CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
248/BC-CP
|
Hà
Nội, ngày 18
tháng 5 năm 2024
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ RÀ SOÁT, XỬ LÝ CÁC VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH
Kính
gửi: Quốc hội.
Thực hiện yêu cầu của
Quốc hội tại Khoản 3.9, Điều 3 Nghị quyết số 103/2023/QH15 về
việc báo cáo kết quả rà soát, xử lý các vướng mắc, bất cập về thủ tục hành
chính (TTHC) tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, trên cơ sở báo cáo của các bộ,
ngành, địa phương về kết quả rà soát, xử lý vướng mắc, bất cập về TTHC trong
giai đoạn từ năm 2021 đến tháng 3 năm 2024, Chính phủ đã có Báo cáo gửi Quốc hội
về kết quả rà soát, xử lý các vướng mắc, bất cập về TTHC (Báo cáo số 176/BC-CP
ngày 23 tháng 4 năm 2024), tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Báo
cáo này (Thông báo số 3621/TB-TTKQH ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Tổng Thư ký Quốc
hội), Chính phủ đã rà soát, hoàn thiện và báo cáo Quốc hội như sau:
I.
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH VỀ RÀ SOÁT, XỬ LÝ CÁC VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ TTHC
Thời gian qua, tình
hình quốc tế biến động phức tạp, khó lường, trong nước có nhiều thuận lợi và
khó khăn đan xen, trong đó, khó khăn, thách thức nhiều hơn; Đảng, Nhà nước luôn
quan tâm, coi trọng việc đẩy mạnh cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh
doanh gắn với chuyển đổi số quốc gia, góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới,
tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã đề ra 06 nhiệm vụ trọng tâm và 03 đột phá chiến lược, trong đó tập
trung tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, chú trọng tạo
nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành 07 Nghị quyết, trong đó có các nội dung
về thúc đẩy cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh[1]. Với mục
tiêu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030
và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
trong đó thể hiện rõ những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu để cụ thể hóa quan điểm,
đường lối, định hướng của Đảng, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến
cải cách hành chính, cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng
Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số[2]
Từ đầu nhiệm kỳ Chính
phủ khóa XV đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện công
tác cải cách TTHC với các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể tại các Nghị quyết
số 01/NQ-CP , Nghị quyết số 02/NQ-CP hàng năm, Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030[3], Nghị quyết chuyên đề
về đẩy mạnh cải cách TTHC và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ
người dân, doanh nghiệp[4], các Chương trình, Đề án quan trọng
nhằm cải cách mạnh mẽ quy định TTHC (như: Chương trình cắt giảm, đơn giản
hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh; Phê duyệt phương án phân cấp trong
giải quyết TTHC; Kế hoạch rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ;...) và nâng
cao hiệu quả giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công (như: Đề án đổi mới việc
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC; Đề án phát
triển ứng dụng dữ liệu về dân cư; định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển
đổi số quốc gia;...). Đồng thời, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo đề thúc đẩy
công tác này tại 44 Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ và đã yêu cầu các
bộ, ngành, địa phương xử lý 401 phản ánh, kiến nghị của hiệp hội, doanh nghiệp
đang là rào cản đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh[5].
Bên cạnh đó, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành 03 Công điện[6], 05 Chỉ thị[7], các Kế
hoạch cải cách TTHC trọng tâm[8] và nhiều văn bản chỉ đạo triển khai
thực hiện việc cải cách các quy định TTHC, quy định liên quan đến hoạt động
kinh doanh, đổi mới việc thực hiện, giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công trực
tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp[9]; đã ban hành danh mục nhóm dịch vụ
công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia năm 2021,
2022 và 2024[10].
Để kịp thời tháo gỡ
những điểm nghẽn trong triển khai tại các bộ, ngành, địa phương, Thủ tướng
Chính phủ đã thành lập Tổ công tác cải cách TTHC[11] do
Phó Thủ tướng Chính phủ làm Tổ trưởng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc
các bộ, ngành, địa phương thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về cải
cách TTHC, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao năng lực phản ứng
chính sách. Đồng thời, kiện toàn Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng
Chính phủ[12] theo hướng gọn nhẹ, thực chất, hiệu
quả với các thành viên là đại diện của các cơ quan, tổ chức, hiệp hội doanh
nghiệp trong nước và ngoài nước để
phát huy vai trò cầu nối, huy động sự tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp
trong quá trình cải cách TTHC.
Công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát trong quá trình giải quyết TTHC
đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, nhất là việc thành lập
đoàn thanh tra về công tác cải cách hành chính, kiểm soát TTHC tại các bộ,
ngành, địa phương[13], kiên quyết xử lý nghiêm các cơ
quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, bảo
đảm nguyên tắc khách quan, minh bạch trong tiếp nhận, giải quyết TTHC. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị về việc chấn chỉnh, tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ[14] và các Công điện để
chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm trong xử lý công việc của các bộ, cơ quan, địa
phương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp[15].
II.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về
xử lý vướng mắc, bất cập trong quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh
Để tập trung cắt giảm
gánh nặng hành chính cho người dân, doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh
doanh, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020
ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động
kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025, với mục tiêu đến hết năm 2025, cắt giảm, đơn
giản hóa ít nhất 20% số quy định và cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định
liên quan đến hoạt động kinh doanh (QĐKD); đồng thời, giảm tối đa số lượng văn
bản hiện hành có QĐKD thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành quy định
mới; ngăn chặn việc phát sinh những quy định không cần thiết, không hợp lý,
không hợp pháp và gây khó khăn, tăng chi phí cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, người dân; đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ
cải cách việc thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công trực tuyến
phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Việc rà soát, cắt giảm,
đơn giản hóa các QĐKD, gồm: quy định về TTHC; quy định về báo cáo; quy định về
yêu cầu, điều kiện trong hoạt động kinh doanh; quy định về kiểm tra chuyên
ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; quy định về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật trong các thông tư, thông tư liên tịch của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nghị định, nghị quyết của Chính
phủ, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Dưới sự chỉ đạo quyết
liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực, quyết tâm triển khai của các
bộ, ngành, địa phương, từ năm 2021 đến hết tháng 3 năm 2024, có 2.886 QĐKD được
cắt giảm, đơn giản hóa (gồm: 1.486 TTHC, 175 yêu cầu, điều kiện, 92 chế độ
báo cáo, 164 quy chuẩn, tiêu chuẩn và 969 mặt hàng kiểm tra chuyên ngành) tại
246 VBQPPL (gồm: 15 luật, 68 nghị định, 04 quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
157 thông tư, thông tư liên tịch và 02 văn bản khác), ước tính tỷ lệ cắt giảm,
đơn giản hóa đạt khoảng 18,2% trên tổng số 15.801 QĐKD và khoảng 10% chi phí
tuân thủ, kỳ vọng đến hết năm 2025 sẽ đạt mục tiêu đề ra của Chương trình (Chi
tiết tại Phụ lục I).
Chương trình cắt giảm,
đơn giản hóa QĐKD được triển khai trên diện rộng, với số lượng lớn các quy định
tại nhiều văn bản thuộc trách nhiệm quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ trong
nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mang lại nhiều lợi ích thiết thực, góp phần
tạo sự chuyển biến tích cực góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thể
hiện trách nhiệm, quyết tâm cao của Chính phủ trong việc đồng hành cùng doanh
nghiệp kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và minh bạch hơn. Nhiều quy định
đã được cải cách mạnh mẽ mang lại hiệu quả thiết thực 16[16].
2. Về
xử lý vướng mắc, bất cập trong thực hiện phân cấp trong giải quyết TTHC
Phân cấp nói chung và
phân cấp giải quyết TTHC là chủ trương lớn, xuyên suốt ngay từ đầu nhiệm kỳ
Chính phủ, nhằm khắc phục tình trạng TTHC rườm rà, nhiều tầng nấc, khâu trung
gian, gây tốn kém thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Tại phiên họp
triển khai công việc sau khi được kiện toàn[17], Chính phủ đã khẳng định
quan điểm, định hướng trong chỉ đạo, điều hành là "Đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền, cá thể
hóa trách nhiệm đến từng cá
nhân gắn với công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực”,
các thành viên Chính phủ “không quyết định thay những việc đã phân cấp, ủy
quyền hoặc thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan, địa phương”, các bộ, cơ quan
ngang bộ “tăng cường phân cấp cho cấp dưới trực tiếp, cho địa phương xử lý
công việc liên quan đến người dân, doanh nghiệp, nhất là về TTHC”. Tiếp đó,
Chính phủ đã chỉ đạo “đẩy mạnh phân cấp trong giải quyết TTHC theo hướng cấp
nào sát cơ sở, sát nhân dân nhất thì giao cho cấp
đó giải quyết, không để tình trạng nhiều tầng nấc, kéo dài thời gian giải quyết
và gây nhũng nhiễu, tiêu cực, phiền
hà cho nhân dân”[18]. Thủ
tướng Chính phủ yêu cầu rà soát tổng thể, toàn bộ TTHC hiện hành để phân cấp[19].
Thực hiện yêu cầu của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã rà soát hơn 5.000
TTHC thuộc phạm vi quản lý và thẩm quyền giải quyết của các cấp chính quyền, đề
xuất các phương án phân cấp, lấy ý kiến thành viên Hội đồng Tư vấn cải cách
TTHC. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án phân cấp 699 TTHC[20]chiếm
tỷ lệ 13,47% trên tổng số TTHC được rà soát[21] với 232 văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL) cần sửa đổi, bổ sung trong giai đoạn 2022-2025 (gồm:
32 Luật, 87 Nghị định, 08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 05 Thông tư liên
tịch, 97 Thông tư, 03 Quyết định của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ).
Các nội dung phân cấp tập trung trên 100 lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của 21
bộ, cơ quan, hầu hết là các lĩnh vực được tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp quan
tâm, kiến nghị. Các phương án phân cấp bảo đảm phù hợp với quy định của Luật tổ
chức chính quyền địa phương; đồng thời các phương án phân cấp kèm theo yêu cầu
về báo cáo của cấp dưới (cơ quan/người được phân cấp) đối với
cấp trên (cơ quan/người phân cấp) và tăng cường thanh tra, kiểm
tra của cấp trên với cấp dưới.
Triển khai thực hiện
Quyết định số 1015/QĐ-TTg , đến nay, đã hoàn thành phần cấp 206/699 TTHC[22]
tại 46 VBQPPL (gồm: 01 Luật, 19 Nghị định, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ, 23 Thông tư, Thông tư liên tịch), đạt 29,5%. Tổng số TTHC còn tiếp tục
phải thực hiện phân cấp là 493 TTHC (gồm: 184 TTHC được quy định tại 31 luật
thuộc thẩm quyền của Quốc hội; 309 TTHC được quy định tại 135 văn bản thuộc thẩm
quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ)
(Chi tiết tại Phụ lục II).
Bên cạnh đó, thực hiện
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở quy định của pháp luật về
phân cấp, ủy quyền, nhiều bộ, địa phương đã chủ động thực hiện việc phân cấp giải
quyết TTHC theo thẩm quyền. Tổng số TTHC được các bộ, địa phương phân cấp, ủy
quyền trong giai đoạn từ 2021 đến nay là 527 TTHC, trên các lĩnh vực như: Giao
thông vận tải, tài nguyên và môi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, nội
vụ, văn hóa, thể thao và du lịch, tư pháp, khoa học và công nghệ....
