Việc trả lương tháng 13 cho nhân viên để khuyến khích, thúc đầy nhân viên làm việc đã được rất nhiều công ty áp dụng hiện nay. Tuy nhiên, nếu công ty không trả đầy đủ khoản tiền này theo thỏa thuận thì phải giải quyết ra sao? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin cụ thể để giải đáp vấn đề trên.
>> Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2022 NLĐ được nghỉ mấy ngày?
>> Lao động là F0 khi làm việc tại nhà có được nhận BHXH không?
Hiện tại, chưa có bất kỳ văn bản nào quy định về khái niệm “tiền lương tháng 13”. Tuy nhiên, tiền lương tháng 13 thường được dùng để chỉ khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động vào cuối năm khi doanh nghiệp làm ăn có lời nhằm hỗ trợ, khuyến khích người lao động làm việc.
Tại Khoản 1 Điều 90 Bộ luật Lao động 2019 quy định về tiền lương như sau:
Mặt khác, tại Khoản 1 Điều 104 Bộ luật Lao động 2019 quy định:
Như vậy, mặc dù có tên gọi là “tiền lương tháng 13” nhưng về mặt bản chất thì đây là không phải là tiền lương mà được xem là tiền thưởng do người sử dụng lao động trả cho người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành.
Tiền thưởng được quy định tại Điều 104 Bộ luật Lao động 2019 như sau:
“Điều 104. Thưởng
1. Thưởng là số tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động.
Hiện nay, pháp luật không có quy định cụ thể nào về việc bắt buộc người sử dụng lao động phải trả tiền thưởng cho người lao động. Điều này cũng có nghĩa là tiền lương tháng 13 không phải là khoản tiền bắt buộc mà người sử dụng lao động phải trả theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, nếu trong hợp đồng lao động (HĐLĐ), quy chế thưởng hoặc trong thỏa ước lao động tập thể có thỏa thuận hoặc quy định về việc trả tiền lương tháng 13 cho người lao động thì người sử dụng lao động bắt buộc phải trả khoản tiền này theo thỏa thuận hoặc theo quy định tại các văn bản trên.
Thông thường, nội dung về tiền lương tháng 13 sẽ được thỏa thuận trả cho nhân viên khi công ty kinh doanh có lời, đạt doanh thu cao.
Căn cứ Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm dân sự như sau:
“Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.
2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.”
Như vậy, trường hợp người sử dụng lao động không trả tiền lương tháng 13 cho người lao động theo thỏa thuận trong HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo quy chế thưởng thì được xem là vi phạm nghĩa vụ và do đó phải chịu trách nhiệm dân sự.
Theo đó, tại Điều 352 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 352. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.”
Đồng thời, tại Khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền
1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.”
Như vậy, người lao động có quyền yêu cầu người sử dụng lao động trả đầy đủ khoản tiền lương tháng 13 theo thỏa thuận trong HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo quy chế thưởng.
Trong trường hợp người sử dụng lao động chậm trả tiền lương tháng 13 thì còn phải trả tiền lãi đối với khoản tiền lương tháng 13 chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình, người lao động có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu người sử dụng lao động trả đủ khoản tiền lương tháng 13 và một khoản tiền lãi chậm trả (với mức lãi suất được xác định theo Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015).
Trên đây là quy định về Công ty không trả lương tháng 13 theo thỏa thuận thì giải quyết như thế nào? Nếu còn thắc mắc khác, độc giả vui lòng để lại câu hỏi tại đây.
Căn cứ pháp lý: