BỘ Y TẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 828/QĐ-BYT
|
Hà Nội, ngày 04 tháng 04 năm 2022
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ
DUYỆT ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NỀN TẢNG QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH HỆ THỐNG Y TẾ
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20 tháng
6 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Căn cứ Quyết định số 579/QĐ-BYT
ngày 10 tháng 3 năm 2022 Bộ Y tế phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ Y tế
năm 2022;
Theo đề nghị của Chánh Văn phòng
Bộ và Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Y tế.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án xây dựng Nền tảng quản
lý, điều hành hệ thống y tế.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Các Ông, Bà: Chánh Văn phòng Bộ, Cục trưởng các Cục: Công
nghệ thông tin, Y tế dự phòng, Quản lý Khám, chữa bệnh; Vụ trưởng các Vụ: Kế hoạch
- Tài chính, Tổ chức cán bộ, Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em; Lãnh đạo các đơn vị thuộc,
trực thuộc Bộ và Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
Nơi nhận:
-
Như
Điều 3;
- Đ/c Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Đ/c Thứ trưởng;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Y tế các Bộ, ngành;
- Lưu: VT, VPB1, CNTT.
|
KT. BỘ
TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Văn
Thuấn
|
ĐỀ ÁN
XÂY
DỰNG NỀN TẢNG QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH HỆ THỐNG Y TẾ
(Kèm
theo Quyết định số 828/QĐ-BYT ngày 04 tháng 04 năm 2022 của
Bộ trưởng Bộ Y tế)
Phần
thứ nhất
BỐI
CẢNH XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT
1. Vai trò của dữ liệu và thông tin y
tế
Hệ thống thông tin y tế là một trong 6
trụ cột cơ bản của hệ thống y tế[1],
với chức năng thu thập, tổng hợp, trao đổi, công bố và sử dụng thông tin; có
vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ công tác quản lý, xây dựng và thực hiện
các chính sách y tế. Bên cạnh đó, cung cấp cảnh báo sớm, dự báo xu hướng đối với
các vấn đề liên quan đến sức khỏe và hệ thống y tế nói chung.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng nhấn
mạnh vai trò và tầm quan trọng của công tác quản lý thông tin y tế trong việc hỗ
trợ đưa ra các quyết định đáp ứng khẩn cấp và trong phòng, chống dịch bệnh; đầu
tư vào hệ thống thông tin y tế không chỉ là vấn đề cấp bách mà còn mang lại hiệu
quả cao, tiết kiệm chi phí, nhất là trong xây dựng các chính sách và chương
trình kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế xã hội.
Hiện chỉ có khoảng 50% các quốc gia có
hệ thống thông tin y tế đáp ứng năng lực giám sát chất lượng chăm sóc sức khỏe;
khoảng 60% các quốc gia có một hệ thống thông tin y tế đủ để thực hiện các đánh
giá phân tích về hiệu quả hoạt động của ngành y tế; 59% quốc gia có năng lực sử
dụng dữ liệu y tế để xây dựng các chính sách và lập kế hoạch, nhưng chỉ 42% quốc
gia có hệ thống thông tin đảm bảo truy cập và chia sẻ dữ liệu tốt[2]. Ở nhiều quốc
gia, chủ yếu là các nước đang phát triển, tồn tại tình trạng “phân mảnh” dữ liệu;
thiếu đồng bộ trong chia sẻ, kết nối và quản lý dữ liệu, đi kèm với sự hạn chế
về nguồn lực (tài chính, cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực)[3]...
WHO kêu gọi các quốc gia tăng cường đầu
tư phát triển cơ sở dữ liệu y tế, cải thiện hệ thống thu thập dữ liệu, nâng cao
năng lực điều phối, phân tích để chuyển đổi dữ liệu thành thông tin hữu ích phục
vụ việc xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng qua đó góp phần nâng cao
chất lượng các dịch vụ y tế, giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong chăm sóc
y tế, xác định khoảng cách trong chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm đối tượng khác
nhau[4].
2. Thực trạng hệ thống
thông tin y tế tại Việt Nam
Tại Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ và Bộ
Y tế đã quan tâm xây dựng, tăng cường hệ thống thông tin nói chung và hệ thống
thông tin y tế nói riêng nhằm nâng cao công tác hoạch định chính sách, quản lý,
điều hành. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thống kê, thống kê y tế đã được
xây dựng và ban hành[5].
Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn về báo
cáo, thống kê y tế, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin chuyên ngành y tế.
Qua đó, hệ thống thông tin y tế đã từng bước được đầu tư và triển khai từ trung
ương đến địa phương.
