(TMĐT) - Yêu cầu này không được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật
Hồ sơ đăng ký thiết lập
website/ứng dụng cung cấp dịch vụ TMĐT yêu cầu có Phương án kết nối với
Cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử (online.gov.vn) báo
cáo theo thời gian thực: số lượt truy cập, số lượng người bán, số
lượng giao dịch, tổng giá trị giao dịch bằng một trong hai phương án: (i) Xây
dựng API kết nối với online.gov.vn; hoặc (ii) Xây dựng trang thông tin báo
cáo và cung cấp thông tin theo yêu cầu Văn bản liên quan một phần: Điều 55 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 25/9/2013 của Chính
phủ về thương mại điện tử; Điều 14 Thông tư số 59/2015/TT-BCT
ngày 31/12/2015 của Bộ Công Thương quy định về quản lý hoạt động thương mại
điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động.
Yêu cầu chưa có cơ sở pháp lý
rõ ràng
Việc yêu cầu xây dựng API kết
nối hệ thống và xây dựng trang thông tin báo cáo đều là điều kiện bổ sung,
đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư chi phí, nhân lực, hệ thống để đáp ứng
Các dữ liệu được yêu cầu báo
cáo không thuộc phạm vi quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, và đều
là thông tin thuộc nhóm bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với
các doanh nghiệp được niêm yết trên các sàn chứng khoán quốc tế, bị ràng buộc
với nghĩa vụ bảo mật thông tin có khả năng ảnh hưởng tới thị trường. Việc báo
cáo theo thời gian thực cũng là một yêu cầu khó khả thi và đòi hỏi điều chỉnh
hệ thống, đầu tư nhân sự và chi phí để đáp ứng; không có quốc gia nào yêu cầu
báo cáo dữ liệu theo thời gian thực để phục vụ quản lý Nhà nước.
|
Đề nghị không yêu cầu doanh
nghiệp thực hiện kết nối với Cổng online.gov.vn hoặc xây dựng trang thông tin
để báo cáo dữ liệu theo thời gian thực
Đề nghị không yêu cầu doanh
nghiệp báo cáo các thông tin, dữ liệu nằm ngoài phạm vi báo cáo theo quy định
pháp luật
Cơ quan quản lý xây dựng Cổng
thông tin và cung cấp tài khoản để doanh nghiệp nhập liệu hoặc đăng tải báo
cáo, thay vì doanh nghiệp tự xây dựng trang báo cáo
|
17
|
VCCI
|
Bổ sung đăng ký khi có dịch vụ
bổ sung trên website/ứng dụng TMĐT
Yêu cầu website/ứng dụng TMĐT
thông báo sửa đổi, bổ sung thông tin đăng ký với Bộ Công Thương trong vòng 07
ngày làm việc khi thay đổi, bổ sung dịch vụ cung cấp trên website/ứng dụng
TMĐT, và phải có xác nhận của Bộ Công
|
Đề nghị chỉ yêu cầu sửa đổi,
bổ sung thông tin đăng ký trong trường hợp bổ sung, thay đổi dịch vụ thuộc
các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện
Để hạn chế ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khi phải phụ thuộc vào tiến độ làm việc của
cơ quan quản lý, đề nghị quy định theo hướng: Sau khi kết thúc thời hạn quy định
kể từ ngày
|
|
|
Thương đối với thông tin sửa
đổi, bổ sung đó
Quy định liên quan
Điều 56 Nghị
định số 52/2013/NĐ-CP Điều 17 Thông tư số 47/2014/TT-BCT
Điều 16 Thông tư số 59/2015/TT-BCT
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung
thông tin đăng ký và phải có xác nhận của cơ quan quản lý cho mỗi thay đổi, bổ
sung về dịch vụ là một thủ tục hành chính, “giấy phép con", gây khó khăn
cho doanh nghiệp, đặc biệt ảnh hưởng đối với doanh nghiệp hoạt động trong
ngành công nghệ, thương mại điện tử có tốc độ thay đổi và tăng trưởng nhanh
Mặc dù quy định tại các văn bản
yêu cầu cơ quan quản lý xác nhận/không xác nhận thông tin sửa đổi, bổ sung của
doanh nghiệp trong 07 ngày làm việc nhưng trên thực tế, thời gian cơ
quan quản lý xác nhận thay đổi thông tin của doanh nghiệp thường lên tới nhiều
tuần, nhiều tháng, ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
|
doanh nghiệp nộp hồ sơ sửa đổi,
bổ sung thông tin (07 ngày làm việc) mà cơ quan quản lý không đưa ra thông
báo khác (xác nhận / không xác nhận / bổ sung hồ sơ) thì doanh nghiệp được
phép triển khai dịch vụ đã thay đổi, bổ sung.
|
18
|
VCCI
|
Yêu cầu kết nối API cung cấp
dữ liệu trong hồ sơ đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ TMĐT.
Hiện tại, mặc dù không có cơ
sở pháp lý và quy định cụ thể nhưng cơ quan đăng ký yêu cầu các doanh nghiệp
phải thực hiện xây dựng cổng kết nối API và coi đây là một yêu cầu bắt buộc.
Tần suất báo cáo theo yêu cầu vượt quá phạm vi quy định của pháp luật hiện
hành về Nghĩa vụ báo cáo định kỳ của thương nhân, tổ chức đã đăng ký website
cung cấp dịch vụ thương mại điện tử theo quy định tại Điều 8
và Điều 57 Nghị định 52/2013/NĐ-CP và Điều 20, Thông tư
47/2014/TT-BCT. Hơn nữa, việc phê duyệt hồ sơ đăng ký cung ứng dịch vụ
TMĐT được gắn với việc thực hiện yêu cầu xây dựng cổng kết nối API này dẫn đến
rất nhiều khó khăn, bức xúc cho doanh nghiệp.
Trong khi đó, cơ quan quản lý
chưa đầu tư, triển khai được hệ thống thông tin nhanh chóng, an toàn, thuận
tiện, dẫn đến quy trình xây dựng hệ thống báo cáo mất rất nhiều thời gian,
chi phí của doanh nghiệp và gây ra nhiều rủi ro về bảo mật dữ liệu của doanh
nghiệp.
Bên cạnh đó, các trường dữ liệu
được cơ quan đăng ký yêu cầu cung cấp trong quá trình kết nối API (số lượt
truy cập, số lượng người bán, số lượng giao dịch, tổng giá trị giao dịch) là
các thông tin thuộc nhóm bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, và cũng không
thuộc phạm vi thông tin báo cáo được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật.
Yêu cầu như trên làm phát
sinh thêm điều kiện kinh doanh, thủ tục hành cho doanh nghiệp, tạo thêm gánh
nặng chi phí tuân thủ, nguồn lực, công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời xâm
phạm bí mật kinh doanh của doanh nghiệp.
|
Đề nghị loại bỏ yêu cầu doanh
nghiệp phải kết nối hệ thống API để báo cáo.
Đề nghị không yêu cầu doanh
nghiệp báo cáo thông tin, dữ liệu nằm ngoài phạm vi quy định của pháp luật.
Đề nghị cơ quan quản lý xây dựng
Cổng thông tin và cung cấp tài khoản trực tuyến để doanh nghiệp nhập liệu hoặc
đăng tải báo cáo điện tử, thay vì yêu cầu doanh nghiệp kết nối hệ thống hoặc
tự xây dựng website báo cáo.
|
VI
|
Ngân
hàng Nhà nước
|
1
|
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam
|
Khái niệm về “Các bên có quan
hệ liên kết” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định số
132/2020/NĐ-CP ngày 05/11/2020 về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có
giao dịch liên kết, trong đó có trường hợp: Doanh nghiệp có giao dịch liên kết
là:“Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất
kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn
tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với
điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh 3
nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của
doanh nghiệp đi vay”.
Trong khi đó, phần lớn DN của
Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các DN mới khởi nghiệp, nên nguồn
vốn ngân hàng là kênh chính để đầu tư, phát triển, đặc biệt giai đoạn hiện
nay ngoài nguồn vốn vay, các kênh huy động vốn từ thị trường tài chính gần
như không hiệu quả. Việc quy định giao dịch đi vay giữa ngân hàng và doanh
nghiệp vay dài hạn để đầu tư là giao dịch liên kết, từ đó áp trần chi phí lãi
vay để tính thuế thu nhập là không hợp lý, gây ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh, cũng như dòng tiền của doanh nghiệp trong các năm đầu khi mới đầu tư.