Việc thực thi các
phương án phân cấp đã mang lại hiệu quả cao trong giải quyết TTHC[23],
giúp giảm bớt tầng nấc, khâu trung gian, giảm thời gian của cán
bộ, công chức trong quá trình giải quyết, các cơ quan cấp
trên được giảm bớt công việc sự vụ, tập trung vào xây dựng và hoạch định chính
sách; giảm thời gian người dân, doanh nghiệp đi lại, nộp hồ sơ và nhận kết quả
khi TTHC được phân cấp từ Trung ương về tỉnh,
từ tỉnh về huyện, từ huyện về xã... Đồng thời, phân cấp trong giải quyết TTHC
giúp các bộ, địa phương chủ động thực thi chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước; khuyến khích, phát huy tính chủ động, sáng tạo và nâng cao
vai trò của các cấp hành chính ở địa phương, góp phần khơi thông các nguồn lực,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
3. Về
xử lý vướng mắc, bất cập trong TTHC nội bộ
TTHC nội bộ là công cụ
điều hành cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thực thi công vụ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương. Thực tiễn những
năm qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đơn
giản hóa TTHC nội bộ, tuy nhiên kết quả rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ của
các bộ, ngành, địa phương còn khiêm tốn. TTHC nội bộ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước và trong từng bộ, cơ quan, địa phương còn phức tạp, rườm rà, hoặc
thiếu rõ ràng, cụ thể, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ chưa cao.
Nhằm cắt giảm, đơn giản
hóa TTHC nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước, Chính phủ đã chỉ đạo thống
kê, rà soát và đơn giản hóa các TTHC nội bộ[24], Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Kế hoạch rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ trong hệ thống hành
chính nhà nước giai đoạn 2022 - 2025[25]. Theo đó, lần đầu tiên, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ đề ra mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, cách thức triển khai đề
rà soát tổng thể, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC nội bộ trên phạm vi toàn quốc.
Các bộ, cơ quan, địa phương phải nhận diện, công bố TTHC nội bộ thuộc phạm vi
quản lý và thẩm quyền giải quyết để rà
soát, cắt giảm, đơn giản hóa, hoàn thành trong giai đoạn 2022 - 2025. Thủ tướng
Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành tập trung rà soát, đơn giản hóa 59 nhóm
TTHC trọng tâm ưu tiên trên 12 lĩnh vực (Quản lý ngân sách nhà nước; Quản lý
tài sản công; Quản lý, sử dụng, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài
nguyên; Quản lý đầu tư công; Quản lý, sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức
và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài; Tổ chức bộ máy; Cán bộ, công chức,
viên chức; Tổ chức chính quyền địa phương; Thi đua, khen Thưởng; Quản lý đất
đai; Quản lý điều hành chính sách điện năng; Giao thông đường bộ), hoàn thành
trong tháng 3 năm 2024.
Việc nhận
diện, công bố danh mục và rà soát TTHC nội bộ đã
được các bộ, ngành, địa phương triển khai tích cực. Tổng số TTHC nội bộ giữa
các cơ quan hành chính nhà nước được công bố tại 22/22 bộ, ngành là 645 TTHC nội
bộ (chưa bao gồm THC trong nội bộ của từng bộ, cơ quan, địa phương). Các
bộ, ngành, địa phương chủ động rà soát, xác định các TTHC nội bộ thực hiện
trong phạm vi bộ, địa phương mình để cắt giảm, đơn giản
hóa; tuy nhiên, số lượng TTHC nội bộ được các bộ, địa phương nhận diện có sự
chênh lệch lớn và còn chưa đầy đủ, thống nhất. Hiện nay, Văn phòng Chính phủ
đang phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để xác định danh mục TTHC nội bộ thực
hiện trong từng bộ, ngành, địa phương, từ đó thực hiện việc rà soát, đơn giản
hóa theo thẩm quyền, để nâng cao hiệu quả thực thi công vụ và tính chuyên nghiệp
của cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Nhiệm vụ công bố danh mục TTHC nội bộ
thực hiện tại từng bộ, địa phương hoàn thành trong tháng 6 năm 2024 và việc rà
soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ hoàn thành trong tháng 10 năm 2024.
Đến nay, đã có một số
kết quả bước đầu đáng ghi nhận trong rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ. Một số
TTHC nội bộ đã được cắt giảm, đơn giản hóa tại các VBQPPL thuộc thẩm quyền Quốc
hội, Chính phủ như: bãi bỏ thủ tục đăng ký thi đua đầu năm[26], bãi
bỏ quy định thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức[27]
... Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án đơn giản hóa 18 TTHC nội bộ lĩnh
vực Quản lý tài sản công[28]; trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã xây
dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
151/2017/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Chính phủ sẽ ban hành trong thời
gian tới. TTHC nội bộ trên một số lĩnh vực (như: Công Thương, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Quốc phòng...) đã được các bộ, ngành rà soát, xây dựng
phương án đơn giản hóa và đang tiếp tục hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt; nhiều địa phương (như: Hà Nội, Bắc Giang, Ninh Thuận...) tích
cực trong triển khai nhiệm vụ này.
Việc đơn giản hóa
TTHC nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước góp phần phân định rõ hơn trách
nhiệm, quyền hạn của các cơ quan trong thực thi công vụ, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả thực thi công vụ, tăng cường công tác phối hợp, đảm bảo công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, viên chức; là điều
kiện tiên quyết để thúc đẩy chuyển đổi số trong nội khối hành chính.
4. Về
xử lý vướng mắc, bất cập đối với TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý
dân cư.
Để thúc đẩy cải cách
TTHC gắn với chuyển đổi số trong phục vụ người dân, doanh nghiệp, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày
06 tháng 01 năm 2022 phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định
danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số
quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (gọi tắt
là Đề án 06), với mục tiêu ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống
định danh và xác thực điện tử, thẻ Căn cước công dân gắn
chip điện tử trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia một cách linh
hoạt, sáng tạo để phục vụ 5 nhóm tiện ích[29] phù
hợp Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030[30], với mục tiêu đến
hết năm 2025, 100% TTHC đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến và tích hợp, cung cấp trên
Cổng dịch vụ công quốc gia, 90% hồ sơ công việc liên quan đến quản lý dân cư tại
cấp bộ, cấp tỉnh, 80% tại cấp huyện, 60% tại cấp xã được xử lý trên môi trường
mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước). Đến nay, đã hoàn
thành tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia 25/25 dịch vụ công thiết
yếu theo Đề án 06 (Chi tiết tại Phụ lục III);
trong đó, một số TTHC có tỷ lệ hồ sơ trực tuyến cao[31], hằng
năm, đã tiết kiệm cho nhà nước, xã hội gần 3.500 tỷ đồng. Để
thúc đẩy triển khai Đề án 06, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công văn số
452/TTg-KSTT ngày 23 tháng 5 năm 2023 yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập
trung triển khai 23 nhiệm vụ để tháo gỡ 5 điểm nghẽn trong quá trình thực hiện
Đề án, hiện nay các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành 15 nhiệm vụ, còn 8 nhiệm
vụ đang được triển khai, dự kiến trong tháng 5 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ sẽ
chủ trì Hội nghị sơ kết 01 năm triển khai công văn số 452/TTg-KSTT và sản phẩm
sau Hội nghị là Công điện của Thủ tướng Chính phủ.
Đồng thời, nhằm đơn
giản hóa các thông tin, giấy tờ là thành phần hồ sơ công dân cần khai, nộp
trong quá trình thực hiện TTHC dựa trên dữ liệu mà cơ quan nhà nước quản lý,
khai thác từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã chỉ đạo các bộ, cơ quan tập trung rà soát, đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công
dân liên quan đến quản lý dân cư. Tính đến nay, các bộ, ngành đã đơn giản hóa
763/1.084 TTHC được giao tại các Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về đơn giản
hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, đạt 70%; có 07/19 bộ,
ngành[32] đã thực hiện 100% phương án đơn
giản hóa. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát và đề xuất điều
chỉnh, đưa ra lộ trình sửa đổi VBQPPL[33], các
bộ, ngành đã có báo cáo, đề xuất điều chỉnh phương án đơn giản hóa của 317 TTHC
tại 65 VBQPPL[34] (Chi tiết tại Phụ lục IV).
Thông qua việc tích hợp,
giảm bớt yêu cầu cung cấp các giấy tờ, thông tin trong quá trình thực hiện TTHC
và đẩy mạnh khai thác, tái sử dụng dữ liệu cơ quan nhà nước đã quản lý, các
TTHC liên quan đến quản lý dân cư được đơn giản hóa và mang lại những lợi ích
thiết thực đối với người dân, doanh nghiệp, giúp cắt giảm chi phí, thời gian thực
hiện thủ tục và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong hoạt động hành chính của
các cơ quan nhà nước, nhiều vướng mắc, bất cập về TTHC, giấy tờ công dân liên
quan đến quản lý dân cư đã được xử lý dứt điểm, mang lại hiệu quả thiết thực[35].
5. Về
xử lý vướng mắc, bất cập trong giải quyết TTHC
Nhằm đổi mới việc thực
hiện, giải quyết TTHC với quan điểm lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm
phục vụ, sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp là thước đo, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định 468/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2021 phê duyệt Đề án
đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC
với 5 nội dung đổi mới[36] theo hướng số hóa, không phụ thuộc
vào địa giới hành chính, giúp nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất lao động
với mục tiêu đến hết năm 2025: 100% hồ sơ TTHC đã giải quyết thành công được số
hóa, lưu trữ và có giá trị tái sử dụng; 80% người dân, doanh nghiệp khi thực hiện
TTHC không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được số hóa;
điện tử hóa việc giám sát, đánh giá kết quả
giải quyết TTHC; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
đối với chất lượng cung cấp dịch vụ công đạt tối thiểu 95%.
Để
hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
107/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải
quyết TTHC và các Nghị định quy định về việc cung cấp thông tin, dịch vụ công
trực tuyến và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử[37]. Thủ
tướng Chính phủ đã chỉ đạo thúc đẩy nhiệm vụ này thông qua việc ban hành Chỉ thị
tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp cải cách và nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC,
cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp[38]. Văn
phòng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 01/2023/TT-VPCP ngày 05 tháng 4 năm
2023 quy định một số nội dung và biện pháp thi hành trong số hóa hồ sơ, kết quả
giải quyết TTHC và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.