Đến nay, Bộ Y tế đã xây dựng trung tâm
dữ liệu y tế quốc gia; hình thành trục tích hợp cho các hệ thống
thông tin quy mô quốc gia; hoàn thiện hệ thống dịch vụ công trực tuyến mức độ
4, thực hiện kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu Cổng dịch vụ công Bộ Y tế với Cổng
dịch vụ công quốc gia[6];
đưa vào vận hành hệ thống thống kê y tế điện tử và hồ sơ sức khỏe điện tử; thiết
lập và vận hành Nền tảng quản
lý thông tin y tế cơ sở V20,... Hầu hết các cơ sở y tế đều có phòng máy chủ phục
vụ công nghệ thông tin cho hoạt động hằng ngày của đơn vị[7]. Các cơ sở khám,
chữa bệnh duy trì kết nối hệ thống thông tin khám chữa bệnh với hệ thống giám định,
thanh toán bảo hiểm y tế của Bảo hiểm xã hội Việt Nam[8]. Bên cạnh đó, Bộ
Y tế đã tổ chức triển khai một số các cơ sở dữ liệu chuyên ngành như thống kê y
tế, tổ chức và nhân lực y tế, dược, dân số - kế hoạch hóa gia đình, HIV/AIDS, bệnh
truyền nhiễm và không lây nhiễm; hoàn thành xây dựng phần mềm hồ sơ sức khỏe cá
nhân, phần mềm tiêm chủng mở rộng, nền tảng quản lý thông tin y tế cơ sở V20,
ngân hàng dữ liệu ngành dược, ứng dụng công khai y tế, các ứng dụng hỗ trợ
phòng, chống dịch COVID-19,...
Tuy nhiên, hệ thống thông tin y tế của
nước ta còn tồn tại nhiều thách thức (Nghiên cứu của WHO và một số tổ chức quốc
tế về đánh giá hiệu quả hệ thống y tế cho thấy Việt Nam xếp thứ 160/190 quốc
gia, 66/89 quốc gia trong một số khảo sát[9]).
Tính riêng các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế hiện đang triển khai trên 50 loại
báo cáo định kỳ (ngày, tuần, tháng, quý, năm), nhiều báo cáo yêu cầu phạm vi
báo cáo trên toàn quốc, đến tận tuyến xã; trong đó có 42 loại báo cáo yêu cầu
các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, 8 loại báo cáo yêu cầu các cá nhân,
tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp thực hiện. Triển khai hơn 30 phần mềm báo cáo tại
15 đơn vị được phát triển bởi các công ty công nghệ khác nhau; mỗi một phần mềm
được quản lý bởi một đơn vị riêng lẻ. Bên cạnh đó, các hệ thống thông tin, cơ sở
dữ liệu quy mô toàn quốc đã triển khai, khai thác sử dụng chưa có Quy định kỹ
thuật về dữ liệu để phục vụ nhu cầu kết nối, chia sẻ dữ liệu; gặp nhiều khó
khăn trong việc kết nối, liên thông, chia sẻ, khai thác và sử dụng dữ liệu y tế[10]. Trung tâm dữ
liệu y tế quốc gia đã hình thành nhưng chưa đạt yêu cầu về dữ liệu, kết nối,
chia sẻ và an toàn thông tin mạng, an ninh mạng.
Tình trạng có dữ liệu nhưng phân tán,
thiếu thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành, hoạch định chính sách, nhất
là trong công tác dự báo, theo dõi sự vận hành của hệ thống y tế, phân tích
tình hình dịch bệnh để chủ động, chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng với các tình huống dịch
bệnh có thể xảy ra. Đồng thời, thiếu các công cụ công nghệ thông tin mang tính
tổng thể, toàn diện, trực quan, trực tuyến để hỗ trợ lãnh đạo trong việc điều
hành, quản lý công tác phòng, chống dịch dẫn đến tình trạng khi cần thông tin
phải truy cập, lấy dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, số liệu không thống nhất,
đồng bộ, chưa kịp thời đáp ứng với các tình trạng khẩn cấp. Xuất phát từ những
tồn tại trên, cần có những giải pháp để từng bước cải thiện trong thời gian tới,
trước mắt cần tập trung vào một số trọng tâm sau:
a) Nâng cao chất lượng và tiến độ thu
thập dữ liệu: Mặc dù đã có nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật quy định
về công tác báo cáo các thông tin y tế được ban hành, nhiều báo cáo đã được ứng
dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng số liệu, rút gọn các thủ tục
hành chính; tuy nhiên thực tế triển khai cho thấy việc thu thập dữ liệu vẫn gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt tại tuyến cơ sở. Hiện tượng “xin-cho” số liệu, báo cáo
chậm, muộn so với quy định vẫn diễn ra phổ biến. Riêng việc triển khai thu thập
các dữ liệu liên quan đến Niên giám thống kê y tế hằng năm còn nhiều khó khăn,
vướng mắc do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề về cung cấp số liệu chậm, muộn
so với quy định[11].
b) Tổ chức hiệu quả việc kết nối, liên
thông, quản lý và khai thác dữ liệu: Các chương trình y tế theo ngành dọc xây dựng
các phần mềm báo cáo quản lý số liệu riêng dẫn đến việc trùng lặp thông tin thu
thập và gây ra gánh nặng của việc nhập liệu nhiều lần cho các thông tin sức khỏe;
chưa có quy định chi tiết về cấu trúc dữ liệu trong quản lý hoạt động y tế tuyến
cơ sở dẫn đến dữ liệu bị trùng lặp, thu thập nhiều nhưng không sử dụng triệt để
giữa các chương trình; chưa có quy định hướng dẫn việc liên thông tích hợp dữ
liệu của các hệ thống, chương trình ngành dọc với phần mềm quản lý y tế cơ sở;
các nhà cung cấp sản phẩm phần mềm quản lý chưa thống nhất với nhau về tiêu chí kỹ thuật và
liên thông dữ liệu; hệ thống biểu mẫu thống kê chưa được thống nhất, số lượng
biểu mẫu quá nhiều và còn chồng chéo.
c) Nâng cao năng lực phân tích, xử lý
dữ liệu: Các dữ liệu hiện có phần lớn là các dữ liệu thô, chưa được phân tích,
xử lý phù hợp để đáp ứng, chuyển tải thành các thông tin phục vụ công tác quản
lý, điều hành. Việc phân tích và sử dụng số liệu trong hệ thống y tế còn nhiều
hạn chế, kể cả tại tuyến trung ương. Dữ liệu phần lớn mới chỉ được phân tích sơ
bộ thông qua mô tả các chỉ tiêu, chuyển thành các dạng thông tin ở mức ban đầu
để theo dõi tiến độ việc triển khai các chương trình, hoạt động; chưa có nhiều
các phân tích sâu mang tính hệ thống để đánh giá xu hướng, dự báo các yếu tố
nguy cơ sức khỏe mà hệ thống y tế phải đáp ứng; việc chuyển thông tin thành bằng
chứng chưa được thực hiện thường xuyên, chất lượng không đồng đều; chưa được sử
dụng nhiều trong việc tính toán các chỉ tiêu kế hoạch cũng như phân bổ nguồn lực
tại các tuyến, nên đã không đánh giá hết tầm quan trọng của số liệu và phân
tích, xử lý số liệu.
đ) Tăng cường đầu tư nguồn lực: Ngân
sách đầu tư thấp, thiếu kinh phí để tiến hành các điều tra định kỳ, phụ thuộc
nhiều vào các chương trình viện trợ quốc tế do đó không bao phủ được hệ thống
và tính bền vững sau khi kết thúc dự án; nhân lực thực hiện chưa đáp ứng được
yêu cầu chuyên môn, không được tập huấn thường xuyên...
e) Xây dựng Khung giám sát và đánh giá
hệ thống y tế: Cùng với việc nâng cao năng lực hệ thống y tế, việc xây dựng một
hệ thống theo dõi, giám sát giúp các nhà hoạch định chính sách nắm bắt hiệu quả
hoạt động của hệ thống y tế, theo dõi các chỉ số sức khỏe, kết quả các hoạt động
triển khai, chỉ
đạo điều hành, đánh giá tác động trên quy mô toàn quốc là việc là hết sức cần
thiết. Để làm được điều
này cần có một bộ chỉ số chính mang tính hệ thống, đại diện cho việc vận hành của
hệ thống y tế. Hầu hết các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam gặp
nhiều khó khăn trong quản lý và sử dụng dữ liệu hệ thống y tế bởi các lý do
chính như việc chưa ứng dụng triệt để khung đánh giá hệ thống y tế trong xây dựng
các chỉ số; sự phân mảnh của hệ thống thông tin và việc chưa tập trung vào đáp ứng
các nhu cầu nghiệp vụ thay vì việc ứng dụng công nghệ; khoảng trống dữ liệu thể
hiện trong phạm vi từ các nhóm yếu tố “đầu vào”, “quá trình”, “đầu ra”, “kết quả” và
“tác động”.
3. Khung giám sát và đánh giá hệ thống
y tế
Tổng quan kinh nghiệm quốc tế cho thấy
có 3 Khung giám sát thường được sử dụng gồm: i) Khung giám sát và đánh giá năng
lực hệ thống y tế của WHO; ii) Khung điều khiển của Ngân hàng Thế giới (WB) và
iii) Khung các cấu phần hệ thống y tế của WHO[12].
Các Khung giám sát, đánh giá khác nhau từ điểm xuất phát dẫn tới khác biệt về kết
quả đầu ra được theo dõi. Việc lựa chọn Khung đánh giá nào không ảnh hưởng nhiều
tới việc theo dõi và đánh giá do có nhiều điểm chung cho phép xây dựng cách tiếp
cận mang tính liên kết chung trong việc lựa chọn các chỉ số và phương pháp thu
thập số liệu.
Mối quan tâm tới việc xây dựng khung
theo dõi, đánh giá chung được Sáng kiến và hợp tác Y tế quốc tế (IHP+) kích hoạt
năm 2007[13].
IHP+ đã xây dựng Khung theo dõi, đánh giá phổ quát cho phép theo dõi và đánh
giá hệ thống y tế như trong Hình 1 dưới đây. Khung đánh giá cho thấy các yếu tố
đầu vào và quá trình của hệ thống y tế (nhân lực và hạ tầng) được phản ánh bởi
đầu ra (các can thiệp và dịch vụ sẵn có), từ đó cho thấy các kết quả (mức độ bao
phủ) và tác động (các chỉ số sức khỏe, sự công bằng).
Hình 1: Khung
theo dõi, giám sát và đánh giá năng lực hệ thống y tế[14]
Với cách tiếp cận này, sẽ thiết lập bộ
chỉ số theo dõi, đánh giá mang tính tổng thể dựa trên các cấu phần của hệ thống
y tế với kế hoạch thu thập, quản lý, khai thác và phân tích các dữ liệu, thông
tin y tế ở các cấp độ khác nhau. Cụ thể, Khung theo dõi, đánh giá và giám sát
hướng tới những điểm mới, mang tính đột phá trong việc hỗ trợ công tác quản lý,
điều hành hệ thống y tế, cụ thể như sau:
a) Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá bao gồm
các chỉ số phản ánh quá trình vận hành hệ thống y tế; từ các yếu tố đầu vào,
quá trình, kết quả, đầu ra và tác động của hệ thống y tế. Bộ chỉ số được thiết
lập dựa trên: i) Các chỉ tiêu được Quốc hội, Chính phủ giao cho Bộ Y tế; ii)
Các chỉ số liên quan đến Mục tiêu phát triển bền vững[15]; iii) Các chỉ số
thống kê thường kỳ; ii) Các chỉ số có được thông qua các cuộc điều tra, khảo
sát; iv) Các chỉ số phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành tại Bộ Y tế; v) Các chỉ
số là kết quả của các phân tích dựa trên bộ dữ liệu thứ cấp (Điều tra mức sống
dân cư, Tổng điều tra dân số...).
b) Bộ chỉ số bao gồm các chỉ số cố định
phản ánh hệ thống y tế và các chỉ số “động” được bổ sung phục vụ yêu cầu thực
tiễn như trong công tác phòng chống dịch COVID-19; các chỉ số được cập nhật định
kỳ theo hệ thống báo cáo thường quy và cập nhật hàng ngày đối với một số chỉ số
thống kê từ Nền tảng quản lý thông tin y tế cơ sở V20; các chỉ số sẽ phản ánh mối
tương quan qua lại, biện chứng giữa các cấu phần của hệ thống y tế.
c) Xây dựng đội ngũ chuyên gia về thống
kê y sinh, dịch tễ học và chính sách y tế để thực hiện việc thu thập, xử lý và
phân tích dữ liệu; qua đó chuyển tải thành các thông tin, bằng chứng phục vụ
quá trình ra hoạch định chính sách.
d) Thiết lập Bảng điều hành
(Dashboard) trực quan, sinh động, trong đó các chỉ số được hiển thị, minh họa
phân theo cấu phần hệ thống y tế, theo lĩnh vực, theo các mốc thời gian, địa
bàn hành chính (một số chỉ số tới đến tận xã, phường) và có mối liên hệ tương
quan mang tính hệ thống.
đ) Xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu
tập trung về y tế trên cơ sở tích hợp dữ liệu từ các hệ thống thông tin, cơ sở dữ
liệu chuyên ngành của các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Y tế. Thống nhất việc quản
lý tập trung các cơ sở dữ liệu tại Cục Công nghệ thông tin, Bộ Y tế; tập hợp dữ
liệu từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các dữ liệu liên quan đến khám, chữa bệnh,
y tế dự phòng, tài chính y tế, nhân lực, trang thiết bị....
II. CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Luật Thống kê số 89/2015/QH13 ngày
23 tháng 11 năm 2015.
- Luật khám bệnh, chữa bệnh ngày 23
tháng 11 năm 2009.
- Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm
ngày 21 tháng 11 năm 2007.
- Luật số 71/2020/QH14 ngày 16 tháng
11 năm 2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút
gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).
- Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20
tháng 6 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Y tế.
- Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25 tháng
10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
- Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng
9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 24 tháng 3
năm 2020 của Ban Bí thư về tăng cường phối hợp và triển khai đồng bộ các biện
pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng.
- Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17 tháng
4 năm 2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số
52-NQ/TW.
- Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07 tháng
3 năm 2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
Chính phủ điện tử giai đoạn 2019- 2020, định hướng 2025.
- Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24
tháng 01 năm 2019 của Chính phủ quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành
chính nhà nước.
- Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03
tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
- Quyết định số 6110/QĐ-BYT ngày 29
tháng 12 năm 2017 của Bộ Y tế ban hành hướng dẫn xây dựng và triển khai hệ thống
thông tin quản lý trạm y tế xã, phường, thị trấn.
- Quyết định số 6111/QĐ-BYT ngày 29
tháng 12 năm 2017 của Bộ Y tế Phê duyệt Đề án triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin tại Trạm Y tế xã, phường giai đoạn 2018 - 2020.
- Quyết định số 3929/QĐ-BYT ngày 28
tháng 6 năm 2018 của Bộ Y tế ban hành kế hoạch hành động của Bộ Y tế triển khai
kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển
bền vững.
- Quyết định số 5454/QĐ-BYT ngày 10
tháng 9 năm 2018 của Bộ Y tế ban hành Kế hoạch triển khai Thống kê y tế điện tử.
- Quyết định số 4888/QĐ-BYT ngày 18
tháng 10 năm 2019 của Bộ Y tế phê duyệt Đề án ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin y tế thông minh giai đoạn 2017 -2025.
- Quyết định số 5316/QĐ-BYT ngày 22
tháng 12 năm 2020 của Bộ Y tế phê duyệt chương trình chuyển đổi số y tế đến năm
2025 định hướng đến năm 2030.
- Quyết định số 3532/QĐ-BYT ngày 12
tháng 8 năm 2020 của Bộ Y tế quy định về xây dựng và triển khai hệ thống thông
tin quản lý trạm y tế xã, phường, thị trấn.