Giao dịch cho vay giữa ngân hàng và doanh nghiệp cần được nhận định là một hoạt
động kinh doanh bình thường trong đó sản phẩm là nguồn vốn. Việc áp trần chi
phí lãi vay này sẽ khiến doanh nghiệp không có đủ tiềm lực hoặc ngại đầu tư,
đổi mới công nghệ. Trong khi đầu tư, đổi mới là sống còn cho sự phát triển của
doanh nghiệp nói riêng, cũng như nền kinh tế của đất nước nói chung.
Điểm c, khoản
3 Điều 16 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP có xác định các đối tượng không thuộc
phạm vi áp dụng quy định về trần tổng chi phí lãi vay được trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế TNDN, trong đó không có các DN sản xuất: “c) Quy định tại
điểm a khoản này không áp dụng với các khoản vay của người nộp thuế là tổ chức
tín dụng theo Luật Các tổ chức tín dụng; tổ chức kinh doanh bảo hiểm theo Luật
Kinh doanh bảo hiểm; các khoản vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),
vay ưu đãi của Chính phủ thực hiện theo phương thức Chính phủ đi vay nước
ngoài cho các doanh nghiệp vay lại; các khoản vay thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia (chương trình nông thôn mới và giảm nghèo bền vững); các khoản
vay đầu tư chương trình, dự án thực hiện chính sách phúc lợi xã hội của Nhà
nước (nhà ở tái định cư, nhà ở công cộng khác)” Trong khi đó, các DN sản xuất
là đối tượng cần được hỗ trợ về vốn để đầu tư, phát triển nhưng lại phải chịu
áp mức trần này.
|
Kiến nghị:
1) Sửa đổi lại điểm
d khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ- CP để hủy bỏ quy định coi giao
dịch đi vay giữa ngân hàng và doanh nghiệp vay dài hạn để đầu tư là giao dịch
liên kết, giúp DN không phải bị áp trần chi phí lãi vay khi tính thuế TNDN.
2) Sửa đổi lại quy định các đối
tượng không thuộc phạm vi áp trần chi phí lãi vay tại diểm c,
khoản 3 Điều 16 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP như tổ chức tín dụng, tổ chức
kinh doanh bảo hiểm, công ty chứng khoán, … để các DN sản xuất không phải chịu
áp mức trần của tổng chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
TNDN
|
2
|
VCCI
|
a. Có sự chồng chéo giữa các
quy định điều chỉnh hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa của
ngân hàng thương mại với hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng
hóa:
- Có sự giống nhau về bản chất
giữa các khái niệm “hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hóa”, “hợp đồng
tương lai giá cả hàng hóa”, “hợp đồng tiêu chuẩn về quyền chọn mua giá cả
hàng hóa”, “hợp đồng tiêu chuẩn quyền chọn bán giá cả hàng hóa“ trong Thông
tư (Điều 13) với các khái niệm “hợp đồng quyền chọn”, “hợp
đồng kỳ hạn” trong pháp luật thương mại về mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch
hàng hóa (Điều 64 đến Điều 66 Luật Thương mại 2005).
- Việc nhận, thực hiện lệnh
mua, bán hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hóa từ khách hàng của
NHTM tương tự như hoạt động Thành viên Kinh doanh của Sở Giao dịch hàng hóa
nhận và thực hiện lệnh mua, bán hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn từ khách
hàng theo ủy thác mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa (Chương
VI Nghị định 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa, Nghị định
51/2018/NĐ-CP ngày 9/4/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
158/2006/NĐ-CP).
Việc xây dựng, hướng dẫn cụ
thể đối với các loại hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hóa không
được giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Luật Các tổ chức tín dụng, hay tại văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); Các loại hợp đồng tại Mục 2 Thông tư số 40/2016/TT- NHNN “đụng chạm” đến khái niệm
về các loại hợp đồng mà Luật Thương mại đã quy định và thuộc thẩm quyền quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành của Bộ Công Thương à Có sự chồng chéo về quản lý
Nhà nước và việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra quy định pháp luật điều
chỉnh một nội dung không đúng thẩm quyền.
b. Khó khăn, vướng mắc cho
doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức tham gia hoặc giao dịch trên thị trường trong
việc hiểu và áp dụng pháp luật
c. Bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thi hành pháp luật thương mại về mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch
hàng hóa và các NHTM cung ứng sản phẩm theo quy định của Thông tư
40/2016/TT-BTC:
-NHTM không phải thực hiện
các thủ tục để trở thành thành viên của Sở GDHH.
-NHTM không bị áp dụng các điều
kiện bắt buộc về vốn điều lệ, cơ sở vật chất, giải pháp công nghệ và yêu cầu
kỹ thuật trong hệ thống công nghệ thông tin khi triển khai hoạt động giao dịch
hợp đồng;
-Không đặt ra các nghĩa vụ về
chế độ báo cáo (định kỳ, đột xuất) đối với Sở GDHH, Bộ Công Thương; nghĩa vụ
công bố thông tin trong hoạt động giao dịch.
Không đặt ra chế độ thanh
tra, kiểm tra (định kỳ, đột xuất), xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm
trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH. d. Pháp luật ngân hàng, Luật Các
tổ chức tín dụng chưa có các quy định về xử lý vi phạm đối với NHTM hay về
vai trò quản lý, kiểm tra, thanh tra, điều tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam khi có hành vi vi phạm trong hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh
giá cả hàng hóa.
e. Đối với cá nhân, tổ chức
tham gia giao dịch với vai trò là khách hàng, Thông tư 40/2016/TT-NHNN chưa
có cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động giao dịch
các hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hóa.
|
Đề nghị cân nhắc, xem xét lại
các quy định tại Thông tư 40/2016/TT-NHNN liên quan đến việc cung ứng sản phẩm
phái sinh giá cả hàng hóa đối với khách hàng qua Sàn giao dịch hàng hóa ở nước
ngoài
|
3
|
Hội doanh nhân trẻ Việt Nam
|
Doanh nghiệp quy mô nhỏ đang
chiếm tỷ lệ khá cao (trên 90%) trong tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam và
đóng góp tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Những doanh nghiệp này phải chịu những
bất lợi hơn so với những doanh nghiệp lớn về mặt thị trường, còn về mặt pháp
lý thì các doanh nghiệp bình đẳng với nhau về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực
thuế, các điều kiện tín dụng, huy động vốn. Cụ thể:
+ Các chính sách ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ thời gian qua còn nhỏ lẻ,
mang tính chất giải quyết khó khăn theo từng thời điểm và chưa mang tính liên
tục, quá trình triển khai vẫn còn hạn chế và chưa đạt được hiệu quả cao trong
ứng dụng vào thực tiễn.
Do đó, để thúc đẩy doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo phù hợp với
nguyên tắc tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hội Doanh nhân trẻ Việt
Nam nhận thấy việc bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế Thu nhập
doanh nghiệp thấp hơn đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ là rất cấp thiết và
thực tế.
+ Trước bối cảnh các kênh huy
động vốn khác chưa thực sự phát huy hiệu quả, nhất là thị trường vốn (thị trường
trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) đang tồn tại một số vấn đề
và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền
kinh tế đã khiến nhu cầu vốn cho phục hồi kinh tế tập trung phần lớn qua kênh
tín dụng ngân hàng, tạo áp lực cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế lên ngành
Ngân hàng. Tuy vậy, mức tăng trưởng tín dụng vẫn thấp do các nguyên nhân như:
nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm; một số nhóm khách hàng
có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm Doanh nghiệp
quy mô nhỏ.
|
Vì vậy, Hội Doanh nhân trẻ Việt
Nam xin đề xuất kiến nghị Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ
quan, địa phương:
+ Thứ nhất, hướng dẫn các tổ
chức tín dụng rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay để tăng tiếp cận
tín dụng cho doanh nghiệp và thúc đẩy giải ngân các gói tín dụng;
+ Thứ hai, tạo thêm hành lang
pháp lý nhằm hạ các chuẩn cho vay đối với nhóm Doanh nghiệp quy mô nhỏ;
+ Thứ ba, nghiên cứu để có
các chính sách về khoanh, giãn, hoãn và giảm nợ cho các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu để không chỉ cứu đơn hàng mà còn cứu cả
thị trường.
