ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 209/BC-UBND
|
Thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2015
|
BÁO CÁO
TỔNG
KẾT, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÒNG, CHỐNG MA
TÚY NĂM 2011 VÀ GIAI ĐOẠN 2012 - 2015 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I. TÌNH HÌNH CHUNG
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn, tập trung
đông dân cư, cùng với sự phát triển về nhiều mặt của tiến trình đổi mới, hội nhập
kinh tế và mở rộng giao lưu quốc tế, quan hệ xã hội và địa bàn hoạt động của từng
cá nhân được mở rộng, theo đó, tình hình hoạt động các loại tội phạm, đặc biệt
là tội phạm và tệ nạn ma túy luôn phát sinh nhiều thách thức mới và tiềm ẩn
nguy cơ, diễn biến phức tạp.
Năm 2011 là thời điểm chuyển tiếp chuẩn bị triển
khai thực hiện Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ và Kế hoạch số 07/KH-UBQG-BCA ngày 11 tháng 01 năm 2013 của Bộ Công
an về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy giai đoạn
2012 - 2015, Thành phố đã phát hiện, xử lý 1.514 vụ (tăng 18,67% so với cùng kỳ
năm trước), bắt 2.849 tên mua bán ma túy, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất
ma túy, thu giữ 10,1kg heroin; 12,38kg và hơn 30 ngàn viên ma túy tổng hợp. Từ
năm 2012 đến nay, Thành phố đã phát hiện 6.107 vụ mua bán, vận chuyển, tàng trữ,
sử dụng trái phép các chất ma túy, xử lý 12.355 đối tượng (tăng 17,99% so với
cùng thời gian trước đó), trong đó thu, giữ hơn 133kg ma túy tổng hợp (tăng hơn
5 lần) và hơn 66 kg heroin (tăng hơn 2,6 lần). Các băng nhóm, đường dây tội phạm
ma túy có liên quan đến tội phạm hình sự và tàng trữ vũ khí hình thành nhanh, tổ
chức mạng lưới linh hoạt nhưng chặt chẽ, cùng lúc buôn bán nhiều loại ma túy chứ
không đơn thuần mua bán chuyên về heroin hoặc ma túy tổng hợp như trước đây.
Nguồn ma túy thẩm lậu vào Thành phố chủ yếu vẫn từ
các tỉnh phía Bắc (Hà Nội, Nghệ An, Hải Phòng...) và tuyến biên giới Tây Nam -
Campuchia. Nổi lên là tội phạm ma túy do người gốc Phi điều hành các đường dây
vận chuyển ma túy trên các tuyến hàng không từ nước ngoài vào Việt Nam và đi nước
thứ ba đang hết sức quan ngại. Mặt khác, tình hình điều chế, sản xuất ma túy tổng
hợp ngay trong địa bàn Thành phố bắt đầu xuất hiện từ năm 2011 và tiếp tục phát
sinh bằng việc chiết xuất tiền chất ma túy từ các loại tân dược, sử dụng công
nghệ đơn giản theo các công thức hóa học trên mạng Internet hoặc sử dụng trực
tiếp tiền chất ma túy Pseudoephedrin, Ephedrin trên thị trường tự do kết hợp với
hóa chất khác để điều chế ma túy tổng hợp, trong khi công tác quản lý tiền chất
ma túy, nhất là tiền chất sử dụng trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập, dẫn đến
việc có dấu hiệu nhập, mua tiền chất để sản xuất thuốc nhưng lại không thấy
tiêu thụ trên thị trường nội địa. Việc mua bán, sử dụng ma túy nhỏ lẻ tại cộng
đồng dân cư, nơi công cộng, vũ trường, quán bar, nhà hàng vẫn còn diễn ra; đặc
biệt là tình trạng số đối tượng sử dụng ma túy ngày càng tăng, phần lớn là
thanh thiếu niên sử dụng ma túy tổng hợp (số người nghiện ma túy tăng bình quân
hàng năm là 11,49%, trong đó: năm 2011 là 13.127 người; năm 2012 là 15.887 người;
năm 2013 là 17.744 người; năm 2014 là 19.213 người và đến tháng 6 năm 2015 là
20.168 người). Tình hình trên luôn đặt ra những thách thức lớn đối với công tác
phòng, chống ma túy nói riêng và công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn Thành phố.
II. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH:
1. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực
hiện:
- Thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1001/QĐ-TTg
ngày 27 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch số 215/KH-BCA-C11
ngày 30 tháng 11 năm 2011 của Bộ Công an và Chương trình hành động số 49-CTr/TU
ngày 08 tháng 4 năm 2009 của Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ban hành Kế hoạch số 3937/KH-UBND ngày 09 tháng 8 năm 2012 về tổ chức thực
hiện “Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và tổ chức Hội nghị cán
bộ chủ chốt để quán triệt và triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo nêu trên;
trong đó, xác định mục tiêu trong giai đoạn 2012 - 2015 là: (1) Phấn đấu đạt
30% số xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy; không có xã, phường, thị trấn
trọng điểm về ma túy loại 1 và loại 2 theo Quyết định 3122/QĐ-BCA; (2) Kiềm chế,
kéo giảm 15% số người nghiện; (3) giảm 10% số người tái nghiện so với năm 2011;
(4) 70% số người nghiện ma túy được phát hiện và quản lý; (5) 65% số người nghiện
ma túy được điều trị cai nghiện và 65% người nghiện ma túy đủ điều kiện được học
nghề; (6) từ 60% đến 65% số trường học phổ thông không có tệ nạn ma túy. Tại Hội
nghị triển khai thực hiện “Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma
túy”, Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận,
huyện ký cam kết về thực hiện các chỉ tiêu phòng, chống tội phạm, tệ nạn ma
túy, mại dâm và xây dựng phường, xã, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn ma túy,
mại dâm theo Kế hoạch đã đề ra.
- Để nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong
phòng, chống tội phạm ma túy và xử lý kiên quyết các loại tệ nạn xã hội, Thành ủy,
Ủy ban nhân dân Thành phố đã chỉ đạo chính quyền quận, huyện, phường, xã, thị
trấn phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể các cấp đẩy mạnh cuộc
vận động “xây dựng xã, phường, thị trấn lành mạnh, không có tệ nạn ma túy”,
phong trào toàn dân tham gia tố giác tội phạm, tích cực hỗ trợ lực lượng chuyên
trách trong công tác kiểm soát ma túy, quản lý, vận động, giáo dục người sau
cai nghiện hoặc đối tượng có nguy cơ cao phát sinh nghiện ma túy tại gia đình,
khu dân cư, trong trường học... nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị
trong công tác đấu tranh chuyển hóa địa bàn, tụ điểm phức tạp về ma túy; kiềm
chế sự gia tăng người nghiện mới, hạn chế tái nghiện.
