|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
7377/BKHĐT-PTHTĐT
|
|
Loại văn bản:
|
Công văn
|
Nơi ban hành:
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|
|
Người ký:
|
Đỗ Thành Trung
|
Ngày ban hành:
|
13/09/2024
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
Kính gửi: Ủy
ban Kinh tế Quốc hội
(Đoàn giám sát
chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất
động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023")
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được văn bản số
664/ĐGS-KT ngày 28/7/2024 về đề nghị báo cáo bổ sung của Đoàn giám sát chuyên đề
"Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản
và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023" (Đoàn Giám sát).
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo bổ sung
theo đề nghị của Đoàn Giám sát tại các Phụ lục đính kèm văn bản này.
Về việc xử lý các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán
Nhà nước về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội (tại Báo
cáo số 263/BC-KTNN ngày 06/3/2024) và Thanh tra Chính phủ (tại văn bản số
548/TTCP-V.I ngày 28/3/2024): Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được các văn bản
nêu trên của Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ nên không có cơ sở để trả
lời theo đề nghị của Đoàn Giám sát.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trân trọng báo cáo./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các Cục: ĐTNN, PTDN, ĐKKD, QLĐT;
- Các Vụ: THKTQD, QLKKT, PC, GSTĐĐT,
QLQH, TCTT, KTĐN, LĐVHXH, KTCNDV;
- Thanh tra Bộ;
- Lưu: VT, PTHTĐT(M. )
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Thành Trung
|
PHỤ LỤC I
BỔ SUNG NỘI DUNG BÁO CÁO VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI TỪ
NĂM 2015 ĐẾN HẾT NĂM 2023
(Kèm theo văn bản số 7377/BKHĐT-PTHTĐT ngày 13 tháng 9 năm 2024 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư)
1. Về tình hình hoạt động của
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản
a) Về nhận xét, đánh giá tình hình hoạt động của
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản:
Nhận xét, đánh giá tình hình hoạt động của doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo tại mục
I.1.3 Phần thứ ba Báo cáo giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm
2015 đến hết năm 2023" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
b) Về số liệu tình hình thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản:
Thời gian qua, bất động sản tiếp tục là một trong
các lĩnh vực thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các dự án đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản đa phần là các dự án có quy mô lớn, tập
trung ở các tỉnh, thành phố lớn, vị trí thuận lợi về giao thông, đầy đủ hạ tầng
kỹ thuật, xã hội, có lợi thế về cảnh quan thiên nhiên. Các dự án này góp phần
chuẩn hóa thị trường bất động sản tại Việt Nam, đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân địa phương, tăng lựa chọn
đối với sản phẩm bất động sản nhà ở, khu du lịch chất lượng, tiện ích cao, thúc
đẩy các ngành nghề khác có liên quan phát triển (xây dựng, du lịch...).
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối
với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có lĩnh vực bất động sản,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo
các cơ quan chức năng tại địa phương: (i) Tăng cường công tác theo dõi, kiểm
tra, giám sát tình hình triển khai thực hiện dự án bất động sản trên địa bàn,
trong đó lưu ý các dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất lớn, dự án đầu tư tại địa
bàn chiến lược liên quan đến quốc phòng, an ninh; kịp thời hỗ trợ, giải quyết
các vướng mắc (nếu có) để các dự án đầu tư triển khai theo đúng nội dung quy định
tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã cấp (mục tiêu, tiến độ...), đảm bảo tuân
thủ quy định pháp luật về đất đai, môi trường...; (ii) Tăng cường tuyên truyền,
phổ biến pháp luật liên quan đến cá nhân, tổ chức nước ngoài về quyền và nghĩa
vụ khi tham gia vào các giao dịch liên quan đến đất đai; nâng cao nhận thức về
nguy cơ ảnh hưởng của người nước ngoài khi mua bán nhà ở, sử dụng đất đai trái
pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam, nghiêm cấm hành vi giả mạo nhà đầu tư đứng
tên giúp cá nhân, tổ chức nước ngoài mua bán bất động sản, nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, thuê đất dưới hình thức "núp bóng" đầu tư, thành lập
doanh nghiệp; (ii) Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về quốc phòng,
an ninh trong quá trình giải quyết thủ tục về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai...
đối với các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Số liệu liên quan đến tình hình thu hút đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực bất động sản được gửi kèm tại Phụ lục III.
2. Về công tác quy hoạch
a) Về vướng mắc, bất cập trong hệ thống quy hoạch;
sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất của hệ thống quy hoạch gây ảnh hưởng đến quá
trình thực hiện dự án bất động sản:
Mối quan hệ giữa các loại quy hoạch thuộc hệ thống
quy hoạch quốc gia được quy định tại Điều 6 Luật Quy hoạch,
trong đó có quy định cụ thể về tính tuân thủ giữa các loại quy hoạch và việc xử
lý trong trường hợp có mâu thuẫn.
Theo quy định hiện nay, quy hoạch có tính chất kỹ
thuật chuyên ngành không thuộc phạm vi điều chỉnh theo quy định tại Điều 1 Luật Quy hoạch, không thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia
theo quy định tại Điều 5 Luật Quy hoạch nhưng lại được định
nghĩa tại Điều 3 và liệt kê danh mục tại Phụ lục II Luật Quy
hoạch dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật Quy
hoạch, gây khó khăn, vướng mắc đối với lập và thực hiện quy hoạch. Quy hoạch có
tính chất kỹ thuật, chuyên ngành cụ thể hóa quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch
vùng, quy hoạch tỉnh nhưng Điều 6 Luật Quy hoạch lại không
quy định mối quan hệ giữa quy hoạch này với từng cấp, loại quy hoạch thuộc hệ
thống quy hoạch quốc gia dẫn đến nhiều cách hiểu về vai trò, vị trí của các loại
quy hoạch này cũng như tính thống nhất, đồng bộ và liên kết của hệ thống quy hoạch.
Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn thuộc hệ thống
quy hoạch quốc gia theo quy định tại Điều 5 Luật Quy hoạch,
nhưng theo quy định tại Điều 28 Luật Quy hoạch, nội dung quy
hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn và việc lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện,
điều chỉnh quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn thực hiện theo quy định của
pháp luật về quy hoạch đô thị và pháp luật về xây dựng. Đồng thời, mối quan hệ
giữa các loại quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn và quy hoạch xây dựng khác
hiện nay được quy định tại pháp luật về quy hoạch đô thị và pháp luật về xây dựng.
Trong quá trình soạn thảo Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã kiến nghị quy định quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn là quy hoạch
có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành.
Như vậy, các quy định nêu trên vẫn còn có một số vướng
mắc, bất cập trong hệ thống quy hoạch, thiếu thống nhất của hệ thống quy hoạch,
đặc biệt là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo pháp luật về đất đai; quy hoạch
đô thị theo pháp luật về quy hoạch đô thị; quy hoạch nông thôn, quy hoạch khu
chức năng theo pháp luật về xây dựng là các quy hoạch gây ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình thực hiện dự án bất động sản.
Hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ Dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu
tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu tại Tờ trình số
7171/TTr-BKHĐT ngày 06/9/2024, trong đó có kiến nghị sửa đổi một số quy định
liên quan đến Luật Quy hoạch gồm: (1) Hoàn thiện hệ thống quy hoạch quốc gia, bảo
đảm tính toàn diện, thứ bậc; xác định rõ mối quan hệ giữa quy hoạch có tính chất
kỹ thuật, chuyên ngành với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh,
giảm thiểu các vướng mắc trong việc lập và thực hiện quy hoạch, nâng cao hiệu
quả của công tác quy hoạch; (2) Khắc phục các trùng lặp, chồng chéo giữa các
quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch và quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên
ngành; bổ sung các quy hoạch cần thiết, phù hợp với thực tiễn và bảo đảm yêu cầu
quản lý nhà nước về quy hoạch theo quy định của pháp luật.
b) Về tiến độ lập quy hoạch tỉnh, kế hoạch thực
hiện quy hoạch tỉnh:
Về tiến độ lập quy hoạch tỉnh, đến thời điểm hiện tại
đã có 61/63 quy hoạch tỉnh đã được phê duyệt, còn 02 quy hoạch chưa được phê
duyệt gồm Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó Quy hoạch Thủ đô
Hà Nội đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sau khi đã tiếp thu ý kiến của
Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Quy hoạch Thành phố Hồ Chí
Minh đang rà soát hoàn thiện hồ sơ theo Báo cáo thẩm định của hội đồng thẩm định
trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Về kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh, hiện nay đã
có 46 tỉnh xin ý kiến về Dự thảo Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh, trong đó có
13 Kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành gồm
Quảng Ninh, Hậu Giang, Cần Thơ, Tây Ninh, Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Kiên
Giang, Lào Cai, Bình Định, Nam Định, Quảng Bình, Thanh Hóa và 11 Kế hoạch thực
hiện quy hoạch tỉnh đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được phê
duyệt gồm Long An, Tuyên Quang, Đắk Lắk, Phú Yên, An Giang, Lai Châu, Thái Nguyên,
Quảng Ngãi, Kon Tum, Đồng Nai, Sơn La
c) Về tiêu chí, nguyên tắc xác định sự phù hợp của
dự án đối với các loại quy hoạch, sự phù hợp của quy hoạch cấp dưới với quy hoạch
cấp trên:
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều
33 Luật Đầu tư, nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư bao
gồm đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch
vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị và quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt (nếu có). Tuy nhiên, mỗi loại và cấp độ quy hoạch có phạm vi, nội dung
và mức độ chi tiết khác nhau, được lập và sử dụng cho mục đích khác nhau. Pháp
luật hiện hành không có quy định cụ thể về tiêu chí đánh giá sự phù hợp của dự
án với quy hoạch dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về quy định này (cụ thể
là đánh giá sự phù hợp của dự án với tất cả các loại và cấp độ quy hoạch hay với
từng loại và cấp độ quy hoạch phù hợp với dự án và đánh giá sự phù hợp của dự
án với quy hoạch về những nội dung cụ thể nào). Trong nhiều trường hợp, một số
quy hoạch chưa được phê duyệt hoặc phải điều chỉnh, dẫn đến kéo dài thời gian
chuẩn bị dự án và thẩm định chủ trương đầu tư Theo quy định tại khoản
1 Điều 12 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, dự án đầu tư bất động sản
để kinh doanh phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị,
quy hoạch xây dựng nông thôn và phải theo kế hoạch thực hiện được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt. Theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều
11 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023, dự án bất động sản phải phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch được phê duyệt theo quy
định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quy hoạch đô thị.
Về sự phù hợp của quy hoạch cấp dưới với quy hoạch
cấp trên: Điều 6 Luật quy hoạch đã quy định về mối quan hệ
giữa các loại quy hoạch. Theo đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để lập
quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch
ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên cả nước; Quy hoạch
ngành quốc gia phải phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không
gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia; Quy hoạch vùng phải phù hợp
với quy hoạch cấp quốc gia; quy hoạch tỉnh phải phù hợp quy hoạch vùng, quy hoạch
cấp quốc gia; Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn phải phù hợp với quy hoạch
cấp quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh.
3. Về trình tự, thủ tục thực hiện
dự án bất động sản
a) Về thời gian cần thiết để thực hiện thủ tục chấp
thuận chủ trương đầu tư:
Theo quy định tại Luật Đầu tư, các dự án quy định tại
Điều 31 Luật Đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương
đầu tư của Thủ tướng Chính phủ (trong đó có dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh
kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, dự án khu đô thị có quy mô 300
ha trở lên...). Căn cứ quy định tại Điều 35 Luật Đầu tư,
các khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 32 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP
ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Đầu tư, thời gian thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ khoảng 47 ngày. Tuy nhiên trên thực tế, việc chuẩn bị hồ sơ
đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư không đáp ứng được yêu cầu về nội dung và
thành phần hồ sơ ngay từ ban đầu hoặc dự án có vướng mắc về thủ tục liên quan đến
các lĩnh vực xây dựng, tài nguyên và môi trường, tài chính, kinh doanh bất động
sản... cần làm rõ. Do đó, không thể xác định chính xác thời gian hoàn thành thủ
tục chấp thuận chủ trương đầu tư của các dự án trên thực tế.
b) Về tồn tại, hạn chế trong trình tự, thủ tục thực
hiện dự án bất động sản theo pháp luật về đầu tư, kinh doanh bất động sản, nhà ở:
Tồn tại, hạn chế trong trình tự, thủ tục thực hiện
dự án bất động sản đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo tại mục I.2.1 Phần thứ
ba Báo cáo giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm
2023" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ngoài ra, qua quá trình theo dõi việc đầu
tư bất động sản, nhà ở, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung một số tồn tại, hạn chế
sau:
*/ Vướng mắc liên quan đến quy hoạch chi tiết xây dựng
1/500 đối với các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp:
Theo quy định tại khoản 8 Điều 3
Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một
số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng, dự án đầu tư xây dựng quy mô lớn
sử dụng vốn khác có yêu cầu thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng
tại cơ quan chuyên môn về xây dựng, gồm: dự án đầu tư xây dựng nhóm A theo tiêu
chí quy định của pháp luật về đầu tư công; dự án đầu tư xây dựng do Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư; dự án đầu tư xây dựng nhà ở,
khu đô thị có yêu cầu thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định
của pháp luật về đầu tư.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
4 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 (sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số 35/2023/NĐ-CP ngày 20/6/2023), giai
đoạn chuẩn bị dự án có nội dung lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết
xây dựng phục vụ lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng.
Căn cứ các quy định nêu trên, các dự án đầu tư xây
dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp (thuộc thẩm quyền chấp thuận
chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại điểm
h khoản 1 Điều 31 Luật Đầu tư) phải lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi
tiết xây dựng. Quy định này chưa thực sự phù hợp đặc thù của dự án hạ tầng khu
công nghiệp do:
- Làm tăng chi phí dự án hạ tầng khu công nghiệp.
- Giảm tính linh hoạt và ảnh hưởng đến việc thu hút
nhà đầu tư thứ cấp đầu tư vào khu công nghiệp: mỗi nhà đầu tư thứ cấp thuê đất
trong khu công nghiệp sẽ có nhu cầu về quy mô, diện tích, yêu cầu khác nhau và
có thể dẫn đến việc không phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được nhà đầu tư hạ
tầng khu công nghiệp lập và cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Việc điều
chỉnh quy hoạch chi tiết tốn thời gian và tăng thêm thủ tục hành chính.
*/ Vướng mắc liên quan đến nội dung chủ trương đầu
tư, nội dung thẩm định chấp thuận chủ trương đầu tư:
Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư quy
định: "Chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, tiến độ, thời hạn thực hiện dự
án; nhà đầu tư hoặc hình thức lựa chọn nhà đầu tư và các cơ chế, chính sách đặc
biệt (nếu có) để thực hiện dự án đầu tư". Theo quy định tại khoản 8 Điều 34, khoản 5 Điều 35, khoản 6 Điều 36 Luật Đầu tư,
cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư gồm các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật này.
Tuy nhiên, điểm e khoản 3 Điều 33
Luật Đầu tư quy định đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở, khu đô thị thì
đánh giá về sự phù hợp của dự án đầu tư với mục tiêu, định hướng phát triển đô
thị, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; sơ bộ phương án phân kỳ đầu tư bảo
đảm yêu cầu đồng bộ; sơ bộ cơ cấu sản phẩm nhà ở và việc dành quỹ đất phát triển
nhà ở xã hội; sơ bộ phương án đầu tư xây dựng, quản lý hạ tầng đô thị trong và
ngoài phạm vi dự án. Theo quy định tại khoản 7 Điều 32 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021, đối với riêng dự án khu đô thị, quyết định
chấp thuận chủ trương đầu tư có thêm nội dung quy định cụ thể về quy mô dự án
bao gồm: sơ bộ cơ cấu sản phẩm nhà ở và việc dành quỹ đất phát triển nhà ở xã hội,
sơ bộ phương án đầu tư xây dựng, quản lý hạ tầng đô thị trong và ngoài phạm vi
dự án đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở, khu đô thị, sơ bộ phần hạ tầng đô thị
mà nhà đầu tư giữ lại để đầu tư kinh doanh, phần hạ tầng đô thị mà nhà đầu tư
bàn giao cho địa phương.
Luật Nhà ở 2023[1] quy định thẩm định sự phù hợp của chủ trương đầu
tư với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở đã được phê duyệt[2]; phải xác định trong chủ
trương đầu tư: tên dự án, tên các khu vực trong dự án[3], việc phân chia các dự án thành phần (nếu có);
phân kỳ đầu tư[4]; mục
đích để ở và mục đích sử dụng đối với công trình nhà ở có mục đích sử dụng hỗn
hợp[5]; trách nhiệm đầu
tư, xây dựng và quản lý, sử dụng sau đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội của dự án[6].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 9
Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở (sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 30/2021/NĐ-CP)[7], nội dung lấy ý kiến thẩm định chấp thuận chủ
trương đầu tư của cơ quan quản lý Nhà nước về nhà ở bao gồm: tên chủ đầu tư dự
án, tên dự án; mục tiêu, hình thức đầu tư; địa điểm, quy mô diện tích đất dành
để xây dựng nhà ở của dự án; sự phù hợp của dự án đầu tư xây dựng nhà ở với quy
hoạch (quy hoạch chi tiết, quy hoạch phân khu, quy hoạch chung theo từng trường
hợp cụ thể); sự phù hợp của các đề xuất trong nội dung dự án đầu tư xây dựng
nhà ở với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở đã được cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt; tính phù hợp của sơ bộ về cơ cấu sản phẩm nhà ở; trường hợp là dự án
xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị có nhà ở thì phải có dự kiến diện tích đất
dành cho xây dựng nhà ở xã hội; tính đồng bộ của phương án phân kỳ đầu tư sơ bộ,
việc phân chia dự án thành phần (nếu có) và sơ bộ phương án đầu tư xây dựng, quản
lý hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội liên quan đến dự án.
Theo đó, đối với riêng dự án nhà ở, khu đô thị, nội
dung quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư và nội dung thẩm định chấp thuận
chủ trương đầu tư rất cụ thể, có định lượng và chi tiết hơn rất nhiều so với
các dự án thuộc diện phải chấp thuận chủ trương đầu tư khác dẫn đến kéo dài thời
gian thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở, khu đô thị.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm a
khoản 3 Điều 33 Luật Đầu tư, một trong những nội dung thẩm, định đề nghị chấp
thuận chủ trương đầu tư là đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị (trong đó có đánh giá sự
phù hợp với quy hoạch chung đô thị).... Nội dung các quy hoạch nêu trên chỉ
mang tính định hướng chung. Trong khi đó, yêu cầu về nội dung thẩm định, quyết
định chủ trương đầu tư rất chi tiết (thường được thể hiện trên quy hoạch phân
khu và quy hoạch chi tiết) dẫn đến khó khăn trong việc xem xét, thẩm định đề xuất
dự án đầu tư với các quy hoạch chỉ có tính định hướng chung. Trong nhiều trường
hợp, khi một trong những quy hoạch nêu trên phải điều chỉnh sẽ dẫn đến việc phải
chờ đợi điều chỉnh các quy hoạch có liên quan, kéo dài quá trình chấp thuận chủ
trương đầu tư.
Kiến nghị: nghiên cứu, sửa đổi các quy định tại
pháp luật về đầu tư, nhà ở, quy hoạch liên quan đến yêu cầu về nội dung thẩm định
và quyết định chủ trương đầu tư theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính.
*/ Về việc điều chỉnh dự án đầu tư:
Theo quy định tại Điều 41 Luật đầu
tư, dự án thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 41
Luật Đầu tư thì thực hiện thủ tục điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư;
điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (GCNĐKĐT) trong trường hợp việc điều
chỉnh dự án đầu tư làm thay đổi nội dung GCNĐKĐT. Qua quá trình triển khai thực
hiện, có một số vướng mắc sau:
- Đối với các dự án không có GCNĐKĐT[8], trường hợp dự án điều chỉnh
nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 41
Luật Đầu tư thì chưa có quy định về việc cơ quan nào, văn bản nào xác định
việc điều chỉnh này để nhà đầu tư có cơ sở thực hiện. Trong khi đó, khoản 4 Điều 61 Luật Xây dựng quy định: "Trường hợp điều
chỉnh dự án làm thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm xây dựng thì phải, được sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền".
- Không bao quát hết các trường hợp điều chỉnh nội
dung dự án như: thay đổi hình thức kinh doanh, phương án đầu tư xây dựng (từ
xây dựng hoàn chỉnh sang phân lô bán nền... làm thay đổi cơ bản về phương án đầu
tư xây dựng và chính sách thực hiện dự án); thay đổi cơ cấu sử dụng đất (pháp
luật về nhà ở 2023 đã cho phép hoán đổi đất nhà ở xã hội trong dự án nhà ở
thương mại với đất ngoài dự án nhà ở thương mại).
- Điểm a khoản 1 Điều 76 Luật Đấu
thầu 2023 đã có quy định sửa đổi hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh trong trường
hợp điều chỉnh dự án đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật về đầu tư dẫn
đến thay đổi nội dung hợp đồng đối với dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu
tư. Tuy nhiên, do không thuộc diện điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư nên
không có cơ sở để điều chỉnh hợp đồng (đối với trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà
đầu tư). Do đó, trường hợp được điều chỉnh nội dung dự án, làm thay đổi cơ bản
phương án đầu tư xây dựng, chính sách đầu tư, điều kiện đối với nhà đầu tư được
lựa chọn nhưng không thuộc trường hợp được điều chỉnh Hợp đồng dự án đầu tư
kinh doanh sẽ dẫn tới việc phương án đấu thầu trước đó trở nên vô nghĩa.
Kiến nghị: nghiên cứu, rà soát các quy định về điều
chỉnh dự án của pháp luật về đầu tư, nhà ở, xây dựng để đảm bảo tính thống nhất
trong hệ thống pháp luật.
*/ Về việc chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư:
Điều 48 Luật Đầu tư đã quy định
về việc chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư, trong đó bao gồm việc chấm dứt hoạt
động liên quan đến tiến độ thực hiện. Tuy vậy, yêu cầu/điều kiện chấm dứt hoạt
động chưa được quy định rõ ràng, đầy đủ hoặc chưa thực sự phù hợp trong một số
trường hợp, cụ thể là:
Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều
48, cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoạt động trong trường hợp dự án bị thu
hồi đất do không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của
pháp luật về đất đai. Quy định này liên quan đến các dự án đã được giao đất,
cho thuê đất, nhưng không áp dụng để chấm dứt hoạt động đối với các dự án chậm
tiến độ nhiều năm do nhà đầu tư chưa triển khai thực hiện thủ tục giao đất, cho
thuê đất hoặc không phối hợp trong việc thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt
bằng để hoàn thành thủ tục đất đai, dẫn đến tình trạng "dự án treo",
dự án chậm tiến độ nhiều năm so với tiến độ tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu
tư, GCNĐKĐT...
Bên cạnh đó, theo quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 48 và khoản 2 Điều 47 Luật Đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư chấm
dứt hoạt động trong trường hợp nhà đầu tư không thực hiện đúng nội dung chấp
thuận chủ trương đầu tư, GCNĐKĐT, đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng tiếp tục
vi phạm mà không có khả năng khắc phục điều kiện ngừng hoạt động. Theo quy định
này, trường hợp nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư, GCNĐKĐT không được thực
hiện đúng là tiến độ thực hiện dự án đầu tư thì điều kiện để chấm dứt hoạt động
là đã bị cơ quan nhà nước quyết định ngừng hoạt động mà không có khả năng khắc
phục.
Tuy vậy, yêu cầu về việc ngừng hoạt động trong trường
hợp này không thực sự phù hợp vì sẽ làm chậm thêm tiến độ thực hiện dự án,
không giải quyết được mục tiêu/điều kiện cần khắc phục trong trường hợp dự án
đã bị chậm tiến độ, dẫn đến vướng mắc khi xem xét việc khắc phục điều kiện ngừng
hoạt động để chấm dứt hoạt động đối với dự án đầu tư; việc khắc phục hậu quả
như buộc tiếp tục thực hiện dự án đầu tư theo tiến độ tại GCNĐKĐT là không khả
thi sau khi bị ngừng hoạt động...
Vướng mắc nêu trên đã được nhiều địa phương[9] phản ánh trong quá trình
rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 và
trong khuôn khổ Tổ công tác đặc biệt về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối
với dự án đầu tư theo Quyết định số 1242/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng
Chính phủ. Do đó, tại Tờ trình Chính phủ số 6773/TTr-BKHĐT ngày 23/8/2024 về đề
nghị xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu
tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã đề xuất sửa đổi quy định về chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư tại
Điều 47 và Điều 48 Luật Đầu tư nhằm góp phần giải quyết
tình trạng nhiều dự án không triển khai thực hiện trong nhiều năm, giải phóng
nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế - xã hội... Dự án Luật này dự kiến
trình Quốc hội khóa XV xem xét cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 8 (tháng
10/2024) theo quy trình một kỳ họp và soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn.
c) Về tồn tại, hạn chế liên quan đến đánh giá sự
phù hợp của dự án với quy hoạch trong thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu
tư:
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều
33 Luật Đầu tư quy định nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu
tư bao gồm: Đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch cấp quốc gia,
quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị và quy hoạch đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt (nếu có).
Tuy nhiên trong quá trình thẩm định các dự án có
quy mô và tổng mức đầu tư lớn như dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ
tầng khu công nghiệp, dự án khu đô thị thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ, việc lấy ý kiến thẩm định trong đó có nội dung đánh giá về
sự phù hợp của dự án với các quy hoạch có liên quan còn gặp nhiều khó khăn do
các quy hoạch chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt đồng bộ dẫn đến việc thực
hiện các thủ tục về chấp thuận chủ trương đầu tư mất nhiều thời gian, làm phát
sinh chi phí đầu tư của nhà đầu tư và môi trường đầu tư, kinh doanh bị ảnh hưởng.
4. Về công khai, minh bạch
thông tin về thị trường bất động sản
Các doanh nghiệp khi kinh doanh bất động sản có
trách nhiệm công khai thông tin trên hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường
bất động sản do Bộ Xây dựng quản lý và trên website của doanh nghiệp, theo quy
định tại các Điều 53, 61, 67 và Chương VIII
Luật Kinh doanh Bất động sản. Các quy định này giúp tăng hiệu quả và minh bạch
khi chủ đầu tư dự án bất động sản tại giao dịch bất động sản phải ghi đúng giá
thực tế trong hợp đồng. Việc công khai, minh bạch về thông tin dự án, giúp người
mua có khả năng tiếp cận nhiều hơn các thông tin sạch, nâng cao việc bảo vệ người
mua, giảm rủi ro tranh chấp.
5. Về quỹ đất, nguồn vốn xây dựng
nhà ở xã hội
Việc theo dõi việc sử dụng nguồn thu từ tiền sử dụng
đất, tiền cho thuê đất để lại cho địa phương phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư, thu hồi đất để giao cho chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội
không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cũng không nhận được thông tin, đề nghị phối hợp với Bộ Xây dựng và Bộ
Tài chính đối với nội dung này.
PHỤ LỤC II
NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT
TRONG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI TỪ NĂM 2015 ĐẾN
HẾT NĂM 2023
(Kèm theo văn bản số 7377/BKHĐT-PTHTĐT ngày 13 tháng 9 năm 2024 Bộ Kế hoạch
và Đầu tư)
STT
|
Văn bản
|
Nội dung vướng
mắc, bất cập
|
Báo cáo bổ sung
|
A
|
Nội dung vướng mắc, bất
cập trong chính sách, pháp luật về quản lý thị trường BĐS
|
1.
|
Vướng mắc chung
|
1. Thời hạn giải quyết thủ tục cho các dự
án kéo dài do các dự án kinh doanh BĐS phải tuân thủ quy định của rất nhiều
quy định pháp luật khác nhau như quy hoạch, đất đai, nhà ở, đô thị, xây dựng,
đầu tư, kinh doanh BĐS, quản lý tài sản công,...; chịu sự kiểm tra, giám sát
của các quy định về việc đảm bảo an ninh, quốc phòng, quản lý ngoại hối,...
Trong khi đó, đây là các chế định pháp luật thường có sự điều chỉnh, bổ sung.
Do đó, nhiều trường hợp phải thực hiện điều chỉnh lại theo các quy định mới. (TP.
Hồ Chí Minh)
2. Do phải tuân thủ nhiều quy định pháp luật
cùng lúc cho dự án nên gặp vướng mắc do chồng chéo, mâu thuẫn giữa các Luật;
Sở Kế hoạch và Đầu tư phải báo cáo UBND Thành phố, xin ý kiến của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và các Bộ ngành có liên quan đề nghị hướng dẫn việc giải quyết đối
với các trường hợp vướng mắc về quy định pháp luật. Đối với những vấn đề mà
pháp luật chưa quy định phải chờ khi có văn bản hướng dẫn, sửa đổi hoặc thậm
chí là ban hành mới thì mới có cơ sở để giải quyết cho dự án. (TP. Hồ
Chí Minh)
|
1. Các dự án kinh doanh BĐS là các dự án phức tạp,
liên quan đến nhiều vấn đề như đất đai, điều kiện kinh doanh, xây dựng... đồng
thời có tác động lớn đến nhiều đối tượng khác nhau: người dân, doanh nghiệp,
tổ chức tài chính...
Các quy định pháp luật khi điều chỉnh, bổ sung đều
có các điều khoản chuyển tiếp để xử lý đối với các dự án đang thực hiện như:
hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị
định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa
chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất. Trong đó, để bảo đảm
phù hợp với các dự án bất động sản được thực hiện trong thời gian dài, Nghị định
quy định các trường hợp chuyển tiếp đối với: (i) dự án thực hiện theo quy định
của Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư; (ii) dự án thực hiện theo
quy định của Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư; (iii) dự án thực
hiện theo quy định của Nghị định số 23/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của
pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực.
2. TP. Hồ Chí Minh không nêu rõ vướng mắc, chồng
chéo nội dung gì, giữa luật nào nên không có cơ sở để có ý kiến. Ngoài ra, Luật
Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và Luật Tổ
chức tín dụng 2023 được Quốc hội thông qua vừa qua đã rà soát, chỉnh sửa và
thống nhất các quy định pháp luật có liên quan như quy định về đất để đầu tư
xây dựng nhà ở thương mại đã thống nhất quy định tại pháp luật về đất đai...
Do đó, đề nghị UBND thành phố Hồ Chí Minh rà soát, báo cáo các cấp có thẩm
quyền nếu phát hiện vướng mắc còn tồn tại.
|
2.
|
Thông tư số
04/2022/TT-BXD ngày 24/10/2022 của Bộ Xây dựng
|
1. Chưa thống nhất giữa các pháp luật
chuyên ngành: Về phân loại đất (tên gọi các loại đất) chưa có sự thống nhất
chung giữa ngành xây dựng và ngành tài nguyên môi trường (ví dụ: Thông tư số
04/2022/TT-BXD ngày 24/10/2022 của Bộ Xây dựng, quy định đất đơn vị ở gồm: đất
ở, đất dịch vụ công cộng đơn vị ở, đất cây xanh, đất giao thông,…; tuy nhiên
ngành tài nguyên môi trường chỉ thể hiện là đất ở). (Khánh Hòa)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
|
3.
|
Khoản
2 Điều 12 Luật Quy hoạch đô thị 2009, khoản 2 Điều 19 Luật
Xây dựng 2014
|
1. Khoản 2 Điều 12 Luật
Quy hoạch đô thị 2009 và khoản 2 Điều 19 Luật Xây dựng
2014, quy định: "Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước
và tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ kinh phí để lập quy hoạch đô thị".
Tuy nhiên, quy định nêu trên chưa được hướng dẫn cụ thể bằng văn bản quy phạm
pháp luật về trình tự tiếp nhận tài trợ quy hoạch, do đó, các nhà tài trợ đề
xuất nhiều hình thức tài trợ quy hoạch khác nhau và cơ quan thẩm quyền tại địa
phương vướng mắc (tiếp nhận hoặc không tiếp nhận khoản tài trợ này do không
có quy định về quy trình). Do đó, kiến nghị sớm xem xét, ban hành quy định cụ
thể về nội dung nêu trên để tận dụng nguồn lực xã hội trong điều kiện còn khó
khăn về kinh phí lập quy hoạch, đảm bảo tính pháp lý khi thực hiện. (Khánh
Hòa)
|
Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số
32/2023/TT-BTC ngày 29/5/2023 hướng dẫn việc sử dụng kinh phí chi thường
xuyên của ngân sách nhà nước, bao gồm cả nguồn vốn tài trợ của các tổ chức,
cá nhân, để lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt công bố, điều chỉnh quy
hoạch. Do đó, việc sử dụng nguồn tài trợ cho công tác quy hoạch đô thị và quy
hoạch xây dựng được thực hiện theo Thông tư hướng dẫn nêu trên.
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
4.
|
điểm
a, khoản 1 Điều 48 Luật Nhà ở năm 2023
|
1. Tại điểm a, khoản 1 Điều
48 Luật Nhà ở năm 2023 quy định "Xây dựng nhà ở theo dự án để
bán, cho thuê mua, cho thuê cho người được tái định cư". Tuy nhiên
chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn phương pháp xác định giá bán nhà
ở tái định cư do nhà nước đầu tư (hiện chỉ có quy định về xác định giá cho
thuê, giá cho thuê mua); do đó đề nghị Chính phủ giao Bộ Xây dựng ban hành
Thông tư hướng dẫn phương pháp xác định giá bán nhà ở tái định cư do nhà nước
đầu tư để áp dụng thực hiện (Bình Thuận)
|
Dự án do nhà nước đầu tư sẽ hình thành tài sản
công, do đó việc xử lý tài sản công sẽ thực hiện theo pháp luật về quản lý
tài sản công. Do đó, đề nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này
|
5.
|
Luật Nhà ở; Điều 4 Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022
|
1. Vướng mắc tại quy định về đất ở hoặc đất
ở và đất khác khi yêu cầu chủ đầu tư dự án khu dân cư, khu đô thị, nhà ở
thương mại phải có quyền sử dụng đất ở; có quyền sử dụng đất ở và đất khác
không phải là đất ở đáp ứng điều kiện cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để
thực hiện dự án đầu tư được quy định tại Luật Nhà ở và Điều 4
Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022. Điều này khiến các dự án khu dân
cư, khu đô thị, nhà ở thương mại hoặc dự án hỗn hợp (thương mại dịch vụ kết hợp
đất ở) đã được quyết định chủ trương đầu tư không có đất ở hoặc không có đất ở
và đất khác đủ điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất thì không được công nhận
chủ đầu tư dự án. Mặc dù nhà đầu tư đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông
nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, gây ra khó khăn lớn do
đã bỏ ra chi phí để tạo lập quỹ đất. Đa số các dự án đều được quyết định
chủ trương đầu tư trong giai đoạn từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Nhà ở
2014 (có hiệu lực kể từ ngày 01.7.2015), tuy nhiên hồ sơ thẩm định
không đề cập rà soát nội dung này. Đến nay, các dự án phải được rà soát lại
để xem xét, xử lý cho phù hợp quy định pháp luật, điều này dễ phát sinh khiếu
nại, khiếu kiện. (Bình Thuận)
|
Luật Nhà ở 2014 đã quy định cụ thể về các loại đất
làm nhà ở thương mại, việc cơ quan thẩm định không thẩm định nội dung này là
chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật có hiệu lực tại thời điểm thực hiện.
|
6.
|
Khoản
1 Điều 23, Luật Nhà ở năm 2014
|
1. Theo khoản 1 Điều 23 Luật
Nhà ở năm 2014 (được sửa đổi, bổ sung theo Điều 4 Luật sửa
đổi Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu
tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế
tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự 2022) quy định nhà đầu tư phải
có quyền sử dụng đất ở hợp pháp mới được xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư
đồng thời chấp thuận nhà đầu tư dự án nhà ở thương mại. Điều này gây khó
khăn, vướng mắc cho một số nhà đầu tư đang có quyền sử dụng đất khác không phải
đất ở (đất thương mại dịch vụ, đất sản xuất kinh doanh,...), đã phê duyệt quy
hoạch chi tiết dự án xây dựng nhà ở thương mại trước thời điểm có hiệu lực của
Luật Đầu tư năm 2020 (ngày 01/01/2021). Tuy nhiên, nhà đầu tư không có quyền
sử dụng đất ở nên chưa thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời
chấp thuận nhà đầu tư dự án nhà ở thương mại, Nhà nước cũng không thể thu hồi
đất của nhà đầu tư để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất do không thuộc trường
hợp thu hồi đất theo quy định pháp luật. (TP. Đà Nẵng)
|
Trong quá trình dự thảo Luật số 03/2022/QH15, Luật
Nhà ở 2023, Luật Đất đai 2024. phần đa ý kiến đại biểu Quốc hội đã kiến nghị
cần thiết phải quy định chặt chẽ các loại đất được chuyển mục đích sử dụng đất,
được chuyển nhượng để thực hiện dự án nhà ở thương mại; chỉ chấp thuận hình
thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trong
trường hợp có quyền sử dụng đất ở, đất ở và đất khác. Theo đó, Luật Đất đai
năm 2024 quy định:
- Đối với trường hợp sử dụng đất để thực hiện dự
án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại thì chỉ được thỏa thuận về nhận quyền sử
dụng đất ở (điểm b khoản 1 Điều 127).
- Trường hợp người đang có quyền sử dụng đất ở hoặc
đất ở và đất khác có đề xuất dự án đầu tư nhà ở thương mại phù hợp với quy hoạch
sử dụng đất, có đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất mà được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư
theo quy định của pháp luật về đầu tư thì được sử dụng đất để thực hiện dự án
(khoản 6 Điều 127)
|
7.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Quy định chặt chẽ hơn về điều kiện
thành lập Sàn giao dịch BĐS theo hướng nâng cao yêu cầu về nhân sự chuyên
môn; quy định cụ thể điều kiện về cơ sở vật chất tối thiểu cho Sàn hoạt động;
xây dựng quy trình thẩm định chặt chẽ năng lực và điều kiện của pháp nhân trước
khi Sàn hoạt động; xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ quá trình hoạt
động của các sàn. (Khánh Hoà)
2. Nghiên cứu để ban hành khung xác định mức
chi phí và phí (dịch vụ) trong kinh doanh dịch vụ BĐS theo hướng quy định mức
giá trần và quy định quy chế công bố, áp dụng, thay đổi các biểu phí. (Khánh
Hoà)
3. Khoản 2 Điều 3 Bộ Luật
dân sự quy định: "Cá nhân, pháp, nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức
xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng";
khoản 5 Điều 3 quy định: "Cá nhân, pháp nhân
phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự"; khoản 1 Điều 328 quy định:
"Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc
vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn
để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng". Tuy nhiên Luật Kinh
doanh BĐS không có quy định bắt buộc các tổ chức, cá nhân phải xin ý kiến thống
nhất của các cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện việc đặt cọc theo đúng
quy định của pháp luật. Hiện nay đa số các chủ đầu tư và các tổ chức cá nhân
kinh doanh môi giới BĐS vận dụng các nội dung quy định này để tổ chức đặt cọc
giữ chỗ, đặt chỗ, đăng ký vị trí để thu tiền của người mua, trong khi các
hình thức này không được quy định trong Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS nên
việc xử lý gặp khó khăn nhất định; do đó kiến nghị xem xét hướng dẫn để thực
hiện (Bình Thuận)
|
Điều kiện thành lập sàn giao dịch BĐS, mức chi
phí trong kinh doanh dịch vụ BĐS, đặt cọc BĐS không thuộc chức năng, nhiệm vụ
của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
8.
|
Nghị định số
68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, phát
triển CCN
|
1. Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định
số 66/2020/NĐ-CP chưa có hướng dẫn cụ thể việc bàn giao chủ đầu tư xây dựng
và kinh doanh hạ tầng từ các CCN có đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các
doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng để đầu tư mở rộng CCN. (Bắc Ninh)
|
Nghị định số 32/2024/NĐ-CP ngày 15/3/2024 của
Chính phủ về quản lý phát triển cụm công nghiệp đã có quy định về nội dung
này.
|
9.
|
Khoản
2, Điều 20 Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/7/2017
|
1. Chủ đầu tư được huy động vốn để đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật CCN theo quy định của pháp luật, tuy nhiên việc huy động
vốn như thế nào chưa có quy định cụ thể nên khó khăn trong quá triển khai thực
hiện dự án, nhất là đối với các dự án đầu tư và kinh doanh hạ tầng CCN do đơn
vị sử dụng ngân sách nhà nước làm chủ đầu tư. (Bắc Ninh)
|
Nghị định số 32/2024/NĐ-CP ngày 15/3/2024 của
Chính phủ về quản lý phát triển cụm công nghiệp do Bộ Công Thương chủ trì xây
dựng, do đó kiến nghị Bộ Công thương giải trình rõ về nội dung này.
|
1. Việc xác định chi phí xây dựng hạ tầng
của Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp chưa có đơn giá do cơ quan nhà nước ban
hành. Hiện đang vận dụng Quyết định Suất vốn của Bộ xây dựng để xác định (có
so sánh với chi phí đầu tư của chủ đầu tư tại thiết kế cơ sở và lựa chọn chi phí
đầu tư nhỏ hơn để xác định giá đất). Đồng thời tại Quyết định Suất vốn của Bộ
xây dựng chưa có suất vốn hạ tầng của Cụm công nghiệp (Bắc Ninh)
|
Nghị định số 32/2024/NĐ-CP ngày 15/3/2024 của
Chính phủ về quản lý phát triển cụm công nghiệp do Bộ Công Thương chủ trì xây
dựng, do đó kiến nghị Bộ Công thương giải trình rõ về nội dung này.
|
|
|
Đề xuất bổ sung quy định được sử dụng Quyết định
Suất vốn của Bộ xây dựng trong xác định giá đất. Đồng thời bổ sung Suất vốn đầu
tư hạ tầng của Cụm công nghiệp
|
|
10.
|
Thông tư số
36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
|
1. Định giá đất, phương pháp định giá đất,
xác định giá đất cụ thể: Nội dung quy định về các phương pháp xác định giá đất
cụ thể tại Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường còn nhiều vướng mắc, bất cập, có những nội dung quy định không thể
thực hiện để đơn vị tư vấn, Sở Tài nguyên và Môi trường xây dựng phương án
giá đất. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, việc định giá đất cụ thể để
tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xác định trên cơ sở "giá đất
phổ biến trên thị trường", tuy nhiên, để xác định một cách đầy đủ giá đất
phổ biến trên thị trường trong điều kiện bình thường là việc rất khó khăn khi
trên địa bàn một số địa phương chưa có thị trường BĐS thực sự hoạt động công
khai minh bạch; các cơ quan quản lý nhà nước gặp nhiều khó khăn trong thực hiện
việc theo dõi, giám sát và tổng hợp được đầy đủ chính xác và kịp thời các
thông tin giao dịch về quyền sử dụng đất trên từng địa bàn, nhất là đối với đất
ở. Đối với đất nông nghiệp, những giao dịch về chuyển quyền sử dụng giữa những
người sản xuất nông nghiệp với nhau là rất ít, không phổ biến, nên việc xác định
giá đất cụ thể để áp dụng trong bồi thường là rất khó khăn. (Bình Thuận)
2. Việc sử dụng đất để thực hiện các dự án
BĐS còn nhiều bất cập trong công tác: Giao đất, cho thuê đất; chuyển mục đích
sử dụng đất; bồi thường, giải phóng mặt bằng; xác định giá đất, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất còn chậm. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh cũng như nhiều địa
phương trong toàn quốc chưa xây dựng được chỉ số biến động giá đất thị trường,
cơ sở dữ liệu về đất đai (xử lý tài sản công, đất công, đấu giá, đấu thầu...)
làm cơ sở sở xác định giá đất theo Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014;
nhiều địa phương trong tỉnh rất ít giao dịch, đặc biệt là đất nông nghiệp;
các hợp đồng chuyển nhượng đều không thể hiện đúng mức giá giao dịch mà chỉ
thể hiện bằng mức giá trong Bảng giá đất do UBND tỉnh quy định nên rất khó
khăn trong việc xác định được giá đất thị trường, chỉ số giá thị trường.
Thông tin từ kết quả đấu giá thường rất ít, không mang tính phổ biến hoặc
không tương đồng với tài sản định giá (Quảng Ninh)
|
Định giá đất, phương pháp định giá đất thuộc chức
năng, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính. Kiến nghị Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
11.
|
Phương pháp thặng
dư: Quy định tại Khoản 3, Điều 6 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT
ngày 30/6/2014
|
1. Chưa quy định rõ việc Xác định chi phí
quảng cáo, bán hàng, quản lý; Lợi nhuận của nhà đầu tư có tính đến yếu tố rủi
ro trong kinh doanh và chi phí vốn và tỷ lệ bán hàng (Bắc Ninh).
|
Ngày 27/6/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định
71/2024/NĐ-CP quy định về giá đất. Theo đó, Khoản Điều 6
quy định về ước tính tổng chi phí phát triển thửa đất, khu đất. Do đó, đề nghị
UBND tỉnh Bắc Ninh chủ động rà soát các quy định hiện hành đối với các kiến
nghị tồn tại vướng mắc tại tỉnh hiện nay. Trường hợp cần thiết, đề nghị UBND
tỉnh chủ động tham vấn ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường để có hướng giải
quyết phù hợp cũng như đề xuất sửa đổi, bổ sung 36/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 (nếu cần).
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
12.
|
1. Theo quy định tại Thông tư
145/2016/TT-BTC được xác định các chi phí được xác định theo thứ tự ưu tiên:
(i) Quy định của cơ quan có thẩm quyền; (ii) Thu thập và tính trung bình của
ít nhất 03 dự án đầu tư kinh doanh BĐS tương tự tại địa phương; (iii) Thu thập
và tính trung bình của ít nhất 03 dự án đầu tư kinh doanh BĐS trên địa bàn
(đã được kiểm toán hoặc quyết toán). Hiện nay, xác định các chi phí này chưa
có quy định của cơ quan có thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, việc thu thập 03
dự án đầu tư kinh doanh BĐS tại địa phương gặp nhiều khó khăn không thực hiện
được do việc công khai, tiếp cận báo cáo tài chính của các dự án tương tự.