+ Thứ tư, xây dựng và ban
hành các khung pháp lý về điều kiện phát hành trái phiếu riêng biệt áp dụng
cho đối tượng là nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ, nhằm tạo điều kiện để nhóm này
đa dạng hóa các kênh huy động vốn, làm động lực cho phát triển đồng bộ.
|
4
|
Hội doanh nhân trẻ Việt Nam
|
Vốn vay cho sản xuất, lãi suất
7% hiện nay mặc dù đã mang tính chất tháo gỡ khó khăn nhưng các quy định cho vay
vẫn khó cho doanh nghiệp (vay để đầu tư nhưng việc đầu tư cho nhà xưởng mất
2-3 năm mới xong; như vậy lãi suất 7% không tốt bằng vay trung và dài hạn).
|
|
VII
|
Giao
thông vận tải
|
1
|
Ban IV
|
Đại diện các doanh nghiệp cảng
khu vực Cái Mép - Thị Vải phản ánh về khó khăn, vướng mắc trong quá trình lập
và xin duyệt hồ sơ duy tu nạo vét thủy diện cảng, đặc biệt là liên quan đến vật
chất nạo vét. Cụ thể:
Hoạt động duy tu nạo vét cần
tiến hành hằng năm để đảm bảo độ sâu, an toàn kỹ thuật mực nước trước bến cho
tàu hàng ra vào, giúp cảng hoạt động hiệu quả. Trước đây các doanh nghiệp cảng
khu vực Cái Mép - Thị Vải vẫn tiến hành đổ vật chất nạo vét tại khu A ngoài
khơi biển Vũng Tàu theo quy định. Từ năm 2016, do thủ tục phức tạp, liên quan
đến nhiều cơ quan tại trung ương và địa phương, chi phí dự án lớn (chi phí
làm thủ tục phải mất 40%-50% tổng chi phí nạo vét), các doanh nghiệp cảng có
xu hướng đổ thải trên bờ để tránh ảnh hưởng đến tiến độ công việc.
Tuy nhiên, khi tiến hành đổ
bùn thải trên bờ trong hay ngoài tỉnh, Sở TN&MT tỉnh yêu cầu DN cảng phải
đóng thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền khai thác khoáng
sản (bao gồm truy thu đối với cả các dự án duy tu nạo vét trước đây). Thực tiễn
này khiến DN rất khó khăn để vận hành công việc.
Nguyên nhân bất cập:
Theo quy định hiện hành, đối
với các chất thải nạo vét nếu đổ trong đất liền thì căn cứ Điều
53 Nghị định 158/2016 hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản, doanh nghiệp phải
có hồ sơ đăng ký khối lượng, quy trình để làm căn cứ thực hiện nghĩa vụ tài
chính.
Tuy nhiên, trên thực tế, vật
chất nạo vét không phải là khoáng sản hay vật liệu xây dựng, chỉ là sa bồi dạng
bùn lỏng, sệt, không hoặc chứa rất ít cát sỏi, sét... Các cảng không có chức
năng khai thác khoáng sản và việc nạo vét là nhu cầu tất yếu phục vụ hoạt động
của cảng, mang tính bảo trì, bảo dưỡng công trình để duy trì độ sâu trước bến
phù hợp, bảo đảm an toàn khi tiếp nhận tàu thuyền vào - rời cảng khai thác,
không nhằm mục đích kinh doanh cũng như không mang lại giá trị kinh tế trực
tiếp cho cảng.
Do đó, với việc coi bùn thải
là khoáng sản, cơ quan quản lý yêu cầu các cảng thực hiện nghĩa vụ tài chính
về khai thác khoáng sản, bào gồm truy thu đối với các dự án duy tu nạo vét
trước đây là không hợp lý.
|
Luồng hàng hải ra vào cảng rất
quan trọng, đóng vai trò huyết mạch trong giao thương hàng hóa, để phát huy
hơn nữa lợi thế cạnh tranh, chất lượng dịch vụ và hình ảnh ngành dịch vụ cảng
biển Việt Nam, liên quan đến công tác nạo vét, đề xuất:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường
nhanh chóng xem xét quy hoạch nơi đổ “vật chất nạo vét” để đảm bảo việc nạo
vét luồng, nạo vét trước bến đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các doanh
nghiệp khai thác cảng, hãng tàu.
- Bộ GTVT, Cục Hàng hải Việt
Nam cho phép thực hiện đấu thầu công khai, xã hội hóa công tác nạo vét tuyến
luồng theo hướng lâu dài, ổn định… và đặc biệt quan tâm tới những luồng hàng
hải quan trọng của quốc gia như luồng vào cảng khu vực Hải Phòng, Sài Gòn,
Vũng Tàu.
|
2
|
VCCI
|
Khoản 5 Điều
7 Nghị định 10/2020/NĐ-CP
“5. Đơn vị kinh doanh vận tải
hành khách theo hợp đồng trước khi thực hiện vận chuyển hành khách phải cung
cấp đầy đủ các nội dung tối thiểu của hợp đồng vận chuyển theo quy định tại
khoản 2 (trừ điểm e, điểm g) Điều 15 của Nghị định này đến Sở Giao thông vận
tải nơi cấp Giấy phép kinh doanh vận tải bằng văn bản hoặc qua thư điện tử
(Email). Từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, đơn vị kinh doanh vận tải hành khách
theo hợp đồng thực hiện cung cấp đầy đủ các nội dung tối thiểu của hợp đồng vận
chuyển qua phần mềm của Bộ Giao thông vận tải.”
Quy định này tạo ra
gánh nặng về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp kinh doanh vận tải theo hình
thức hợp đồng. Hàng ngày, các doanh nghiệp này có hàng trăm chuyến xe hợp đồng,
việc yêu cầu cung cấp nội dung của hợp đồng vận chuyển, mặc dù bằng email khiến
doanh nghiệp phải bỏ ra thời gian và chi phí tuân thủ để thực hiện.
Mặt khác, xét về mục tiêu quản
lý nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp thông tin của mỗi hợp đồng vận
chuyển nhằm phân biệt giữa các loại hình kinh doanh vận tải. Tuy nhiên, việc
phân biệt này không có nhiều ý nghĩa về mặt quản lý, trong khi đó lại tạo ra
gánh nặng về thủ tục rất lớn cho doanh nghiệp
|
Đề nghị bỏ quy định tại khoản 5 Điều 7 Nghị định 10/2020/NĐ-CP
|
3
|
VCCI
|
Trước mỗi chuyến xe, đơn vị
kinh doanh xe hợp đồng phải cung cấp nội dung của hợp đồng vận chuyển đến Sở
Giao thông vận tải (GTVT) bằng văn bản hoặc qua email
Văn bản liên quan:
Khoản 5 Điều
7 Nghị định số 10/2020/NĐ-CP
Mục đích của quy định báo cáo
không thực sự rõ ràng, đặc biệt đối với các xe hợp đồng dưới 9 chỗ ngồi
Do mỗi ngày có hàng trăm
nghìn, hàng triệu giao dịch chuyến xe hợp đồng, trong khi phương thức báo cáo
hiện nay (email, văn bản) là tương đối thủ công, chưa được tự động hoá, quy định
này tạo ra gánh nặng tuân thủ rất lớn cho doanh nghiệp (phải đầu tư chi phí
và nhân lực để gửi báo cáo theo giao dịch chuyến xe), đồng thời tạo áp lực về
dung lượng lưu trữ cho hộp thư điện tử của các Sở GTVT địa phương.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng
đã báo cáo hằng tháng tới Sở GTVT địa phương để phục vụ công tác thống kê, quản
lý Nhà nước
|
Đề nghị bỏ quy định về báo
cáo thông tin hợp đồng trước mỗi chuyến xe; nếu cần thiết có thể yêu cầu
doanh nghiệp tổng hợp để báo cáo định kỳ 01 (một) lần mỗi tháng
|
VIII
|
Xây
dựng
|
1
|
VCCI
|
Thông tư 06/2022/TT-BXD về
ban hành QCVN 06:2022/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về An toàn cháy cho nhà
và công trình.
Bảng 6 Mục
2.5.5.3; Mục 3.3.5
Quy định tại Bảng 6 - Phân
nhóm nhà dựa trên tính nguy hiểm cháy theo công năng quy chuẩn nêu trên thì đối
với một số công trình Bệnh viện được xếp vào nhóm F1.1.
Đối chiếu theo Bảng B.8 - Phạm
vi áp dụng của vật liệu hoàn thiện, trang trí, vật liệu ốp lát và vật liệu phủ
sàn trên đường thoát nạn tại quy chuẩn này thì chiều cao tối đa của công
trình xây dựng bệnh viện là 9 tầng hoặc 28 mét.