- Trong quá trình tổ chức thực hiện, căn cứ chỉ đạo
của Ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Ủy
ban nhân dân Thành phố đã triển khai nhiều văn bản chỉ đạo như: Kế hoạch số
3852/KH-UBND ngày 03 tháng 8 năm 2012 về triển khai thực hiện Chương trình hành
động số 26-CTr/TU ngày 20 tháng 6 năm 2012 của Ban Thường vụ Thành ủy về thực
hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”; Quyết định
số 5952/QĐ-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2012 về ban hành Kế hoạch cai nghiện phục
hồi, quản lý sau cai nghiện ma túy từ nay đến năm 2015 trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh; Quyết định số 5928/QĐ-UB ngày 20 tháng 11 năm 2012 về ban hành Kế hoạch
thực hiện việc xã hội hóa Chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc Methadone giai đoạn 2012 - 2015; Quyết định số 6703/QĐ-UB ngày 28
tháng 12 năm 2012 về phê duyệt Đề án “Thí điểm điều trị lệ thuộc ma túy tại cộng
đồng giai đoạn 2012 - 2015”, Quyết định số 6045/QĐ-UBND ngày 12 tháng 12 năm
2014 về việc phê duyệt đề án “Quản lý, cắt cơn, giải độc và tư vấn tâm lý cho
người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định tại các cơ sở cai xã hội trong
thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”,... Thường
xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật phòng, chống ma
túy, chú trọng việc sơ kết, tổng kết thực tiễn và đảm bảo thực hiện nghiêm túc
chế độ báo cáo theo quy định, kịp thời chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tại địa phương; xác định việc thực hiện
công tác phòng, chống ma túy tại các cơ quan, đơn vị là một tiêu chí để đánh
giá chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, bình xét thi đua và khen thưởng
hàng năm; kiên quyết xử lý trách nhiệm người đứng đầu địa phương do thiếu trách
nhiệm để xảy ra tệ nạn ma túy kéo dài hoặc phát sinh thêm trên địa bàn, khen
thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc để đưa công tác
phòng, chống ma túy đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.
2. Công tác tuyên truyền phòng
ngừa tệ nạn ma túy:
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân về phòng, chống
ma túy luôn được tập trung đẩy mạnh và đổi mới cả về nội dung, hình thức và
phương pháp tuyên truyền; kết hợp với công tác đấu tranh chuyển hóa địa bàn,
xây dựng phường, xã, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn ma túy, mại dâm và lồng
ghép với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”; tăng cường phối hợp, ký kết và thực hiện các nghị quyết liên tịch để xây dựng
phong trào trong các tầng lớp nhân dân; chú trọng xây dựng và củng cố lực lượng
nòng cốt làm công tác giữ gìn an ninh trật tự ở địa bàn cơ sở; tập trung xây dựng,
phát triển và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, các hình thức tự quản,
tự phòng ngừa của nhân dân về an ninh trật tự có hiệu quả, kết hợp với phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư... Qua tuyên truyền
vận động, nhân dân đã cung cấp cho cơ quan Công an 85.722 tin có giá trị, giúp
xác minh làm rõ 22.831 vụ việc, bắt giữ và xử lý 33.263 đối tượng, thu hồi tài
sản trị giá trên 56 tỷ đồng. Nhân dân đã vận động 312 đối tượng ra đầu thú,
cung cấp thông tin bắt giữ 622 đối tượng truy nã; trực tiếp bắt 2.337 vụ việc
vi phạm pháp luật với 3.434 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá trên 21 tỷ đồng;
đã xuất hiện nhiều gương quần chúng mưu trí dũng cảm tham gia truy bắt bọn tội
phạm, góp phần vào việc đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn Thành phố. Đã có
2.484 tập thể và 13.752 cá nhân được khen thưởng trong phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc.
Ngoài ra, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Công
an Thành phố phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố chỉ đạo ký kết
kế hoạch liên tịch giữa các ngành tại cấp quận, huyện, phường, xã, thị trấn về
phòng, chống tội phạm và ma túy; triển khai kế hoạch chuyên sâu về phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống ma túy trên địa bàn phường, xã, thị
trấn; quản lý giáo dục đối tượng; thường xuyên củng cố lực lượng an ninh cơ sở,
thành lập lực lượng bảo vệ dân phố tham gia hoạt động tuần tra bảo đảm an ninh
trật tự địa bàn, khu phố; huy động và phân công các ban, ngành, đoàn thể (Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân) tham gia quản lý,
giáo dục đối tượng vi phạm theo Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 12
năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức giáo dục, tập huấn
và tuyên truyền phòng, chống ma túy đến giáo viên, học sinh, sinh viên các trường
học; đẩy mạnh phong trào “Vì mái trường không có ma túy” với nhiều hình thức:
báo cáo chuyên đề về phòng, chống ma túy, tổ chức tham quan các cơ sở cai nghiện,
sản xuất các phim phóng sự, tổ chức viết báo tường, thi vẽ tranh cổ động, dựng
các pano, áp phích tuyên truyền về phòng, chống ma túy... Kết quả đã tổ chức
13.914 cuộc tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên,
hội viên, học sinh, sinh viên, hộ gia đình, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp về
các chủ trương của Nhà nước liên quan đến công tác phòng, chống ma túy và tệ nạn
xã hội, kết hợp tổ chức vận động tham gia tố giác, cung cấp thông tin các loại
tội phạm; vận động nhân dân giao nộp vũ khí, hung khí, vật liệu nổ, vận động
các đối tượng truy nã ra đầu thú và tham gia giữ gìn an ninh trật tự tại cộng đồng
dân cư với 953.829 lượt người tham dự, phát hành 1.204.727 tài liệu tuyên truyền,
lắp đặt 2.127 panô, khẩu hiệu các loại liên quan đến công tác phòng, chống ma
túy, mại dâm ở cộng đồng dân cư. Tổ chức 1.186 cuộc tọa đàm, hội thảo chuyên đề
thông tin về tình hình tội phạm, cách nhận biết các thủ đoạn hoạt động của tội
phạm.
3. Công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm ma túy:
- Với vai trò chủ công, nòng cốt trong công tác
phòng, chống ma túy, Công an Thành phố đã triển khai nhiều kế hoạch phối hợp với
lực lượng Hải quan, Bộ đội Biên phòng Thành phố và các ngành chức năng liên
quan chủ động tăng cường công tác nắm tình hình, tập trung đấu tranh với các đường
dây, tổ chức mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sản xuất trái phép các chất ma túy,
số đối tượng tổ chức chứa chấp sử dụng và sử dụng ma túy; xác minh thu thập tài
liệu các nhóm đối tượng, đường dây nghi vấn mua bán ma túy xuất phát từ các tỉnh
phía Bắc, Tây Nam bộ, các đối tượng Việt kiều và người nước ngoài nhất là người
gốc Châu Phi, Campuchia... Liên tục mở các cao điểm tấn công trấn áp tội phạm
ma túy và tập trung chuyển hóa các địa bàn phức tạp về ma túy; đẩy mạnh công
tác xây dựng phường, xã, thị trấn không có ma túy; huy động lực lượng triển
khai các biện pháp nghiệp vụ để tập trung triệt phá, bóc gỡ các tổ chức đường
dây ma túy lớn.
Kết quả từ năm 2011 đến tháng 5 năm 2015 đã điều
tra khám phá 7.799 vụ (so với thời gian cùng kỳ tăng 2.093 vụ = 36,68%), bắt
15.509 tên (tăng 3.081 tên = 24,798%), trong đó có 6.230 vụ, với 10.376 tên mua
bán, tàng trữ, vận chuyển và 1.569 vụ, với 5.133 tên tổ chức, sử dụng các chất
ma túy. Đã khởi tố 5.492 vụ, với 7.460 tên; xử lý hành chính 2.307 vụ, với
8.049 tên. Thu giữ 76,608kg heroin; 21,544kg cần sa; 1,012kg thuốc phiện;
13,10kg cocain; 146,559kg ma túy tổng hợp; 47,345kg và 36.898 viên ma túy tổng
hợp; 53 khẩu súng, 468 viên đạn các loại, 5.046 xe gắn máy, 8.106 điện thoại di
động, hơn 48 tỷ đồng, 770.000 USD cùng nhiều công cụ, phương tiện phạm tội
khác.
- Cục Hải quan Thành phố chỉ đạo tập trung kiểm tra
nhằm phát hiện hoạt động vận chuyển trái phép ma túy, kiểm tra việc xuất nhập
khẩu tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; đã phát hiện, bắt giữ và
giao Công an Thành phố 44 vụ, với 45 đối tượng, thu giữ trên 20,55kg heroin;
70,39kg Methamphetamin; 15,5 kg Cocain; 47,329kg PSE. Ngoài ra Cục Hải quan
Thành phố còn phát hiện 02 vụ nhập khẩu 02 lô hàng hạt cây anh túc (01 vụ 500
gram hạt cây anh túc nhập qua đường chuyển phát nhanh DHL và 01 vụ 18 tấn hạt
cây anh túc nhập khẩu vào kho Ngoại quan Chi cục Hải quan Cảng Sài Gòn Khu vực
2).
- Bộ đội Biên phòng Thành phố qua công tác nghiệp vụ
đã chủ động thu thập thông tin, tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn quản
lý và tham gia truy quét trên bộ, trên sông, trên biển những địa bàn trọng điểm
tập trung đối tượng nghiện và có dấu hiệu mua bán, tàng trữ trái phép các chất
ma túy, qua đó đã xác lập và khám phá 01 chuyên án, bắt khởi tố 01 đối tượng
chuyển Công an huyện Cần Giờ thụ lý; phát hiện và xử lý 09 vụ, với 15 đối tượng
có hành vi mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy.
4. Công tác quản lý, xử lý người
nghiện ma túy:
a) Công tác rà soát người nghiện:
Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2015, trên địa bàn
Thành phố có 20.168 người nghiện ma túy, tăng 4,97% so với năm 2014 và tăng
53,64% so với năm 2011. Qua phân tích số liệu trên cho thấy, số người nghiện thống
kê tại địa bàn Thành phố có những đặc điểm như sau:
- Trong cơ cấu người nghiện ma túy hiện hành, tỷ lệ
nam giới chiếm tỷ lệ 89,44%; số người nghiện trong độ tuổi từ 18 trở lên chiếm
tỷ lệ 96,81%; số người nghiện không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn
định chiếm tỷ lệ 75,48%. về thành phần chỉ có 18,02% người nghiện là học sinh,
sinh viên, cán bộ, công nhân; 67,49% người nghiện đã bị xử lý hành chính về ma
túy hoặc có tiền án các tội về ma túy. Số tái nghiện là 14.948 người, chiếm
77,8% tổng số người nghiện, trong đó số đã cai nghiện một lần chiếm 55,16%, lần
thứ hai chiếm 18,13%, lần thứ ba chiếm 3,05% và lần thứ tư trở lên chiếm 1,13%.
Từ cơ cấu người nghiện cho thấy đa số người ma túy là những người không có việc
làm ổn định, là người lao động tự do không có thu nhập ổn định và chính đáng,
có tiền án, tiền sự về ma túy nên dễ bị lôi kéo và có nguy cơ tha hóa, vi phạm
pháp luật hình sự.
- Tỷ lệ người có nhân khẩu thường trú từ các tỉnh,
thành phố khác hoặc có nhân khẩu thường trú tại Thành phố nhưng không cư trú
thường xuyên tại nơi thường trú hoặc không có nơi cư trú nhất định chiếm hơn
60%, làm cho công tác quản lý rất khó khăn, nhất là trong điều kiện công tác quản
lý nhà nước về trật tự xã hội còn nhiều bất cập.
- Số người nghiện ma túy được phát hiện, quản lý và
điều trị chủ yếu là người nghiện sử dụng heroin, chiếm tỷ lệ 78,73%; số người
nghiện ma túy tổng hợp chiếm tỷ lệ 17,58%; còn lại là người nghiện các loại ma
túy khác. Đây là số liệu phân tích tương đối do có xu hướng người nghiện sử dụng
cùng thời gian nhiều loại ma túy và phương thức sử dụng tùy thuộc vào nguồn
cung và điều kiện cụ thể.
- Trong những năm gần đây, lượng ma túy tổng hợp
thu giữ của các cơ quan chức năng ngày càng tăng (bình quân trong 05 năm gần
đây tăng 85%) và phân tích dựa trên sai lệch tỷ lệ cai nghiện ma túy tổng hợp tự
nguyện và cai nghiện ma túy tổng hợp bắt buộc cho thấy khả năng sót lọt người
nghiện, nhất là nghiện ma túy tổng hợp còn rất cao.
- Qua thống kê cho thấy, thực trạng người nghiện phạm
tội chiếm tỷ lệ cao trong thành phần đối tượng gây án, nhất là các loại án xâm
phạm tài sản (trộm cắp, cướp giật...); đáng chú ý xảy ra một số vụ án giết người
do đối tượng nghiện ma túy tổng hợp, có dấu hiệu loạn thần gây ra, điển hình
như: vụ Nguyễn Quang Mạnh đột nhập vào nhà chị Lê Mỹ Nguyệt lấy trộm tài sản,
chị Nguyệt phát hiện, tri hô đã bị tên Mạnh dùng dao đâm nhiều nhát làm chị
Nguyệt tử Vong (xảy ra ngày 04 tháng 10 năm 2013 tại Phường 7, Quận 10); hoặc vụ
Đặng Văn Tuấn sau khi sử dụng ma túy đá cùng với chị Bùi Thị Mỹ Hạnh đã giết chết
nạn nhân rồi phân xác đưa đi phi tang (xảy ra ngày 28 tháng 9 năm 2014 tại Quận
1).
b) Công tác lập hồ sơ quản lý người nghiện:
- Đã xác lập hồ sơ đối với 5.126 lượt người nghiện
đưa vào quản lý giáo dục tại địa phương theo Nghị định số, 163/2003/NĐ-CP của
Chính phủ (năm 2011 là 1.266 lượt người; năm 2012 là 1.334 lượt người; năm 2013
là 1.994 lượt người; năm 2014 là 532 lượt người). Lập hồ sơ đưa 14.105 lượt người
nghiện đưa đi chữa bệnh bắt buộc theo Nghị định số 135/2004/NĐ-CP và Nghị định
số 221/20013/NĐ-CP của Chính phủ (năm 2011 là 4.411 lượt người; năm 2012 là
5.527 lượt người; năm 2013 là 4.167 lượt người). Riêng năm 2014 chưa triển khai
thực hiện việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định mới của Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 do chưa có văn bản hướng dẫn của ngành tư pháp cũng như các điều
kiện đảm bảo vệ nhân lực, vật lực của chính quyền Thành phố.
Thực hiện Nghị quyết số 77/2013/QH13 ngày 10 tháng
11 năm 2014 của Quốc hội và Công văn số 2298/TTg-KGVX ngày 14 tháng 11 năm 2014
của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy, Ủy ban nhân dân Thành phố đã thành
lập 03 cơ sở xã hội để tổ chức quản lý, điều trị nghiện (với quy mô điều trị
2,500 người) và chỉ đạo mở đợt cao điểm kiểm tra, xử lý người nghiện ma túy
không có nơi cư trú ổn định. Qua hơn 06 tháng - thực hiện (từ ngày 05 tháng 12
năm 2014 đến ngày 30 tháng 6 năm 2015), Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn đã
ban hành 4.246 quyết định đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định
vào các cơ sở xã hội để quản lý, cắt cơn giải độc và tư vấn tâm lý. Tòa án nhân
dân các quận, huyện đã ra 2.667 quyết định áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc (chiếm 62,81% số người đưa vào cơ sở xã hội); hiện đã đưa
2.517 người nghiện ma túy thi hành quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc, chiếm tỷ lệ 94,38% so với số người
có quyết định áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Tỷ lệ người nghiện bị áp dụng các biện pháp cai
nghiện theo quy định so với tổng số người nghiện bình quân hàng năm chiếm
52,66%, trong đó:
Số người nghiện ma túy (gốc Opiat) tham gia chương
trình hàng năm đều tăng cụ thể năm 2010 là 872 người; năm 2011 là 1.185 người;
năm 2012 là 1.335 người; năm 2013 là 1.446 người; năm 2014 là 1.998 người và 6
tháng đầu năm 2015 là 2.276 người. Số bệnh nhân tham gia điều trị bằng thuốc
Methadone đã tuân thủ quy trình điều trị, có chuyển biến tích cực về tâm lý, sức
khỏe ổn định, tỷ lệ heroin trong nước tiểu của các bệnh nhân ở giai đoạn duy
trì giảm cho thấy điều trị bằng thuốc Methadone có hiệu quả trong việc chống
tái sử dụng heroin và các chất dạng thuốc phiện. Chương trình đã nhận được sự
quan tâm đồng thuận cao của các cấp chính quyền và nhân dân Thành phố. Thành phố,
ngày càng tạo được sự tin tưởng, thu hút người nghiện các chất dạng thuốc phiện.
5. Công tác đấu tranh chuyển
hóa địa bàn, tụ điểm:
Với vai trò nòng cốt trong công tác phòng chống ma
túy, lực lượng Công an Thành phố đã chủ động rà soát, xác định 147 tuyến, địa
bàn, tụ điểm, điểm phức tạp, về ma túy và phối các ban, ngành, đoàn thể có liên
quan tập trung đấu tranh chuyển hóa 101 địa bàn, tụ điểm, đạt tỷ lệ 68,7%. Qua
đó đã điều tra, khám phá 1.271 vụ, bắt khởi tố 1.138 bị can; xử lý hành chính
1.173 đối tượng, góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh, chuyển hóa các tụ
điểm phức tạp về mua bán, sử dụng ma túy. Tuy nhiên, kết quả phân loại 322 phường,
xã, thị trấn (24 quận, huyện) theo tiêu chí quy định tại Quyết định số
3122/2010/QĐ-BCA của Bộ Công an trong các năm 2011 - 2013 có xu hướng gia tăng
từ địa bàn ít phức tạp lên địa bàn phức tạp với mức độ cao hơn. Đặc biệt, năm
2014 sau khi tổng rà soát, thống kê người nghiện trên địa bàn Thành phố với số
người nghiện gia tăng đột biến nên số địa bàn trọng điểm về ma túy gia tăng cao
hơn; một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do có nhiều tiêu chí
đánh giá, phân loại khác nhau nên việc đánh giá, phân loại địa bàn còn khác
nhau, không thống nhất và chưa sát với thực trạng địa bàn. Tính chất địa bàn, tụ
điểm phức tạp về ma túy chủ yếu được hình thành tại các khu vực giải tỏa, các
khu nhà tạm bợ trong khu dân cư, khu vực có nhiều hẻm nhỏ, chằng chịt, khu lấn
chiếm kênh rạch, khu vực phức tạp này để hoạt động, dễ đối phó với lực lượng chức
năng truy bắt; trong khi đó công tác phòng, chống ma túy có lúc, có nơi còn thiếu
đồng bộ (vẫn từ 02 vấn đề cơ bản là triệt xóa hoặc đẩy đuổi tạm thời người nghiện
cầu và tội phạm cung ma túy), chưa được triển khai thường xuyên, liên tục nên kết
quả giải quyết tại một số tụ điểm phức tạp không triệt để, thiếu lực lượng chốt
giữ sau khi chuyển hóa nên tình hình mua bán, sử dụng ma túy vẫn tái diễn, mặc
dù đã phát hiện xử lý nhiều vụ, nhiều đối tượng vi phạm pháp luật, nhất là các
tụ điểm phức tạp có quy mô lớn, tồn tại nhiều năm qua như: hẻm 290 Phường 12,
Quận 8 (hầu hết các hộ gia đình đều có liên quan về ma túy) hoặc khu vực cầu vượt
An Sương là địa bàn giáp ranh địa giới hành chính các Quận 12, quận Tân Bình và
huyện Hóc Môn.