Đến nay, việc thực hiện
cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã có nhiều kết quả tích cực. Cả nước đã
thành lập 11.956 Bộ phận Một cửa các cấp để tiếp nhận, giải quyết TTHC, trong
đó có 58 Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh được thành lập[39] Bộ
phận Một cửa của nhiều bộ, ngành, địa phương đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp
và chủ động đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng hoạt động, nổi bật là việc tiếp
nhận hồ sơ tại nhà hoặc hẹn giờ giải quyết TTHC theo yêu cầu; bố trí quầy tiếp
nhận hồ sơ dành riêng cho người già, phụ nữ mang thai, người khuyết tật, người
có công với cách mạng; bố trí ki-ốt thông minh hướng dẫn, tiếp nhận và trả kết
quả; đã triển khai số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC ở
9.200/11.956 Bộ phận Một cửa, chiếm 76,9% (Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải
quyết TTHC tại các bộ, ngành đạt 25,66% (27.863.368/108.552.912 hồ sơ); địa
phương đạt 29,74% (19.996.232/67.235.985 hồ sơ). Tỷ lệ hồ sơ cấp kết quả bản điện
tử có giá trị pháp lý để tái
sử dụng tại các bộ, ngành đạt 25,68% (27.884.317 kết quả giải quyết
TTHC/108.552.912 kết quả cần cấp); địa phương đạt 34,85% (23.433.546 kết quả giải
quyết TTHC/67.235.985 hồ sơ kết quả cần cấp).
Việc tái sử dụng dữ liệu đã được số hóa, liên thông điện tử
giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết, hạn chế việc phải kiểm
tra xác minh, giảm dần số lượng cán bộ, công chức, viên chức tham gia giải quyết
TTHC, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, góp phần hạn chế "tham nhũng
vặt". Đồng thời, việc cung cấp dịch vụ
công trực tuyến có sự cải thiện rõ rệt, Cổng Dịch
vụ công quốc gia đã kết nối, tích hợp với 150 hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan, đơn vị; công khai toàn bộ 6.413 TTHC,
trong đó đã tích hợp, cung cấp hơn 4.500 dịch vụ công trực tuyến; có hơn 14,3
triệu tài khoản; hơn 309 triệu hồ sơ đồng bộ, hơn 26,4 triệu giao dịch thanh
toán trực tuyến với số tiền hơn 12.616 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Bộ chỉ số đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh
nghiệp trong thực hiện TTHC, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường
điện tử[40] và triển khai chính thức từ ngày 01
tháng 8 năm 2022 với 05 nhóm chỉ số[41] giúp kiểm soát thực thi ("điểm
nghẽn" lớn nhất hiện nay). Các bộ, ngành, địa phương đã căn cứ vào kết quả
đánh giá của Bộ chỉ số để thường xuyên đánh giá chất lượng thực
hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công tại bộ, ngành, địa phương mình, qua đó giúp
tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà
nước trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp.
6. Về
tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị của người dân, doanh nghiệp
Trên cơ sở chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã
tích cực, chủ động lắng nghe, tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân,
doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức để nắm
bắt và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, TTHC. Nhằm chuẩn hóa,
đẩy mạnh hơn nữa việc công tác này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy định về
việc tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị của tổ chức, cá nhân trên Cổng dịch vụ
công quốc gia[42]; đồng thời, Hệ thống tiếp nhận, trả
lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về cơ chế, chính sách, TTHC
trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đã được nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân, doanh nghiệp gửi phản ánh, kiến nghị và các bộ, ngành, địa phương
trong quá trình giải quyết.
Từ năm 2021 đến nay,
các bộ, ngành, địa phương đã tiếp nhận tổng số hơn 93.000
phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định và hành vi trong giải quyết
TTHC (bao gồm: hơn 72.000 phản ánh, kiến nghị về quy định TTHC và gần
21.000 phản ánh, kiến nghị về hành vi trong giải quyết TTHC)
đã xem xét, xử lý hơn 64.000 phản ánh, kiến nghị (bao gồm: hơn 44.000 phản
ánh, kiến nghị về quy định TTHC và hơn 20.000 phản ánh, kiến nghị về hành vi
trong giải quyết TTHC) đạt 69% (trong đó,
các bộ, ngành đã xử lý hơn 22.000 phản ánh, kiến nghị trên tổng số hơn 49.000
phản ánh, kiến nghị, đạt 45%, các địa phương đã xử lý hơn
42.000 phản ánh, kiến nghị trên tổng
số hơn 43.000 phản ánh, kiến nghị, đạt 96%)) (Chi
tiết tại Phụ lục V).
Bên cạnh đó, Tổ
công tác cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức 03 phiên họp toàn thể,
nhiều phiên họp chuyên đề để chỉ đạo thúc đẩy
công tác cải cách TTHC và lắng nghe phản ánh, kiến nghị của các hiệp hội doanh
nghiệp, thành viên Hội đồng tư vấn. Tổ công tác đã chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa
phương xử lý 158 phản ánh, kiến nghị của các hiệp hội doanh nghiệp, cơ quan
thành viên Hội đồng tư vấn cải cách TTHC, đến nay 138 phản, ánh kiến nghị đã
được các bộ, cơ quan xử lý, phản hồi (đạt 87,3%). Đồng thời,
401 phản ánh, kiến nghị của hiệp hội, doanh nghiệp đang là rào cản đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh được Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương xử
lý theo Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày 08 tháng 7
năm 2023, đến nay, đã có 397/401 phản ánh, kiến nghị được trả lời, đạt 99%. Nhiều
phản ánh, kiến nghị được tháo gỡ kịp thời, đáp ứng kỳ
vọng của người dân, cộng đồng doanh nghiệp[43]
III.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
1.
Những kết quả đạt được
Với sự quan tâm, chỉ
đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng sự vào cuộc mạnh
mẽ của các bộ, ngành, địa phương và người dân, doanh nghiệp, việc rà soát, xử
lý vướng mắc, bất cập về TTHC đã được tích cực triển khai thực hiện, góp phần
thúc đẩy cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh, nhiều chỉ số của Việt
Nam được thăng hạng (Xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 12 bậc[44]; xếp
thử 106 trong bộ chỉ số tự do kinh tế thế giới, tăng 4 bậc so với năm 2 022[45];
xếp thứ 46/132 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu,
tăng 02 bậc so với năm 2022[46]), góp phần tăng trưởng kinh tế - xã
hội.
Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố đã chủ động đưa ra các chương trình, kế hoạch dài hạn, hằng năm để
triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ
công và chỉ đạo tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong quy định TTHC đang là
rào cản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người
dân. Bên cạnh đó, đã dành thời gian lắng nghe,
tiếp xúc với người dân, cộng đồng doanh nghiệp để chỉ đạo nghiên cứu, xử
lý những phản ánh, kiến nghị về cơ chế, chính sách, TTHC. Đến
nay, cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra như tỷ lệ cắt giảm, đơn giản hóa QĐKD đạt
18,2%, tỷ lệ phân cấp trong giải quyết TTHC đạt 29,5%, tỷ lệ cắt giảm, đơn giản
hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư đạt 70%.
Tổ
công tác cải cách TTHC được thành lập và Hội đồng tư vấn được kiện toàn đã góp phần
khắc phục điểm yếu trong khâu thực thi, tổ chức thực hiện cải cách TTHC, huy động
sự tham gia rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp và người dân vào quá trình cải
cách của Chính phủ, bảo đảm cải cách là hướng tới người dân, phục vụ người dân
cũng như nâng cao khả năng phản ứng chính sách. Công tác cải cách TTHC đá mang
lại những lợi ích thiết thực góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, đặc biệt cắt giảm chi phí cho xã hội.
2.
Tồn tại, hạn chế, nguyên nhân
a) Tồn tại, hạn chế
Mặc dù công tác cải
cách TTHC đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai với phương châm lấy người dân,
doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai tại các
bộ, ngành, địa phương và phản ánh, kiến nghị của người dân, cộng đồng doanh
nghiệp, Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận TTHC vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
(1) Một số quy định,
TTHC tại một số VBQPPL còn chồng chéo, mâu thuẫn; việc đánh giá tác động cũng
như hoạt động tham vấn đối tượng chịu tác động của một số cơ quan tuân thủ chưa
nghiêm; việc đánh giá chi phí tuân thủ TTHC cùng chưa được chú trọng thực hiện.
(2) Việc cắt giảm,
đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tại một số bộ, ngành
còn hình thức, chưa đảm đảm tiến độ; quy định về thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết
một số TTHC còn qua nhiều tầng nấc, khâu trung gian; TTHC nội bộ trong từng bộ,
cơ quan, địa phương và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau còn phức tạp,
rườm rà, chưa cụ thể, là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao.
(3) Việc cắt giảm,
tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp, người dân là trách nhiệm của các bộ, ngành,
địa phương nhưng chủ yếu khi có sức ép mạnh từ cộng đồng doanh nghiệp, phản ánh
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc chỉ đạo trực tiếp của cấp trên mới
được quan tâm thực hiện. Tại một số cơ quan, đơn vị, địa phương nhất là ở
cơ sở vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, phát sinh TTHC, hồ sơ, giấy tờ
không đúng quy định.
(4) Việc tiếp nhận,
giải quyết TTHC chủ yếu theo phương thức truyền thống hồ sơ giấy, theo địa giới
hành chính, một số dịch vụ công trực tuyến thực hiện còn chưa thuận lợi, chưa
khai thác hiệu quả kết nối, chia sẻ dữ liệu; việc số hóa, tái sử dụng kết quả số
hóa ớ một số bộ, cơ quan, địa phương chưa đạt yêu cầu.
(5) Các điểm nghẽn về
thể chế, hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu, nguồn nhân lực, kinh phí trong
triển khai thực hiện Đề án 06 chưa được xử lý dứt điểm.
(6) Việc giám sát,
đánh giá chất lượng giải quyết TTHC và đánh giá mức độ hài lòng của người dân,
doanh nghiệp đã được triển khai, tuy nhiên chưa hình thành được cơ chế giám
sát, đánh giá việc giải quyết TTHC đồng bộ theo thời gian thực từ hệ thống một
cửa các cấp.
b) Nguyên nhân
Nguyên nhân của tồn tại,
hạn chế trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ
quan là chủ yếu, như:
(1) Nguyên nhân chủ
quan: (i) Công tác cải cách TTHC tại một số bộ, ngành, địa phương vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, nhất là chưa thực sự chủ động, quyết liệt trong việc sửa đổi,
bổ sung VBQPPL thuộc thẩm quyền để thực thi phương án cắt giảm, đơn giản hóa
QĐKD, TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản
lý dân cư, phân cấp giải quyết TTHC; (ii) Thói quen làm việc theo phương thức
truyền thông, chưa theo kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ; (iii)
Biên chế và lựa chọn nhân sự cho công tác cải cách TTHC tại một số bộ, ngành, địa
phương chưa được chú trọng; trình độ của một số cán bộ, công chức, viên chức
còn hạn chế, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong thực thi công vụ;
(iv) Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị còn thiếu chủ động, chưa chặt
chẽ, kịp thời; (v) Hạ tầng công nghệ thông tin còn yếu, thiếu
đồng bộ, nhiều hệ thống đã được đầu tư từ lâu, chưa được nâng cấp,
phát triển; cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương còn phân tán, chất lượng
dữ liệu chưa đáp ứng yêu cầu.
(2) Nguyên nhân khách
quan: Đây là những vấn đề khó, nhiều lực cản, đòi hỏi phải có thời gian thích ứng
cũng như thay đổi thói quen, cách làm cho phù hợp; một số phương án cắt giảm,
đơn giản hóa QĐND, TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, phân cấp
giải quyết TTHC phải sửa đổi, bổ sung Luật mới có thể thực hiện; việc số hóa hồ
sơ, kết quả giải quyết TTHC và tái sử dụng dữ liệu là công việc mới được triển
khai, cần thời gian để tiếp cận, làm quen, cần được tăng cường
đào tạo, tập huấn sử dụng; người dân, doanh nghiệp cũng cần có kỹ năng số cơ bản
để khai thác, sử dụng các dịch vụ, tiện ích số.
3.
Bài học kinh nghiệm
(1) Thứ nhất, quán
triệt đầy đủ chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo, chỉ
đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về cải cách hành chính nói chung và cải
cách TTHC nói riêng.
(2) Thứ hai, phải có
sự quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của người đứng đầu
các bộ, ngành, địa phương trong cải cách TTHC.
(3) Thứ ba, phải lấy
người dân, doanh nghiệp là trung tâm, lấy chất lượng phục vụ mức độ hài lòng là
thước đo kết quả thực hiện của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
(4) Thứ tư, phát huy
nhân tố con người, cải cách TTHC có vai trò dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy, hỗ trợ
trong cải cách TTHC, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa cải cách TTHC với chuyển đổi
số quốc gia.
(5) Thứ năm, bảo đảm
các nguồn lực trong thực hiện đồng thời tăng cường phối hợp, đồng bộ, chặt chẽ
xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
(6) Thứ sáu, đẩy mạnh
công tác truyền thông, huy động sự tham gia tích cực của người dân, cộng đồng
doanh nghiệp trong việc phát hiện những vướng mắc, bất cập về cơ chế, chính sách,
TTHC.
(7) Thứ bảy, phát huy
vai trò của Tổ công tác và Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ
trong chỉ đạo triển khai công tác cải cách TTHC cũng như huy động sự tham gia của
cộng đồng doanh nghiệp, người dân vào quá trình cải cách TTHC.
IV.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI
Để
triển khai có hiệu quả công tác cải cách TTHC, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện đồng bộ những giải
pháp chủ yếu sau:
1.
Tập trung thực hiện nghiêm, đầy đủ, kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tại
các Chương trình, Đề án, Kế hoạch đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt và các văn bản chỉ đạo, điều hành, bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu, đúng
tiến độ, chất lượng, hiệu quả.
2.
Thực hiện nghiêm việc cải cách TTHC ngay trong quá trình xây dựng VBQPPL, tăng
cường kiểm soát chặt chẽ, đánh giá tác động chính sách cụ thể đối với quy định
TTHC, điều kiện đầu tư kinh doanh, thực hiện tốt việc tham vấn (tăng cường tham
vấn trên môi trường điện tử), thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo VBQPPL, bảo đảm
các TTHC được quy định đúng thẩm quyền, cần thiết, hợp lý, thực hiện trên môi
trường điện tử và với chi phí tuân thủ thấp nhất; đẩy mạnh việc cắt giảm TTHC gắn
với cơ chế, điều kiện bảo đảm thực hiện và tính khả thi, không thực hiện cắt giảm
một cách cào bằng trong tất cả các lĩnh vực mà cần có lựa chọn phù hợp dựa trên
đánh giá tác động kỹ lưỡng của việc cắt giảm TTHC cho doanh nghiệp, các chủ thể
khác với trách nhiệm của Nhà nước về bảo đảm an toàn, trật tự xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Định kỳ, hàng tháng
thống kê đầy đủ những TTHC được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ,
công bố, công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC
để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành và thực
hiện TTHC. Đồng thời, chấn chỉnh, rà soát và đề xuất sửa đổi các quy định để
tránh gây bất cập, mâu thuẫn trong việc giao địa phương ban hành văn bản quy định
bộ phận tạo thành của TTHC theo đúng quy định của Luật ban hành VBQPPL.
3.
Trình Quốc hội xem xét, sửa đổi các quy định của Luật ban hành VBQPPL về quy định
TTHC trong dự thảo VBQPPL, đặc biệt là các TTHC để thực
hiện các biện pháp có tính chất đặc thù phù
hợp điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4.
Phát huy vai trò của Bộ Tư pháp, Tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, Sở
Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao phối hợp với các cơ quan có liên quan
nâng cao chất lượng thẩm định quy định về TTHC, quy định liên quan đến hoạt động
kinh doanh tại Dự thảo VBQPPL, bảo đảm chi ban hành và duy trì những TTHC, quy
định thật sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp và chi phí tuân thủ thấp nhất.
5.
Tập trung ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ để thực thi các phương án cắt giảm,
đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh; các nhóm TTHC nội bộ
trọng tâm ưu tiên; TTHC, giấy tờ công dân, phân cấp trong giải quyết TTHC đã được
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo hướng một Nghị định sửa nhiều Nghị
định, một Quyết định sửa nhiều Quyết định, một Thông tư sửa nhiều Thông tư (Chi
tiết tại Phụ lục VI). Đồng thời, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền để thực thi các phương án cắt giảm, đơn
giản hóa TTHC, QĐKD (chi tiết tại Phụ lục VII), trong đó rà soát, nghiên
cứu, đề xuất ưu tiên dựa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh các dự án luật,
pháp lệnh, bảo đảm tính khoa học, khả thi.
6.
Xây dựng, ban hành Chương trình cắt giảm giấy phép và đổi mới hoạt động cấp
phép tại các bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2025 - 2030 để tiếp tục cắt giảm
thực chất, hiệu quả TTHC tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, minh bạch,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
7.
Triển khai thực hiện Nghị định số 104/2022/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2022 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp,
xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ
công, trong đó, tập trung khai thác sử dụng thông tin, dữ liệu của công dân
trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải
quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công.
8.
Thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, TTHC liên quan đến Phiếu lý lịch
tư pháp nhằm cắt giảm yêu cầu nộp Phiếu lý lịch tư pháp không hợp lý trong thực
hiện TTHC, bảo đảm thực chất, hiệu quả.
9.
Nhận diện, công bố đầy đủ TTHC nội bộ thuộc thẩm quyền giải quyết
của bộ, cơ quan, người có thẩm quyền ở Trung ương và của các cấp chính quyền địa
phương; xác định đúng phạm vi, thẩm quyền ban hành TTHC nội bộ để rà soát, đơn
giản hóa, đảm bảo mục tiêu, yêu cầu đề ra tại Quyết định số 1085/QĐ-TTg ngày 15
tháng 9 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ.
10.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong phục vụ người dân, doanh nghiệp, trong đó tập
trung triển khai thành công Đề án 06, tập trung xử lý dứt điểm các điểm nghẽn về
thể chế, hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu, nguồn nhân lực, kinh phí.
11.
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới cơ chế một cửa, một cửa
liên thông trong giải quyết TTHC; tập trung nguồn lực đẩy nhanh số hóa hồ sơ, kết
quả giải quyết TTHC, gắn việc số hóa với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ,
công chức, viên chức trong quá trình tiếp nhận, giải quyết TTHC; đẩy mạnh tái sử
dụng dữ liệu đã được số hóa giữa các bộ, ngành, địa phương thông qua kết nối,
chia sẻ dữ liệu; thực hiện việc tích hợp, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu giữa các cơ
sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, Hệ thông tin giải quyết TTHC, cung cấp dịch
vụ công tập trung do bộ, ngành quản lý với Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống
thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh.
Tổ chức triển khai
thí điểm Mô hình mẫu Bộ phận Một cửa cung cấp dịch vụ công theo hướng kết hợp Bộ
phận Một cửa của các đơn vị hành chính các cấp trên địa bàn tại 04 địa phương
(Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Quảng Ninh) trong năm 2024 trước khi tổng
kết, nhân rộng với mục tiêu tạo thuận tiện cho người dân tiếp cận theo hướng thực
hiện TTHC, dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính, tối đa hóa phạm vi
tiếp nhận TTHC và xử lý tại 01 địa điểm trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin,
đẩy mạnh chuyển đổi số.
12.
Rà soát, đánh giá, cấu trúc lại quy trình đối với các dịch vụ công trực tuyến
đang được tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, bảo đảm nguyên tắc
lấy người dùng làm trung tâm; đồng thời, ưu tiên xây dựng, tích hợp, cung cấp
các nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông cung cấp ở
mức độ toàn trình đáp ứng yêu cầu của người dân, doanh nghiệp và mục tiêu, yêu
cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
13.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác giải quyết TTHC; nâng cấp
hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ từ trung ương tới địa phương phù hợp
với yêu cầu chuyển đổi số hiện nay, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, đẩy mạnh
kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu phục vụ chỉ đạo, điều hành và giải
quyết TTHC, cung ứng dịch vụ công.
14.
Tổ chức thực hiện nghiêm việc tiếp nhận, xử lý, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc
về cơ chế, chính sách, TTHC; tăng cường đối thoại, trách nhiệm giải trình của
cơ quan nhà nước; xử lý dứt điểm những vướng mắc, khó khăn cho người dân, doanh
nghiệp; không để tình trạng kéo dài, đùn đẩy trách nhiệm gây tốn kém chi phí,
thời gian đi lại của người dân và doanh nghiệp.
15.
Tiếp tục triển khai công tác thanh tra, kiểm tra nhiệm vụ cải cách TTHC nhằm
nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, kịp thời xử
lý, thay thế các trường hợp né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm và vi phạm pháp luật.
Định kỳ hàng tháng công khai kết quả đánh giá chất lượng phục vụ người dân,
doanh nghiệp theo Quyết định số 766/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2022 của Thủ tướng
Chính phủ trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh,
Cổng Thông tin điện tử của bộ, cơ quan, địa phương để tổ chức, cá nhân theo
dõi, giám sát. Đồng thời, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá chất lượng phục vụ,
mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
trong thực hiện TTHC, dịch vụ công theo Quyết định số 766/QĐ-TTg một cách thực
chất, hiệu quả.
16.
Tổ công tác cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ phát huy vai trò chỉ đạo,
thúc đẩy việc triển khai cải cách TTHC tại các bộ, ngành, địa phương; phối hợp
chặt chẽ với Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ kịp thời lắng
nghe để nhận diện, xử lý các vướng mắc, khó khăn về cơ chế, chính sách, TTHC là
rào cản đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của
người dân.
17.
Đẩy mạnh công tác truyền thông trong cải cách TTHC để người dân, doanh nghiệp
biết và đồng hành cùng Chính phủ.
V.
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Chính phủ trân trọng
đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội một số vấn đề sau:
1.
Ưu tiên đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội đối với các
dự án luật liên quan đến việc thực thi các phương án cắt giảm, đơn giản hóa
QĐKD, TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, phân cấp trong giải
quyết TTHC.
2.
Giám sát, theo dõi chặt chẽ việc ban hành các VBQPPL có quy định về TTHC thuộc
thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Trên đây là báo cáo kết
quả rà soát, xử lý các vướng mắc, bất cập về TTHC, Chính phủ trân trọng báo cáo
Quốc hội./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- TTgCP, các TTgCP;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, Cơ quan thuộc CP;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Tổ công tác cải cách TTHC của TTgCP;
- Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của TTgCP;
- VPCP: BTCN, các PCN, các
Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc;
- Lưu: VT, KSTT (2b).
|
TM.
CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Trần Lưu Quang
|