Đây là một quy định chưa hợp
lý, đặc biệt với những công trình xây dựng Bệnh viện tại các khu đô thị,
thành phố lớn - nơi tấc đất hơn cả tấc vàng, bắt buộc đầu tư bệnh viện phải bố
trí cao tầng nếu quy mô của bệnh viện lớn. Trên thực tế, tại tuyến trung ương,
các Bệnh viện cao hơn 10 - thậm chí hơn 20 tầng không phải là chuyện hiếm gặp.
Trên thế giới, việc xây dựng
Bệnh viện và nhà cao tầng là vô cùng phổ biến, đương nhiên công tác an toàn
Phòng cháy chữa cháy tại các nước bạn như Pháp, Anh Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
không thể nói là kém. Như vậy, quy định nêu trên có lẽ có căn cứ của đơn vị
soạn thảo nhưng về cơ bản, nó thiếu tính thực tế và vô tình hạn chế đầu tư, mở
rộng phạm vi của các cơ sở y tế, đặc biệt là y tế tư nhân, các nhà đầu tư mới.
Đối với Doanh nghiệp đang sở
hữu 01 Bệnh viện quy mô 400 giường bệnh, 04 Phòng khám và đang trong quá
trình đầu tư xây dựng một bệnh viện quy mô 300 giường bệnh, đang xúc tiến đầu
tư 03 Bệnh viện quy mô 100 giường bệnh khi tham khảo quy định tại thông tư 06
thấy vô cùng bất cập, gây khó khăn cho nhà đầu tư, thậm chí cản bước tiến của
doanh nghiệp.
|
Doanh nghiệp nhận thấy những
quy định nêu trên thiếu tính thực tế và vô tình hạn chế đầu tư, mở rộng phạm
vi của các cơ sở y tế, đặc biệt là y tế tư nhân, các nhà đầu tư mới không thể
mở rộng quy mô của bệnh viện lớn, cản bước tiến phát triển của doanh nghiệp.
Kiến nghị sửa đổi quy định về
chiều cao tối đa của công trình xây dựng bệnh viện mở rộng phạm vi xây dựng của
các cơ sở y tế, đặc biệt là y tế tư nhân, các nhà đầu tư mới.
|
IX
|
Tài
nguyên và Môi trường
|
1
|
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam (VASEP)
|
Theo Thông tư số
02/2022/TT-BTNMT (Thông tư 02) ngày 10/01/2022 của Bộ Tài nguyên-Môi trường,
bùn thải thủy sản có mã chất thải là 14.03.04 và là chất thải rắn công 4 nghiệp
thông thường phải xử lý (ký hiệu là TT), không được coi là chất thải rắn
thông thường có khả năng tái chế (ký hiệu là TT- R). Điều này khiến cho bùn
thải thủy sản không thể giao làm nguyên liệu cho các Nhà máy sản xuất phân
bón mà phải giao cho các công ty xử lý, chủ yếu dưới 2 hình thức là chôn lấp
hoặc đốt, vừa gây lãng phí nguồn lợi, vừa tăng thêm ô nhiễm môi trường. Hiệp
hội VASEP đã có văn bản báo cáo-kiến nghị số 46/CV-VASEP ngày 14/7/2022 (hơn
1 năm trước) gửi tới Bộ Tài nguyên Môi trường nhưng chưa có phản hồi của Bộ
TNMT.
|
Kiến nghị: Bộ Tài nguyên và
Môi trường xem xét đưa bùn thải thủy sản vào loại chất thải rắn thông thường
có khả năng tái chế và cấp ký hiệu (TT-R) như quy định tại khoản
3, điều 24, thông tư 02/2022/TT-BTNMT của Quý Bộ để các Nhà máy thủy sản
có thể giao cho các Nhà máy sản xuất phân bón làm nguyên liệu sản xuất.
|
2
|
VASEP
|
Cộng đồng DN nói chung và các
DN ngành hàng thủy sản nói riêng bày tỏ quan ngại trong cách thức thực thi
EPR và định mức chi phí tái chế (Fs) cao. Trong Dự thảo Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ do Bộ Tài nguyên Môi trường đang chủ trì dự thảo v/v «ban hành định
mức chi phí tái chế hợp lý, hợp lệ đối với một đơn vị khối lượng sản phẩm,
bao bì và chi phí quản lý hành chính phục vụ quản lý, giám sát, hỗ trợ thực
hiện trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu”, định
mức chi phí tái chế (Fs) còn rất cao, thậm chí cao hơn cả Fs trung bình của
châu Âu vì không trừ giá trị vật liệu thu hồi sau tái chế, gây tăng giá không
cần thiết với nhiều sản phẩm, không phù hợp với khuyến cáo quốc tế và không
phù hợp với kinh tế tuần hoàn; Dự thảo cũng yêu cầu các DN phải nộp đóng góp
tái chế từ tạm ứng trước vào đầu năm và chỉ cho phép DN chọn một trong hai
hình thức tự tái chế hoặc nộp tiền hỗ trợ tái chế trong cùng năm cho cùng một
loại bao bì, sản phẩm thải bỏ, khiến gia tăng thêm gánh nặng tài chính cho DN
và không phù hợp với thực tiễn hiện hành.
|
Kiến nghị: Bộ Tài nguyên và
Môi trường xem xét điều chỉnh và sửa đổi các nội dung đang vướng mắc trong Dự
thảo Quyết định, trong đó: (i) xem xét lại định mức chi phí tái chế (Fs): áp
dụng hệ số 0,1 cho các vật liệu có giá trị, vật liệu thu hồi được cao hơn chi
phí tái chế, bao gồm bao bì kim loại (gồm cả nhôm và sắt), bao bì giấy (thay
cho hệ số 0,2 cho nhôm và giấy; hệ số 0,4 cho bao bì sắt trong dự thảo); áp dụng
hệ số Fs 0,2-0,45 cho các loại bao bì: thủy tinh, nhựa cứng PET, nhựa cứng
HDPE, bao bì đơn vật liệu mềm và bao bì giấy hỗn hợp. (ii) Doanh nghiệp được
thực hiện kết hợp cả hình thức tự tái chế và nộp tiền hỗ trợ tái chế trong
cùng năm cho cùng một loại bao bì, sản phẩm thải bỏ; (iii) Doanh nghiệp nộp
đóng góp tái chế trên cơ sở quyết toán theo số lượng thực tế khi kết thúc năm
và thời hạn nộp đến hết quý I của năm tiếp theo; và (iv) Đề xuất chính sách
ưu đãi đối với bao bì thân thiện với môi trường hoặc sử dụng vật liệu tái chế.
|
3
|
VASEP
|
Thực hiện theo Điều 39 (Đối tượng phải có Giấy phép môi trường) và Điều 41 (Thẩm quyền cấp giấy phép môi trường) của Luật Bảo vệ
Môi trường 2020, một số nhà máy thuộc đối tượng tại khoản 2
Điều 39 (hoạt động trước ngày Luật BVMT 2020 có hiệu lực) đến hạn phải
làm thủ tục xin cấp giấy phép mới đã có nhiều lúng túng trong xác định cấp thẩm
quyền cấp Giấy phép theo Luật BVMT mới quy định tại khoản 3
(cấp Tỉnh) & khoản 4 (cấp Quận/huyện) của Điều 41, nên đã phải hỏi Sở TNMT tỉnh. Sở TNMT làm văn bản
hỏi ra Bộ TNMT (Cục Kiểm soát ô nhiễm/KSON) hướng dẫn xác định cấp thẩm quyền.
Cục KSON/Bộ TNMT sau đó gửi văn bản trả lời cho các Sở TNMT. Tuy nhiên, nội
dung phản hồi-trả lời của Cục KSON tới các Sở TNMT ở các tỉnh khác nhau được
DN phản ánh là chưa đồng nhất, cộng với quá trình “xác định cấp thẩm quyền” của
địa phương như mô tả trên mất khá nhiều thời gian, càng gây lúng túng cho
doanh nghiệp.
|
Kiến nghị: (i) Bộ TNMT xem
xét có hướng dẫn thống nhất, chi tiết gửi tới các Sở TNMT trên toàn quốc
trong việc xác định cấp thẩm quyền cấp giấy phép môi trường liên quan việc
tuân thủ Điều 39 & 41 của Luật BVMT; (ii) Để xác định
rõ những nhà máy/dự án/cơ sở nào thuộc cấp thẩm quyền quy định tại khoản 3 (điểm c) hay khoản 4 Điều 41-Luật BVMT 2020, Bộ
TNMT xem xét có hướng dẫn chi tiết chỗ này, trong đó đề xuất với các nhà máy
có công suất sản xuất nhỏ & rất nhỏ (dưới 50m3 nước thải/ngày đêm) thì
xem xét thuộc cấp Quận/Huyện cấp phép.
|
4
|
Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam
|
Thứ nhất, Luật đất đai năm
2013 hiện hành quy định Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc
một lần. Người sử dụng đất được lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất.
Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày
16/06/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu giải pháp trong quản lý và sử
dụng đất theo định hướng: Cơ bản thực hiện thuê đất trả tiền hàng năm và quy
định cụ thể các trường hợp áp dụng thuê đất trả tiền một lần, phù hợp với
tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định, tránh thất thoát
ngân sách nhà nước.
Đây là một chủ trương lớn của
Đảng và sẽ được thể chế hóa trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi nhằm đảm bảo
tính công khai, minh bạch, bình đẳng trong giao - cho thuê đất, đẩy mạnh
thương mại hóa quyền sử dụng đất, cũng như bảo đảm nguồn thu ổn định từ đất
đai.
Thứ hai, Qua rà soát các thủ
tục đầu tư dự án có sử dụng đất có nguồn gốc của các doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa, có nhiều dự án nhà đầu tư đã thực hiện nộp nghĩa vụ tài chính cho
Nhà nước theo quy định. Trong đó, có một số dự án đã triển khai đầu tư xây dựng
hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hoặc đã triển khai đầu tư
xây dựng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với trường hợp này, việc
chậm tiếp tục triển khai thực hiện dự án do phải rà soát lại pháp lý cũng như
do các quy định còn chưa rõ về phương án xử lý đối với các dự án sử dụng đất
có nguồn gốc Nhà nước quản lý của các doanh nghiệp cổ phần hóa sẽ dẫn đến khó
khăn như sau:
- Các nhà đầu tư đã bỏ một phần
kinh phí đầu tư vào dự án (bao gồm cả nộp tiền sử dụng đất). Việc kéo dài thời
gian rà soát do pháp lý chưa rõ sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong thời
điểm hiện nay.
- Đối với các dự án đã tổ chức
xây dựng, khi dừng thi công sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình (đối với
các hạng mục đã thi công xây dựng).
- Việc chấm dứt thu hồi dự án
(trong trường hợp qua rà soát có vi phạm) cũng sẽ dẫn đến các nội dung phức tạp
liên quan đến xử lý các chi phí do nhà đầu tư đã đầu tư.
|
Thứ nhất,
Đối với hình thức thuê đất trả
tiền 1 lần, đề xuất quy định rõ:
- Bổ sung thêm các trường hợp
hình thức/nhóm dự án, tiêu chí, khu vực dự án đầu tư được áp dụng hình thức
trả tiền 1 lần.
- Công thức, phương pháp xác
định tiền sử dụng đất phải nộp theo hướng thuận tiện để doanh nghiệp khi tiếp
cận khu đất, nghiên cứu phát triển dự án có thể đánh giá được tính khả thi
trong suốt thời gian triển khai và hoạt động vận hành.
Đối với hình thức thuê đất trả
tiền hàng năm:
Cần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về điều kiện tiêu chí để thế chấp, nhận chuyển nhượng và nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất gắn với dự án đầu tư.
Các quy định hiện hành có phần
"khắt khe" và chưa thực sự hợp lý khi không cho phép doanh nghiệp
đã được phê duyệt dự án đầu tư (chưa đầu tư xây dựng) thuê đất trả tiền hàng
năm được chuyển nhượng hoặc góp vốn dự án đầu tư hoặc thế chấp quyền sử dụng
đất.
Cụ thể đối với việc thế chấp
đất trả tiền hàng năm hiện không được theo quy định của Luật đất đai mà chỉ
thế chấp tài sản hình thành trên đất. Ngoài ra, Luật Đất đai còn quy định
doanh nghiệp thuê đất trả tiền hàng năm để thực hiện dự án đầu tư thì không
được thực hiện chuyển nhượng dự án đầu tư.
Việc tháo gỡ hạn chế này sẽ
khơi thông nguồn vốn, khơi thông thị trường, thể chế hóa chủ trương về đẩy mạnh
thương mại hóa quyền sử dụng đất.
Thứ hai, Cho phép chủ
đầu tư dự án thuộc trường hợp nêu trên được tiếp tục thực hiện các thủ tục tiếp
theo để tiếp tục triển khai dự án; Ủy ban nhân dân Thành phố sẽ thực hiện xác
định lại nghĩa vụ tài chính của dự án theo đúng giá thị trường để không làm
thất thoát tài sản nhà nước.
|
5
|
Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam
|
Tăng trưởng xanh đang trở
thành một xu hướng tất yếu mà nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Phát triển công
trình xanh và khu đô thị xanh là một chiến lược ý nghĩa và khả thi. Tăng trưởng
kinh tế xanh có thể giảm phát thải khí nhà kính tới 25% dưới kịch bản thông
thường của doanh nghiệp vào năm 2030, hạn chế nền nhiệt toàn cầu tăng dưới
ngưỡng 2 độ C, phù hợp với Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Đến thời điểm hiện tại, ở nước
ta chưa có văn bản pháp luật quy định đầy đủ các tiêu chí là cơ sở đánh giá về
công trình xanh phục vụ cho công tác quản lý nhà nước. Trên thực tế, việc
đánh giá một công trình nào đó đáp ứng các tiêu chí của một "công trình
xanh" vẫn còn mang tính "tự phát" từ các chủ đầu tư dự án; quy
định một số tiêu chuẩn về "công trình xanh" còn nằm rải rác, trong
các Quy chuẩn, tiêu chuẩn của Việt Nam, chưa mang tính hệ thống và đầy đủ.
Việc thiếu khung pháp lý mang
tính hệ thống và đầy đủ để quy định về các tiêu chuẩn đánh giá "công
trình xanh" không những gây ra khó khăn trong công tác quản lý của nhà
nước, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà còn thiếu cơ sở để cơ quan, tổ chức
thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho các dự án công trình xanh như tài
chính xanh, trái phiếu xanh...
|
Mở rộng thêm chính sách cho
nhóm doanh nghiệp có chiến lược phát triển bền vững nói chung và công trình
xanh nói riêng thì sẽ góp phần phục hồi kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng xanh
tốt hơn. Nhóm ngành này có thể khoanh vùng và phát triển chính sách Tài chính
xanh, có những điều kiện và yêu cầu chuyên biệt.
|
X
|
Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn
|
1
|
Ban IV
|
Đại diện các doanh nghiệp nhập
khẩu hàng hóa là động vật, sản phẩm từ động vật phản ánh về một số bất cập
trong quy trình kiểm tra, kiểm dịch hàng hóa. Cụ thể:
1. Đối với lô hàng không phải
lấy mẫu kiểm tra thuộc nhóm sản phẩm động vật có nguy cơ thấp, do chưa có quy
định rõ ràng về việc chủ hàng có được vận chuyển hàng về kho trong thời hạn
cơ quan kiểm dịch kiểm tra hồ sơ hay không nên hiện tại doanh nghiệp vẫn phải
đợi nhận được Giấy chứng nhận kiểm dịch nhập khẩu mới được đưa hàng về kho,
làm phát sinh chi phí và rủi ro (về chất lượng hàng) cho DN.
Nguyên nhân bất cập:
Theo Điểm b
Khoản 1.63 Mục II Phụ lục XII Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-BNNPTNT ngày
04/10/2022 của Bộ NNPTNT quy định về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật
trên cạn: “Trường hợp lô hàng không phải lấy mẫu kiểm tra, trong thời gian
01 ngày làm việc, cơ quan kiểm dịch động vật cửa khẩu chỉ kiểm tra hồ sơ, nếu
đạt yêu cầu thì cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch nhập khẩu. Chủ hàng phải chịu
trách nhiệm đối với hàng hóa nhập khẩu.” Tại đây chỉ quy định về thời hạn
được cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch nhập khẩu, mà thiếu hướng dẫn ứng xử với
lô hàng (có được đưa hàng về kho hay không). Theo đó, cán bộ và doanh nghiệp
đang gặp lúng túng trong việc thực thi, dẫn đến trường hợp doanh nghiệp chờ
có Giấy chứng nhận mới đưa hàng về kho là không cần thiết.
2. Đối với các lô hàng nhiều
container (từ 5 container trở lên và mặt hàng được doanh nghiệp nhập khẩu nhiều
lần) cần kiểm tra, xét nghiệm, cán bộ kiểm dịch tại Chi cục vùng 6 (TP.HCM)
yêu cầu phải chờ hạ đủ tất cả số container của lô hàng mới bắt đầu tiến hành
kiểm tra, trong khi năng lực của các cảng biển để hạ cùng lúc số lượng lớn
container phục vụ công tác kiểm tra là hạn chế. Thực tế, doanh nghiệp thông
thường nhập khẩu 2-3 lô hàng có số lượng 10 container/lô thì sẽ mất 2-3 ngày
chờ hạ đủ container để được kiểm tra. Điều này dẫn đến việc ùn tắc quy trình,
tăng thêm thời gian chờ đợi và phát sinh chi phí ngoài (để hạ container
nhanh) cho doanh nghiệp.
Nguyên nhân, bất cập: Thiếu
quy định, hướng dẫn rõ ràng, thống nhất về quy trình lấy mẫu kiểm tra, xét
nghiệm đối với lô hàng nhiều container (từ 5 container trở lên và mặt hàng được
doanh nghiệp nhập khẩu nhiều lần). Trường hợp cán bộ kiểm dịch cứng nhắc yêu
cầu hạ đủ số lượng container mới tiến hành kiểm tra, trong khi năng lực cảng
biển về mặt bằng và công tác nâng hạ hạn chế khiến cho quy trình ùn tắc, kéo
dài.
3. Về quy trình hồ sơ Miễn giảm
kiểm tra nhà nước về chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, theo quy định tại
Nghị định 46/2022/NĐ-CP , thời gian xử lý hồ sơ là 03 ngày làm việc kể từ khi
nhận được hồ sơ hợp lệ. Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, thời gian
kể từ lần đầu doanh nghiệp nộp hồ sơ đến khi được phê duyệt, trả kết quả có
trường hợp lên tới 45 ngày do quá trình hướng dẫn điều chỉnh, bổ sung hồ sơ bị
ngắt quãng và kéo dài cả tháng. Cá biệt có trường hợp doanh nghiệp nộp hồ sơ
từ tháng 4/2023 đến nay (sau 7 tháng) vẫn chưa nhận được kết quả do một số biến
động nhân sự tại Chi cục Vùng 6 và các lý do khác DN không nắm rõ trong hệ thống
kiểm dịch.
Nguyên nhân bất cập:
Theo quy định tại Điểm b Khoản 9 Điều 1 Nghị định 46/2022/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 13/7/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020 hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi, “Trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan kiểm tra có
văn bản xác nhận sản phẩm được miễn giảm kiểm tra chất lượng”. Tuy nhiên,
do vấn đề liên thông dữ liệu, công tác phối hợp giữa Trạm Kiểm dịch - Chi cục
Thú Y
- Cục Thú Y trong việc xử lý
hồ sơ còn chậm, khiến thực tế thực gian nhận kết quả theo phản ánh doanh nghiệp
kéo dài lên tới nhiều tháng.
|
1. Kiến nghị Cục Thú Y/Bộ
NNPTNT nghiên cứu, bổ sung quy định hướng dẫn về cách ứng xử đối với lô hàng
không phải lấy mẫu kiểm tra thuộc nhóm sản phẩm động vật nguy cơ thấp theo hướng:
cho phép chủ hàng vận chuyển hàng về kho đủ điều kiện vệ sinh thú y (nếu có đề
nghị của chủ hàng).
2. Kiến nghị Cục Thú Y/ Bộ
NNPTNT có quy định hướng dẫn cụ thể về quy trình, cách thức lấy mẫu kiểm tra,
xét nghiệm đối với các lô hàng nhiều container, cụ thể từ 5 container trở lên
và mặt hàng được doanh nghiệp nhập khẩu nhiều lần theo hướng: lấy mẫu hoặc kiểm
cảm quan rủi ro 1-3 container thay vì cả lô hàng.
3. Kiến nghị cải thiện quy
trình, công tác phối hợp, liên thông dữ liệu trong nội bộ các cơ quan quản lý
lĩnh vực Thú Y để đảm bảo tiếp nhận, xử lý và trả kết quả hồ sơ miễn giảm kiểm
tra chất lượng theo đúng thời hạn quy định.
|
XI
|
Lao
động - Thương binh và Xã hội
|
1
|
VCCI
|
Theo quy định tại khoản 2 điều 138 LDN 2020 HĐQT sẽ quyết định bổ nhiệm, miễn
nhiệm, chấm dứt HĐLĐ với Giám đốc/TGĐ. Và việc miễn nhiệm này không nhất thiết
phải có lý do cụ thể nào cả. Thực tế, việc miễn nhiệm đôi khi chỉ là vì nhu cầu
quản lý.
Tuy nhiên, nếu Công ty ký
HĐLĐ với Giám đốc/TGĐ thì Giám đốc/TGĐ sẽ là NLĐ và chịu sự điều chỉnh theo
BLLĐ. Khi đó việc chấm dứt HĐLĐ với TGĐ/GĐ không hề dễ dàng, vì buộc phải có
một trong các căn cứ tại khoản 1 điều 36 BLLĐ và phải
báo trước 120 ngày theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 điều 7
Nghị định 145/2020/NĐ-CP. Điều này, dẫn đến tình trạng Giám đốc/TGĐ đã bị
miễn nhiệm, bãi nhiệm nhưng HĐLĐ vẫn chưa thể chấm dứt, công ty vẫn phải duy
trì HĐLĐ dù công việc theo HĐLĐ không còn.
Thực tế, không ít doanh nghiệp
khi ký HĐLĐ thuê Giám đốc/TGĐ nội dung công việc ghi rõ là "để làm
TGĐ/Giám đốc, kiêm người đại diện” do vậy khi miễn nhiệm rồi họ không còn việc
để làm nhưng nếu theo BLLĐ vẫn phải duy trì HĐLĐ do không có căn cứ chấm dứt
HĐLĐ.
|
Cần sửa đổi BLLĐ hoặc có hướng
dẫn: Đối với những trường hợp mà người lao động (NLĐ) là các chức danh quản
lý theo LDN có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm mà trong HĐLD công việc của họ được
mô tả chỉ đảm nhận chức danh cụ thể đó, nếu chức danh đó đã bị miễn nhiệm/bãi
nhiệm theo các quy định pháp luật khác thì HĐLĐ đương nhiên bị chấm dứt.
|
2
|
VCCI
|
Điều 52.
Cho thuê lại lao động
1. Cho thuê lại lao động là
việc người lao động giao kết hợp đồng lao động với một người sử dụng lao động
là doanh nghiệp cho thuê lại lao động, sau đó người lao động được chuyển sang
làm việc và chịu sự điều hành của người sử dụng lao động khác mà vẫn duy trì
quan hệ lao động với người sử dụng lao động đã giao kết hợp đồng lao động.
2. Hoạt động cho thuê lại lao
động là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, chỉ được thực hiện bởi các doanh
nghiệp có Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động và áp dụng đối với một số
công việc nhất định.
Nghị định 145/2020/NĐ-CP ban
hành Danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động. Doanh nghiệp
cho thuê lại lao động chỉ được phép cho thuê lại lao động đối với các ngành
nghề quy định trong Danh mục này.
Trên thực tế, không phải
doanh nghiệp nào cũng có đội ngũ nhân sự để thực hiện việc tuyển dụng và quản
lý lao động hiệu quả, đặc biệt đối với những trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu
tăng đột xuất số lượng người lao động có tay nghề cao để phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh. Do đó, việc sử dụng lao động thuê lại từ các công ty cho
thuê lại lao động sẽ là giải pháp hiệu quả để đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguồn
lực lao động của doanh nghiệp, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, quy định pháp luật
hiện hành chỉ cho phép doanh nghiệp được thuê lại lao động trong một số dịch
vụ nhất định và trong một khoảng thời gian ngắn. Điều này có thể chưa phù hợp
với các doanh nghiệp sản xuất, khi mà phạm vi gia tăng sản xuất ngắn hạn nhằm
đáp ứng biến động về nhu cầu trên thị trường là rất lớn.