Trường hợp tiếp cận, thu thập được cũng không đủ tối thiểu 03 dự án có điều
kiện tương đồng để đảm bảo phục vụ xác định các thông số. (Bắc Ninh)
|
Việc theo dõi, xác định chi phí này không thuộc
chức năng, nhiệm vụ của Bộ KHĐT. Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý
kiến về nội dung này.
|
13.
|
Kế hoạch định giá
đất cụ thể được lập theo quy định tại Điều 28 Thông tư
36/2014/TT-BTNMT (Được sửa đổi bởi Điều 22 Thông tư
02/2015/TT-BTNMT)
|
1. Việc lập kế hoạch định giá đất cụ thể của
năm tiếp theo chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tế: Nguyên nhân do căn
cứ theo dự thảo kế hoạch sử dụng đất để xây dựng kế hoạch định giá đất cụ thể
thì một số dự án nếu không thực hiện theo đúng kế hoạch sử dụng đất việc xác
định giá đất cụ thể cho những dự án này là lãng phí, không cần thiết. (Bắc
Ninh)
|
Việc lập kế hoạch định giá đất không thuộc chức
năng, nhiệm vụ của Bộ KHĐT. Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
14.
|
Luật Đất đai năm
2013
|
1. Một số quy định trong luật chưa được rõ
ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau; quy trình đấu giá cho thuê đất công ích,
xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất lấy theo bảng giá đất có những
bất cập nhất định; tất cả các trường hợp tranh chấp đất đai đều thông qua toà
án giải quyết
Mặc dù pháp luật đất đai quy định về thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất tương đối đầy đủ, nhưng
chưa đồng bộ, còn có mâu thuẫn chồng chéo với pháp luật chuyên ngành khác nên
quá trình tổ chức thực hiện thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất có những khó khăn nhất định.
- Giá đất hiện tại không phù hợp với giá thị trường
- Vướng mắc về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất
+ Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách
cho người dân có đất bị thu hồi còn phát sinh vướng mắc như về chính sách hỗ
trợ cho người dân để xác định, lựa chọn việc làm, lựa chọn hướng chuyển đổi
nghề nghiệp cũng như việc tổ chức đào tạo nghề đối với người dân bị thu hồi đất
là rất khó.
+ Việc định giá đất cụ thể để tính bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất được xác định trên cơ sở "giá đất phổ biến trên thị
trường", tuy nhiên, để xác định một cách đầy đủ giá đất phổ biến trên thị
trường trong điều kiện bình thường là việc rất khó khăn khi thị trường BĐS
chưa thực sự hoạt động công khai, minh bạch; các cơ quan quản lý nhà nước gặp
nhiều khó khăn trong thực hiện việc theo dõi, giám sát và tổng hợp được đầy đủ,
chính xác và kịp thời các thông tin giao dịch về quyền sử dụng đất trên từng
địa bàn, nhất là đối với đất ở (Quảng Trị)
|
1. Do không nêu rõ vướng mắc nào ở Luật Đất đai
2013 nên chưa có cơ sở để rà soát. Trong quá trình dự thảo Luật Đất đai 2024
đã rà soát các vướng mắc thực tiễn và vướng mắc giữa các luật có liên quan.
Về giá đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
(chính sách hỗ trợ, giá đất để tính bồi thường): nội dung này không thuộc chức
năng, nhiệm vụ của Bộ KHĐT nên Bộ KHĐT không có cơ sở để trả lời. Kiến nghị Bộ
TNMT giải trình rõ về nội dung này.
|
15.
|
Nghị định số
148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Nghị
định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai và Thông tư 01/2021/TT-BTNMT
ngày 12/4/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về xây dựng kế hoạch sử dụng đất
cấp huyện hàng năm.
|
1. Theo điểm đ khoản 6 Điều
1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ: "Sở
Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổng hợp các dự án cần thu hồi đất tại
Khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai để báo cáo UBND tỉnh trình
HĐND tỉnh thông qua đồng thời với quyết định mức vốn ngân sách nhà nước cấp
cho việc bồi thường, giải phóng mặt bằng tại kỳ họp cuối năm của HĐND cấp tỉnh".
Theo khoản 6, Điều 46 của Thông tư 01/2021/TT-BTNMT ngày
12/4/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về xây dựng kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện hàng năm: "... đối với công trình dự án theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai mà thực hiện bằng
ngân sách nhà nước phải được ghi vốn trong năm kế hoạch". Theo
quy định trên, HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất đồng thời với bố trí
ngân sách tỉnh cho các công trình thuộc thẩm quyền phân bổ ngân sách của tỉnh;
việc ghi vốn trong năm kế hoạch chỉ cần thực hiện trước khi có quyết định phê
duyệt kế hoạch sử dụng đất của UBND tỉnh. Tuy nhiên, khi kiểm tra, các Ban của
HĐND tỉnh cho rằng đối với công trình ngân sách cấp huyện phải có văn bản bố
trí vốn mới đưa vào trình kỳ họp. cuối năm HĐND tỉnh thông qua danh mục dự án
cần thu hồi đất là chưa phù hợp và khó khăn trong quá trình thực hiện. Trong
khi đó các công trình thuộc ngân sách cấp huyện do HĐND cấp huyện thông qua
và diễn ra sau kỳ họp HĐND tỉnh cuối năm. Do vậy, nếu HĐND cấp huyện thông
qua chủ trương về nguồn vốn thì kỳ họp tiếp theo mới thông qua được danh mục
dự án, sau đó mới bổ sung vào kế hoạch sử dụng đất làm chậm tiến độ thực hiện
dự án và giải ngân nguồn vốn. (Quảng Trị)
|
Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này
|
16.
|
Khoản
17 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ, quy
định điều kiện được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô,
bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp
cho thuê quy định Chủ đầu tư phải hoàn thành toàn bộ dự án gồm các công trình
dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi tiết
xây dựng 1/500 đã được phê duyệt.
|
1. Hiện nay, có nhiều dự án đã được giao đất,
đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
dự án còn tiến độ đầu tư theo Giấy chứng nhận đầu tư/Quyết định chủ trương đầu
tư; chủ đầu tư đã hoàn thành toàn bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo kết nối
với hệ thống hạ tầng chung của khu vực. Tuy nhiên, một số công trình hạ tầng
xã hội như: Trường học, trung tâm y tế, nhà văn hóa, trung tâm thương mại dịch
vụ... chưa đầu tư, do việc đầu tư và vận hành các công trình xã hội này cần
phải có đơn vị có chức năng tổ chức, thực hiện. Theo báo cáo của các chủ đầu
tư và thực tế tại địa phương thể hiện: Tại thời điểm Nhà đầu tư đề nghị chuyển
nhượng do chưa có người dân đến ở, việc xây dựng các công trình hạ tầng
xã hội khi chưa có nhu cầu để vận hành, dễ xuống cấp công trình, tốn kém chi
phí quản lý, duy tu, bảo dưỡng và hiệu quả kinh tế không cao. Bên cạnh đó, tại
khu vực giáp ranh dự án đã có các công trình xã hội như trường học, cơ sở y tế,
trung tâm thương mại, chợ.... đang hoạt động có thể phục vụ nhu cầu cho người
dân. Trong thời gian qua, một số dự án gặp phải các vướng mắc trên nên chủ đầu
tư chưa đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định tại Khoản 17
Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP dẫn đến nhiều đơn thư phản ánh, khiếu
nại đông người gây mất an ninh trật tự. (Đồng Nai)
|
Khoản 6 Điều 17 Luật Kinh doanh bất
động sản 2023 quy định trách nhiệm của chủ đầu tư: "Xây dựng nhà ở,
công trình xây dựng và công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong dự
án theo đúng quy hoạch chi tiết, thiết kế được phê duyệt, giấy phép xây dựng,
nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư dự án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
tuân thủ các quy chuẩn về xây dựng".
Khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai 2024
quy định: "Trường hợp chủ đầu tư chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã
có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản thì ngoài các điều kiện quy định
tại khoản 1 Điều này[1] còn phải đáp ứng điều kiện khác theo quy định
của Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở".
Luật KD BĐS đã quy định cụ thể về điều kiện chuyển
nhượng đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản được chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà ở (Điều
31), đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản được
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất cho tổ chức (Điều 35). Theo đó, điều kiện chung là: dự án đã hoàn thành
việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật theo quy hoạch chi tiết
được phê duyệt, tiến độ dự án được chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quy hoạch đô thị,
pháp luật về đầu tư; Bảo đảm cung cấp các dịch vụ cấp điện, cấp nước, thoát
nước, thu gom rác thải, xử lý nước thải; bảo đảm kết nối với hệ thống hạ tầng
chung của khu vực trước khi chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng
đất; Việc chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng
kỹ thuật phải phù hợp với mục tiêu đầu tư, nội dung của dự án đầu tư đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Điều 38 Luật KD BĐS 2023 quy
định quyền và nghĩa vụ bên nhận chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất
đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản cho tổ chức. Trong đó, quy định
bên nhận chuyển nhượng bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ quản lý vận hành dự
án, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, dịch vụ khác thuộc phạm
vi dự án; Chuyển giao các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
cho chính quyền địa phương trong trường hợp phải chuyển giao theo dự án được
chấp thuận theo quy định của pháp luật; trường hợp chưa chuyển giao thì phải
có trách nhiệm quản lý, vận hành và bảo đảm chất lượng các công trình hạ tầng
kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong thời gian chưa chuyển giao.
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến cụ thể về nội
dung này.
|
2. Các dự án được chấp thuận đầu tư theo phân
kỳ tiến độ thực hiện. Trong đó, các công trình trong dự án phát triển nhà
ở được phân kỳ đầu tư ở các giai đoạn, nhưng sau khi hoàn thành các công
trình hạ tầng kỹ thuật và nhà ở theo phân kỳ đầu tư, chủ đầu tư đề nghị được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán nhà ở tại các khu vực này thì có được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán nhà ở hay không (trường hợp này chưa
hoàn thành việc đầu tư các công trình hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi tiết
do phân kỳ đầu tư). (Đồng Nai)
|
Tương tự như trên, Luật KD BĐS 2023 đã quy định cụ
thể về điều kiện chuyển nhượng đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án
bất động sản được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà
ở (Điều 31), đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự
án bất động sản được chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất
cho tổ chức (Điều 35).
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến cụ thể về nội
dung này.
|
3. Các dự án được giao từng đợt (theo tiến độ
hoàn thành công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng), đến nay đã hoàn thành
việc đầu tư các công trình hạ tầng nằm trong phần diện tích đất đã được giao,
phù hợp tiến độ đầu tư (nhưng chưa hoàn thành đầu tư các công trình theo
quy hoạch chi tiết 1/500 do chưa được giao đất hoặc phần diện tích đất được
giao chưa trọn ô thửa theo quy hoạch nên chưa đầu tư). Như vậy, các thửa đất
nằm trong phần diện tích đã giao có được chuyển nhượng hay không. (Đồng
Nai)
|
Tương tự như trên, Luật KD BĐS 2023 đã quy định cụ
thể về điều kiện chuyển nhượng đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án
bất động sản được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cá nhân tự xây dựng nhà
ở (Điều 31), đối với đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự
án bất động sản được chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất
cho tổ chức (Điều 35).
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến cụ thể về nội
dung này.
|
4. Tại thời điểm Nhà đầu tư đề nghị chuyển
nhượng do chưa có người dân đến ở, việc xây dựng các công trình hạ tầng xã hội
khi chưa có nhu cầu để vận hành nên dễ gây xuống cấp công trình, tốn kém chi
phí quản lý, duy tu, bảo dưỡng của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế không
cao. Nhà đầu tư cam kết khi có người dân đến ở sẽ thực hiện đầu tư xây dựng
và cam kết bằng hình thức ký quỹ, số tiền ký quỹ bằng phần chi phí đầu
tư xây dựng công trình xã hội theo quy hoạch chi tiết được duyệt. Do đó, kiến
nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng hướng dẫn đối với những
trường hợp nêu trên. (Đồng Nai)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng
hướng dẫn
|
5. Quy định nêu trên chỉ áp dụng đối với
trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền
trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho
thuê; Không quy định về điều kiện chuyển nhượng nhà ở gắn với quyền sử dụng đất
trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở (không thuộc trường hợp phân lô,
bán nền). Do đó, không có cơ sở để xem xét về điều kiện chuyển nhượng nhà ở gắn
với quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở (không thuộc
trường hợp phân lô, bán nền). (Đồng Nai)
|
Luật Bất động sản 2014 (Chương
II) và Luật Kinh doanh bất động sản 2024 (Chương II)
đều có quy định về kinh doanh bất động sản là nhà ở, công trình xây dựng có sẵn.
Việc mua, thuê, thuê mua nhà ở, công trình có sẵn thực hiện theo các quy định
trên. Không có quy định về chuyển nhượng nhà ở mà chỉ có quy định về chuyển
nhượng dự án.
|
17.
|
Luật Nhà ở, Luật
Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh BĐS...
|
Chưa thống nhất được tên gọi chung Khu đô thị,
khu dân cư, khu nhà ở, điểm dân cư nông thôn đối với pháp luật về xây dựng và
đất đai
Phạm vi quyền chuyển nhượng dự án BĐS được thực
hiện đối với tất cả các loại dự án (theo Điều 45 Luật Đầu tư,
Điều 25 Luật Nhà ở, Điều 51 Luật Kinh
doanh BĐS). Nhưng Luật Đất đai lại quy định phạm vi chuyển nhượng dự án
theo từng loại dự án đầu tư cụ thể; chỉ cho phép chuyển nhượng dự án gắn liền
với chuyển quyền sử dụng đất tại các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở
và các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê; các dự
án khác Luật Đất đai chưa quy định cụ thể.
1. Một số nội dung của các Luật chưa thống
nhất, còn chồng chéo. (Tuyên Quang) Chưa có quy định về nguyên
tắc áp dụng pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa Luật Kinh doanh
BĐS với các luật có liên quan (Khánh Hòa)
2. Chưa có quy định về nguyên tắc áp dụng
pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa Luật Kinh doanh BĐS với các luật
có liên quan (Luật Đất đai, Luật Đầu tư...) đối với các nội dung, quy định về
kinh doanh BĐS (chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng dự án BĐS) (Quảng
Ninh)
3. Về thủ tục đầu tư: Dự án nhà ở thương mại
chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật, tuy nhiên các quy định pháp
luật hiện hành chưa quy định cụ thể về trình tự thực hiện các thủ tục để triển
khai dự án, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, nhà đầu tư khi thực
hiện các thủ tục hành chính. (Bình Dương)
|
1. Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật KD
BĐS 2023 đã rà soát các vướng mắc, chồng chéo giữa các Luật và chỉnh sửa để
thống nhất các quy định về khu đô thị, khu nhà ở (theo pháp luật về xây dựng).
Tuy nhiên, hiện nay chưa có khái niệm về khu dân cư nông thôn (Luật Đất đai),
pháp luật về xây dựng chỉ có khái niệm điểm dân cư nông thôn. Để có cơ sở triển
khai thực hiện, đề nghị Bộ Xây dựng xây dựng khái niệm, tiêu chí của khu dân
cư nông thôn.
2. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có sự mâu thuẫn,
chồng chéo đã được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3. Điều 4 Nghị định 15/2021/NĐ-CP
(sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 35/2023/NĐ-CP) đã quy định về trình tự thực
hiện đầu tư xây dựng.
Đối với các dự án nhà ở: Điều 34
Luật Nhà ở đã quy định các giai đoạn của dự án đầu tư xây dựng nhà ở. Các
Nghị định quy định chi tiết Luật Nhà ở 2023 cũng quy định chi tiết trình tự
thực hiện đối với các dự án nhà ở, nhà ở xã hội, cải tạo chung cư.
|
18.
|
Khoản
1 Điều 15; khoản 2 và khoản 3 Điều 35 Luật Xây dựng 2014
|
1. Khoản 1 Điều 15 Luật Xây dựng
2014 (tương tự đối với khoản 1 Điều 46 Luật Quy hoạch đô
thị 2009), quy định: "Quy hoạch xây dựng phải được định kỳ xem
xét, rà soát, đánh giá quá trình thực hiện để kịp thời điều chỉnh phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Định kỳ rà soát đối
với quy hoạch xây dựng vùng liên huyện, quy hoạch xây dựng vùng huyện là 10
năm, đối với quy hoạch chung và quy hoạch phân khu là 05 năm, đối với quy hoạch
chi tiết là 03 năm kể từ ngày quy hoạch xây dựng được phê duyệt".
Tuy nhiên, khoản 2 và khoản 3 Điều 35 Luật Xây dựng 2014
(tương tự đối với Điều 47 Luật Quy hoạch đô thị 2009),
quy định:
"2. Quy hoạch xây dựng khu chức năng được
điều chỉnh khi thuộc một trong các trường hợp sau: a) Có sự điều chỉnh quy hoạch
cao hơn hoặc có sự mâu thuẫn với quy hoạch cùng cấp; b) Hình thành dự án trọng
điểm có ý nghĩa quốc gia làm ảnh hưởng lớn đến sử dụng đất, môi trường, bố cục
không gian của khu chức năng; c) Quy hoạch xây dựng không thực hiện được hoặc
việc triển khai thực hiện gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội, di tích lịch sử - văn hóa hoặc môi trường
sinh thái được xác định thông qua việc rà soát, đánh giá thực hiện quy hoạch
xây dựng và ý kiến cộng đồng; d) Do tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu,
chiến tranh làm thay đổi mục tiêu, định hướng, tổ chức không gian lãnh thổ của
quy hoạch; đ) Phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng.
"3. Quy hoạch nông thôn được điều chỉnh
khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Có sự điều chỉnh của quy hoạch cao hơn;
b) Có sự biến động về điều kiện địa lý tự
nhiên;
c) Thay đổi địa giới hành chính"
Gây khó khăn cho việc điều chỉnh quy hoạch chi
tiết xây dựng cho nhà đầu tư trong việc điều chỉnh để đảm bảo nhu cầu, định
hướng chiến lược kinh doanh và không ảnh hưởng đến khu vực lân cận.
Ngoài ra, trong quy hoạch nông thôn, khoản 1 Điều 15 Luật Xây dựng 2014 yêu cầu: "...định
kỳ xem xét, rà soát, đánh giá quá trình thực hiện để kịp thời điều chỉnh phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn..., đối với
quy hoạch chung và quy hoạch phân khu là 05 năm, quy hoạch chi tiết là 03
năm", nhưng quy định về điều chỉnh quy hoạch chỉ được thực hiện
trong 03 trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Luật
Xây dựng 2014 nên có sự mâu thuẫn so với khoản 1 Điều 15
Luật Xây dựng 2014. Trong khi một trong những lý do chính khi điều chỉnh
quy hoạch là để phù hợp với tình hình kinh tế địa phương, đáp ứng nhu cầu xã
hội. (Khánh Hoà)
|
Quy định về điều chỉnh quy hoạch chi tiết thuộc
chức năng, nhiệm vụ của Bộ Xây dựng. Do đó, đề nghị Bộ Xây dựng làm rõ nội
dung này.
|
19.
|
Luật Đầu tư
|
1. Chưa quy định các dự án không thuộc trường
hợp phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư tại Điều 41
thì phải hoàn thiện những thủ tục gì khi đã điều chỉnh một số nội dung
về quy hoạch và tổng mức đầu tư. (Tuyên Quang)
|
Khoản 2 Điều 41 Luật Đầu tư
quy định: Nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư trong trường hợp việc điều chỉnh dự án đầu tư làm thay đổi nội dung Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư.
Do đó, trường hợp dự án không thuộc các trường hợp
phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư quy định tại khoản
3 Điều 41 Luật Đầu tư và nhà đầu tư có GCNĐKĐT thì nhà đầu tư thực hiện
thủ tục điều chỉnh GCNĐKĐT nếu việc điều chỉnh dự án làm thay đổi nội dung
GCNĐKĐT.
|
20.
|
Luật Xây dựng và
Luật Đất Đai
|
1. Quy mô cho phép xây dựng nhà ở có thời hạn
rất lớn (nhỏ hơn 3 tầng và diện tích sàn <500m2), tuy nhiên không quy định
về chính sách đền bù công trình khi thu hồi đất mà chỉ hỗ trợ theo Luật Đất
đai, do vậy khó khăn trong công tác thu hồi đất. (Tuyên Quang)
|
Nội dung này không thuộc chức năng, nhiệm vụ của
Bộ KHĐT. Kiến nghị Bộ TNMT trả lời nội dung này.
|
21.
|
Luật Đất đai năm
2013
|
1. Điều 61, 62 Luật Đất
đai 2013 quy định các dự án thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất; các dự
án còn lại thì sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền
sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo
quy định tại Điều 73 Luật Đất đai.
Đối với dự án thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất
thì nhà nước phê duyệt giá đất và phương án bồi thường giải phóng mặt bằng;
các dự án còn lại thì nhà đầu tư phải thỏa thuận với người đang sử dụng đất
(theo Điều 73 Luật Đất đai). Với quy định như trên, khi
triển khai công tác giải phóng mặt bằng dự án thuộc trường hợp thỏa thuận,
người đang có đất trong phạm vi dự án thường yêu cầu giá trị thỏa thuận cao
hơn rất nhiều so với dự án thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất. Nhiều dự án
mà chủ đầu tư không đạt được thỏa thuận với người sử dụng đất hoặc thỏa thuận
được một phần, các thửa đất không liền nhau dẫn đến thời gian triển khai dự
án kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều dự án chủ đầu tư phải dừng triển khai
sau khi thỏa thuận với dân không thành. Một số trường hợp Dự án đã thỏa thuận
được 70-80% diện tích đất theo quy hoạch, phần còn lại không thể thỏa thuận
được nhưng không có quy định về cưỡng chế thu hồi đất nên cũng không triển
khai được dự án. (Tuyên Quang)
|
Nội dung này không thuộc chức năng, nhiệm vụ của
Bộ KHĐT. Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về nội dung này.
|
22.
|
Luật Kinh doanh
BĐS năm 2024
|
1. Luật KDBĐS 2014 chưa quy định rõ một số
khái niệm quan trọng trong kinh doanh BĐS như: thế nào là "dự án
BĐS"? thế nào là "chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS"... Điều
này, gây lúng túng, khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá
trình thực hiện đồng thời chưa làm rõ được phạm vi điều chỉnh của Luật. (Trà
Vinh)
|
Đã được quy định cụ thể tại Luật KD BĐS 2023, cụ
thể khái niệm dự án BĐS được quy định tại khoản 3 Điều 3,
hợp đồng KD BĐS quy định tại khoản 8 Điều 3; việc chuyển
nhượng hợp đồng KD BĐS được quy định tại mục 2 Chương VI Luật
KD BĐS 2023.
|
2. Chưa có quy định về nguyên tắc áp dụng
pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo của Luật kinh doanh BĐS với các luật
có liên quan đối với các nội dung, quy định về kinh doanh BĐS. (Trà
Vinh)
|
Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có sự mâu thuẫn,
chồng chéo đã được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
|
3. Các quy định chung của Luật hiện hành về
nguyên tắc kinh doanh BĐS (Điều 4) và các hành vi bị cấm
(Điều 8) cũng cần được rà soát sửa đổi, bổ sung để đảm bảo
thống nhất, đồng bộ hơn với các luật ban hành sau như Bộ luật Dân sự, Luật
Đầu tư và phù hợp hơn với tình hình thực tiễn. (Trà Vinh)
|
Đã được quy định cụ thể tại Luật KD BĐS 2023, cụ
thể: nguyên tắc kinh doanh BĐS quy định tại Điều 4, các
hành vi bị cấm quy định tại Điều 8. Trong đó:
- Đối với nguyên tắc kinh doanh BĐS: Luật KD BĐS
2023 đã gộp khoản 1, khoản 3 Điều 4 thành khoản 1 và đổi cụm từ "không trái với quy định của
pháp luật" thành "không vi phạm điều cấm của luật"
|
23.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Nhiều nội dung liên quan đến hoạt động
kinh doanh nhà ở thương mại hiện nay vừa phải tuân thủ, thực hiện theo quy định
của Luật Kinh doanh BĐS năm 2014, đồng thời lại vừa phải tuân thủ, thực hiện
theo quy định của Luật nhà ở năm 2014. (Trà Vinh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
2. Luật Kinh doanh BĐS chưa quy định phân
hóa về điều kiện đối với các tổ chức cá nhân kinh doanh BĐS thông thường,
không gắn với hoạt động đầu tư dự án với các tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS
theo hình thức đầu tư tư dự án BĐS; chưa có quy định về điều kiện đối với tổ
chức, cá nhân phải đáp ứng khi làm chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng kinh
doanh BĐS, nhất là với các dự án BĐS có các sản phẩm đặc thù. (Trà
Vinh)
|
Đã được quy định cụ thể tại Luật KD BĐS 2023, cụ
thể:
- Điều 9 quy định về điều kiện
đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS; trong đó đã phân định về cá nhân
kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ (khoản 3); Tổ chức,
cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong
công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho
thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công
trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ (khoản 4). Nghị định
số 96/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 cũng đã quy định chi tiết về kinh doanh BĐS
quy mô nhỏ.