- Quyết định số 579/QĐ-BYT ngày 10
tháng 3 năm 2022 của Bộ Y tế phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin của
Bộ Y tế năm 2022;
- Thông tư số 29/2014/TT-BYT ngày 14
tháng 8 năm 2014 của Bộ Y tế quy định biểu mẫu và chế độ báo cáo thống kê y tế
áp dụng đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân.
- Thông tư số 32/2014/TT-BYT ngày 30
tháng 9 năm 2014 của Bộ Y tế ban hành Danh mục chỉ tiêu thống kê y tế cơ bản áp
dụng cho tuyến tỉnh, huyện và xã.
- Thông tư số 54/2015/TT-BYT ngày 28
tháng 12 năm 2015 của Bộ Y tế hướng dẫn chế độ thông tin báo cáo và khai báo bệnh,
dịch bệnh truyền nhiễm.
- Thông tư số 20/2019/TT-BYT ngày 31
tháng 7 năm 2019 của Bộ Y tế quy định hệ thống chỉ tiêu thống kê cơ bản ngành y
tế.
- Thông tư số 37/2019/TT-BYT ngày 30
tháng 12 năm 2019 của Bộ Y tế hướng dẫn quy định chế độ báo cáo thống kê ngành
y tế.
- Thông tư số 38/TT-BYT ngày 30 tháng
12 năm 2019 của Bộ Y tế quy định chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý
nhà nước của Bộ Y tế.
- Thông tư số 06/2020/TT-BYT ngày 07
tháng 5 năm 2020 của Bộ Y tế quy định hệ thống chỉ tiêu thống kê dược - mỹ phẩm.
- Thông tư số 25/2021/TT-BYT ngày 13
tháng 12 năm 2021 của Bộ Y tế quy định chế độ báo cáo thống kê lĩnh vực dược -
mỹ phẩm.
- Thông tư số 07/2021/TT-BNV ngày 31
tháng 12 năm 2021 của Bộ Nội vụ quy định chế độ báo cáo công tác ngành Nội vụ.
Phần
thứ hai
MỤC
TIÊU VÀ PHẠM VI
I. MỤC TIÊU CHUNG
Xây dựng Nền tảng quản lý, điều hành hệ
thống y tế để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ Y tế.
II. MỤC TIÊU CỤ THỂ
1. Thiết lập Bộ chỉ số theo dõi, đánh
giá quản lý, điều hành hệ thống y tế.
2. Xây dựng Hệ thống và tiến hành thu
thập, xử lý thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý, điều hành hệ thống y tế.
3. Xây dựng Bảng điều khiển
(Dashboard) trực tuyến phục vụ công tác quản lý, điều hành hệ thống y tế.
III. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG
VÀ THỜI GIAN TRIỂN KHAI
1. Phạm vi: Triển khai trên phạm
vi toàn quốc.
2. Đối tượng sử dụng:
- Lãnh đạo Bộ Y tế.
- Lãnh đạo, chuyên viên các đơn vị thuộc,
trực thuộc Bộ và các đơn vị khác khi có nhu cầu và tùy theo chức năng, nhiệm vụ
được giao. Mức độ truy cập, sử dụng sẽ được phân cấp, phân quyền phù hợp.
3. Thời gian và lộ trình triển khai: Năm 2022 và
duy trì các năm tiếp theo.
a) Giai đoạn 1 (năm
2022):
- Thiết lập Bộ chỉ số theo dõi, đánh
giá trên cơ sở các chỉ số hiện đang được quản lý, thống kê của hệ thống y tế.
- Xây dựng Hệ thống thu thập, xử lý
thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý, điều hành hệ thống y tế.
- Xây dựng Dashboard trực tuyến phục vụ
chỉ đạo, điều hành.
Nhóm các chỉ số chủ yếu được thể hiện
qua các biểu đồ, hình ảnh, bảng biểu theo thời gian, địa điểm mô tả các dữ liệu
sẵn có của hệ thống y tế đối với các lĩnh vực của hệ thống y tế như: Tài chính
y tế, nhân lực y tế, bảo hiểm y tế, cơ sở hạ tầng, tiêm chủng, bệnh truyền nhiễm,
bệnh không lây nhiễm...
b) Giai đoạn 2 (từ
năm 2023 trở đi):
- Cập nhật định kỳ dữ liệu theo Bộ chỉ
số đã thiết lập và duy trì hoạt động thường xuyên của công cụ quản lý, điều
hành. Từng bước tổ chức và triển khai nhập liệu trực tuyến các dữ liệu từ tuyến
cơ sở.
- Thành lập nhóm chuyên gia xây dựng,
phân tích, thiết lập các chỉ số đối với các nhóm lĩnh vực của hệ thống y tế
trên cơ sở các dữ liệu nền đã được thu thập tại Giai đoạn 1; tổ chức các cuộc
điều tra, khảo sát và sử dụng cơ sở dữ liệu điều tra khảo sát khác để thực hiện
việc phân tích, dự báo...Từ đó đưa ra các nhóm chỉ số phân tích, dự báo phục vụ
quá trình ra quyết định của Lãnh đạo Bộ đối với các hoạt động quản lý, điều
hành của hệ thống y tế.