Việc đóng khung các ngành nghề
được phép cho thuê lại lao động dường như chưa hợp lý, ít nhất bởi các lý do
sau:
- Xét bản chất, cho thuê lại
lao động là dịch vụ cầu nối việc làm giữa người lao động và người sử dụng lao
động. Trong quan hệ lao động, người lao động và người sử dụng lao động có thể
ký kết hợp đồng để thực hiện công việc trong tất cả các ngành nghề kinh doanh
trừ các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh. Do đó, việc giới hạn dịch vụ cho
thuê lại lao động trong một số ngành nghề là chưa phù hợp;
- Việc đặt ra giới hạn các
ngành nghề được phép cho thuê lại lao động sẽ giảm cơ hội tìm kiếm việc làm của
người lao động và cơ hội tìm kiếm nhân lực có chất lượng của người sử dụng
lao động.
|
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
theo hướng không giới hạn các công việc mà doanh nghiệp cho thuê lại lao động
được phép cung ứng. Đồng thời cho phép doanh nghiệp căn cứ vào nhu cầu sử dụng
lao động để chủ động thỏa thuận về thời gian thuê lại lao động.
|
3
|
Hiệp hội DN Nhỏ và vừa
|
Cần tiếp tục tháo gỡ một số
thủ tục hành chính trong khâu gia nhập thị trường đối với một số ngành nghề
kinh doanh có điều kiện. Ví dụ hiện nay, người hành nghề trong các lĩnh vực
i) đấu giá, ii) kiểm định; đăng kiểm; kiểm toán; quản tài viên…; những người
này ngoài việc đáp ứng điều kiện phải có chứng chỉ hành nghề lại còn phải đáp
ứng điều kiện nữa là xin cấp thẻ hành nghề. Như vậy, họ phải chịu 2 lần thủ tục
hành chính, lần một là thi chứng chỉ hành nghề, lần hai là xin
cấp thẻ. Các thủ tục này đều do cơ quan Nhà nước cấp.
|
Đề nghị Rà soát lại
các quy định pháp luật tại các luật chuyên ngành[2],
xem tới đây thủ tục đối một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, khi cá
nhân tham gia là thành viên hoặc người lao động trong doanh nghiệp phải có chứng
chỉ hành nghề ;Nên xem xét giảm bớt các thủ tục, tốt nhất là Nhà nước thực hiện
việc cấp chứng chỉ hành nghề khi cá nhân đó đủ điều kiện và hoàn thành kỳ thi
sát hạch. Thế còn, việc cấp thẻ sẽ do các hội, đoàn thể hoặc doanh nghiệp sử
dụng lao động họ tự cấp, hoặc trong trường hợp nào đó ta có thể gộp 2 thủ tục
hành chính này làm một. Để đảm bảo cắt giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện
cho các cá nhân, tổ chức gia nhập thị trường.
|
XII
|
Khoa
học và Công nghệ
|
1
|
VCCI
|
Trên thực tế nhu cầu và quy
mô đầu tư, phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp nhà nước là khác
nhau tại từng doanh nghiệp và tại từng thời điểm cụ thể. Do đó, việc quy định
doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải trích lập Quỹ phát triển khoa học và công
nghệ (tối thiểu 3% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp) là chưa thực sự
phù hợp. Trong khi đó, theo điểm a khoản 5 Điều 11 Nghị định
95/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật khoa học công nghệ, trường hợp doanh nghiệp
nhà nước chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hết 70% trong thời hạn 5
năm kể từ năm trích lập của Quỹ thì doanh nghiệp phải nộp về Quỹ phát triển
khoa học và công nghệ quốc gia hoặc của cơ quan chủ quản. Dẫn đến khả năng
phát sinh trường hợp doanh nghiệp quản lý, sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả.
Trong khi đó, để đáp ứng nhiệm
vụ nâng cao năng lực khoa và công nghệ của doanh nghiệp theo quy định của Luật
khoa học và công nghệ, doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng nguồn vốn của
doanh nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ này mà không nhất thiết phải tiến hành
trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, hiện nay trên thực
tế nhiều doanh nghiệp chưa có đủ các điều kiện về nguồn lực tài chính, con
người, cơ sở vật chất để phục vụ cho việc quản lý và sử dụng Quỹ phát triển
khoa học và công nghệ theo quy định.
|
Kiến nghị sửa đổi, bổ
sung Luật khoa học công nghệ và các văn bản hướng dẫn thi hành theo
hướng khuyến khích (không bắt buộc) doanh nghiệp nhà nước phải
trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để tháo gỡ vướng mắc thực tế
cho doanh nghiệp.
|
2
|
VCCI
|
Tại Điều 58
Luật Khoa học công nghệ quy định tại điểm b khoản 3
như sau: “3...doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn được hưởng ưu đãi sau
đây: ...b) Được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn lệ
phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của
pháp luật; …”
Về điều kiện miễn giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DN
KH&CN) cũng được hướng dẫn tại Điều 2, Điều 3 Thông tư
03/2021 TT- BTC.
Theo đó Mức ưu đãi thuế TNDN:
được miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo. (Trường
hợp không có thu nhập chịu thuế trong 3 năm đầu thì thời gian miễn thuế, giảm
thuế được tính từ năm thứ tư)
|
1. Đề xuất bổ sung thêm quy định
ưu đãi thuế TNDN đối với DN KH&CN tại các văn bản của Luật KH&CN và
Thông tư 03/2021/TT-BTC vào Luật thuế TNDN sửa đổi.
2. Đề xuất xem xét điều chỉnh
các điều kiện quy định đối với DN KH&CN và doanh nghiệp công nghệ cao (DN
CNC) để được hưởng ưu đãi thuế TNDN vì các điều kiện hiện hành là chưa phù hợp
với thực tế, đặc biệt là yêu cầu “Doanh thu hàng năm từ hoạt động SX, KD các
sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30%
trên tổng doanh thu hàng năm của DN.”: doanh nghiệp rất khó đạt được.
Lý do: Để đồng nhất các chính
sách ưu đãi thuế TNDN giữa các văn bản Luật KH&CN và Luật thuế TNDN, và
Luật hóa các văn bản dưới luật, đồng thời mở rộng thêm các trường hợp ưu đãi
cho hoạt động KHCN tại các DN mà không tách thành các pháp nhân độc lập là
các DN KH&CN DN KH&CN hay DN CNC đều cần rất nhiều vốn và các nguồn lực
khác để tiến hành nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, SP mới. Vốn này chủ
yếu là từ việc trích lập Quỹ KH&CN, từ Quỹ đầu tư mạo hiểm của các Tập
đoàn kinh tế lớn dựa trên nguồn Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
(SXKD) cốt lõi của Tập đoàn nên không thể tách rời (độc lập) khỏi hoạt động của
Tập đoàn mẹ. Theo đó điều kiện để đạt tiêu chuẩn thuộc đối tượng được hưởng
ưu đãi thuế là chưa phù hợp với thực tế. Doanh nghiệp sử dụng 3-10% thu nhập
tính thuế hàng năm (đối với doanh nghiệp nhà nước)/tối đa 10% thu nhập tính thuế
(đối với các loại doanh nghiệp còn lại) để trích Quỹ KHCN, từ đó ứng dụng kết
quả nghiên cứu sản xuất kinh doanh các sản phẩm nghiên cứu, nên rát khó thực
hiện doanh thu SXKD các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN đạt tỷ lệ tối
thiểu 30% trên tổng doanh thu hàng năm của DN.
|
XIII
|
Thông
tin và Truyền thông
|
1
|
VCCI
|
Thông tư
24/2014/TT-BTTTT “Điều 9. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ hỗ trợ thanh toán trong trò chơi điện tử
1. Chủ động từ chối, tạm ngừng
hoặc ngừng kết nối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử
chưa được cấp quyết định phê duyệt nội dung, kịch bản hoặc chưa thông báo
cung cấp dịch vụ theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 31
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP.
2. Thực hiện theo yêu cầu của
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tạm ngừng hoặc ngừng kết nối với các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử chưa được cấp quyết định phê
duyệt nội dung, kịch bản hoặc chưa thông báo cung cấp dịch vụ theo quy định tại
Khoản 2, Khoản 3 Điều 31 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP.
3. Phối hợp với các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo đảm an toàn, an ninh thông tin
và điều tra, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến dịch vụ
thanh toán trong hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ trò chơi điện tử.”