- Khoản 5 Điều 9 quy định: "Tổ
chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản phải thành lập doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã (gọi chung là doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản), phải đáp ứng các điều kiện theo quy
định của Luật này". Do đó, cá nhân không được làm chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng kinh doanh BĐS. Khoản 2 Điều 9 quy định cụ
thể về điều kiện của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.
|
3. Các quy định về điều kiện đối với BĐS
đưa vào kinh doanh trong Luật Kinh doanh BĐS hiện được quy định chung cho các
loại BĐS gồm nhà ở và công trình xây dựng; chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về
điều kiện bán công trình xây dựng. (Trà Vinh)
|
Điều 14, Điều 24 Luật KD BĐS
2023 đã quy định cụ thể về điều kiện bán (kinh doanh) công trình xây dựng
có sẵn và công trình xây dựng hình thành trong tương lai.
|
24.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Quy định về điều kiện của BĐS hình
thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh trong Luật Kinh doanh BĐS hiện
hành đang không rõ ràng để áp dụng đối với công trình xây dựng; không xác định
được tất cả các công trình xây dựng hay chỉ một số trường hợp công trình xây
dựng cụ thể nào được kinh doanh theo hình thức bán, cho thuê mua công trình
xây dựng hình thành trong tương lai. (Trà Vinh)
|
Điều 14, Điều 24 Luật KD BĐS
2023 đã quy định cụ thể về điều kiện bán (kinh doanh) công trình xây dựng
có sẵn và công trình xây dựng hình thành trong tương lai.
Điều 3 Nghị định số
96/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 đã quy định cụ thể về các loại công trình
xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng đưa vào kinh
doanh.
|
2. Điều 56 của Luật Kinh
doanh BĐS 2014 chưa quy định trách nhiệm của chủ đầu tư phải làm thủ tục
để tổ chức tín dụng cấp chứng thư bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua đối với
hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai là chưa phù hợp với
quy định của pháp luật về bảo lãnh; không có quy định các nội dung cơ bản, bắt
buộc phải có trong hợp đồng bảo lãnh; không xác định rõ phạm vi, điều kiện, nội
dung và phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận là thỏa thuận giữa chủ đầu tư dự
án với tổ chức tín dụng hay giữa chủ đầu tư với người mua, thuê mua nhà ở
hình thành trong tương lai; không quy định trách nhiệm của chủ đầu tư dự án
BĐS trong trường hợp không thực hiện bảo lãnh cũng như chưa quy định bảo vệ
quyền lợi người mua BĐS trong trường hợp chủ đầu tư là bên bán BĐS không thực
hiện bảo lãnh đúng quy định. (Trà Vinh)
|
Điều 26 Luật KD BĐS 2023 quy
định về bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai tại.
Trong đó quy định chủ đầu tư dự án bất động sản trước khi bán, cho thuê mua
nhà ở hình thành trong tương lai phải được ngân hàng thương mại trong nước,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam chấp thuận
cấp bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với bên mua, thuê mua
nhà ở khi chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo cam kết trong hợp đồng mua
bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Khi ký kết hợp đồng mua bán,
thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, bên mua, thuê mua được lựa chọn việc
có hoặc không có bảo lãnh cho nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với mình.
Việc bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai thực
hiện theo quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
|
3. Quy định về điều kiện của BĐS hình
thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh chưa rõ ràng để áp dụng đối với
các loại công trình xây dựng; không xác định được tất cả các công trình xây dựng
hay chỉ nhà ở được kinh doanh theo hình thức bán, cho thuê mua công trình xây
dựng hình thành trong tương lai. (Khánh Hòa)
|
BĐS hình thành trong tương lai đã được quy định cụ
thể tại Chương III Luật KD BĐS 2023, trong đó đã nêu rõ
"nhà ở, công trình hình thành trong tương lai". Điều
3 Nghị định số 96/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 đã quy định cụ thể về các loại
công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng
đưa vào kinh doanh.
|
4. Đối với dự án nhà ở hình thành trong
tương lai (dự án nhà ở thương mại) chưa quy định rõ chủ đầu tư quản lý, sử dụng
vốn huy động của khách hàng.như thế.nào. (Khánh Hòa)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
5. Theo quy định, các tổ chức, cá nhân khi
thực hiện kinh doanh dịch vụ BĐS không phải thông báo tới các cơ quan quản lý
tại địa phương về nội dung hoạt động của mình nên địa phương không nắm bắt được
thông tin hoạt động của các tổ chức, cá nhân nêu trên để quản lý. (Khánh
Hoà)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
6. Luật kinh doanh BĐS chỉ có quy định cơ
quan quản lý nhà ở tại địa phương có thông báo nhà ở hình thành trong tương
lai đủ điều kiện được bán, cho thuê mua; các loại công trình xây dựng khác
không có quy định, do đó cũng gây khó khăn trong kiểm soát thị trường BĐS (Bình
Thuận)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
7. Luật Kinh doanh BĐS 2014 chưa quy định
rõ một số khái niệm quan trọng trong kinh doanh BĐS như: Thế nào là "dự
án BĐS", "công trình xây dựng có sẵn, công trình xây dựng hình
thành trong tương lai",... (Quảng Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
8. Quy định về điều kiện của BĐS hình
thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh trong Luật Kinh doanh BĐS hiện
hành đang không rõ ràng để áp dụng đối với công trình xây dựng; không xác định
được tất cả các công trình xây dựng hay chỉ một số trường hợp công trình xây
dựng cụ thể nào được kinh doanh theo hình thức bán, cho thuê mua công trình
xây dựng hình thành trong tương lai (Quảng Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
9. Chưa có quy định về "đặt cọc",
"giữ chỗ" giữa khách hàng và chủ đầu tư là kẽ hở để "lách luật"
trong việc huy động vốn dễ xảy ra phát sinh, tranh chấp dẫn đến khiếu nại,
khiếu kiện tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh trật tự xã hội (Quảng Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
25.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Các quy định về kinh doanh quyền sử dụng
đất (chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại) theo pháp luật về kinh doanh BĐS
đang có sự giao thoa, mâu thuẫn, trùng lặp với các quy định về chuyển nhượng,
cho thuê quyền sử dụng đất theo pháp luật về đất đai. (Trà Vinh)
|
Trong quá trình dự thảo Luật KD BĐS 2023, Luật Đất
đai 2024, các cơ quan liên quan, Quốc hội đã rà soát các vướng mắc pháp lý giữa
hai Luật để đảm bảo thống nhất, không trùng lặp.
Kiến nghị Bộ TNMT, Bộ XD có ý kiến cụ thể về nội
dung này
|
2. Các quy định về kinh doanh quyền sử dụng
đất trong Luật Kinh doanh BĐS hiện hành chưa thể hiện rõ được sự khác biệt của
hình thức kinh doanh quyền sử dụng đất với các hình thức kinh doanh BĐS khác
như kinh doanh nhà ở, kinh doanh công trình xây dựng. (Trà Vinh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến cụ thể về nội
dung này
|
26.
|
Luật Kinh doanh
BĐS; Luật Đất đai
|
1. Vướng mắc giữa Luật Kinh doanh BĐS và
Luật Đất đai quy định về thủ tục đất đai đối với trường hợp chuyển nhượng dự
án đối với trường hợp bên nhận chuyển nhượng dự án BĐS là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
Tại khoản 3 Điều 51 Luật kinh
doanh BĐS quy định "3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết
định cho phép chuyển nhượng dự án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên
phải hoàn thành việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng và hoàn thành việc bàn
giao dự án.
Trường hợp chủ đầu tư nhận chuyển nhượng dự án
BĐS là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sau khi có quyết định cho
phép chuyển nhượng dự án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ đầu tư chuyển
nhượng làm thủ tục trả lại đất cho Nhà nước; cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định giao đất, cho thuê đất đối với chủ đầu tư nhận chuyển nhượng trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ"
Tuy nhiên, Luật Đất đai không quy định về việc
trình tự thủ tục đối với trường hợp trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp
nêu trên. Do đó gặp vướng mắc trong quá trình thực hiện, đề nghị UBND tỉnh
xin ý kiến Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn đối với những trường hợp nêu
trên để làm cơ sở thực hiện. (Đồng Nai)
|
Khoản 3 Điều 42 Luật KD BĐS 2023
quy định: "Trường hợp bên nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự
án quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật này là tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 4 Điều
10 của Luật này, sau khi có quyết định cho phép chuyển nhượng của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và các bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng thì việc thực
hiện thủ tục về đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai".
Theo quy định tại khoản 7 Điều
124 Luật Đất đai 2024, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển
nhượng dự án bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động
sản thuộc một trong các trường hợp giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền
sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất.
Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp giao đất, cho
thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
quy định tại Điều 228 Luật Đất đai 2024. (không phân biệt
NĐT trong nước hay nước ngoài).
|
27.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật đất đai 2013
|
1. Theo quy định tại Luật Đất đai 2013 thì
việc sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở tái định cư, nhà ở xã
hội và nhà ở công vụ thuộc trường hợp không đấu giá quyền sử dụng đất (điểm đ khoản 2 Điều 118) và sử dụng đất để xây dựng nhà ở
xã hội theo quy định pháp luật về nhà ở thuộc trường hợp được miễn giảm tiền
sử dụng đất (điểm b khoản 1 Điều 110). Theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 58 Luật nhà ở 2014 thì Chủ đầu tư dự
án nhà ở xã hội không sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được miễn tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất được Nhà nước giao hoặc cho
thuê để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Tuy nhiên trong thực tế triển khai thực
hiện, Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội mặc dù được miễn tiền sử dụng đất nhưng vẫn
yêu cầu phải xác định tiền sử dụng đất theo pháp luật về đất đai rồi mới thực
hiện thủ tục miễn, làm phát sinh thủ tục hành chính, kéo dài thời gian thực
hiện nhất là đối với những dự án phải xác định giá đất cụ thể. (Hà
Tĩnh)
|
Vướng mắc ngày đã được ghi nhận và được sửa tại khoản 3 Điều 157 Luật Đất đai 2024: "Đối với trường
hợp được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì không phải thực hiện thủ tục
xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn. Người sử dụng
đất được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất không phải thực hiện thủ tục đề
nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất".
|
28.
|
Nghị định số
44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
|
1. Tại khoản 3 Điều 3
Thông tư số 36/2014/TT-BNTMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
khi tính toán xác định giá đất cụ thể theo phương pháp so sánh trực tiếp
không đề cập, quy định rõ trường hợp nào được gọi là giá đất thị trường có biến
động (giá đất của tài sản so sánh từ thời điểm chuyển nhượng, trúng đấu giá
quyền sử dụng đất tăng giảm bao nhiêu % so với giá đất tại thời điểm định
giá?), chưa hướng dẫn cách thức, phương pháp xác định, phạm vi điều tra, khảo
sát, kỳ công bố (theo từng tháng? từng quý? hay từng năm?...) chỉ số biến động
giá đất thị trường? dẫn đến khó khăn cho địa phương trong thực hiện nhiệm vụ
này. (Hà Tĩnh)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
2. Pháp luật đất đai hiện hành không quy định
cụ thể việc giao đất theo tiến độ dự án (có quy định để thực hiện thu hồi đất
theo tiến độ dự án, có quy định về việc áp dụng gia hạn tiến độ sử dụng đất đối
với từng phần diện tích đất được giao, cho thuê đất theo tiến độ). Tuy nhiên,
quy định tại khoản 3 Điều 60 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP
ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ, Nhà đầu tư có sử dụng đất để triển
khai dự án thì ngoài căn cứ theo quy định pháp luật đất đai còn căn cứ theo
quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, quy hoạch, nhà ở, kinh doanh bất
động sản, các pháp luật khác có liên quan; theo đó, nếu Chủ trương đầu tư hoặc
hợp đồng có phân kỳ đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại phải thực
hiện giao đất cho thuê đất để thực hiện dự án theo tiến độ thực hiện dự án đối
với phần diện tích đã thực hiện giải phóng xong mặt bằng; nhà đầu tư thực hiện
nghĩa vụ tài chính về đất đai theo giá đất tại thời điểm Nhà nước quyết định
giao đất, cho thuê đất; khi đó một khu đất giao cho Nhà đầu tư nhưng lại có
nhiều giá đất theo từng thời điểm giao đất. (Hà Tĩnh)
|
Đã được quy định tại Luật Đất đai 2024: Theo quy
định tại khoản 2 Điều 80 của Luật Đất đai năm 2024, trường
hợp dự án quy định tại khoản 1 Điều này có phân kỳ tiến
độ sử dụng đất thì thu hồi đất theo tiến độ của dự án đầu tư được xác định
trong văn bản chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư dự án. Theo quy định tại
khoản 4 Điều 116 Luật đất đai năm 2024 trường hợp quyết
định, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án có phân kỳ tiến độ hoặc việc thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo tiến độ thì cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao đất, cho thuê đất quyết định việc giao đất, cho thuê đất theo tiến
độ của dự án đầu tư, tiến độ thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
|
29.
|
Luật đất đai, luật
nhà ở, Luật Kinh doanh BĐS
|
1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Luật
Đất đai năm 2013 chỉ quy định về thời điểm xác lập quyền, biến động quyền sử dụng
đất chính là thời điểm thực hiện hoạt động đăng ký đất đai dẫn đến cách hiểu
đây cũng chính là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp
đồng. Trong khi đó, Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 lại
quy định 3 thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác nhau là: Thời điểm công chứng,
chứng thực hợp đồng đối với hợp đồng bắt buộc phải công chứng; thời điểm do
các bên thỏa thuận và thời điểm các bên ký kết nếu các bên không thỏa thuận. Khoản 2 Điều 37 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 còn quy định đối
với các hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất phải
tuân thủ quy định của Luật Đất đai năm 2013 về đăng ký đất đai. Sự thiếu đồng
bộ, chưa đầy đủ về thủ tục cũng như thời điểm có hiệu lực của hợp đồng giữa
các văn bản pháp luật không chỉ gây khó khăn cho việc thực thi trên thực tế
mà còn tiềm ẩn nguy cơ mâu thuẫn, bất đồng làm phát sinh các tranh chấp trong
lĩnh vực đất đai, kinh doanh BĐS... (Hà Tĩnh)
|
Kiến nghị Bộ TNMT, Bộ Xây dựng có ý kiến về nội
dung này.
|
2. Về lập Kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp
huyện: việc xác định nhu cầu sử dụng đất cho các ngành, lĩnh vực trong năm kế
hoạch để lập Kế hoạch sử dụng đất còn nhiều bất cập trong thực tiễn. Theo quy
định, những công trình, dự án cần thu hồi đất theo Điều 61,
Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 phải được ghi vốn thực hiện trong năm kế hoạch
(đối với các dự án sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước); có văn bản chấp thuận
chủ trương đầu tư của của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các dự án
còn lại. Trên thực tế, kỳ họp HĐND cấp tỉnh, cấp huyện cuối năm mới phân bổ vốn
đầu tư cho các công trình, dự án và phát triển kinh tế - xã hội năm sau. Tuy
nhiên, điểm a khoản 4 Điều 9 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai quy định Quý III hàng năm, UBND cấp huyện gửi hồ sơ kế hoạch sử dụng
đất
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
3. Chấp thuận chủ trương đầu tư: Việc tiếp
nhận, xử lý các dự án trong bối cảnh có nhiều quy định pháp luật mới, điều chỉnh
về trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương, cùng với việc các dự án nhà ở chịu
sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật khác có liên quan như đất đai, nhà
ở, kinh doanh BĐS, xây dựng, đô thị, quy hoạch,... gây khó khăn trong việc hướng
dẫn, tạo sự đồng tình với các nhà đầu tư triển khai thực hiện các thủ tục. Mặc
dù đã có nhiều giải pháp, đề xuất để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tuy
nhiên việc tháo gỡ khó khăn chỉ áp dụng được với một số dự án. (Bình
Dương)
|
Với một số dự án kinh doanh bất động sản của nhà
đầu tư nước ngoài, do đã được cấp phép từ lâu nên việc thẩm định dự án đòi hỏi
rà soát kỹ lưỡng việc triển khai dự án, để xem xét trong tổng thể điều kiện,
hoàn cảnh cấp Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư điều chỉnh và
quy định của pháp luật qua các thời kỳ. Đề nghị các địa phương tiếp tục có ý
kiến đối với các trường hợp đang vướng mắc để Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp
và đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi các quy định pháp luật.
|
30.
|
Nghị định số
25/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư
|
1. Pháp luật đất đai hiện hành không quy định
cụ thể việc giao đất theo tiến độ dự án (có quy định để thực hiện thu hồi đất
theo tiến độ dự án, có quy định về việc áp dụng gia hạn tiến độ sử dụng đất đối
với từng phần diện tích đất được giao, cho thuê đất theo tiến độ). Tuy nhiên,
quy định tại khoản 3 Điều 60 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP
ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ, Nhà đầu tư có sử dụng đất để triển
khai dự án thì ngoài căn cứ theo quy định pháp luật đất đai còn căn cứ theo
quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, quy hoạch, nhà ở, kinh doanh bất
động sản, các pháp luật khác có liên quan; theo đó, nếu Chủ trương đầu tư hoặc
hợp đồng có phân kỳ đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền lại phải thực
hiện giao đất cho thuê đất để thực hiện dự án theo tiến độ thực hiện dự án đối
với phần diện tích đã thực hiện giải phóng xong mặt bằng; nhà đầu tư thực hiện
nghĩa vụ tài chính về đất đai theo giá đất tại thời điểm Nhà nước quyết định
giao đất, cho thuê đất; khi đó một khu đất giao cho Nhà đầu tư nhưng lại có
nhiều giá đất theo từng thời điểm giao đất. (Hà Tĩnh)
|
Đã được quy định tại Luật Đất đai 2024: Theo quy
định tại khoản 2 Điều 80 của Luật Đất đai năm 2024, trường
hợp dự án quy định tại khoản 1 Điều này có phân kỳ tiến
độ sử dụng đất thì thu hồi đất theo tiến độ của dự án đầu tư được xác định trong
văn bản chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư dự án. Theo quy định tại khoản 4 Điều 116 Luật đất đai năm 2024 trường hợp quyết định,
chấp thuận chủ trương đầu tư dự án có phân kỳ tiến độ hoặc việc thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo tiến độ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao đất, cho thuê đất quyết định việc giao đất, cho thuê đất theo tiến độ của
dự án đầu tư, tiến độ thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
|
31.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Chưa quy định khung pháp lý hiệu quả
cho phép các loại BĐS được tham gia vào thị trường, cho nên có nhiều loại BĐS
chưa chính thức được tham gia vào thị trường như quyền sử dụng đất thuê trả
tiền thuê hàng năm, đất có thu tiền sử dụng đất, nhưng tiền thu có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước. (Kiên Giang)
|
Điều 5 Luật Kinh doanh BĐS 2023
quy định các loại bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh bao gồm:
Nhà ở có sẵn và nhà ở hình thành trong tương lai. Công trình xây dựng có sẵn,
công trình xây dựng hình thành trong tương lai, bao gồm Công trình xây dựng
có công năng phục vụ mục đích giáo dục, y tế, thể thao, văn hóa, văn phòng,
thương mại, dịch vụ, du lịch, lưu trú, công nghiệp và công trình xây dựng có
công năng phục vụ hỗn hợp. Phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng
theo quy định tại khoản 2 Điều này. Quyền sử dụng đất đã
có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản. Dự án bất động sản.
|
32.
|
Luật kinh doanh
BĐS
|
1. Theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 4 Nghị định 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về quy định
xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi
vi phạm trong hoạt động xây dựng, kinh doanh BĐS là 1.000.000.000 đồng. Mức
phạt này tương đối thấp so với mức xử phạt hành chính trong các lĩnh vực
khác, thiếu tính răn đe bởi chênh lệch giữa giá trị hưởng lợi do vi phạm mà
có so với bị xử phạt, trong khi lợi ích có được từ những hành vi vi phạm có
thể lớn hơn rất nhiều lần. Vì vậy, mức phạt này cần phải được điều chỉnh để đủ
sức răn đe, ngăn chặn hành vi phạm trong kinh doanh BĐS. (Thanh Hóa)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
33.
|
Luật Đất đai, Luật
Kinh doanh BĐS
|
1. Theo Luật đất đai (Điều
188, Điều 189), để thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì dự
án phải hoàn thành việc xây dựng theo đúng quy hoạch xây dựng chi tiết và dự
án đầu tư đã được phê duyệt, chấp thuận. (Thanh Hóa)
|
1. Khoản 1, khoản 2 Điều 45 Luật
Đất đai 2023 đã quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trong đó, khoản 2 Điều 45 quy định: Trường hợp chủ đầu
tư chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động
sản thì ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều
này còn phải đáp ứng điều kiện khác theo quy định của Luật Kinh doanh bất động
sản, Luật Nhà ở. Theo đó, pháp luật về đất đai và pháp luật về KD BĐS đã thống
nhất.
|
2. Theo pháp luật kinh doanh BĐS (khoản 1 Điều 9 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP), việc chuyển nhượng
toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS được áp dụng trong trường hợp dự án đang triển
khai thực hiện theo tiến độ, nội dung dự án đã được phê duyệt mà không phải
hoàn thành dự án. Trong khi đó, chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS
phải gắn liền với chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng tài sản gắn
liền với đất tùy hình thức giao đất, cho thuê đất theo pháp luật đất đai. Do
đó, đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh để thống nhất giữa Luật Đất
đai năm 2013 và Luật Kinh doanh BĐS. (Thanh Hóa)
|
34.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Hiện nay, quy định về các hệ thống bảng
biểu, thông tin báo cáo về nhà ở và thị trường BĐS tương đối nhiều, liên quan
đến nhiều các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây khó khăn trong việc thu thập,
báo cáo; đồng thời, chưa quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong thực hiện. (Thanh Hóa)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
2. Để duy trì và vận hành hệ thống thông
tin về nhà ở và thị trường BĐS trên địa bàn tỉnh có hiệu quả cần nguồn lực và
kinh phí lớn, trong khi nguồn vốn ở địa phương còn hạn hẹp, dẫn đến việc vận
hành hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường BĐS trên địa bàn tỉnh là tương
đối khó khăn. (Thanh Hóa)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này (Điều 76 Luật KD BĐS 2023 đã có quy định về kinh phí xây dựng,
quản lý, vận hành và khai thác hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất
động sản).
|
35.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Đất đai năm 2013
|
1. Quy định về sở hữu nhà ở của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam: Pháp luật
về đất đai không có quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
nhận chuyển quyền sử dụng đất ngoài dự án để xây dựng nhà ở, dẫn đến hạn chế
quyền phát triển nhà ở của đối tượng này. (Sơn La)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
36.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Đất đai năm 2013, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009
|
1. Chưa quy định cụ thể mối liên hệ, tương
tác của chương trình phát triển nhà ở với hệ thống các quy hoạch khác có liên
quan như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng để làm căn cứ xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở. (Sơn La)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
37.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Đất đai năm 2013, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009
|
1. Quy định phải xây dựng và phê duyệt kế
hoạch phát triển nhà ở hằng năm làm giảm tính chủ động, thiếu linh hoạt trong
công tác phát triển nhà của địa phương, gây khó khăn trong công tác thực hiện,
quản lý, giám sát. (Sơn La)
|
Luật Nhà ở 2023 đã bỏ việc xây dựng và phê duyệt
kế hoạch phát triển nhà ở hằng năm.
|
38.
|
Điều
23 Luật Quy hoạch đô thị
|
1. Điều 23 Luật Quy hoạch
đô thị quy định về nội dung nhiệm vụ quy hoạch: “Nhiệm vụ quy hoạch
phân khu phải xác định phạm vi ranh giới, diện tích, tính chất khu vực lập
quy hoạch, chỉ tiêu dự kiến về dân số, sử dụng đất, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ
thuật; yêu cầu, nguyên tắc cơ bản về phân khu chức năng để bảo đảm
phù hợp về không gian kiến trúc, đấu nối hạ tầng kỹ thuật với quy hoạch
chung đã được phê duyệt và các khu vực xung quanh; yêu cầu đánh giá môi trường
chiến lược”.
