.
Tương tự như trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng có đặc thù riêng không giống với các trường hợp phạm tội khác gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, có thể coi hậu quả
nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra không giống với hậu quả do hành vi xâm phạm sở hữu gây ra. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội gây ra nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Người bị truy cứu trách
Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm:
a) Hành vi khách quan
Người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
Ra quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, quyết định truy tố đối với người không có tội.
Một người được coi là không
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là tội trực tiếp xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.
Một trong những nguyên tắc của Bộ luật hình sự đó là: “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và Bộ luật tố tung hình sự cũng có quy tắc: “Cơ quan điều tra, Viện
niệm truy cứu trách nhiệm hình sự, còn đối với tội ra bản án trái pháp luật không bao gồm hành vi kết án người mà mình biết rõ là không có tội.
Đây là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử ít được nhắc đến. Thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân cố ý kết án người không có
trả được nợ vì họ đang trong tình trạng thực sự khó khăn về tài chính, không cố tình trốn tránh việc trả nợ và không có ý chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì chỉ giải quyết về dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Trong trường hợp người vay tài sản dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người cho vay hoặc đã sử
Pháp luật quy định nguyên tắc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng kể từ khi Bộ luật hình sự có hiệu lực pháp luật ” như thế nào?
Chồng tôi uống rượu say nên trên đường đi làm về đã gây ra tai nạn giao thông làm chết một người đi bộ sang đường ; sau đó gia đình tôi đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầy đủ các chi phí cho họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không xử lý hình sự đối với chồng tôi. Xin Quí Báo cho biết trong trường hợp này
không làm thay đổi bản chất của sự việc, trong một chừng mực nào đó thì yếu tố và dấu hiệu có thể được hiểu như nhau, nhung khi nói tới yếu tố người ta thường hiểu đó là những yếu tố cấu thành tội phạm, có tính chất lý luận, còn khi nói đến dấu hiệu để nói đến tình tiết cụ thể của một vụ án, ý nghĩa xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm
.
Từ thực tiễn xét xử đã được tổng kết đối với tội giết người, chúng ta có thể xác định tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn đối với tội khác, tùy thuộc vào động cơ phạm tội của người phạm tội. Ví dụ: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người tình mà biết là họ đã có thai với mình để ép buộc họ phải phá thai nhằm trốn tránh trách
Bộ luật hình sự quy định “ phạm tội có tính chất côn đồ” là tình tiết định khung hình phạt đối với tội giết người và tội cố ý gây thương tích, nhưng được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với các tội phạm khác. Tuy nhiên không phải đối với tất cả các tội mà chỉ đối với một số tội xâm phạm đến danh dự
có sự câu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm …;có tổ chức đán bạc, tổ chức tảo hôn, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy … có khi chỉ có một người cũng có thể thực hiện được hành vi phạm tội tổ chức.
Tình tiết tăng nặng này thường là yếu tố định khung hình phạt, nhất là đối với các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Người phạm tội do lạc hậu là những người do đời sống sinh hoạt xã hội, không hiểu biết về pháp luật, mọi xử sự trong xã hội đều theo phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Họ có hành vi trái với pháp luật nhưng lại cho rằng phù hợp với lợi ích “xã hội”, là “thành tích ”. Thực chất khi phạm tội họ nhận thức rất kém về tính trái pháp luật của hành vi
trường hợp bị cưỡng bức về vật chất ( cưỡng bức về thân thể )
- Cưỡng bức về thân thể là trường hợp một người bị bạo lực vật chất tác động ( bị trói, bị giam giữ, bị bịt miệng) khiến họ không hành động được theo ý muốn của mình mặc dù họ biết nếu làm như vậy sẽ gây thiệt hại đến người khác, người bị cưỡng bức về thân thể không phải chịu trách
Chưa gây thiệt hại là hậu quả vật chất do hành vi phạm tội chưa xảy ra. Ví dụ: giết người mà người đó không chết, trộm cắp nhưng chưa lấy được tài sản, hiếp dâm nhưng chưa giao cấu được với người bị hại …
Gây thiệt hại không lớn là đã có thiệt hại xảy ra nhưng thiệt hại đó không nghiêm trọng. Ví dụ giết người nhưng nạn nhân chỉ bị thương
Một người thực hiện hành vi phạm tội sau một thời gian nhất định, tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Nhà nước thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự được họ, vì việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với họ không cần thiết nữa.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Bộ luật hình sự thì thời hiệu truy cứu
tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính. Như vậy, mặc dù hành vi của con bạn có dấu hiệu của vi phạm hành chính nhưng lỗi vô ý và được thực hiện khi chưa đủ 16 tuổi nên con bạn không bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.
Về bồi