=> Theo quy định này, Bộ
Thông Tin Truyền Thông đang yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ
thanh toán nói chung chặn thanh toán đối với trò chơi điện tử không phép
(theo danh sách của Bộ Thông Tin Truyền Thông cung cấp) được cung cấp xuyên
biên giới vào Việt Nam thông qua các kho ứng dụng Google Play Store và Apple
App Store. Tuy nhiên, yêu cầu này làm phát sinh thêm chi phí tuân thủ/nhân sự/nguồn
lực/công nghệ của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán nói
chung trong bối cảnh Bộ Thông Tin Truyền Thông đã có cơ chế phối hợp hiệu quả
với các kho ứng dụng Google Play Store và Apple App Store cũng như chế tài quản
lý theo Thông tư 38/2016/TT-BTTTT .
|
Điều chỉnh quy định tại Điều 9 của Thông tư 24/2014/TT-BTTTT để thống nhất quản lý
tập trung trò chơi điện tử vi phạm được cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam
thông qua các kho ứng dụng Google Play Store và Apple App Store theo Thông tư
38/2016/TT- BTTTT và xử lý theo cơ chế của Thông tư 38/2016/TT-BTTTT. Bộ
Thông Tin Truyền Thông tiếp tục làm đầu mối làm việc với doanh nghiệp vận
hành các kho ứng dụng Google Play Store và Apple App Store theo Thông tư
38/2016/TT-BTTTT cũng như cơ chế đã thiết lập từ năm 2017 đế nay với
Google/Apple để xử lý các game không phép, game có nội dung vi phạm quy định
của pháp luật Việt Nam trên kho ứng dụng.(tham khảo tại
https://www.mic.gov.vn/mic_2020/Pages/TinTuc/152492/Bo-TT-
TT-da-thiet-lap-co-che-lam-viec-va-yeu-cau-cac-nen-tang-xuyen-
bien-gioi-go-bo-cac-game-vi-pham-phap-luat-Viet-Nam.html)
|
XIV
|
Văn
hóa, Thể thao và Du lịch
|
1
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Nghị định số 94/2021/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành ngày 28/10/2021 về sửa đổi, bổ sung Điều
14 của Nghị định 168/2017/NĐ-CP ngày 31/02/2017 của Chính 2 phủ quy định chi
tiết một số Điều của Luật Du lịch về việc giảm mức ký quỹ kinh doanh dịch vụ
lữ hành, có thời hạn thực hiện đến hết ngày 31/12/2023. Theo nguyện vọng của
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành.
|
Hiệp hội Du lịch Việt Nam xin
đề nghị Chính phủ cho kéo dài thời gian thực hiện Nghị định 94/2021/NĐ-CP đến
hết ngày 31/12/2024.
|
2
|
Hiệp hội du lịch Việt Nam
|
Để thúc đẩy phát triển du lịch,
hầu hết các quốc gia đều thành Quỹ Hỗ trợ Phát triển Du lịch (hoặc Quỹ Xúc tiến
Du lịch). Ở Việt Nam, căn cứ vào Luật Du lịch 2017, ngày 12/12/2018, Chính phủ
đã thành lập Quỹ Hỗ trợ Phát triển Du lịch và ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt
động của Quỹ này (Quyết định số 49/2018/QT-TTg). Theo quy định tại Điều 1 của Điều lệ, Quỹ Hỗ trợ Phát triển Du lịch là Quỹ
tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động theo mô hình công ty TNHH một
thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, do Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch là đại diện chủ sở hữu. Điều lệ có quy định chi tiết chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, báo cáo
và tổ chức thực hiện. Cho đến nay, mặc dù đã được cấp vốn điều lệ, về cơ bản
Quỹ vẫn chưa thực sự hoạt động. Có nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan về
tình trạng này. Hiệp hội Du lịch Việt Nam xin đề nghị với Chính phủ một số ý
kiến sau:
- Là Quỹ tài chính nhà nước,
khả năng thu hút, huy động nguồn lực từ các nguồn xã hội là rất khó. Trong
khi hoạt động du lịch là hoạt động huy động nguồn lực của toàn xã hội để phát
triển, do vậy đề nghị Chính phủ xem xét, điều chỉnh quy định này theo hướng
Quỹ tài chính mở.
- Quỹ là cơ quan quản lý tài
chính phục vụ cho các nhiệm vụ phát triển Ngành, trong đó chủ yếu là công tác
xúc tiến du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
du lịch. Quỹ không phải là cơ quan thực hiện các nhiệm vụ xúc tiến du lịch,
xây dựng sản phẩm và đào tạo nhân lực mà là cơ quan hỗ trợ, cấp phát và quản
lý ngân sách cấp cho các cơ quan thực hiện. Vì vậy, Điều 11,
Mục 1 của Điều lệ quy định bố trí kinh phí cho tổ chức hoạt động xúc tiến,
quảng bá du lịch,...
Thực chất nội dung Mục này là
Quỹ cấp kinh phí cho cơ quan thực hiện các nhiệm vụ xúc tiến du lịch. Nhưng
do không rõ ràng, Quỹ cho rằng nhiệm vụ của Quỹ là tổ chức các hoạt động xúc
tiến du lịch (xây dựng kế hoạch, thiết kế nội dung, thuê người thực hiện, mời
người tham dự, tổ chức các hoạt động bên lề sự kiện,...). Do chủ yếu nhân sự
của Quỹ là kế toán, tài chính, khi đảm nhiệm các việc chuyên môn sâu về xúc
tiến du lịch sẽ không thể thực hiện được. Việc quy định không rõ ràng, dẫn đến
nhiều khó khăn trong triển khai, làm mất nhiều cơ hội trong phát triển du lịch.
|
Hiệp hội Du lịch Việt Nam đề
nghị Chính phủ:
- Cho bổ sung vào Điều lệ của
Quỹ việc Quỹ mở rộng Quỹ thành Quỹ tài chính ngoài ngân sách hay Quỹ tài
chính xã hội. Nhà nước vẫn là cơ quan quản lý trực tiếp, những Quỹ được huy động
các nguồn lực khác từ xã hội. Quỹ có Hội đồng quản lý đề việc chi phí các hoạt
động được công khai minh bạch. - Quy định rõ Quỹ là cơ quan cấp phát, hỗ trợ
tài chính cho các hoạt động thúc đẩy phát triển du lịch và không trực tiếp
triển khai các hoạt động này. Quy định này sẽ tách hoạt động quản lý tài
chính với việc thực hiện để tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
|
XV
|
Bảo
hiểm Xã hội
|
1
|
VASEP
|
Mức đóng BHXH (gồm BH hưu
trí, BH y tế, BH thất nghiệp) tại Việt Nam đang cao nhất khu vực ASEAN, lên tới
32% mức lương tháng (DN đóng 21,5%, người lao động đóng 10,5%). Đó là chưa kể
kinh phí công đoàn 2% quỹ lương do DN đóng và phí công đoàn 1% do người lao động
đóng. Trong khi đó, cùng khu vực, Malaysia chỉ phải đóng BHXH chiếm 16,5%
lương tháng, Philippines là 10%, Indonesia 10,26%, Campuchia 6,1%, Thái Lan
5%, Myanma 2%. Từ năm 2018 Việt Nam đã thay đổi cách tính lương để đóng BHXH,
ngoài lương cơ bản còn thêm các khoản phụ cấp, làm chi phí DN tăng lên đáng kể.
Trong bối cảnh cuộc sống người lao động còn khó khăn và các DN đang suy giảm
sản xuất, các khoản tính gộp vào lương để đóng BHXH cũng cần có sự điều chỉnh
cho hợp lý để 6 giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh cho DN và nâng cao đời sống cho người lao động.
|
Kiến nghị: Văn phòng Chính phủ,
Hội đồng Tư vấn CCTTHC có ý kiến đề xuất với Quốc hội (i) giảm mức đóng BHXH
bắt buộc của NLĐ và NSDLĐ về mức đóng tương đương của năm 2009, tức là NLĐ
đóng 5% và NSDLĐ đóng 15%, tổng cộng 20% (thay vì mức 25,5% như hiện nay);
(ii) đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ BHTN của NLĐ còn 0,5% và của NSDLĐ còn
0,5% và có lộ trình giảm tiếp cho phù hợp với điều kiện thực tế; và (iii) đề
xuất giảm mức đóng kinh phí công đoàn từ 2% xuống tối đa 1% quỹ lương.
|
[1] Cổng thông tin
quốc gia về hỗ trợ DNNVV (Bộ Kế hoạch và Đầu Tư), Cổng thông tin Hỗ trợ pháp lý
doanh nghiệp ( Bộ Tư pháp); Công thông tin Hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp ( Bộ
Công thương); Công thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp phát triển thị trường
nông sản ( Bộ Nông nghiệp)…..
[2] Luật đấu giá,
Luật Đăng kiểm, Luật Kiểm toán, Luật An toàn lao động…
Công văn 102/TCTCCTTHC năm 2023 xử lý phản ánh, kiến nghị về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính và chuẩn bị nội dung làm việc của Tổ công tác cải cách thủ tục hành chính
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn 102/TCTCCTTHC ngày 15/11/2023 xử lý phản ánh, kiến nghị về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính và chuẩn bị nội dung làm việc của Tổ công tác cải cách thủ tục hành chính
1.743
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|