Phần
thứ ba
NỘI
DUNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI
I. NỘI DUNG TRIỂN
KHAI
1. Thiết lập bộ chỉ số theo dõi, đánh
giá quản lý, điều hành hệ thống y tế
Bộ chỉ số được thiết lập trên
cơ sở Khung giám sát hệ thống y tế; kết hợp giữa các chỉ số sẵn có trong nước
và tham khảo các chỉ số báo cáo y tế của Tổ chức Y tế thế giới; với mục tiêu
thiết lập bộ chỉ số cơ bản, toàn diện về các lĩnh vực của hệ thống y tế, phục vụ
công tác chỉ đạo, điều hành.
- Chỉ số đầu vào và quá trình (tài chính y
tế, nhân lực y tế, cơ sở hạ tầng y tế, thông tin y tế, quản trị).
- Chỉ số đầu ra (tiếp cận dịch
vụ y tế và tính sẵn có của hệ thống y tế, chất lượng dịch vụ và tính an toàn của
hệ thống y tế, an ninh y tế).
- Chỉ số kết quả (yếu tố nguy
cơ và hành vi, độ bao phủ của các can thiệp).
- Chỉ số tác động (tình trạng
sức khỏe, bảo vệ tài chính).
Các chỉ số đề xuất bao gồm các số liệu
có sẵn trong hệ thống số liệu hiện tại được Bộ Y tế hoặc các bộ, ngành liên
quan công bố định kỳ; các chỉ số chưa được thu thập trong hệ thống thu thập số
liệu thường kỳ sẽ được tổng hợp, phân tích trên cơ sở các dữ liệu sẵn có hoặc
thông qua các cuộc điều tra, nghiên cứu.
Mỗi năm đánh giá sẽ xác định các ưu tiên và
danh sách các chỉ số có thể thay đổi theo thời gian.
Bên cạnh đó, các chỉ số phục vụ công
tác quản lý, điều hành tại Cơ quan Bộ Y tế cũng sẽ được thiết lập để theo dõi
các tiến độ, quá trình thực hiện bao gồm: tình hình giải quyết thủ tục hành
chính, thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ
giao (Chi tiết tại Phụ lục).
2. Xây dựng Hệ thống thu thập, xử lý
thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý, điều hành hệ thống y tế
- Xây dựng Hệ thống thu thập, xử lý
thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý, điều hành hệ thống y tế từ các nguồn dữ liệu
hiện có bao gồm: Dữ liệu Niên giám thống kê y tế, dữ liệu điều tra, khảo
sát...; dữ liệu từ các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các
đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Y tế (dữ liệu COVID-19, dữ liệu khám chữa bệnh, dữ
liệu y tế dự phòng...) và các nguồn dữ liệu được công bố khác.
- Dữ liệu được nhập trực tiếp qua chức
năng nhập dữ liệu, được cung cấp bởi hệ thống hoặc được kết nối, chia sẻ từ các
hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Việc thu thập, tích hợp dữ liệu
được thực hiện tự động định kỳ (đặt lịch), hoặc theo nhu cầu, hoặc theo thời
gian thực tùy theo tần suất thay đổi của nguồn dữ liệu...
- Hệ thống đảm bảo chức năng hỗ trợ tạo
lập chỉ tiêu, tổng hợp số liệu; có chức
năng báo cáo, xử lý, phân tích số liệu đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành của
Lãnh đạo Bộ, phục vụ việc xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách và phát
triển thông tin y tế. Hệ thống có kiến trúc, thiết kế mở để dễ dàng nâng cấp
đáp ứng sự mở rộng về quy mô, dung lượng lưu trữ dữ liệu. Tuân thủ các quy định
về lưu trữ, an toàn, bảo mật thông tin theo quy định pháp luật.
3. Xây dựng Bảng điều khiển
(Dashboard) quản lý, điều hành thông tin y tế
a) Hình thức: Giao diện Dashboard trực
quan, sinh động thể hiện các thông tin y tế phục vụ quản lý, điều hành.
b) Thông tin dữ liệu:
- Tổng quan về kinh tế xã hội theo đơn
vị hành chính (thể hiện các số liệu về đơn vị hành chính, dân số, diện tích, mật
độ dân số, giới tính...)
- Các số liệu chi tiết theo chỉ số báo
cáo của hệ thống y tế (chỉ số y tế chung và chỉ số thông tin dịch bệnh).
- Thông tin được thể hiện phân cấp
theo từng tuyến, địa phương.
- Thông tin được phân tích theo thời
gian, địa điểm, đối tượng.
c) Tiêu chí kỹ thuật của Dashboard
- Giao diện đồ họa trong đó mô tả chi
tiết cách trình bày các chỉ số phân tích, hướng dẫn chi tiết cách tính toán
(phân tầng theo thời gian, địa điểm, đối tượng và chương trình).
- Minh họa các thao tác tương tác cho
phép xem chi tiết dữ liệu theo đa chiều (phân nhóm theo thời gian, đơn vị hành
chính, đối tượng). Cho phép xem thông tin tổng quan ở các cấp độ hành chính.
Đáp ứng hoạt động đa nền tảng, phù hợp với nhiều kích cỡ màn hình khác nhau.