Quy định “phù hợp” tại Điều
23 Luật Quy hoạch đô thị 2009 chưa nêu cụ thể tiêu chí về việc đánh giá sự
phù hợp: Phải bảo đảm phù hợp về định hướng tính chất, chức năng quy hoạch
hay phải bảo đảm về ranh giới, diện tích... giữa các cấp độ quy hoạch
với nhau?. Cấp độ đồ án quy hoạch chung được lập theo tỷ lệ 1/10.000;
trong khi đồ án quy hoạch phân khu lập theo tỷ lệ 1/2000; đồ án quy hoạch
chi tiết lập theo tỷ lệ 1/500; do đó, sẽ có sai lệch nhất định về ranh
giới, diện tích. (Khánh Hòa)
|
Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị. Do đó, kiến nghị Bộ Xây dựng có ý
kiến về nội dung này.
|
39.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
|
1. Một số khái niệm trong kinh doanh BĐS
như: “dự án BĐS”, “chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS”... chưa được quy định
rõ trong Luật. Điều này, gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
quá trình thực hiện đồng thời chưa rõ được phạm vi điều chỉnh của Luật. (Sơn
La)
|
Đã được quy định cụ thể tại Luật KD BĐS 2023, cụ
thể khái niệm dự án BĐS được quy định tại khoản 3 Điều 3,
hợp đồng KD BĐS quy định tại khoản 8 Điều 3; việc chuyển
nhượng hợp đồng KD BĐS được quy định tại mục 2 Chương VI Luật
KD BĐS 2023.
|
40.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
|
1. Hoạt động kinh doanh nhà ở thương mại
được quy định cả trong Luật Nhà ở năm năm 2014, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
(Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 quy định gộp chung giữa kinh doanh nhà ở, công
trình xây dựng) dẫn đến có sự phân tán, chồng chéo về quy định giữa các luật.
(Sơn La)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
41.
|
Luật Nhà ở năm
2014
|
1. Theo Khoản 4 Điều 23 của
Luật Nhà ở năm 2014 thì hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để
thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở được quy định như sau: “Nhận chuyển
quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai để xây dựng
nhà ở thương mại”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì nhà đầu tư muốn thực
hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại phải nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất có mục đích sử dụng đất 100% diện tích là đất ở khiến cho nhiều nhà
đầu tư không thể tiếp tục thực hiện được. (Sóc Trăng)
|
Trong quá trình dự thảo Luật số 03/2022/QH15, Luật
Nhà ở 2023, Luật Đất đai 2024, phần đa ý kiến đại biểu Quốc hội đã kiến nghị
cần thiết phải quy định chặt chẽ các loại đất được chuyển mục đích sử dụng đất,
được chuyển nhượng để thực hiện dự án nhà ở thương mại; chỉ chấp thuận hình
thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trong
trường hợp có quyền sử dụng đất ở, đất ở và đất khác.
|
42.
|
Luật Nhà ở năm
2014
|
1. Theo quy định tại Điểm
c Khoản 2 Điều 57 của Luật Nhà ở quy định: “Trường hợp doanh nghiệp, hợp
tác xã có quyền sử dụng đất hợp pháp, phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở,
có đủ điều kiện làm chủ đầu tư và có nhu cầu xây dựng nhà ở xã hội thì doanh
nghiệp, hợp tác xã đó được giao làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội”.
Tuy nhiên, để doanh nghiệp có quyền sử dụng đất hợp pháp thông qua hình thức
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ cá nhân hoặc tổ chức khác để thực hiện
dự án nhà ở xã hội thì theo quy định của Luật Đất đai phải có chủ trương đầu
tư dự án và nói rõ yêu cầu, mục đích chuyển nhượng, trường hợp chuyển nhượng
để đầu tư xây dựng nhà ở thì phải tuân thủ Luật Nhà ở. Trong khi đó, Luật Nhà
ở hiện chưa có quy định cụ thể về hình thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất để thực hiện dự án nhà ở xã hội, mà hiện nay chỉ có quy định nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ở để xây dựng dự án nhà ở thương mại theo Khoản 4 Điều 23 của Luật Nhà ở (là phải có 100% diện tích đất
ở) nên các doanh nghiệp đang gặp vướng mắc trong việc nhận chuyển nhượng đất
từ cá nhân sang doanh nghiệp để thực hiện dự án nhà ở xã hội. (Sóc
Trăng)
|
Đất để phát triển NOXH đã được quy định cụ thể tại
Luật Nhà ở 2023; Luật Đất đai 2024 cũng quy định cụ thể về việc sử dụng đất để
thực hiện dự án phát triển kinh tế xã hội thông qua thoả thuận về nhận quyền
sử dụng đất (Điều 127).
|
43.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Theo Luật Kinh doanh BĐS và Nghị định số
02/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 của Chính phủ thì không có hướng dẫn cụ thể việc
kinh doanh BĐS với quy mô nhỏ là khoảng bao nhiêu căn nhà (hoặc nền nhà) và không
thường xuyên là khoảng thời gian bao lâu? Do vậy, hiện nay tỉnh Sóc Trăng
đang gặp khó khăn, vướng mắc trong việc xác định cá nhân, tổ chức kinh doanh
BĐS quy mô nhỏ. Ví dụ: Khi chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại, Khu đô thị...
bán lại với số lượng lớn (5, 10, 20...) nền hoặc căn nhà trong dự án cho một
cá nhân và cá nhân này bán lại với số lượng lớn (5, 10, 20...) nền hoặc căn
nhà nêu trên cho các tổ chức, cá nhân khác thì tỉnh Sóc Trăng không có cơ sở
định lượng để xác định việc kinh doanh BĐS với số lượng nêu trên có phù hợp
theo Luật Kinh doanh BĐS hay không? và cá nhân này có cần phải thành lập
doanh nghiệp kinh doanh BĐS hay không? (Sóc Trăng)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này (Kinh
doanh bất động sản quy mô nhỏ đã được quy định cụ thể tại Điều
7 Nghị định số 96/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Kinh doanh BĐS).
|
44.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Chưa có quy định cụ thể về việc quản lý
đăng tải thông tin, rao bán BĐS trên các trang mạng xã hội (như Zalo,
Facebook...). Trong khi đó, đa số các cá nhân, tổ chức kinh doanh BĐS đều thực
hiện rao bán BĐS thông qua các trang mạng xã hội dẫn đến khó khăn trong công
tác quản lý nhà nước về thị trường BĐS (về chứng chỉ hành nghề và quy định về
trách nhiệm theo pháp luật, nghĩa vụ thuế với nhà nước,...) (Sóc Trăng)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
45.
|
Nghị định số
44/2022/NĐ-CP ngày 29/6/2022 của Chính phủ
|
1. Chưa có hệ thống phần mềm phục vụ quản
lý, vận hành, khai thác thông tin thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
(Phú Yên)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
2. Chưa có hướng dẫn xác định kinh phí hàng
năm từ ngân sách địa phương cho việc điều tra, thu thập thông tin phục vụ xây
dựng cơ sở dữ liệu về nhà ở và thị trường BĐS; chưa có quy định kinh phí khai
thác hệ thống thông tin của các cá nhân, tổ chức. (Phú Yên)
|
3. Giao bố trí cán bộ quản lý, vận hành hệ
thống nhưng không phát sinh biên chế là không đảm bảo hoàn thành công việc;
không phù hợp với các cơ quan biên chế ít, tình hình tinh giản biên chế cào bằng
và vị trí việc làm do BXD ban hành. (Phú Yên)
|
4. Hướng dẫn phương pháp lập dự toán để địa
phương có căn cứ bố trí nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ duy trì và vận hành
cơ sở dữ liệu thông tin về nhà ở và thị trường BĐS tại địa phương, đảm bảo kết
nối với hệ thống cơ sở dữ liệu của Bộ Xây dựng theo quy định tại Nghị định số
44/2022/NĐ-CP ngày 29/6/2022 của Chính phủ (Quảng Ninh)
|
46.
|
Nghị định số
99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ
|
1. Chỉ thực hiện thủ tục công nhận chủ đầu
tư dự án nhà ở thương mại trong trường hợp có nhiều nhà đầu tư được chấp thuận
chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư theo pháp luật về đầu
tư, không thực hiện công nhận chủ đầu tư đối với trường hợp đấu giá, đấu thầu
dự án. (Phú Yên)
|
Luật nhà ở 2023 đã bỏ thủ tục công nhận chủ đầu
tư
|
47.
|
Luật kinh doanh
BĐS
|
1. Chỉ quy định cơ quan quản lý nhà nước
thông báo đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai, các BĐS khác thì
không có thủ tục, gây khó khăn trong quản lý việc huy động vốn của doanh nghiệp.
(Phú Yên)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
2. Chưa có quy định để kiểm soát các hành
vi thỏa thuận “đặt cọc giữ chỗ”, “góp vốn đầu tư”, “hợp tác đầu tư”. (Phú
Yên)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Quy định về đặt cọc đã được đưa vào Luật KD BĐS
2024 tại các điều khoản sau: khoản 4 Điều 17; điểm d khoản
4, khoản 5 Điều 23; khoản 1, khoản 2 Điều 25. Trong đó, đã quy định rõ: “Chủ
đầu tư dự án bất động sản chỉ được thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho
thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình
xây dựng từ bên đặt cọc để mua, thuê mua khi nhà ở, công trình xây dựng đã có
đủ các điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của Luật này. Thỏa thuận đặt
cọc phải ghi rõ giá bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện
tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng”)
|
48.
|
Luật Nhà ở, Luật
Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu
|
1. Một số nội dung của các Luật chưa thống
nhất, còn chồng chéo. (Thái Nguyên)
Chưa thống nhất được tên gọi chung Khu đô thị, khu
dân cư, khu nhà ở, điểm dân cư nông thôn đối với pháp luật về xây dựng và đất
đai
|
1. Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật KD
BĐS 2023 đã rà soát các vướng mắc, chồng chéo giữa các Luật và chỉnh sửa để
thống nhất các quy định về khu đô thị, khu nhà ở. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
khái niệm về khu dân cư nông thôn (Luật Đất đai), pháp luật về xây dựng chỉ
có khái niệm điểm dân cư nông thôn. Để có cơ sở triển khai thực hiện, đề nghị
Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường có ý kiến về nội dung này.
|
49.
|
Luật Đầu tư
|
1. Chưa quy định các dự án không thuộc trường
hợp phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư tại Điều 41
thì phải hoàn thiện những thủ tục gì khi đã điều chỉnh một số nội dung về quy
hoạch và tổng mức đầu tư. (Thái Nguyên)
|
Khoản 2 Điều 41 Luật Đầu tư
quy định: Nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư trong trường hợp việc điều chỉnh dự án đầu tư làm thay đổi nội dung Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư.
Do đó, trường hợp dự án không thuộc các trường hợp
phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư quy định tại khoản
3 Điều 41 Luật Đầu tư và nhà đầu tư có GCNĐKĐT thì nhà đầu tư thực hiện
thủ tục điều chỉnh GCNĐKĐT nếu việc điều chỉnh dự án làm thay đổi nội dung
GCNĐKĐT.
|
50.
|
Luật Xây dựng và
Luật Đất Đai
|
1. Quy mô cho phép xây dựng nhà ở có thời
hạn rất lớn (nhỏ hơn 3 tầng và diện tích sàn <500m2), tuy nhiên không quy
định về chính sách đền bù công trình khi thu hồi đất mà chỉ hỗ trợ theo Luật
Đất đai, do vậy khó khăn trong công tác thu hồi đất. (Thái Nguyên)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
51.
|
Điều
174 Luật Đất đai
|
1. Vướng mắc trong việc xử lý phần diện
tích đất hạ tầng trong các dự án Khu dân cư khi góp vốn - chuyển nhượng vốn góp
(có giá trị quyền sử dụng đất) trong doanh nghiệp:
Các dự án Khu dân cư thực hiện theo quy hoạch chi
tiết xây dựng (bao gồm: phần diện tích đất giao có thu tiền sử dụng đất để
kinh doanh thương mại và đất đầu tư hạ tầng kỹ thuật giao không thu tiền sử dụng
đất, sau khi hoàn thành việc đầu tư xây dựng theo quy hoạch, chủ đầu tư bàn
giao cho địa phương để quản lý sử dụng vào mục đích công cộng). Chủ đầu tư chỉ
được góp vốn bằng quyền sử dụng đất (phần diện tích đất được Nhà nước giao đất
có thu tiền hoặc thuê đất trả tiền một lần) thành lập Công ty liên doanh và
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp chủ trương đầu tư để thực hiện dự án
theo quy định của pháp luật về đầu tư (bao gồm có phần diện tích đất giao có
thu tiền sử dụng đất để kinh doanh và đất đầu tư hạ tầng kỹ thuật giao không
thu tiền sử dụng đất). Tuy nhiên, pháp luật về đất đai chỉ quy định Chủ đầu
tư được thực hiện góp vốn bằng quyền sử dụng đất (phần diện tích đất giao có
thu tiền sử dụng đất (hoặc cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian
thuê) theo quy định tại Điều 174 Luật Đất đai, Văn phòng
Đăng ký đất đai thực hiện chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bên nhận góp vốn. Đối với phần diện tích đất hạ tầng được giao đất
không thu tiền sử dụng đất (không có quyền được góp vốn), pháp luật Đất đai
không có quy định xử lý đối với diện tích đất hạ tầng. Như vậy, bên nhận góp
vốn không có cơ sở để thực hiện các thủ tục về xây dựng và tiếp tục đầu tư
xây dựng đối với phần đất hạ tầng được giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Do đó, để có cơ sở thực hiện, kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng
dẫn đối với trường hợp nêu trên. (Đồng Nai)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
52.
|
Luật Đất đai năm
2013
|
1. Điều 61, 62 Luật Đất
đai 2013 quy định các dự án thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất; các dự
án còn lại thì sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền
sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo
quy định tại Điều 73 Luật Đất đai. Đối với dự án thuộc
trường hợp nhà nước thu hồi đất thì nhà nước phê duyệt giá đất và phương án bồi
thường giải phóng mặt bằng; các dự án còn lại thì nhà đầu tư phải thỏa thuận
với người đang sử dụng đất (theo Điều 73 Luật Đất đai).
Với quy định như trên, khi triển khai công tác giải phóng mặt bằng dự án thuộc
trường hợp thỏa thuận, người đang có đất trong phạm vi dự án thường yêu cầu
giá trị thỏa thuận cao hơn rất nhiều so với dự án thuộc trường hợp nhà nước
thu hồi đất. Nhiều dự án mà chủ đầu tư không đạt được thỏa thuận với người sử
dụng đất hoặc thỏa thuận được một phần, các thửa đất không liền nhau dẫn đến
thời gian triển khai dự án kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều dự án chủ đầu tư
phải dừng triển khai sau khi thỏa thuận với dân không thành. Một số trường hợp
Dự án đã thỏa thuận được 70-80% diện tích đất theo quy hoạch, phần còn lại
không thể thỏa thuận được nhưng không có quy định về cưỡng chế thu hồi đất
nên cũng không triển khai được dự án. (Thái Nguyên)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
(Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp
quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”. Do đó,
Nhà nước chỉ được thu hồi đất trong những trường hợp được quy định cụ thể;
các dự án còn lại thì nhà đầu tư phải thỏa thuận với người đang sử dụng đất
Tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về
"Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển
có thu nhập cao", Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cũng chỉ đạo: “Tiếp
tục thực hiện cơ chế tự thoả thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển
nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”).
|
53.
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở
xã hội.
|
1. Cá nhân khi vay vốn ưu đãi từ ngân hàng
Chính sách xã hội phải thực hiện việc gửi tiết kiệm tại ngân hàng Chính sách
xã hội Hàng tháng với thời gian tối thiểu 12 tháng và mức gửi theo quy định của
bên cho vay. (Bạc Liêu)
|
Kiến nghị NHCSXH có ý kiến về nội dung này
|
54.
|
Luật kinh doanh
BĐS năm 2014
|
1. Giao dịch BĐS chưa được minh bạch hiện
tượng hai giá kê khai thấp hơn giá giao dịch thực tế nhằm trốn thuế trong
giao dịch BĐS còn khá phổ biến. (Lạng Sơn)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
55.
|
Điều
23 Luật Nhà ở năm 2014
|
1. Đối với các dự án chưa đáp ứng điều kiện
về hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại theo quy định tại
Điều 23 Luật Nhà ở năm 2014 thì hiện nay chưa xác định
được hình thức lựa chọn nhà đầu tư để thực hiện. (Bình Dương)
|
Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đấu
thầu đã quy định thống nhất về các hình thức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự
án. Đề nghị thực hiện theo quy định.
|
56.
|
Luật nhà ở 2014,
Luật đất đai 2013
|
1. Quy định về sở hữu nhà ở của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam: Pháp luật
về đất đai không có quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
nhận chuyển quyền sử dụng đất ngoài dự án để xây dựng nhà ở, dẫn đến hạn chế
quyền phát triển nhà ở của đối tượng này. (Lào Cai)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
57.
|
Luật nhà ở 2014,
Luật đất đai 2013, Luật Quy hoạch
|
1. Chưa quy định cụ thể mối liên hệ, tương
tác của chương trình phát triển nhà ở với hệ thống các quy hoạch khác có liên
quan như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng để làm căn cớ xây dựng
chương trình kế hoạch phát triển nhà ở. (Lào Cai)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
58.
|
Luật nhà ở 2014,
Luật đất đai 2013, Luật Quy hoạch
|
1. Quy định phải xây dựng và phê duyệt kế
hoạch phát triển nhà ở hàng năm làm giảm tính chủ động, thiếu linh hoạt trong
công tác phát triển nhà của địa phương gây khó khăn trong công tác thực hiện,
quản lý, giám sát. (Lào Cai)
|
Luật Nhà ở 2023 đã bỏ quy định về việc xây dựng
và phê duyệt kế hoạch phát triển nhà ở hàng năm
|
59.
|
Luật nhà ở 2014,
Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
|
1. Một số khái niệm trong kinh doanh BĐS như:
"dự án BĐS", "chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS" chưa
được quy định rõ trong Luật. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong quá trình thực hiện đồng thời chưa rõ được phạm vi điều chỉnh của
Luật. (Lào Cai)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Nội dung này đã được quy định cụ thể tại Luật KD
BĐS 2023, cụ thể khái niệm dự án BĐS được quy định tại khoản
3 Điều 3, hợp đồng KD BĐS quy định tại khoản 8 Điều 3;
việc chuyển nhượng hợp đồng KD BĐS được quy định tại mục 2
Chương VI Luật KD BĐS 2023).
|
60.
|
Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014
|
1. Quy định về điều kiện các tổ chức, cá
nhân được kinh doanh BĐS chưa quy định cụ thể. (Lào Cai)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Nội dung này đã được quy định cụ thể tại Điều 9 Luật KD BĐS 2023)
|
61.
|
Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014
|
1. Quy định về điều kiện thành lập sàn
giao dịch BĐS, kinh doanh dịch vụ BĐS chưa quy định cụ thể. (Lào Cai)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Điều kiện hoạt động của sàn giao dịch BĐS đã được
quy định cụ thể tại Điều 55 Luật KD BĐS 2023)
|
62.
|
Luật kinh doanh
BĐS năm 2014, Luật đầu tư năm 2020
|
1. Có sự không thống nhất giữa 02 Luật về
quy định chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư. (Hải Phòng)
|
Luật KD BĐS 2023 đã thống nhất với Luật Đầu tư về
quy định chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư
|
63.
|
Luật đầu tư và Luật
kinh doanh BĐS
|
1. Các dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư (Luật đầu tư năm 2014 và 2020) thì thực hiện chuyển nhượng dự án
theo quy định của pháp luật về đầu tư. Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định
số 02/2022/NĐ-CP thì các dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo
quy định của luật đầu tư sẽ thực hiện thủ tục chuyển nhượng dự án theo quy định
của pháp luật kinh doanh BĐS. (Hải Phòng)
|
Luật KD BĐS 2023 đã thống nhất với Luật Đầu tư về
quy định chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư
NĐ số 96/2024/NĐ-CP đã thay thế Nghị định số
02/2022/NĐ-CP.
|
64.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Hiện nay một số nhà đầu tư chưa thực hiện
nghiêm túc các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng, kinh doanh BĐS gây
khó khăn trong công tác quản lý, tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro ảnh hưởng đến
thị trường BĐS, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà
đầu tư thứ cấp, các khách hàng là cá nhân khi tham gia nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, căn hộ... như: Tổ chức huy động vốn mua bán
nhà ở hình thành trong tương lai khi chưa đủ điều kiện theo quy định, chưa thực
hiện việc bảo lãnh huy động vốn theo quy định, việc quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm trong dự án BĐS chưa đúng với quy hoạch xây dựng, thiết kế công trình được
cấp có thẩm quyền phê duyệt, việc huy động vốn, sử dụng huy động, chưa công
khai minh bạch, số liệu thông tin về dự án chưa đầy đủ, chính xác. (Long
An)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
65.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Các văn bản pháp lý trên về thị trường BĐS,
mặc dù từng bước được hoàn thiện bổ sung, sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều vấn đề
bất cập làm ảnh hưởng đến thị trường BĐS. Cụ thể như việc hợp đồng đặt cọc,
giữ chỗ chưa có quy định trong Luật Kinh doanh BĐS và luật nhà ở nên các chủ
đầu tư đã thực hiện giao kết với khách hàng với các hình thức như hợp đồng đặt
cọc, giữ chỗ, hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng BĐS. Hợp đồng nguyên tắc chuyển
nhượng BĐS... dẫn đến nhiều trường hợp dự án góp vốn nhưng không triển khai dẫn
đến tình trạng khách hàng tranh chấp khiếu kiện đông người gây mất an ninh trật
tự trên địa bàn tỉnh làm ảnh hưởng đến thị trường BĐS. (Long An)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Quy định về đặt cọc đã được đưa vào Luật KD BĐS
2024 tại các điều khoản sau: khoản 4 Điều 17; điểm d khoản
4, khoản 5 Điều 23; khoản 1, khoản 2 Điều 25. Trong đó, đã quy định rõ: “Chủ
đầu tư dự án bất động sản chỉ được thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho
thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công
trình xây dựng từ bên đặt cọc để mua, thuê mua khi nhà ở, công trình xây dựng
đã có đủ các điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của Luật này. Thỏa
thuận đặt cọc phải ghi rõ giá bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng,
phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng”).
|
66.
|
|
1. Tình trạng đầu cơ, mua bán "ngầm"
mua bán đất bằng giấy tay thông qua hình thức lập vi bằng tại các văn phòng
thừa phát lại hoặc mua bán nhà đất đồng sở hữu, trốn thuế (như giá chuyển nhượng
ghi trên hợp đồng không đúng giá thực tế chuyển nhượng) còn khá phổ biến, đặc
biệt là tại các đô thị làm ảnh hưởng đến thị trường BĐS. (Long An)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
67.
|
Luật Đầu tư 2020,
Luật Đấu thầu 2013, Luật Đất đai 2013
|
1. Việc lựa chọn nhà đầu tư thông qua đấu
giá đất, đấu thầu dự án có gắn liền với quyền sử dụng đất, quyết định chủ
trương đầu tư quy định tại các Luật không thống nhất:
Tại Luật Đầu tư quy định các trường hợp quyết định
chủ trương đầu tư; tại Luật Đất đai quy định các trường hợp phải áp dụng hoặc
không áp dụng đấu giá quyền sử dụng đất; tại Luật Đấu thầu quy định các trường
hợp phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Các quy định này chưa quy định rõ loại
đất nào (đất đã giải phóng mặt bằng hay chưa; đất giao, thuê hay nhận chuyển
nhượng;...), các loại dự án nào (lựa chọn nhà đầu tư hay chỉ định nhà đầu tư)
phải đấu giá, đấu thầu và quyết định chủ trương đầu tư cho nên các địa phương
lúng túng trong việc áp dụng các quy định pháp luật đối với dự án đầu tư có sử
dụng đất. Dẫn đến tình trạng không thực hiện đấu giá, đấu thầu dự án đầu tư
có gắn liền với quyền sử dụng đất mà thay vào đó là thực hiện thông qua cơ chế
cấp chủ trương đầu tư.