6. Công tác kiểm tra, xử lý trồng
cây có chứa chất ma túy:
Do không phải là địa bàn trọng điểm có người dân và
diện tích đất nông nghiệp có tập quán trồng cây có chất ma túy để sinh nhai nên
diễn biến tình hình này tại địa bàn Thành phố không phức tạp. Từ năm 2011 đến
nay, qua kiểm tra, rà soát đã phát hiện 02 trường hợp trồng cây cần sa cụ thể:
năm 2012 phát hiện 01 trường hợp trồng cây cần sa tại ấp Vườn Trầu, xã Phước Thạnh,
huyện Củ Chi với trọng lượng 33,5 kg tươi (28kg thân cây và 5,5kg gốc cây), năm
2014 phát hiện 01 trường hợp trồng cây cần sa tại phường Hiệp Bình Chánh, quận
Thủ Đức với số lượng 37 cây; kết quả đã xử lý tiêu hủy theo quy định. Việc trồng
cây cần sa chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu nghiện của cá nhân hoặc làm dược liệu.
Hàng năm, Ủy ban nhân dân Thành phố tiếp tục chỉ đạo
các Sở - ngành liên quan và Ủy ban nhân dân 24 quận, huyện theo chức năng, nhiệm
vụ được giao tăng cường công tác tuyên truyền vận động, tổ chức kiểm tra, quản
lý chặt chẽ, kịp thời phát hiện, xóa bỏ việc trồng và tái trồng cây có chứa chất
ma túy.
7. Quan hệ hợp tác quốc tế
trong phòng, chống ma túy:
Thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế, Thành
phố đã tập trung chỉ đạo triển khai các hoạt động thu hút nguồn tài trợ, tiếp
nhận hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật, kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế, thực hiện
các dự án hợp tác quốc tế trên lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS, các Chương trình
can thiệp giảm tác hại trên nhóm nghiện chích ma túy, Chương trình hỗ trợ điều
trị nghiện ma túy và Chương trình điều trị Methadone. Được sự hỗ trợ kỹ thuật,
kinh phí từ Quỹ cứu trợ khẩn cấp của Mỹ, Ngân hàng Thế giới, Bộ Phát triển quốc
tế Vương quốc Anh, Thành phố đã triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, tổ
chức đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật cho đội
ngũ cán bộ các cấp, xây dựng mạng lưới giáo dục viên đồng đẳng, tập huấn chuyên
môn cho lực lượng cán sự xã hội tình nguyện, cán bộ phụ trách phòng, chống ma
túy tại phường, xã, thị trấn. Hàng năm, tiếp cận và phân phát miễn phí hơn 02
triệu bơm kim tiêm sạch cho các đối tượng nghiện chích ma túy trong cộng đồng,
kéo giảm tỷ lệ nhiễm HIV trên nhóm nghiện chích ma túy (năm 2012 tiếp cận 8.344
lượt người nghiện; năm 2013 tiếp cận 8.378 lượt người nghiện; năm 2014 tiếp cận
9.639 lượt người nghiện và 6 tháng đầu năm 2015 tiếp cận 8.616 lượt người nghiện).
Ngoài ra, để tăng cường công tác đối ngoại và hợp
tác quốc tế của lực lượng Công an nhân dân trong tình hình mới, Công an Thành
phố tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện các hiệp định hợp tác của Bộ Công an
đã ký kết với Bộ Công an các nước về chống tội phạm qua biên giới, các ký kết hợp
tác về hỗ trợ tư pháp, trao đổi kinh nghiệm đào tạo với các nước. Trong thời
gian qua, Thành phố đã tiếp đón trên 50 đoàn khách quốc tế, gồm: Bộ Công an
Lào, Trung Quốc, Công an Campuchia và Tổng lãnh sự, các nhân viên an ninh, đại
diện Văn phòng Cảnh sát của các nước (Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore...) đến thăm và làm việc, trao đổi kinh nghiệm trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức...
qua đó phối hợp, chia sẻ thông tin, học tập kinh nghiệm và tìm hiểu các phương
tiện khoa học kỹ thuật phục vụ cho hoạt động phòng, chống ma túy.
8. Công tác quản lý, sử dụng
kinh phí thực hiện chương trình:
Từ năm 2011 - 2015, nguồn kinh phí thực hiện chương
trình quốc gia phòng, chống ma túy do Trung ương cấp và Quỹ phòng, chống tội phạm
kết dư là 71,479 tỷ đồng (năm 2011 là 12 tỷ đồng; năm 2012 là 17 tỷ đồng; năm
2013 là 24,679 tỷ đồng; năm 2014 là 8,9 tỷ đồng và năm 2015 là 8,9 tỷ đồng),
trong đó kinh phí phân bổ cho công tác cai nghiện là 7,460 tỷ đồng, chiếm
10,41% nguồn kinh phí do Trung ương cấp (không kể chi phí điều trị thay thế bằng
kinh phí phòng, chống HIV/AIDS và chi sự nghiệp, đầu tư từ ngân sách Thành phố).
Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao Công an Thành phố
(Thường trực Ban Chỉ đạo 138/TP) là đầu mối quản lý, đề xuất phân bổ kinh phí
cho các Sở - ngành, Đoàn thể liên quan và Ủy ban nhân dân các quận, huyện sử dụng
trong công tác đấu tranh phòng, chống ma túy gồm: công tác đấu tranh chuyển hóa
địa bàn; công tác tuyên truyền vận động nhân dân; công tác cai nghiện ma túy,
truy tìm các đối tượng trốn trường, trung tâm cai nghiện; công tác tổ chức, quản
lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người nghiện và sau cai nghiện...Trong
thời gian qua, việc quản lý và sử dụng Quỹ đảm bảo tiết kiệm, chặt chẽ, đúng
nguyên tắc, mục đích và đúng chế độ, phục vụ có hiệu quả cho các hoạt động
phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ chí Minh.
Tuy nhiên, trước thực trạng tội phạm và tệ nạn ma
túy vẫn diễn biến ngày càng phức tạp, số lượng người nghiện ma túy nhiều và có
xu hướng gia tăng, địa bàn trọng điểm về ma túy (theo tiêu chí quy định tại Quyết
định số 3122/2010/QĐ-BCA của Bộ Công an) có chiều hướng tăng đều hàng năm từ địa
bàn có độ phức tạp thấp lên địa bàn phức tạp cao hơn, nhưng nguồn kinh phí từ
Trung ương cấp về địa phương thực hiện các dự án của Chương trình mục tiêu quốc
gia phòng, chống ma túy lại giảm nên không đảm bảo yêu cầu triển khai thực hiện
các dự án của Chương trình.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM:
1. Đánh giá chung:
Quán triệt chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực
hiện các dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy trong
giai đoạn 2012 - 2015, Ủy ban nhân dân Thành phố (Ban Chỉ đạo 138/TP) đã tập
trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp, huy động được sức mạnh tổng
hợp của toàn hệ thống chính trị trong công tác phòng, chống và kiểm soát ma
túy; đã phát hiện, ngăn chặn, triệt phá nhiều tổ chức, đường dây mua bán, vận
chuyển trái phép các chất ma túy có quy mô lớn, tính chất và mức độ nghiêm trọng;
xử lý nhiều vụ mua bán lẻ ma túy tại địa bàn dân cư. Những vấn đề mới phát
sinh, phương thức thủ đoạn mới về tội phạm và tệ nạn ma túy phần lớn xuất hiện
đầu tiên tại Thành phố và được nhanh chóng phát hiện, kịp thời có biện pháp giải
quyết nên hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy ngày càng
được nâng cao; góp phần quan trọng trong việc tăng cường quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội, kiềm chế sự gia tăng tội phạm ma túy và người nghiện ma túy;
giải quyết có hiệu quả các địa bàn, tụ điểm phức tạp về ma túy. Tuy nhiên,
thách thức lớn nhất hiện nay là xu hướng tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng
ma túy tổng hợp ngày càng gia tăng cùng với thực trạng người nghiện ma túy tổng
hợp cũng ngày càng tăng; vì vậy một số chỉ tiêu đề ra chưa đạt yêu cầu (như 30%
số xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy; không có xã, phường, thị trấn
trọng điểm về ma túy loại 1 và loại 2 theo Quyết định 3122/2010/QĐ-BCA ; kiềm chế,
kéo giảm 15% số người nghiện; giảm 10% số người tái nghiện so với năm 2011);
trong khi đó, công tác phòng ngừa, đấu tranh và kiểm soát ma túy tại Thành phố
Hồ Chí Minh còn bộc lộ những hạn chế và khó khăn, vướng mắc sau đây:
- Tình trạng sử dụng ma túy trong cơ sở kinh doanh
dịch vụ và tại địa bàn dân cư vẫn còn nhiều; công tác phối hợp lập hồ sơ quản
lý đối tượng nghiện ma túy theo các Nghị định của Chính phủ hiệu quả chưa cao,
còn nhiều đối tượng nghiện chưa được phát hiện và chưa có hồ sơ quản lý. Công
tác cai nghiện ma túy tại gia đình, tại cộng đồng hiệu quả thấp và tỷ lệ tái
nghiện cao. Công tác đấu tranh chuyển hóa địa bàn trọng điểm về ma túy có lúc,
có nơi chưa quyết liệt, triệt để; tại một số tụ điểm tình hình mua bán, sử dụng
ma túy vẫn tái diễn.
- Trước thực trạng nhu cầu sử dụng trái phép loại
ma túy tổng hợp ngày càng gia tăng, nhất là trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ
nhạy cảm như: nhà hàng, vũ trường, khách sạn, nhà trọ, nhà cho thuê... trong
khi đó công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này còn nhiều sơ hở, bất cập,
có lúc còn buông lỏng, chính là điều kiện thuận lợi để tội phạm buôn bán và sử
dụng ma túy tổng hợp gia tăng hoạt động; trong khi đó hiệu quả công tác cai
nghiện, quản lý sau khi hoàn thành cai nghiện nhìn chung chưa cao và đặc biệt
là chưa có phác đồ điều trị nghiện ma túy tổng hợp đang có nguy cơ gia tăng sử
dụng ngày càng nhiều.
- Người sau cai nghiện về địa phương vẫn còn hạn chế
sức khỏe, học vấn, tay nghề... Hoạt động câu lạc bộ, đội nhóm chưa thực sự thu
hút người sau cai nghiện tích cực tham gia, khó khăn về kinh phí, khó khăn
trong giới thiệu cho vay vốn, không có kế hoạch kinh doanh cụ thể, chỗ làm việc,
dạy nghề... tất cả những yếu tố trên là những trở ngại, cần sự chung tay vào cuộc
mạnh mẽ các Sở - ngành liên quan để làm tốt công tác quản lý sau cai nghiện hiện
nay của địa phương.
- Do tâm lý ngán ngại, sợ trả thù nên vẫn còn một bộ
phận nhân dân thụ động trong tham gia tố giác tội phạm ma túy. Mặt khác, do nhận
thức, do hoàn cảnh gia đình, do trình độ văn hóa của một bộ phận dân cư, nhất
là số thanh thiếu niên còn hạn chế dẫn đến nghiện ngập, trong khi đó sự quản
lý, giám sát của các cơ quan chức năng tại địa phương và gia đình, nhà trường
có lúc, có nơi còn lỏng lẻo, chưa thường xuyên, kịp thời.
2. Bài học kinh nghiệm:
- Phòng, chống và kiểm soát ma túy là nhiệm vụ vừa
cấp bách, vừa thường xuyên, liên tục và lâu dài, vì vậy thực tiễn cho thấy nơi
nào có sự quyết tâm, tập trung chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền sẽ quy
tụ được mọi thành phần trong xã hội tham gia, tạo thành một mặt trận rộng lớn
trong phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy, thì ở nơi đó công tác phòng ngừa
và đấu tranh chóng tội phạm và tệ nạn ma túy có chất lượng và đạt hiệu quả cao.
- Tăng cường xây dựng và củng cố các lực lượng nòng
cốt trong sạch, vững mạnh có tâm huyết, đạo đức, yêu ngành và thật sự có trách
nhiệm trên mọi lĩnh vực công tác; tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đeo bám
trong tổ chức thực hiện, tập trung giải quyết các vấn đề có trọng tâm, trọng điểm
cả trước mắt và lâu dài, không chùn bước trước những khó khăn, thách thức sẽ tạo
thành một mặt trận rộng lớn trong đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn ma
túy.
IV. ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH GIAI ĐOẠN
2016 - 2020 VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Dự báo tình hình:
Tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy tại Thành phố Hồ
Chí Minh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Theo số liệu thống kê tính đến nay thì
tại Thành phố có 7.756 người nghiện đang cai nghiện tại cơ sở chữa bệnh và có
12.412 người nghiện đang sinh sống trong cộng đồng dân cư; đáng chú ý là tình
trạng mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng ma túy tổng hợp gia tăng cao. Dự
báo trong những năm tới, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục là địa bàn trọng điểm
tiêu thụ ma túy. Mặt khác, do là đầu mối giao thông, giao lưu quốc tế và khu vực
nên Thành phố còn là địa bàn trung chuyển ma túy ra nước ngoài hoặc đến nước thứ
ba. Sẽ xuất hiện những tổ chức đường dây mua bán, vận chuyển ma túy với số lượng
lớn; tình hình quản lý tiền chất còn nhiều bất cập là điều kiện để tội phạm lợi
dụng, việc chiết xuất tiền chất từ tân dược để xuất đi nước khác cũng như sản
xuất ma túy tổng hợp trong nội địa với quy mô lớn; nhiều loại ma túy sẽ xuất hiện
trên thị trường do nhu cầu ngày càng đa dạng; yếu tố liên kết với nước ngoài sẽ
ngày càng rõ nét (kể cả về phạm vi và quy mô). Thực trạng nêu trên sẽ là một
thách thức không nhỏ, vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài đối với chính
quyền Thành phố cũng như các quận, huyện, phường, xã, thị trấn và trách nhiệm của
các cơ quan chuyên trách phòng, chống ma túy.
2. Đề xuất phương hướng, nhiệm vụ trong thời
gian tới:
a) Giải pháp trước mắt:
- Đầu tư hợp lý nguồn kinh phí cho những địa phương
là địa bàn trọng điểm, phức tạp để tiếp tục nâng cao hiệu quả triển khai thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy, trong
đó trọng tâm là 3 chương trình: Dự án “xây dựng xã, phường lành mạnh, không có
tệ nạn ma túy”, Dự án “Thông tin, tuyên truyền phòng, chống ma túy và giám sát
thực hiện Chương trình” và Dự án “Nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy,
quản lý sau cai nghiện và nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các bài thuốc,
phương pháp y học trong điều trị và phục hồi chức năng cho người nghiện ma
túy”.
- Kiện toàn lại hệ thống tổ chức các cơ quan giám định
ma túy và các điều kiện đảm bảo đáp ứng ngay yêu cầu, nhiệm vụ điều tra, xử lý
tội phạm tại các địa phương, nhất các địa bàn trọng điểm.
- Tập trung giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất
cập trong triển khai thực hiện các Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 09 tháng 9
năm 2010 quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy
tại cộng đồng; Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 quy định
chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và
Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế
độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
b) Giải pháp về chính sách, pháp luật:
Đổi mới chính sách, pháp luật đối với người nghiện
ma túy theo hướng không phân định đối tượng nghiện “không có nơi cư trú ổn
định”, vì thực tiễn cho thấy người nghiện hầu hết đều có đăng ký nơi
thường trú nhưng thực tế do nhiều lý do khác nhau mà họ thường xuyên thay đổi
nơi cư trú và việc phân định nơi cư trú nhằm để tăng cường quản lý nhưng việc
xác định cụ thể thế nào là không có nơi cư trú ổn định rất khó khăn, không nhất
quán, không chính xác. Khi phát hiện người có hành vi sử dụng trái phép ma túy
trong trường hợp không phân định đối tượng nghiện “không có nơi cư trú ổn
định” thì có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền và
buộc cam kết tự chấm dứt sử dụng trái phép các chất ma túy hoặc tự cai nghiện
ma túy (đã có hồ sơ quản lý); nếu trong thời hạn quy định mà phát hiện tiếp tục
vi phạm (tái phạm) thì áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Ngoài ra, không cần
áp dụng biện pháp “giáo dục tại xã, phường, thị trấn” đối với người
sử dụng trái phép ma túy, vì thực tế không thể quản lý chặt chẽ và cũng không
nên để người vi phạm có một khoảng thời gian dài có điều kiện tiếp tục sử dụng
ma túy (thời gian bị áp dụng biện pháp giáo dục) và mức độ lệ thuộc ma túy sẽ
ngày càng cao hơn. Hơn nữa, vấn đề này lại không phù hợp với quan điểm cần can
thiệp sớm đối với người sử dụng ma túy./.
Nơi nhận:
- UBQG PCAIDS và PCTNMTMD;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Công an;
- Cục C41 - Bộ Công an;
- Thường trực Thành ủy;
- Thường trực HĐND Thành phố;
- TTUB: CT, các PCT;
- Văn phòng Thành ủy;
- Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND. TP;
- Thành viên Ban Chỉ đạo 138/TP;
- UBNĐ các quận - huyện;
- VPUB: CPVP;
- Phòng VX, PCNC, THKH;
- Lưu: VT, (VX-TC)
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Hứa Ngọc Thuận
|
PHỤ LỤC SỐ LIỆU
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÒNG,
CHỐNG MA TÚY TỪ NĂM 2011 - 2015
(Ban hành kèm theo Báo cáo số 209/BC-UBND ngày 20 tháng 8 năm 2015 của Ủy
ban nhân dân Thành phố)
1. Kết quả đấu tranh, xử lý tội phạm về ma túy:
Năm
|
Số vụ
|
Tăng/giảm
|
Số đối tượng
|
Tăng/giảm
|
Số tụ điểm bị triệt xóa
|
Vật chứng
|
Hêroin (g)
|
Thuốc phiện (g)
|
MTTH (g)
|
Cần sa (g)
|
Ma túy khác (g)
|
2010
|
1.365
|
|
2.734
|
|
3
|
6.174,9193
|
0,0
|
4.355,1994
|
0,0
|
|
2011
|
1.692
|
327
(23,96%)
|
3.154
|
420
(13,32%)
|
7
|
10.522,5971
|
0,0
|
13.194,0744
|
1.703,9812
|
|
2012
|
1.723
|
31
(1,83%)
|
3.425
|
271
(8,59%)
|
1
|
9.916,7703
|
,1012,0
|
18.925,6158
|
1.396,4511
|
|
2013
|
1.885
|
162
(9,40%)
|
3.950
|
525
(15,33%)
|
|
20.868,7451
|
0,0
|
22.252,4799
|
8.383,4779
|
|
2014
|
1.662
|
-223
(11,83%)
|
3.350
|
-600
(15,19%)
|
10
|
27.046,2865
|
0,0
|
39.382,8354
|
9.921,8202
|
13.000
|
6 tháng năm 2015
|
837
|
6
(0,72%)
|
1.630
|
-45
(2,69%)
|
|
8.253,7246
|
0,3302
|
52.803,6341
|
138,4246
|
|
2. Thống kê số lượng người nghiện ma túy trên địa
bàn Thành phố:
Năm
|
Số lượng
|
Tăng (giảm)
|
Nghiện mới
|
Tái nghiện
|
Hoàn thành thời gian quản lý sau cai nghiện
|
Chết
|
Độ tuổi
|
Thành phần
|
>30
|
<30
|
Có việc làm
|
Không việc làm
|
Học sinh, sinh viên
|
2010
|
11.042
|
|
|
860
|
|
27
|
|
|
|
|
|
2011
|
13.127
|
2.085
|
|
1.126
|
256
|
97
|
6.039
|
7.088
|
7.778
|
5.251
|
98
|
2012
|
15.887
|
2.760
|
|
1.406
|
652
|
213
|
6.991
|
8.896
|
9.114
|
6.672
|
101
|
2013
|
17.744
|
1.857
|
|
1.215
|
1.152
|
273
|
8.443
|
9.301
|
9.208
|
8.431
|
105
|
2014
|
19.213
|
1.469
|
10.139
|
536
|
1.491
|
364
|
8.337
|
10.876
|
11.315
|
7.685
|
213
|
6 tháng năm 2015
|
20.168
|
955
|
375
|
243
|
|
|
8.298
|
11.870
|
12.639
|
7.354
|
175
|
3. Kết quả cai nghiện và quản lý sau cai nghiện:
Năm
|
Số người cai nghiện tại trung tâm
|
Số người cai nghiện tại cộng đồng
|
Được dạy nghề (%)
|
Số người được quản lý sau cai
|
Kế hoạch
|
Bắt buộc
|
Tự nguyện
|
Thực tế
|
Kế hoạch
|
Thực tế
|
Gia đình
|
Khác
|
2010
|
8.000
|
6.088
|
883
|
87%
|
|
|
|
|
|
|
2011
|
10.000
|
8.299
|
801
|
90%
|
|
|
|
|
68,11%
|
2.054
|
2012
|
10.000
|
7.827
|
767
|
85,94%
|
|
|
|
|
71,37%
|
2.655
|
2013
|
10.000
|
9.010
|
576
|
95,86%
|
|
|
|
|
67,39%
|
3.177
|
2014
|
10.000
|
5.428
|
950
|
63,78%
|
|
|
|
|
65,57%
|
3.588
|
6 tháng năm 2015
|
10.000
|
5.429
|
979
|
64,08%
|
1.393
|
444
|
247
|
197
|
66,63%
|
3.808
|
4. Kết quả phân loại phường, xã, thị trấn trọng
điểm về ma túy:
Năm
|
Địa bàn có ma túy/Tổng số
|
Trọng điểm loại I
|
Trọng điểm loại II
|
Trọng điểm loại III
|
Có ma túy (ít phức tạp)
|
Số lượng
|
Tăng/giảm
|
Số lượng
|
Tăng/giảm
|
Số lượng
|
Tăng/giảm
|
Số lượng
|
Tăng/giảm
|
Số lượng
|
Tăng/giảm
|
2010
|
318/322
|
|
2
|
|
15
|
|
95
|
|
206
|
|
2011
|
320/322
|
2
|
4
|
2
|
12
|
-3
|
133
|
62
|
171
|
-35
|
2012
|
319/322
|
-1
|
5
|
1
|
35
|
23
|
164
|
31
|
115
|
-56
|
2013
|
318/322
|
-1
|
3
|
-2
|
33
|
-2
|
140
|
-24
|
142
|
27
|
2014
|
319/322
|
1
|
13
|
10
|
34
|
1
|
169
|
29
|
103
|
39
|
5. Tình hình quản lý, sử dụng kinh phí chương
trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy:
Năm
|
Dự án
|
Đơn vị thực hiện
|
Ngân sách Trung ương (đồng)
|
Ngân sách Địa phương (đồng)
|
Đầu tư
|
Sự nghiệp
|
Đầu tư
|
Sự nghiệp
|
2011
|
Dự án 4
|
Công an Thành phố
|
|
8.370.000.000
|
|
|
Phục vụ đấu tranh
phòng, chống ma túy
|
Công an Thành phố
|
|
3.251.069.000
|
|
|
Dự án 6
|
Công an Thành phố
|
|
2.250.000.000
|
|
|
Tổng
|
|
|
12.000.000.000
|
|
2.371.069.152
|
2012
|
Dự án 4
|
Công an Thành phố
|
|
12.715.000.000
|
|
|
Phục vụ đấu tranh
phòng, chống ma túy
|
Công an Thành phố
|
|
3.706.069.000
|
|
|
Dự án 6
|
Công an Thành phố
|
|
2.370.000.000
|
|
|
Tổng
|
|
|
17.000.000.000
|
|
2.371.069.152
|
2013
|
Dự án 4
|
Công an Thành phố
|
|
15.085.000.000
|
|
|
Phục vụ đấu tranh
phòng, chống ma túy
|
Công an Thành phố
|
|
3.324.000.000
|
|
|
Dự án 6
|
Công an Thành phố
|
|
3.790.000.000
|
|
|
Tổng
|
|
|
24.679.000.000
|
|
|
2014
|
Dự án 4
|
Công an Thành phố
|
|
6.850.790.500
|
|
|
Dự án 5
|
Sở LĐ-TB&XH
|
|
650.000.000
|
|
|
Dự án 6
|
Công an Thành phố
|
|
1.399.209.500
|
|
|
Tổng
|
|
|
8.900.000.000
|
|
|
2015
|
Dự án 4
|
Công an Thành phố
|
|
6.850.790.500
|
|
|
Dự án 5
|
Sở LĐ-TB&XH
|
|
650.000.000
|
|
|
Dự án 6
|
Công an Thành phố
|
|
1.399.209.500
|
|
|
Tổng
|
|
|
8.900.000.000
|
|
|