- Giai đoạn đầu xây dựng tập trung vào
việc thể hiện các chỉ số chính theo từng cấu phần của hệ thống y tế. Giai đoạn
sau cho phép mở rộng tích hợp các thuật toán điều chỉnh (cơ chế tính điểm cho
các cấu phần/trọng số và khả năng dự báo, điều chỉnh/tác động đến các chỉ số của
từng cấu phần và tương tác với các cấu phần còn lại) giúp ra quyết định trong
việc can thiệp và cải thiện hệ thống y tế.
II. GIẢI PHÁP TRIỂN
KHAI
1. Giải pháp về quản lý, điều hành: Xây dựng cơ
chế điều phối để nâng cao hiệu quả phối hợp trong việc quản lý, chia sẻ thông
tin, dữ liệu giữa các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ; tuyến trung ương và địa
phương; giữa ngành y tế với các bộ, ngành, đơn vị liên quan; với các tổ chức quốc
tế.
2. Giải pháp về nguồn nhân lực, tài
chính
a) Rà soát, kiện toàn, bồi dưỡng đội
ngũ làm công tác báo cáo, thống kê tại các cơ sở y tế; huy động đội ngũ chuyên
gia, tình nguyện
viên có chuyên môn công nghệ thông tin, thống kê y sinh học để hỗ trợ thống kê,
phân tích các dữ liệu.
b) Bố trí ngân sách hằng năm của cơ
quan, đơn vị, đồng thời lồng ghép nguồn lực tài chính từ các chương trình, dự
án khác; huy động nguồn kinh phí từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân quan tâm
hỗ trợ.
3. Giải pháp về kỹ thuật: Nâng cấp về
cơ sở hạ tầng, trang thiết bị công nghệ thông tin để đáp ứng với các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật theo yêu cầu; tăng cường công tác bảo đảm an ninh, an toàn,
bảo mật dữ liệu.
4. Giải pháp về truyền thông: Tổ chức phổ
biến, tuyên truyền để nâng cao vai trò, nhận thức, ý nghĩa của việc sử dụng hệ
thống báo cáo trong việc ra quyết định dựa trên bằng chứng; nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của người cung cấp thông tin báo cáo, bảo đảm số liệu cung cấp được
chính xác, kịp thời theo yêu cầu đặt ra.
5. Giải pháp về chính sách: Tiếp tục rà
soát các quy định về sử dụng, báo cáo số liệu thông tin y tế để có các điều chỉnh,
cập nhật, bổ sung phù hợp. Đồng thời, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng
mới các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thông tin báo cáo y tế; bảo đảm
không chồng chéo giữa các quy định đã được ban hành, không phát sinh các nhiệm
vụ mới trong công tác báo cáo, thống kê đối với cùng một loại dữ liệu.
6. Giải pháp khác: Có các đánh
giá, khảo sát định kỳ để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, đánh giá tác động, nhân
rộng các phương pháp, cách làm hiệu quả, đề xuất các giải pháp mới đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Phần
thứ tư
KINH
PHÍ THỰC HIỆN
1. Nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn
ODA, nguồn đóng góp của các nhà tài trợ và các nguồn vốn hợp pháp khác.
2. Các địa phương căn cứ tình hình thực
tế ưu tiên đầu tư nhân lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác
thông tin, báo cáo tại địa phương.
3. Các đơn vị được giao nhiệm vụ thực
hiện Đề án, căn cứ nội dung nhiệm vụ để dự toán kinh phí cụ thể cho việc thực
hiện, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Phần
thứ năm
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Các Vụ, Cục, Tổng cục Dân số và
Thanh tra Bộ
a) Xây dựng Kế hoạch triển khai thực
hiện Đề án gửi Văn phòng Bộ và Cục Công nghệ thông tin để theo dõi, phối hợp
triển khai thực hiện, bảo đảm hiệu quả, đồng bộ với việc thực hiện kế hoạch
công nghệ thông tin hiện có và các kế hoạch khác của đơn vị.
b) Thực hiện cung cấp, kết nối, chia sẻ
thông tin, dữ liệu thuộc lĩnh vực quản lý với Hệ thống thu thập, xử lý thông
tin, dữ liệu phục vụ quản lý, điều hành hệ thống y tế (do Cục Công nghệ thông
tin quản lý); bảo đảm việc cung cấp, kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu thường
xuyên, liên tục, thông suốt; chịu trách nhiệm về tính chính xác của nguồn thông
tin, dữ liệu, tính thống nhất của các thông tin, dữ liệu được cung cấp, kết nối,
chia sẻ.
c) Bố trí kinh phí, nguồn nhân lực, cơ
sở vật chất cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, bảo đảm không chồng
chéo, trùng lặp.
d) Định kỳ trước ngày 01 tháng 12 hằng
năm, báo cáo tình hình, kết quả triển khai Đề án về Văn phòng Bộ và Cục Công
nghệ thông tin để tổng hợp, báo cáo Lãnh đạo Bộ.