- Trong công tác đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện dự án phát triển nhà ở, khu đô thị, hiện nay chưa có hướng dẫn chi tiết
đối với trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu
tư theo quy định của pháp luật về đầu tư khi chỉ có 01 nhà đầu tư đăng ký
và đáp ứng yêu cầu sơ bộ về năng lực, kinh nghiệm.
- Tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
Đất đai quy định: b) Đất đã thu hồi theo quy định tại khoản
1 Điều 64 và các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 của
Luật này thì giao cho tổ chức dịch vụ công về đất đai để quản lý, đấu giá
quyền sử dụng đất. Quy định này được hiểu là việc bố trí đất có nguồn gốc nêu
trên phải thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, không phân biệt loại hình dự
án (kể cả dự án nhà ở xã hội). Trong khi đó, theo quy định của Luật nhà ở năm
2014 và Luật Nhà ở năm 2023 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025): Việc lựa chọn
chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội trên đất do Nhà nước quản lý được thực hiện
thông qua hình thức đấu thầu dự án có sử dụng đất (trong trường hợp có từ 02
nhà đầu tư trở lên quan tâm), không có quy định đấu giá quyền sử dụng đất đối
với loại hình dự án này và cũng không quy định về nguồn gốc đất đưa ra sử dụng.
Dẫn đến hiện nay trên địa bàn tỉnh có nhiều dự án phải hủy thầu (Dự án nhà ở
xã hội Tân Lợi) hoặc tạm dừng triển khai (Dự án Khu đô thị dịch vụ Cụm công
nghiệp Tân An, Dự án nhà ở công nhân Công ty Cổ phần Cà phê Trung Nguyên), mặc
dù Bộ Tài nguyên và Một trường đã có Công văn số 9252/BTNMT-QHPTTNĐ ngày
30/10/2023 trả lời, tuy nhiên nội dung hướng dẫn này, chưa tháo gỡ được vướng
mắc mà địa phương gặp phải trong việc áp dụng quy định trong nội bộ pháp luật
đất đai và pháp luật đất đai với pháp luật khác có liên quan, do đó Sở Tài
nguyên và Môi trường đã có Báo cáo số 03/BC-STNMT ngày 09/01/2014 đề nghị
UBND tỉnh xin ý Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Đất đai năm 2013 hoặc căn cứ quy
định tại điểm i khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013,
báo cáo, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện kêu gọi đầu tư, giao
đất cho thuê đất không qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với quỹ đất quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Đất đai năm 2013. (Đắk
Lắk)
|
Hiện nay, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của
hệ thống pháp luật, Luật Đấu thầu năm 2023 và Luật Đất đai năm 2024 phân định
rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu và Luật Đất đai theo hướng:
- Luật Đấu thầu quy định về hình thức, hồ sơ,
trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
- Luật Đất đai quy định dự án đầu tư có sử dụng đất
thuộc trường hợp, điều kiện để tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện
dự án có sử dụng đất, gồm:
+ Các Điều 124, 125, 126, 127 của
Luật Đất đai năm 2024 quy định về các trường hợp giao đất, cho thuê đất
cho nhà đầu tư thông qua: (i) không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (ii) đấu giá quyền sử dụng đất; (iii) đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (iv) thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất
hoặc đang có quyền sử dụng đất.
+ Khoản 3 và khoản 4 Điều 126 của
Luật Đất đai quy định điều kiện tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư,
trong đó gồm điều kiện “thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự
án đầu tư có sử dụng đất được HĐND cấp tỉnh quyết định”.
- Theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 116 Luật Đất đai năm 2024, đối với dự án thuộc danh mục quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 67 của Luật này thì một trong các
căn cứ để giao đất cho thuê đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu,
cho phép chuyển mục đích là kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và quyết định đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư công hoặc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với
chấp thuận nhà đầu tư hoặc quyết định chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư, pháp luật về nhà ở hoặc văn bản phê duyệt kết quả lựa chọn
nhà đầu tư đối với dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Như vậy, pháp luật về đất đai đã có quy định về
giao đất, cho thuê đất trong trường hợp chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản
4 Điều 29 Luật Đầu tư, trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời
chấp thuận nhà đầu tư chỉ áp dụng trong một số trường hợp. Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Luật Đầu tư (sửa đổi, bổ sung tại Luật Đất
đai 2024), cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục chấp thuận nhà đầu tư
trong các trường hợp sau đây: a) Đấu giá quyền sử dụng đất không thành theo
quy định của Luật Đất đai; b) Chỉ có một nhà đầu tư đáp ứng điều kiện mời
quan tâm trong trường hợp pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực quy định xác định
số lượng nhà đầu tư quan tâm khi thực hiện thủ tục lựa chọn nhà đầu tư. Điều 30 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP đã quy định chi tiết thủ
tục chấp thuận nhà đầu tư theo pháp luật về đầu tư. Theo quy định trên, không
có trường hợp nào là chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu
tư theo quy định của pháp luật khi chỉ có 01 nhà đầu tư đăng ký và đáp ứng
yêu cầu sơ bộ về năng lực, kinh nghiệm.
Đối với dự án NOXH, đề nghị tổng hợp ý kiến của Bộ
Xây dựng.
|
68.
|
Luật Nhà ở 2014,
Luật Đầu tư 2020
|
1. Trong quá trình triển khai thực hiện
các dự án đầu tư phát triển đô thị và dự án phát triển nhà ở trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk có một số bất cập, vướng mắc trong việc áp dụng thực hiện Luật Nhà ở
2014, Luật Đầu tư 2020: Hiện nay, tỉnh Đắk Lắk đang triển khai một số dự án
phát triển nhà ở và khu đô thị đã lựa chọn được chủ đầu tư theo hình thức đấu
thầu thực hiện dự án.
Tuy nhiên khi triển khai thực hiện công tác chấp
thuận chủ trương đầu tư các dự án theo Luật Đầu tư 2020 đối với trường hợp
Nhà đầu tư đã trúng đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, qua rà soát xác định lại
các nội dung có liên quan đến quy hoạch, đất đai, xây dựng và xác định tổng mức
đầu tư của dự án thì có sự chênh lệch (tăng tổng mức đầu tư trên 20%) so với
tổng mức đầu tư đã được xác định tại kết quả lựa chọn nhà đầu tư do nhiều
nguyên nhân như sau: (1) Trượt giá do giá chi phí nguyên vật liệu, giá ca máy
và thiết bị thi công, đơn giá nhân công hiện nay tăng cao so với chi phí được
xác định tại thời điểm lập hồ sơ mời thầu; (2) Có sự thay đổi (tăng) do thay
đổi suất đầu tư theo quy định: Thời điểm lập hồ sơ mời thầu việc xác định tổng
mức đầu tư áp dụng định mức quy định tại Quyết định 1291/QĐ-BXD ngày
12/10/2018, đến nay trong quá trình rà soát áp dụng theo quy định tại Quyết định
65/QĐ-BXD ngày 20/01/2021 của Bộ Xây dựng; có sự điều chỉnh theo hướng tăng đối
với suất đầu tư các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, công trình
thương mại, nhà ở... (3) Quá trình đề xuất, đấu thầu thực hiện dự án thi khu
vực đề xuất chỉ có quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000, chưa có quy hoạch chi tiết
xây dựng tỷ lệ 1/500, do đó một số nội dung chưa có cơ sở xác định trong dự
án, cụ thể như: Các trục đường khu vực, các trục đường tạo điểm nhấn về kiến
trúc cảnh quan, trục đường cửa ngõ của khu đô thị... chưa xác định được hình
thức đầu tư, chi phí đầu tư, chưa xác định được các khu vực đề xuất chuyển
quyền sử dụng đất cho người dân tự xây dựng theo quy hoạch chi tiết được duyệt
(được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền)... Khi
có kết quả lựa chọn nhà đầu tư, Nhà đầu tư triển khai lập, phê duyệt quy hoạch
chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 thì các trục đường này được xác định phải được
đầu tư xây dựng đồng bộ; đồng thời, Nhà đầu tư có đề xuất được xây dựng
thêm một số dãy nhà ở thương mại tại một số tuyến. Để công tác Chấp thuận
chủ trương đầu tư các dự án được triển khai kịp thời, đảm bảo các quy định của
pháp luật, UBND tỉnh Đắk Lắk đã có Công văn số 10174/UBND-CN ngày
17/01/2023 đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, hướng dẫn: “Nội
dung chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư dự án có được
phép tăng tổng mức đầu tư so với tổng mức đầu tư đã xác định tại kết quả đấu
thầu lựa chọn nhà đầu tư hay không ?”; đến nay nội dung này vẫn chưa được hướng
dẫn. (Đắk Lắk)
|
Theo quy định tại khoản 3 Điều
60 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/2/2020 của Chính Phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư, nhà đầu
tư trúng thầu hoặc doanh nghiệp dự án do nhà đầu tư trúng thầu thành lập để
thực hiện dự án triển khai thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất theo quy định
tại hợp đồng, pháp luật về đầu tư, xây dựng, đất đai, quy hoạch, nhà ở, kinh
doanh bất động sản và các pháp luật khác có liên quan. Theo đó, các thủ tục
liên quan đến thực hiện dự án, trong đó gồm điều chỉnh dự án đầu tư tuân thủ
theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Khoản 1 Điều 76 Luật Đấu thầu
2023 quy định các trường hợp được sửa đổi hợp đồng dự án đầu tư kinh
doanh, bao gồm: a) Điều chỉnh dự án đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp
luật về đầu tư dẫn đến thay đổi nội dung hợp đồng đối với dự án thuộc diện chấp
thuận chủ trương đầu tư. Việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp này chỉ được
thực hiện sau khi cơ quan có thẩm quyền chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu
tư. Nhà đầu tư phải bảo đảm đáp ứng năng lực kỹ thuật, tài chính để thực hiện
sau khi điều chỉnh dự án đầu tư kinh doanh; b) Chuyển nhượng dự án đầu tư
kinh doanh theo quy định của pháp luật về đầu tư và quy định khác của pháp luật
có liên quan; c) Trường hợp khác được các bên thỏa thuận tại hợp đồng phù hợp
với quy định của pháp luật.
Điều 41 Luật Đầu tư quy định
về việc điều chỉnh dự án. Trong đó, khoản 3 Điều 41 quy
định về các trường hợp phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án. Đề nghị tỉnh
Đắk Lắk căn cứ các quy định nêu trên để thực hiện.
|
69.
|
Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014
|
1. Theo khoản 1 Điều 48 Luật
Kinh doanh BĐS năm 2014 quy định: “Chủ đầu tư dự án BĐS được chuyển nhượng
toàn bộ hoặc một phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư kinh
doanh” và khoản 3 Điều 49 Luật này cũng quy định: “Chủ đầu
tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS phải là doanh nghiệp
kinh doanh BĐS,...”. Trong khi đó khoản 18, Điều 3 Luật Đầu
tư năm 2020 đưa ra định nghĩa: “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài
và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. “Như vậy, việc sử dụng không thống
nhất giữa thuật ngữ “nhà đầu tư” trong Luật Đầu tư và “chủ đầu tư” trong Luật
Kinh doanh BĐS có thể gây nhầm lẫn, áp dụng thiếu thống nhất trong thực hiện
pháp luật”. (Đắk Lắk)
|
Theo quy định tại điểm d khoản 1
Điều 46 Luật Đầu tư, một trong các điều kiện chuyển nhượng toàn bộ hoặc 1
phần dự án BĐS là đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh
bất động sản đối với dự án bất động sản. Do đó, trường hợp chuyển nhượng toàn
bộ hoặc 1 phần dự án BĐS thì phải đáp ứng các điều kiện chuyển nhượng theo
pháp luật về kinh doanh BĐS, trong đó có điều kiện về nhà đầu tư/chủ đầu tư
nhận chuyển nhượng dự án BĐS.
|
70.
|
Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của các Luật về thuế ngày 26/11/2014 và các văn bản hướng dẫn
thực hiện (Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014; Thông tư số
96/2015/TT-BTC ngày 22/06/2015,...)
|
1. Từ năm 2015, căn cứ Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của các Luật về thuế ngày 26/11/2014 và các văn bản hướng dẫn
thực hiện (Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014; Thông tư số
96/2015/TT-BTC ngày 22/06/2015, ...) số lỗ của chuyển nhượng BĐS được bù trừ
với lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm cả thu nhập khác. Sau khi
bù trừ vẫn còn lỗ thì tiếp tục được chuyển sang các năm tiếp theo trong thời
hạn chuyển lỗ 05 năm theo quy định. Tuy nhiên, nếu hoạt động chuyển nhượng
BĐS có lãi mà hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp bị lỗ thì doanh nghiệp
vẫn phải nộp vào ngân sách nhà nước phần lãi chuyển nhượng BĐS theo quy định.
Quy định này chưa thật sự công bằng với các doanh nghiệp kinh doanh BĐS, đặc
biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp đa ngành nghề, gây bất cập và
thiếu chủ động tài chính cho doanh nghiệp. (Đắk Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
71.
|
Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về
thuế ngày 26/11/2014
|
1. Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế ngày
26/11/2014 và các văn bản hướng dẫn thực hiện, từ kỳ tính thuế thu nhập cá
nhân từ năm 2015 trở đi, chỉ có một căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển
nhượng BĐS duy nhất, đó là giá chuyển nhượng từng lần và thuế suất 2%. Quy định
này đơn giản về xác định số thuế thu nhập cá nhân phải nộp cũng như thủ tục nộp
thuế. Tuy nhiên quy định này khó bảo đảm được yếu tố công bằng, minh bạch, đặc
biệt là yếu tố về giá chuyển nhượng. (Đắk Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
72.
|
Luật Thuế Thu nhập
cá nhân
|
1. Tại Điều 4 Luật Thuế
Thu nhập cá nhân quy định: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng
đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ
có một nhà ở, đất ở duy nhất thì được miễn thuế; đồng thời, người chuyển nhượng
BĐS (BĐS) tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực về kê khai của mình.
Tuy nhiên, đây chính là kẽ hở để không ít người có nhiều nhà ở, đất ở khi
chuyển nhượng sẵn sàng kê khai là tài sản duy nhất để không phải nộp thuế. (Đắk
Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
73.
|
Nghị định số
126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020
|
1. Theo quy định tại khoản
8, khoản 11 Điều 14 và khoản 1 Điều 15 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020
thì trường hợp mua bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ không
theo giá trị giao dịch trên thị trường và thực hiện các giao dịch không đúng
với bản chất kinh tế, không đúng thực tế phát sinh nhằm mục đích giảm nghĩa vụ
thuế của NNT thì sẽ bị cơ quan Thuế ấn định Thuế, tuy nhiên hiện nay chưa có
cơ sở dữ liệu để cơ quan Thuế có thể xác định đâu là giá thị trường để thực
hiện ấn định thuế. (Đắk Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
74.
|
Thông tư số
111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính
|
1. Xác định thuế TNCN từ hoạt động ủy quyền
chuyển nhượng BĐS: Tại khoản 3 Điều 1 và khoản 5 Điều 2
Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định thu
nhập tính thuế là thu nhập từ việc ủy quyền quản lý BĐS mà người được ủy quyền
có quyền chuyển nhượng BĐS hoặc có quyền như người sở hữu BĐS theo quy định của
pháp luật, tuy nhiên theo quy định tại Điều 562 Bộ luật dân
sự 2015, hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, bên được ủy quyền
có nghĩa vụ thực hiện các công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền
chỉ phải trả thù lao, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Việc ủy
quyền chuyển nhượng BĐS không làm phát sinh sự chuyển dịch quyền sở hữu, quyền
sử dụng BĐS từ người ủy quyền sang người được ủy quyền mà chỉ là sự thay đổi
chủ thể thực hiện các quyền của chủ sở hữu BĐS, không phát sinh thu nhập chịu
thuế. Như vậy, việc xác định hoạt động ủy quyền chuyển nhượng BĐS có phát
sinh thu nhập chịu thuế TNCN hay không còn gặp khó khăn và chưa chặt chẽ về mặt
cơ sở pháp lý. (Đắk Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
75.
|
Nghị định số
10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022
|
1. Căn cứ tính thuế TNCN đối với chuyển nhượng
quyền sử dụng đất gắn với công trình xây dựng trên đất quy định: Phần giá trị
nhà, kết cấu hạ tầng và công trình kiến trúc gắn liền với đất được xác định
căn cứ theo giá tính lệ phí trước bạ nhà do UBND cấp tỉnh quy định. Tuy nhiên
theo quy định tại Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ chỉ
quy định UBND tỉnh ban hành giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà, không quy định
đối với các kết cấu hạ tầng, vật kiến trúc. (Đắk Lắk)
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
76.
|
Nghị định
30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư
|
1. Dự án được lựa chọn thông qua hình thức
đấu thầu đối với quỹ đất có giá trị thương mại cao. Tuy nhiên, chưa quy định
cụ thể các tiêu chí xác định quỹ đất có giá trị thương mại cao. (Quảng
Ngãi)
|
- Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn
nhà đầu tư đã thay thế Nghị định 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015. Điều 108 Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính
phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư đã sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020. Trong đó, có
điều chỉnh phạm vi điều chỉnh, loại bỏ quy định về quỹ đất có giá trị thương
mại cao.
- Theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 2 của Luật Đấu thầu năm 2023, hoạt động lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện dự án đầu tư kinh doanh gồm dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc trường hợp
phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 126 Luật đất đai 2024, đối với dự án đối với dự án khu đô thị có
công năng phục vụ hỗn hợp, đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
với nhà ở theo quy định của pháp luật về xây dựng để xây dựng mới hoặc cải tạo,
chỉnh trang đô thị; dự án khu dân cư nông thôn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quy định các tiêu chí để quyết định thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện dự án đầu tư có sử dụng đất phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương.
Do đó, đối với các dự án khu đô thị, khu dân cư
nông thôn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 126 Luật Đất
đai, căn cứ tình hình thực tế của địa phương, HĐND quyết định tiêu chí
xác định dự án thuộc trường hợp đấu thầu.
|
77.
|
Khoản
4 Điều 41 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
|
1. “Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết Điều này”. Tuy nhiên, chưa có văn
bản quy phạm pháp luật của Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và môi trường quy định
nội dung này. (Quảng Ngãi)
|
Đề nghị Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến và nội dung này.
|
78.
|
Luật Nhà ở, Luật Đất
đai, Luật Đầu tư
|
1. Vướng mắc trong quy định về việc lựa chọn
nhà đầu tư thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư và chỉ định nhà đầu tư. (Quảng Ngãi)
|
Vướng mắc này đã được tháo gỡ sau khi ban hành Luật
Đầu tư 2020, Luật Nhà ở 2023 và Luật Đất đai 2024. Cụ thể, Luật Đất đai 2024
đã quy định rõ các trường hợp giao đất, cho thuê đất không đấu giá, đấu thầu
(Điều 124); giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền
sử dụng đất (Điều 125) và giao đất, cho thuê đất thông
qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư (Điều 126).
|
79.
|
Khoản
4 Điều 23 Luật Nhà ở
|
1. “Nhận chuyển quyền sử dụng đất ở theo
quy định của pháp luật về đất đai để xây dựng nhà ở thương mại”, đa phần các
dự án BĐS khi chủ đầu tư thực hiện giải phóng mặt bằng đều là đất nông nghiệp
và công đoạn triển khai dự án song song với việc chuyển đổi mục đích sử dụng;
nhiều nhà đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất phi
nông nghiệp không phải là đất ở, phù hợp với quy hoạch để thực hiện dự án đầu
tư. Như vậy, Luật không quy định cụ thể trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất không phải đất ở trong phạm vi thực hiện dự án thì có được
chấp thuận chủ trương đầu tư hay không. (Quảng Ngãi)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Trong quá trình dự thảo Luật số 03/2022/QH15, Luật
Nhà ở (sửa đổi), Luật Đất đai (sửa đổi), phần đa ý kiến đại biểu Quốc hội đã
kiến nghị cần thiết phải quy định chặt chẽ các loại đất được chuyển mục đích
sử dụng đất, được chuyển nhượng để thực hiện dự án nhà ở thương mại; chỉ chấp
thuận hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại
trong trường hợp có quyền sử dụng đất ở, đất ở và đất khác).
|
80.
|
Luật Kinh doanh
BĐS, Luật Đất đai, Luật Đầu tư
|
1. Luật kinh doanh BĐS năm 2014, Luật Đất
đai 2013, Luật Đầu tư, chưa thấy quy định rõ ràng về chuyển nhượng một phần dự
án BĐS đất thương mại, dịch vụ chưa hoàn thành đầu tư xây dựng để tiếp tục đầu
tư xây dựng dự án. (Quảng Ngãi)
|
Pháp luật về đầu tư đã quy định rõ ràng về việc nảy,
cụ thể:
Khoản 1 Điều 41 Luật Đầu tư đã
quy định trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nhà đầu tư có quyền chuyển
nhượng dự án. Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP
quy định: “Nhà đầu tư nhận chuyển nhượng được kế thừa quyền, nghĩa vụ thực
hiện dự án đầu tư của nhà đầu tư chuyển nhượng”.
|
|
1. Phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014 quy định về kinh doanh BĐS; trong đó quyền sử dụng đất là một
trong các loại BĐS được đưa vào kinh doanh. Mặt khác, các giao dịch về quyền
sử dụng đất cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đất đai năm 2013. Luật
Kinh doanh BĐS chưa quy định các trường hợp giao dịch quyền sử dụng đất (chuyển
nhượng, cho thuê) theo các điều kiện nào, tiêu chí nào, trường hợp nào là
kinh doanh BĐS để phân định với các giao dịch quyền sử dụng đất theo quy định
của Luật Đất đai. Luật Kinh doanh BĐS chưa có quy định về các điều kiện
riêng, đặc thù đối với quyền sử dụng đất được đưa vào kinh doanh khác so với
điều kiện đối với quyền sử dụng đất được giao dịch theo quy định của Luật Đất
đai. Các điều kiện đối với các loại đất được phép kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh BĐS cũng giống như các điều
kiện đối với quyền sử dụng đất phải đáp ứng để được giao dịch quy định trong
Luật Đất đai. Khoản 2 Điều 37 của Luật Kinh doanh BĐS
quy định dẫn chiếu sang thực hiện theo Luật Đất đai về mục đích sử dụng đất,
thời hạn sử dụng đất và đăng ký đất đai trong việc chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại quyền sử dụng đất. Trong khi Điều 194 Luật Đất
đai lại quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thực
hiện dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở; dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê.