2. Văn phòng Bộ
a) Chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ
thông tin xây dựng, trình ban hành Đề án; đánh giá việc triển khai Đề án.
b) Chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ
thông tin, Vụ Kế hoạch - Tài chính và các đơn vị liên quan thiết lập bộ chỉ số
của Đề án.
c) Phối hợp với Cục Công nghệ thông
tin trong việc thiết kế xây dựng công cụ quản lý, điều hành thông tin y tế.
d) Chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ
thông tin huy động lực lượng chuyên gia, tình nguyện viên hỗ trợ xử lý, phân
tích dữ liệu.
2. Cục Công nghệ thông tin
a) Chủ trì, tổ chức triển khai các giải
pháp liên quan đến kỹ thuật công nghệ trong triển khai Đề án; phụ trách hoạt động
liên quan đến quản trị về cơ sở dữ liệu thông tin y tế, bảo đảm an toàn, bảo mật
thông tin.
b) Xây dựng Hệ thống thu thập dữ liệu
tập trung về y tế trên cơ sở
tích hợp dữ liệu từ
các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các đơn vị thuộc, trực
thuộc Bộ Y tế và các đơn vị
liên quan khác.
c) Chủ trì, hướng dẫn các đơn vị thực
hiện kết nối, tích hợp dữ liệu với Hệ thống thu thập dữ liệu tập trung.
d) Phối hợp với Văn phòng Bộ, Vụ Kế hoạch
- Tài chính triển khai các
giải pháp về nguồn lực, kinh phí thực hiện Đề án.
3. Vụ Kế hoạch - Tài chính phối hợp với
Cục Công nghệ thông tin, Văn phòng Bộ rà soát, cập nhật danh mục Bộ chỉ số. Thực
hiện cung cấp, kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu của Niên giám thống kê y tế
và các dữ liệu khác đang quản lý theo quy định. Tham mưu, đề xuất với Lãnh đạo
Bộ về phân bổ nguồn vốn, kinh phí để triển khai thực hiện các dự án, nhiệm vụ
trong Đề án.
4. Cục Y tế dự phòng phối hợp
cung cấp các dữ liệu về lĩnh vực y tế dự phòng được phân công. Phối hợp với Cục
công nghệ thông tin, Văn phòng Bộ trong việc ứng dụng công cụ quản lý thông tin
y tế.
5. Cục Quản lý Khám, chữa bệnh phối hợp
cung cấp các dữ liệu về công tác khám, chữa bệnh được phân công. Phối hợp với Cục
công nghệ thông tin, Văn phòng Bộ trong việc ứng dụng công cụ quản lý thông tin
y tế.
6. Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em phối hợp quản
lý, cung cấp các dữ liệu về sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Phối hợp
với Cục Công nghệ thông tin trong việc ứng dụng công cụ quản lý thông tin y tế
về lĩnh vực sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
7. Viện Chiến lược và chính sách y tế,
Trường Đại học Y Hà Nội, Trường Đại học Y tế Công cộng hỗ trợ các chuyên
gia, tình nguyện viên hỗ trợ hoạt động xử lý, phân tích thông tin, chuyển số liệu
thành thông tin, bằng chứng được
sử dụng trong quá trình xây dựng, hoạch định chính sách.
8. Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
căn cứ nội dung Đề án chủ động bố trí nhân lực, thiết bị, kinh phí triển khai;
chủ trì tổ chức triển khai thống kê các chỉ số về hệ thống thông tin y tế tại địa
phương; tham mưu, đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố bố trí nguồn lực
phù hợp hằng năm để triển khai hoạt động của Đề án trên địa bàn.
9. Y tế bộ ngành và các đơn vị trong
ngành y tế
phối hợp cung cấp dữ liệu thông tin y tế; chủ động bố trí nguồn lực cho việc
triển khai Đề án theo lĩnh vực quản lý.
10. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chỉ đạo các đơn vị y tế
tăng cường công tác báo cáo, thống kê, số hóa dữ liệu, làm cơ sở dữ liệu
chuyên ngành; phân bổ nguồn vốn hợp lý cho việc triển khai công tác báo cáo, thống
kê y tế trên địa bàn.
Phần
thứ sáu
HIỆU
QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Đề án xây dựng Nền tảng quản lý, điều
hành hệ thống y tế phù hợp với định hướng chiến lược của ngành Y tế, với yêu cầu
thực tiễn trong chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ; đồng thời phù hợp với các
quan điểm của WHO trong quản lý, điều hành và phát triển thông tin y tế, góp phần
quan trọng trong việc cung cấp thông tin minh bạch, đầy đủ, kịp thời và chính
xác, hỗ trợ việc ra quyết định và hành động đúng, hiệu quả. Một hệ thống thông
tin y tế tốt không những phục vụ cho việc hoạch định chính sách, quản lý điều
hành, nghiên cứu khoa học, chủ động triển khai các hoạt động theo phương châm
“4 tại chỗ” trong phòng, chống dịch bệnh và các sự kiện y tế công cộng khẩn cấp
mà còn giúp người dân nâng cao nhận thức về chăm sóc sức khỏe bản thân, gia
đình và cộng đồng.
2. Việc đầu tư triển khai Đề án này
mang tính bền vững, lâu dài; phục vụ quản lý, điều hành và tạo điều kiện cho việc
thực hiện chủ trương thống nhất một đầu mối quản lý dữ liệu y tế; hướng đến nền
y tế Việt Nam hiện đại, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế./.