Khoản 2 Điều 194 Luật Đất đai
quy định về các điều kiện phải đáp ứng trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất gắn với chuyển nhượng toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để
chuyển nhượng hoặc cho thuê; trong khi Luật Kinh doanh BĐS chỉ quy định về
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS mà không có quy định về chuyển
quyền sử dụng đất gắn với chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS. Các
bất cập, chồng chéo nêu trên dẫn đến nhiều quy định về kinh doanh quyền sử dụng
đất trong Luật Kinh doanh BĐS và Luật Đất đai không phát huy được hiệu lực thực
thi vì không thực hiện theo luật này thì thực hiện theo luật kia và ngược lại.
Luật Kinh doanh BĐS không có quy định về áp dụng quy định pháp luật; do vậy,
trong những trường hợp có sự quy định chồng chéo, giao thoa giữa Luật Kinh
doanh BĐS với các Luật khác về một số hoạt động kinh doanh BĐS thì không có
căn cứ, cơ sở để xác định áp dụng các quy định thuộc lĩnh vực chuyên ngành của
Luật Kinh doanh BĐS. Điều này dẫn đến làm giảm hiệu quả, hiệu lực của các quy
định pháp luật; gây phức tạp, khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định
pháp luật. (TP. Hồ Chí Minh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Chương IV Luật Kinh doanh BĐS
đã quy định về kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự
án bất động sản, bao gồm: hình thức; yêu cầu; nghĩa vụ các bên; điều kiện
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại. Các nội dung này không trùng lặp,
trùng lấn với Luật Đất đai 2024. Ngoài ra, khoản 2 Điều 29
Luật KD BĐS 2023 quy định: "Việc chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản phải
đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 31 và Điều 35 của Luật
này và tuân thủ các quy định về hình thức, mục đích, thời hạn sử dụng đất,
đăng ký đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai". Khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai 2024 đã quy định: "Trường
hợp chủ đầu tư chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự
án bất động sản thì ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều này còn phải đáp ứng điều kiện khác theo quy định của Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Nhà ở". Như vậy, pháp luật về đất đai và kinh doanh
BĐS đã dẫn chiếu nhau để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp
luật).
|
81.
|
Về xác định sơ bộ
chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng dự án (m2) Báo cáo số 191/BC-SXD ngày
16/10/2023, Việc thực hiện Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Hậu Giang đến
năm 2025 và định hướng đến năm 2030
|
1. Việc xác định sơ bộ chi phí bồi thường
giải phóng mặt bằng dự án (m2) được ngành tài nguyên xác nhận trong quá trình
lập hồ sơ đề xuất dự án, đến khi dự án được cấp có thẩm quyền chấp thuận Nhà
đầu tư thì sơ bộ chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng dự án (m2), sau khi
được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định có biến
động theo chiều hướng tăng giá (do giá đất hàng năm điều chỉnh, biến động về
đất ở, công trình xây dựng trên đất...) (Hậu Giang)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và môi trường có ý kiến về
nội dung này.
|
82.
|
Về thủ tục đầu tư
xây dựng các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị
|
1. Thủ tục lựa chọn chủ đầu tư cho dự án nhà
ở thương mại, khu đô thị còn mất nhiều thời gian, thủ tục, liên quan đến nhiều
ngành, lĩnh vực. (Hậu Giang)
|
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện,
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng
đất. Trong đó, một trong các mục tiêu hoàn thiện dự thảo Nghị định là đơn giản
hóa thủ tục, cắt giảm thời gian, phân cấp triệt để: cụ thể là:
- Lồng ghép, cắt giảm một số thủ tục trung gian
như: cắt giảm thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư,
thủ tục thẩm định hồ sơ mời quan tâm, danh sách nhà đầu tư đáp ứng về kỹ thuật;
cho phép lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ mời quan tâm đồng thời với quá trình thực
hiện thủ tục về quy hoạch, chủ trương đầu tư.
- Chỉ quy định thời gian tối thiểu để nhà đầu tư
chuẩn bị hồ sơ dự thầu; thời gian lập, thẩm định, trình phê duyệt các nội
dung trong đấu thầu do người có thẩm quyền quyết định và chịu trách nhiệm về
tiến độ, chất lượng.
- Đẩy nhanh lộ trình lựa chọn nhà đầu tư qua mạng,
trong đó đẩy mạnh phân cấp đăng tải thông tin trong đấu thầu thông qua tạo lập,
phân quyền tài khoản nghiệp vụ cho cơ quan trực thuộc cơ quan có thẩm quyền.
|
83.
|
Theo khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu năm 2013 quy định: “Lựa chọn
nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), dự án
đầu tư có sử dụng đất” và khoản 1 Điều 1 Nghị định số
25/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ quy định dự án sử dụng
đất thuộc trường hợp đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư: “Dự án đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP); và dự án đầu tư có sử dụng đất để xây dựng
nhà ở thương mại; công trình thương mại, dịch vụ: công trình đa năng, tổ hợp
đa năng cho mục đích kinh doanh”.
|
1. Theo quy định này các dự án đầu tư có sử
dụng đất bắt buộc phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
- Tại Điều 118 Luật Đất đai năm
2013, việc đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê hoặc cho thuê mua;
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê... chỉ quy định
việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất mà không quy
định trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
- Tương tự, tại điểm b khoản 1
Điều 119 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Điều kiện để tổ chức thực hiện đấu
giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất là khi “đất đã được
giải phóng mặt bằng”. Trong khi đó theo quy định tại khoản 3
Điều 1 Luật Đấu thầu 2013 và Điều 22 Luật Nhà ở 2013
quy định đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án nhà ở thương mại có sử
dụng đất được thực hiện thông qua 2 hình thức: đấu giá quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai và đấu thầu dự án. Có nghĩa áp dụng đấu giá
và đấu thầu kể cả đối với đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Bất cập này làm cho nhiều địa phương lúng túng, gặp
khó khăn trong việc áp dụng hai hình thức đấu giá và đấu thầu.
- Hiện nay với giá bồi thường GPMB còn rất nhiều
khó khăn trong việc xác định giá đất để thực thực hiện các công tác như: Đối
với trường hợp đất hỗn hợp gồm đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt
bằng và đất do Nhà nước quản lý (đất sạch) khi thực hiện dự án; Đấu thầu, đấu
giá lựa chọn nhà đầu tư. Đây là vướng mắc, bất cập dẫn tới không giao đất kịp
thời cho nhà đầu tư, dự án kéo dài, lãng phí máy móc, nhân lực, phát sinh chi
phí, chậm tiến độ công trình. (Hậu Giang)
|
Hiện nay, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của
hệ thống pháp luật, Luật Đấu thầu năm 2023 và Luật Đất đai năm 2024 phân định
rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu và Luật Đất đai theo hướng:
- Luật Đấu thầu quy định về hình thức, hồ sơ,
trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
- Luật Đất đai quy định dự án đầu tư có sử dụng đất
thuộc trường hợp, điều kiện để tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện
dự án có sử dụng đất, gồm:
+ Các Điều 124, 125, 126, 127 của
Luật Đất đai năm 2024 quy định về các trường hợp giao đất, cho thuê đất
cho nhà đầu tư thông qua: (i) không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (ii) đấu giá quyền sử dụng đất; (iii) đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (iv) thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất
hoặc đang có quyền sử dụng đất.
+ Khoản 3 và khoản 4 Điều 126 của
Luật Đất đai quy định điều kiện tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư,
trong đó gồm điều kiện “thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu
tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
Luật Nhà ở 2023 (khoản 2, khoản
3 Điều 36 Luật Nhà ở) cũng thống nhất các quy định về việc lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án. Đồng thời Luật Đất đai 2024 cũng đã sửa đổi quy định về lựa
chọn nhà đầu tư tại Luật Đầu tư 2020 để thống nhất các quy định tại các Luật
trên
2. Đối với trường hợp vướng mắc khi thực hiện dự
án trên khu đất hỗn hợp, theo quy định tại khoản 2 Điều 126
Luật Đất đai, trường hợp trong khu đất thực hiện dự án có phần đất quy định
tại khoản 1 Điều 217 của Luật này thì Nhà nước thu hồi để
giao, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đối
với cả khu đất.
|
84.
|
Điều
4 Nghị định số 35/2023/NĐ-CP ngày 20/6/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 11/2013/NĐ-CP
|
1. Quy định pháp luật chưa quy định cụ thể
các nội dung như: (i)- Quản lý tiến độ xây dựng do người dân tự xây dựng đối
với các lô đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô,
bán nền thuộc trách nhiệm của Nhà đầu tư hay của người dân; (ii)- Chưa quy định
cụ thể cách thức thực hiện việc phân lô, bán nền cho người dân tự xây dựng
nhà ở. (Nghệ An)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Nghị định số 95/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở đã quy định chặt chẽ
hơn trách nhiệm trong việc quản lý tiến độ xây dựng của các hạng mục phân lô,
bán nền: khoản 4 Điều 22, điểm m khoản 1 Điều 93; khoản 5 Điều 5 Luật Nhà ở, mục 2 Chương
IV Luật Kinh doanh bất động sản)
|
85.
|
Luật Đất đai; Luật
Đấu thầu
|
1. Pháp luật chưa quy định chi tiết về áp
dụng hình thức lựa chọn nhà đầu tư (đấu giá QSDD hay đấu thầu lựa chọn NĐT)
trong trường hợp khu đất thực hiện dự án có một phần là đất đã được GPMB (đất
sạch, phải đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai) và phần còn lại
phải thực hiện đền bù GPMB (đất chưa sạch, phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
theo pháp luật Đấu thầu). (Nghệ An)
|
Luật Đất đai 2024 đã quy định rõ các trường hợp
giao đất, cho thuê đất không đấu giá, đấu thầu (Điều 124);
giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất (Điều
125) và giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư (Điều 126).
Trong đó, theo quy định tại khoản
2 Điều 126 của Luật đất đai 2024, quỹ đất để đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất có phần diện tích thuộc trường hợp Nhà
nước thu hồi đất quy định tại Điều 79 của Luật này. Trường
hợp trong khu đất thực hiện dự án có phần đất quy định tại khoản
1 Điều 217 của Luật này thì Nhà nước thu hồi để giao, cho thuê đất thông
qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đối với cả khu đất.
Ngoài ra, liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện dự án nhà ở thương mại, đề nghị tổng hợp ý kiến của Bộ Xây dựng.
|
86.
|
Nghị định số
35/2023 ngày 20/6/2023 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng và Nghị định số
148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số
nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai
|
1. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về quản
lý tiến độ dự án nhà ở sau khi cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã đầu
tư xây dựng hạ tầng cho người dân tự do xây dựng nhà ở dưới hình thức phân lô
bán nền theo Nghị định số 35/2023 ngày 20/6/2023 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ
Xây dựng và Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai (vì
sau khi nhận chuyển nhượng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người
dân được quyền thực hiện việc chuyển nhượng, tặng, cho, thừa kế, góp vốn,...
theo quy định của pháp luật về đất đai). (Nghệ An)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Nghị định số 95/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở đã quy định chặt chẽ
hơn trách nhiệm trong việc quản lý tiến độ xây dựng của các hạng mục phân lô,
bán nền: khoản 4 Điều 22, điểm m khoản 1 Điều 93)
|
87.
|
Điểm
b Khoản 2 Điều 31 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 25/2020 ngày 28/2/2020 của
Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 4 Điều 108 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; điểm a khoản 2 Điều
62 Luật Đất đai 2013
|
1. Về vướng mắc trong thu hồi đất trong
Khu kinh tế giữa pháp luật đầu tư và pháp luật đấu thầu với pháp luật đất đai
đối với dự án thuộc trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư:
Theo Điểm b Khoản 2 Điều 31 Nghị
định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã quy định các tài liệu, giấy
tờ giải trình đề xuất hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư: “b) Bản sao
Danh mục dự án thu hồi đất đã được HĐND cấp tỉnh thông qua; giấy tờ chứng
minh đất chưa được giải phóng mặt bằng (nếu có), tài liệu giải trình khác (nếu
có) trong trường hợp đề xuất lựa chọn nhà đầu tư thông qua đấu thầu dự án có
sử dụng đất.” Theo Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 25/2020
ngày 28/2/2020 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản
4 Điều 108 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, quy định dự án đầu
tư có sử dụng đất phải lựa chọn nhà đầu tư theo quy định Nghị định này (đấu
thầu lựa chọn nhà đầu tư) khi đáp ứng các điều kiện sau:“2. Thuộc danh mục dự
án cần thu hồi đất được duyệt theo quy định của pháp luật về đất đai, thuộc
khu đất do Nhà nước đang quản lý, sử dụng mà sẽ được UBND cấp tỉnh hoặc Ban
quản lý khu kinh tế giao đất, cho thuê đất cho nhà đầu tư được chấp thuận.”
Tuy nhiên, đối với các dự án trong các Khu chức năng của Khu kinh tế thuộc
trường hợp nhà nước thu hồi đất theo quy định điểm a khoản 2
Điều 62 Luật Đất đai 2013 thì cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất căn cứ
vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của UBND cấp huyện được phê duyệt để thu hồi
mà không phải trình HĐND tỉnh thông qua danh mục thu hồi đất dự án đầu tư.
Như vậy, đang có sự không thống nhất về tài liệu, giấy tờ giải trình việc thu
hồi đất để đề xuất hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án. (Nghệ
An)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này.
(Điều 203 Luật Đất đai 2024
quy định về đất sử dụng cho khu kinh tế. Trong đó quy định: việc thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất trong khu kinh tế thực hiện theo quy định của Luật
này. Quy định này được hướng dẫn chi tiết tại Điều 94 Nghị định
số 102/2024/NĐ-CP)
|
88.
|
Điều
13 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của Chính phủ được sửa đổi,
bổ sung tại Khoản 6 Điều 108 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP
ngày 31/3/2021 của Chính Phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Đầu tư
|
1. Về thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với
các dự án nhà ở, khu đô thị thuộc trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
nhưng chỉ có 01 nhà đầu tư đáp ứng sơ bộ năng lực kinh nghiệm: Theo quy định
tại Điều 13 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của
Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 6 Điều 108 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính Phủ Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, việc đánh giá sơ bộ năng lực kinh
nghiệm của nhà đầu tư đăng ký thực hiện dự án chỉ nhằm xác định số lượng nhà
đầu tư đáp ứng yêu cầu sơ bộ về năng lực, kinh nghiệm làm căn cứ áp dụng thủ
tục chấp thuận nhà đầu tư hay tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn nhà đầu
tư.
Do vậy trường hợp chỉ 01 nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu
sơ bộ năng lực kinh nghiệm thực hiện dự án và được chấp thuận theo quy định của
pháp luật đầu tư không phải là nhà đầu tư trúng đấu thầu thực hiện dự án.
Trong trường hợp này, việc giao đất, cho thuê đất không được áp dụng theo quy
định tại Khoản 2 Điều 60 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày
28/02/2020 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 9
Điều 108 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính Phủ.
Hiện nay, pháp luật đất đai chưa quy định cụ thể
về thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tư được chấp thuận theo quy
định của pháp luật đầu tư như trên nên dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc
giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án. (Nghệ An)
|
Theo quy định tại điểm a khoản 3
Điều 116 Luật Đất đai năm 2024 đối với dự án thuộc danh mục quy định tại điểm b khoản 3 Điều 67 của Luật này thì một trong các căn cứ
để giao đất cho thuê đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu, cho
phép chuyển mục đích là kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt và quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật
về đầu tư công hoặc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp
thuận nhà đầu tư hoặc quyết định chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư, pháp luật về nhà ở hoặc văn bản phê duyệt kết quả lựa chọn
nhà đầu tư đối với dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Như vậy, pháp luật về đất đai đã có quy định về
giao đất, cho thuê đất trong trường hợp chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư.
|
89.
|
Điều
19 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở
|
1. Tại điểm b khoản 2 Điều
19 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, quy định: “…Chủ đầu tư
phải có văn bản gửi Sở Xây dựng nơi có nhà ở kèm theo giấy tờ chứng minh nhà ở
có đủ điều kiện được bán, cho thuê mua theo quy định tại Khoản
1 Điều 55 của Luật Kinh doanh BĐS; trường hợp có thế chấp dự án đầu tư
xây dựng hoặc thế chấp nhà ở sẽ bán, cho thuê mua thì chủ đầu tư phải gửi kèm
theo giấy tờ chứng minh đã giải chấp hoặc biên bản thống nhất của bên mua,
bên thuê mua nhà ở và bên nhận thế chấp về việc không phải giải chấp và được
mua bán, thuê mua nhà ở đó; trường hợp không có thế chấp dự án hoặc thế chấp
nhà ở sẽ bán, cho thuê mua thì chủ đầu tư phải ghi rõ cam kết chịu trách nhiệm
trong văn bản gửi Sở Xây dựng.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ
sơ đề nghị của chủ đầu tư, Sở Xây dựng phải kiểm tra hồ sơ; nếu hồ sơ có đủ
giấy tờ theo quy định tại điểm này thì Sở Xây dựng phải có văn bản thông báo
nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua gửi chủ đầu tư; nếu hồ sơ chưa có đủ
giấy tờ theo quy định thì phải có văn bản nêu rõ lý do...”.
Như vậy, theo quy định nêu trên, trường hợp dự án
đã thế chấp mà chưa chưa được giải chấp thì trong hồ sơ đề nghị Sở Xây dựng
chấp thuận đủ điều kiện mở bán phải có biên bản thống nhất của bên mua nhà ở
và bên nhận thế chấp. Biên bản này chưa thể có được vì chưa có thông báo đủ
điều kiện mở bán của Sở Xây dựng thì chưa đủ điều kiện được bán nhà ở hình
thành trong tương lai, đồng nghĩa với việc chưa có bên mua nhà ở. (Nghệ
An)
Theo quy định trên để có biên bản thống nhất với
bên mua về việc không phải giải chấp đang gặp bất cập lớn trong quá trình thực
hiện vì trước khi thông báo BĐS hình thành trong tương lai đủ điều kiện đưa
vào kinh doanh người mua, thuê mua chưa được xác định. (Hưng Yên)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
90.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Hiện nay Luật Kinh doanh BĐS chưa quy định
trường hợp và trình tự thủ tục của đình chỉ hoạt động của sàn giao dịch; tổ
chức môi giới BĐS; tư vấn, quản lý BĐS nên khó khăn trong công tác quản lý
nhà nước. Hiện nay có một số tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ tư vấn, dịch
vụ quản lý BĐS (không thành lập doanh nghiệp tại tỉnh Bắc Giang) khi hoạt động
kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang không quy định thông báo đến cơ quan
quản lý nhà nước nên địa phương không nắm bắt thông tin hoạt động của các tổ
chức, cá nhân để quản lý. (Bắc Giang)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
91.
|
Chưa thống nhất về
điều kiện năng lực tài chính của chủ đầu tư trong hoạt động kinh doanh BĐS giữa
các quy định của Luật Kinh doanh BĐS và Luật Đất đai
|
1. Theo quy định tại Điều
10 Luật Kinh doanh BĐS thì điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
kinh doanh BĐS là phải có “vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng”.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh BĐS thì “Kinh doanh
BĐS là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng
để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS”. Như vậy,
theo hai điều khoản này thì doanh nghiệp chỉ cần có 20 tỷ là có thể xây dựng
BĐS để kinh doanh. Trong khi đó Điều 14 Nghị định
43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy
định điều kiện về năng lực tài chính của chủ đầu tư dự án “có vốn thuộc sở hữu
của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án
có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối
với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên”. Điều này có nghĩa là
doanh nghiệp phải có một khoản vốn tối thiểu tương ứng với tỷ lệ một tỷ lệ nhất
định (15% hoặc 20% tùy trường hợp) của tổng mức đầu tư theo từng dự án mới được
phép thực hiện đầu tư xây dựng BĐS để kinh doanh. Và khoản “vốn tối thiểu”
này thay đổi theo tổng mức đầu tư của từng dự án, mà không phải cố định ở một
mức cụ thể nào - do đó nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn 20 tỷ đồng. Như vậy,
giữa các quy định của hai Luật này đang có sự không tương thích về điều kiện
tài chính của doanh nghiệp khi hoạt động kinh doanh BĐS. (Hòa Bình)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Điểm b khoản 2 Điều 122 Luật Đất
đai, điểm c khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh BĐS).
|
92.
|
Chưa thống nhất về
hình thức của hợp đồng giao dịch về BĐS trong quy định giữa Luật Nhà ở và Luật
Kinh doanh BĐS
|
1. Khoản 1 Điều 122 Luật
Nhà ở quy định hợp đồng mua bán nhà ở thương mại phải thực hiện công chứng,
chứng thực trừ một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
122. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực
hợp đồng. Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh BĐS quy định,
hợp đồng kinh doanh BĐS phải được lập thành văn bản, việc công chứng, chứng
thực hợp đồng do các bên thỏa thuận, trừ hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công
trình xây dựng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên là hộ gia
đình, cá nhân thì thì phải công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm có hiệu lực
là do thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì thời điểm ký kết. Như vậy, giữa
hai Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh BĐS đang chưa thống nhất về hình thức của hợp
đồng mua bán nhà ở thương mại. (Hòa Bình)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
93.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Theo quy định tại Khoản
5 Điều 8 của Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 thì “Huy động, chiếm dụng vốn
trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân và tiền ứng trước của
bên mua, bên thuê, bên thuê mua BĐS hình thành trong tương lai không đúng mục
đích theo cam kết” là hành vi bị cấm. Tại Khoản 6 Điều 26 của
Luật Nhà ở 2014 quy định chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại có
trách nhiệm: “Thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng kinh doanh sản phẩm
của dự án, bàn giao nhà ở và các giấy tờ liên quan đến nhà ở giao dịch cho
khách hàng; thực hiện giao dịch mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở và kinh
doanh quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật về kinh doanh BĐS”.
Đồng thời, tại Khoản 1 Điều 179 của Luật Nhà ở 2014 đã
quy định: “Người có hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, pháp luật về nhà ở, pháp luật về kinh
doanh BĐS và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực nhà ở, kinh
doanh BĐS đã có quy định cụ thể về hình thức, điều kiện huy động vốn của chủ
đầu tư dự án nhà ở thương mại và chế tài xử lý các hành vi vi phạm trong việc
huy động vốn không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối với việc ký kết
hợp đồng đặt cọc mà không nhằm mục đích huy động vốn cho phát triển nhà ở
thương mại theo quy định của Luật Nhà ở 2014 và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP
thì thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. (Cần Thơ)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
94.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Tại Khoản 1 Điều 358 của
Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
dân sự”.
Theo Khoản 1 Điều 328 của Bộ Luật
dân sự 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01 /2017) cũng quy định: “1.
Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau
đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật
có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Đối chiếu với các quy định nêu
trên, nếu mục đích của thỏa thuận đặt mua chỉ là để đảm bảo giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng mua bán các sản phẩm là BĐS (sau khi các sản phẩm này đủ điều
kiện được mua bán theo quy định của pháp luật) sẽ được chủ đầu tư và bên mua
ký kết; chủ đầu tư cam kết không sử dụng tiền thỏa thuận đặt cọc sai mục
đích, không sử dụng tiền đặt cọc để huy động vốn thì không bị cấm theo quy định
của pháp luật. . (Cần Thơ)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp có ý kiến về nội
dung này.
|
95.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Hiện nay Luật Kinh doanh BĐS chưa quy định
trường hợp và trình tự thủ tục của đình chỉ hoạt động của sàn giao dịch; tổ
chức môi giới BĐS; tư vấn, quản lý BĐS nên khó khăn trong công tác quản lý
nhà nước. Hiện nay có một số tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ tư vấn, dịch
vụ quản lý BĐS (không thành lập doanh nghiệp tại tỉnh Bắc Giang) khi hoạt động
kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang không quy định thông báo đến cơ quan
quản lý nhà nước nên địa phương không nắm bắt thông tin hoạt động của các tổ
chức, cá nhân để quản lý. (Hà Nội)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
96.
|
Luật Kinh doanh
BĐS năm 2024
|
1. Luật KDBĐS 2014 chưa quy định rõ một số
khái niệm quan trọng trong kinh doanh BĐS như: thế nào là “dự án BĐS”? thế
nào là “chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh BĐS”... Điều này, gây lúng túng,
khó khăn cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện đồng thời
chưa làm rõ được phạm vi điều chỉnh của Luật. (Tây Ninh)
|
1. Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội
dung này.
2. Đã quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật
3. Đã được quy định cụ thể tại Luật KD BĐS 2023,
cụ thể: nguyên tắc kinh doanh BĐS quy định tại Điều 4,
các hành vi bị cấm quy định tại Điều 8. Trong đó:
- Đối với nguyên tắc kinh doanh BĐS: Luật KD BĐS
2023 đã gộp khoản 1, khoản 3 Điều 4 thành khoản 1 và đổi cụm từ “không trái với quy định của pháp
luật” thành “không vi phạm điều cấm của luật”
|
2. Chưa có quy định về nguyên tắc áp dụng
pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo của Luật kinh doanh BĐS với các luật
có liên quan đối với các nội dung, quy định về kinh doanh BĐS. (Tây
Ninh)
|
3. Các quy định chung của Luật hiện hành về
nguyên tắc kinh doanh BĐS (Điều 4) và các hành vi bị cấm
(Điều 8) cũng cần được rà soát sửa đổi, bổ sung để đảm bảo
thống nhất, đồng bộ hơn với các luật ban hành sau như Bộ luật Dân sự, Luật Đầu
tư và phù hợp hơn với tình hình thực tiễn. (Tây Ninh)
|
97.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Luật Kinh doanh BĐS chưa quy định phân hóa
về điều kiện đối với các tổ chức cá nhân kinh doanh BĐS thông thường, không gắn
với hoạt động đầu tư dự án với các tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS theo hình
thức đầu tư tư dự án BĐS; chưa có quy định về điều kiện đối với tổ chức, cá
nhân phải đáp ứng khi làm chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng kinh doanh BĐS, nhất
là với các dự án BĐS có các sản phẩm đặc thù. (Tây Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Điều 9 Luật KD BĐS 2023;
Khoản 5 Điều 9 Nghị định số 96/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024)
|
2. Các quy định về điều kiện đối với BĐS
đưa vào kinh doanh trong Luật Kinh doanh BĐS hiện được quy định chung cho các
loại BĐS gồm nhà ở và công trình xây dựng; chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về
điều kiện bán công trình xây dựng. (Tây Ninh)
|
98.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Quy định về điều kiện của BĐS hình
thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh trong Luật Kinh doanh BĐS hiện
hành đang không rõ ràng để áp dụng đối với công trình xây dựng; không xác định
được tất cả các công trình xây dựng hay chỉ một số trường hợp công trình xây
dựng cụ thể nào được kinh doanh theo hình thức bán, cho thuê mua công trình
xây dựng hình thành trong tương lai. (Tây Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Điều 24 Luật KD BĐS 2023; Điều 3 Nghị định số 96/2024/NĐ-CP)
|
2. Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 chưa quy định
trách nhiệm của chủ đầu tư phải làm thủ tục để tổ chức tín dụng cấp chứng thư
bảo lãnh cho bên mua, bên thuê mua đối với hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở hình
thành trong tương lai là chưa phù hợp với quy định của pháp luật về bảo lãnh;
không quy định trách nhiệm của chủ đầu tư dự án BĐS trong trường hợp không thực
hiện bảo lãnh cũng như chưa quy định bảo vệ quyền lợi người mua BĐS trong trường
hợp chủ đầu tư là bên bán BĐS không thực hiện bảo lãnh đúng quy định. (Tây
Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước có ý kiến
về nội dung này.
|
99.
|
Luật Kinh doanh
BĐS
|
1. Các quy định về kinh doanh quyền sử dụng
đất (chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại) theo pháp luật về kinh doanh BĐS
đang có sự giao thoa, mâu thuẫn, trùng lặp với các quy định về chuyển nhượng,
cho thuê quyền sử dụng đất theo pháp luật về đất đai. (Tây Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
|
2. Các quy định về kinh doanh quyền sử dụng
đất trong Luật Kinh doanh BĐS hiện hành chưa thể hiện rõ được sự khác biệt của
hình thức kinh doanh quyền sử dụng đất với các hình thức kinh doanh BĐS khác
như kinh doanh nhà ở, kinh doanh công trình xây dựng. (Tây Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Luật Kinh doanh bất động sản 2023 đã phân định
quy định về kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai
(Chương III) và kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng
kỹ thuật trong dự án bất động sản (Chương IV))
|
100.
|
Chưa thống nhất về
điều kiện năng lực tài chính của chủ đầu tư trong hoạt động kinh doanh BĐS giữa
các quy định của Luật Kinh doanh BĐS và Luật Đất đai
|
1. Theo quy định tại Điều
10 Luật KD BĐS thì điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào hoạt động KD
BĐS là phải có “vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng”. Theo khoản 1 Điều 3 Luật KD BĐS thì “KD BĐS là việc đầu tư vốn để
thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng;
cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS”. Như vậy, theo hai điều khoản này
thì doanh nghiệp chỉ cần có 20 tỷ là có thể xây dựng BĐS để kinh doanh. Trong
khi đó Điều 14 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định điều kiện về năng lực tài
chính của chủ đầu tư dự án “có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án
không thấp hơn 20% TMĐT đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta;
không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20
héc ta trở lên”. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải có một khoản vốn tối
thiểu tương ứng với tỷ lệ một tỷ lệ nhất định (15% hoặc 20% tùy trường hợp) của
TMĐT theo từng dự án mới được phép thực hiện đầu tư xây dựng BĐS để kinh doanh.
Và khoản “vốn tối thiểu” này thay đổi theo TMĐT của từng dự án, mà không phải
cố định ở một mức cụ thể nào - do đó nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn 20 tỷ đồng.
Như vậy, giữa các quy định của hai Luật này đang có sự không tương thích về
điều kiện tài chính của doanh nghiệp khi hoạt động KD BĐS. (Hòa Bình)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Điểm b khoản 2 Điều 122 Luật Đất
đai, điểm c khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh BĐS 2023).
|
101.
|
Luật Nhà ở và Luật
Kinh doanh BĐS
|
1. Khoản 1 Điều 122 Luật
Nhà ở quy định hợp đồng mua bán nhà ở thương mại phải thực hiện công chứng,
chứng thực trừ một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
122. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực
hợp đồng. Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh BĐS quy định,
hợp đồng kinh doanh BĐS phải được lập thành văn bản, việc công chứng, chứng
thực hợp đồng do các bên thỏa thuận, trừ hợp đồng mua bán, thuê mua nhà, công
trình xây dựng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các bên là hộ gia
đình, cá nhân thì thì phải công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm có hiệu lực
là do thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì thời điểm ký kết. Như vậy, giữa
hai Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh BĐS đang chưa thống nhất về hình thức của hợp
đồng mua bán nhà ở thương mại. (Hòa Bình)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
2. Quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật
Kinh doanh BĐS năm 2014 cũng đang có sự chồng chéo, không rành mạch riêng biệt,
độc lập với quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật Nhà ở năm 2014. Trong khi
giao dịch về nhà ở thương mại rất rộng, tuy nhiên Điều 1 của
Luật Nhà ở năm 2014 chỉ quy định giới hạn một số giao dịch về nhà ở
thương mại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Nhà ở mà thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Kinh doanh BĐS là giao dịch mua bán, cho thuê, cho thuê mua
nhà ở thương mại của các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh BĐS. Từ thực tế
đó, đã có nhiều nội dung về kinh doanh nhà ở quy định chồng chéo giữa hai Luật,
như quy định về bán nhà ở hình thành trong tương lai, chuyển nhượng hợp đồng
mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Các bất cập, chồng chéo nêu trên dẫn
đến khó khăn trong việc áp dụng quy định pháp luật, thiếu sót trong việc hiểu
và thực thi các quy định pháp luật của Luật Kinh doanh BĐS và Luật Nhà ở.
(TP. Hồ Chí Minh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
102.
|
Luật Kinh doanh
BĐS và Luật Dân sự
|
1. Các khái niệm: “Nhà, công trình xây dựng
hình thành trong tương lai” quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật
Kinh doanh BĐS năm 2014 đang không có sự phân định rành mạch về nội hàm với
khái niệm “Tài sản hình thành trong tương lai” quy định trong Bộ Luật Dân sự
năm 2015.
Các quy định về chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh
BĐS trong Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 đang có sự trùng lặp, chưa phân định
rõ sự khác nhau về nội dung, hình thức thực hiện với quy định về chuyển giao
quyền, chuyển giao nghĩa vụ trong Bộ Luật Dân sự năm 2015 để đảm bảo không có
sự xung đột quy định. (TP. Hồ Chí Minh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp có ý kiến về nội
dung này
|
103.
|
Luật Kinh doanh
BĐS và Luật Đầu tư
|
1. Quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật
Kinh doanh BĐS 2014 chưa làm rõ sự phân định rành mạch, độc lập với phạm vi
điều chỉnh của Luật Đầu tư năm 2020. Luật Đầu tư năm 2020 quy định phạm vi điều
chỉnh chung về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; trong khi Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014 quy định phạm vi điều chỉnh về kinh doanh BĐS nhưng không
phân định rõ phạm vi riêng biệt, độc lập của lĩnh vực chuyên ngành kinh doanh
BĐS. Điều này dẫn đến giữa hai Luật có một số nội dung quy định chồng chéo
nhau về hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực BĐS, điển hình cụ thể như các quy
định chồng chéo về chuyển nhượng dự án trong hai Luật.
Một số khái niệm quan trọng trong kinh doanh BĐS
như “dự án BĐS”, “một phần dự án BĐS”, “chuyển nhượng toàn bộ dự án BĐS”,
“chuyển nhượng một phần dự án BĐS”, “chủ đầu tư dự án” cũng chưa có cơ sở rõ
ràng để xác định sự tương thích với khái niệm “Dự án đầu tư”, “nhà đầu tư”
trong Luật Đầu tư. Và các khái niệm “Tổ chức trong nước”, “Tổ chức nước
ngoài”, “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” trong Luật Kinh doanh BĐS
cũng chưa rõ cơ sở để xác định là tương thích, giống nhau hay khác so với
khái niệm “Nhà đầu tư trong nước”, “Nhà đầu tư nước ngoài”, “Tổ chức kinh tế
trong nước”, “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” trong Luật Đầu tư.
Các bất cập, chồng chéo nêu trên giữa các Luật đã
gây khó khăn, phức tạp trong việc lựa chọn áp dụng các quy định pháp luật. (TP.
Hồ Chí Minh)
|
Phạm vi điều chỉnh của Luật KD BĐS 2023 về cơ bản
giữ nguyên như phạm vi điều chỉnh của Luật KD BĐS 2014 (Luật KD BĐS 2023 có bổ
sung thêm các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật).
- Đối với việc chuyển nhượng dự án bất động sản
theo pháp luật về đầu tư và pháp luật về bất động sản: Khoản
1 Điều 41 Luật KD BĐS đã phân định rõ thẩm quyền, thủ tục cho phép chuyển
nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản giữa pháp luật về đầu tư và bất
động sản. Theo đó, đối với dự án bất động sản được chấp thuận nhà đầu tư hoặc
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, thẩm
quyền, thủ tục chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản thực hiện
theo quy định của Luật Đầu tư.
- Hiện nay không có mâu thuẫn trong các khái niệm
“dự án BĐS”, “một phần dự án BĐS”, “chuyển nhượng toàn bộ dự án BĐS”, “chuyển
nhượng một phần dự án BĐS”, “chủ đầu tư dự án” với khái niệm “Dự án đầu tư”,
“nhà đầu tư” trong Luật Đầu tư: khoản 3 Điều 3 Luật KD BĐS
đã quy định dự án BĐS là dự án đầu tư xây dựng công trình để kinh doanh nhà ở,
công trình xây dựng, quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chấp thuận theo quy định của pháp luật.
- Khái niệm về tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 đã được dẫn chiếu đến
Luật Đầu tư: thuộc diện phải đáp ứng các điều kiện và thực hiện thủ tục đầu
tư quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư.
|
|
|
Nội dung vướng mắc, bất cập
trong chính sách, pháp luật về phát triển nhà ở xã hội
|
1
|
Luật Nhà ở 2014,
Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Nghị định số 100/2015/NĐ-CP 20/10/2015
|
1. Quy định về lựa chọn chủ đầu tư dự án
xây dựng NOXH còn chồng chéo, chưa thống nhất với quy định của pháp luật về đầu
tư, đầu tư công, xây dựng, đấu thầu, đất đai... Cụ thể là:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều
57 Luật Nhà ở năm 2014 thì đối với NOXH được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư
của trung ương thì Bộ Xây dựng báo cáo người có thẩm quyền quyết định đầu tư
lựa chọn chủ đầu tư; nếu được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư của địa phương thì
cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh báo cáo người có thẩm quyền quyết định đầu tư
lựa chọn chủ đầu tư.
Tuy nhiên, hiện nay dự án đầu tư xây dựng nhà ở sử
dụng nguồn vốn đầu tư công được quy định theo Luật Đầu tư công năm 2014, sử dụng
nguồn vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định theo pháp luật về xây dựng.
Như vậy, đối với dự án đầu tư xây dựng NOXH được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư
công, vốn nhà nước ngoài đầu tư công thì việc lựa chọn chủ đầu tư thực hiện
theo quy định của pháp luật đầu tư công và pháp luật xây dựng. Do đó, cần thiết
phải sửa quy định nêu trên để đảm bảo phù hợp, đồng bộ với pháp luật về đầu
tư công, pháp luật về xây dựng.
Ngoài ra, hiện nay có một số dự án xây dựng NOXH
sử dụng nguồn vốn hỗn hợp gồm một phần vốn ngân sách và phần còn lại vốn huy
động của các tổ chức, cá nhân nhưng chưa được quy định rõ ràng về việc lựa chọn
chủ đầu tư sử dụng loại nguồn vốn hỗn hợp này trong Luật Nhà ở hiện hành dẫn
tới ách tắc trong triển khai thực hiện, làm giảm hiệu quả thu hút đầu tư phát
triển NOXH, nhất là tại các địa phương có nguồn ngân sách tương đối nhiều có
thể dành một phần ngân sách ra để đầu tư phát triển NOXH.
- Tại điểm a khoản 2 Điều 57 Luật
Nhà ở năm 2014 quy định: “2. Đối với NOXH được đầu tư không phải bằng
nguồn vốn hoặc hình thức quy định tại khoản 1 Điều 53 của Luật
này thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh báo cáo UBND cấp tỉnh thực hiện lựa chọn
chủ đầu tư theo quy định như sau: a) Trường hợp Nhà nước giao đất hoặc cho
thuê đất để xây dựng NOXH thì thực hiện lựa chọn chủ đầu tư thông qua hình thức
đấu thầu nếu có từ hai nhà đầu tư trở lên đăng ký làm chủ đầu tư hoặc chỉ định
chủ đầu tư nếu chỉ có một nhà đầu tư đăng ký làm chủ đầu tư”.
Tuy nhiên, pháp luật về đấu thầu hiện hành chỉ
quy định việc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư có sử dụng đất để xây
dựng khu đô thị, công trình dân dụng có một hoặc nhiều công năng gồm nhà ở
thương mại, trụ sở, văn phòng làm việc và công trình thương mại, dịch vụ.
Ngoài ra, một trong các nguyên tắc xét duyệt trúng thầu là đề xuất nộp ngân
sách nhà nước lớn nhất nhằm tận dụng tối đa giá trị địa tô do khu đất đem lại,
dẫn đến việc áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục, phương pháp và tiêu
chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất... để lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng NOXH theo quy định của pháp luật về đấu thầu là không phù hợp.
Bên cạnh đó, tại khoản 7 Điều 1
Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển
và quản lý NOXH quy định “2. Đối với dự án đầu tư xây dựng NOXH được đầu
tư xây dựng không phải bằng vốn đầu tư công, vốn nhà nước ngoài đầu tư công
thì việc lựa chọn chủ đầu tư thực hiện như sau: a) Đối với trường hợp quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở thực hiện theo quy
định của pháp luật đấu thầu;”. Tuy nhiên, tại khoản 12
Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ quy định:
“Trường hợp được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất một số năm hoặc miễn
toàn bộ thời gian sử dụng đất đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu
tư hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện giao đất,
cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, không thông
qua đấu thầu dự án có sử dụng đất”. Như vậy, hình thức lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án NOXH quy định tại khoản 7 Điều 1 Nghị định
số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 không thống nhất với hình thức lựa chọn
nhà đầu tư theo quy định Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của
Chính phủ.
- Theo quy định của pháp luật về đầu tư, NOXH là
lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư (điểm d khoản 2 Điều 15 Luật
Đầu tư năm 2020 và mục IV.1 Danh mục lĩnh vực đặc biệt
ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu
tư). Căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 110 và điểm đ
khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 14b Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (được
bổ sung tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày
18/12/2020 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật Đất đai) thì dự án xây dựng NOXH thuộc trường hợp được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất không thông qua hình thức
đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Như vậy, hình thức lựa chọn nhà đầu tư dự án NOXH
quy định tại khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở không thống nhất
pháp luật về đầu tư và đất đai.
- Theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 110 và điểm đ khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 thì dự án xây
dựng NOXH thuộc trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho
thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án
có sử dụng đất. Như vậy, hình thức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án NOXH
quy định tại khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở năm 2014 không
thống nhất với quy định của pháp luật về đầu tư và đất đai.
- Tại điểm d khoản 2 Điều 57 Luật
Nhà ở năm 2014 quy định trường hợp xây dựng NOXH để bố trí cho người lao
động làm việc trong khu công nghiệp ở thì doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu
công nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất trong khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp
có chức năng kinh doanh BĐS được Nhà nước giao làm chủ đầu tư dự án. Như vậy,
việc giao chủ đầu tư theo quy định của Luật Nhà ở về mặt nguyên tắc là không
phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu. Mặt khác, quy định này còn
chưa thống nhất với quy định của pháp luật về đầu tư và đất đai hiện hành [2]...
- Theo Luật Nhà ở năm 2014 (tại
khoản 1 Điều 16 và khoản 1 Điều 56) thì khi quy hoạch khu công nghiệp,
khu chế xuất, cơ quan có thẩm quyền phải quy hoạch quỹ đất để xây dựng nhà ở
cho công nhân làm việc trong khu công nghiệp đó, nhưng theo Luật
Đất đai 2013 (tại Điều 149), Luật Đầu tư 2020 (tại khoản
9 Điều 77) và Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ (tại
khoản 4 Điều 32) thì việc bố trí quỹ đất này phải thực
hiện bên ngoài khu công nghiệp. Quy định khác nhau nêu trên đã dẫn đến bất cập
trong việc lựa chọn chủ đầu tư dự án. Bởi vì, nếu quy hoạch quỹ đất để xây dựng
nhà ở cho công nhân ngay trong khu công nghiệp theo pháp luật nhà ở thì sẽ do
doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất
trong khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp có chức năng kinh doanh BĐS làm chủ đầu
tư dự án (theo hình thức chỉ định), nhưng khi bố trí quỹ đất nằm ngoài khu
công nghiệp theo Luật Đất đai, Luật đầu tư 2020 và Nghị định số 82/2018/NĐ-CP
thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án. Điều này dẫn đến thủ tục
lựa chọn chủ đầu tư mất nhiều thời gian, thậm chí có trường hợp không có
doanh nghiệp tham gia đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư.
Mặt khác, khi các địa phương bố trí quỹ đất để
xây dựng nhà ở nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất theo pháp luật đất
đai, Luật Đầu tư và Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ
thì pháp luật nhà ở lại chưa có quy định về việc xây dựng quỹ nhà ở này để bố
trí cho những đối tượng nào? Áp dụng cho công nhân làm việc trong khu công
nghiệp đó hay cho cả các khu công nghiệp khác hay dành cho cả 10 đối tượng
trên địa bàn theo pháp luật về nhà ở.
- Theo quy định của Luật Nhà ở 2014, Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 1/4/2021, việc
lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng NOXH thực hiện theo quy định của
pháp luật về đấu thầu. Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng NOXH, cần có quy
định rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở nói
chung, dự án đầu tư xây dựng NOXH nói riêng, trường hợp thực hiện lựa chọn
nhà đầu tư theo hình thức đấu thầu cần có quy định quy trình đấu thầu riêng
(đơn giản hóa, rút ngắn trình tự, thời gian thực hiện) đối với loại hình
NOXH.
|
*/ Về sự thống nhất trong quy định lựa chọn chủ
đầu tư:
Điều 84 Luật Nhà ở 2023 đã
quy định thống nhất về chủ đầu tư NOXH theo pháp luật về đầu tư công, xây dựng,
đầu tư.
Lưu ý: pháp luật đầu tư công không quy định về lựa
chọn chủ đầu tư mà chỉ quy định về giao chủ đầu tư.
*/ Về việc dự án xây dựng NOXH sử dụng nguồn vốn
hỗn hợp (NSNN, tư nhân): hiện nay không có quy định về đầu tư NOXH theo
hình thức đối tác công tư. Do đó, không có cơ sở để thực hiện.
*/ Về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư:
Khoản 3 và khoản 4 Điều 126 của
Luật Đất đai quy định điều kiện tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư,
trong đó gồm điều kiện “thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự
án đầu tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện,
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng
đất. Trong đó, để phù hợp với đặc thù dự án nhà ở xã hội, nguyên tắc xét duyệt
lựa chọn nhà đầu tư không căn cứ giá trị nộp ngân sách nhà nước. Tiêu chí
đánh giá đối với các dự án nhà ở xã hội thực hiện theo quy định của pháp luật
về nhà ở (Luật Nhà ở năm 2023 và Nghị định số 100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản
lý nhà ở xã hội).
*/ Về hình thức lựa chọn chủ đầu tư:
Luật Nhà ở, Luật Đất đai đã thống nhất quy định về
hình thức lựa chọn nhà đầu tư với Luật Đầu tư và pháp luật về đấu thầu. Cụ thể:
Điểm b khoản 1 Điều 126 Luật Đất
đai 2024 quy định: "Dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc trường hợp
Nhà nước thu hồi đất tại Điều 79 của Luật này và không
thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này mà thuộc
trường hợp phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp
luật quản lý ngành, lĩnh vực". Điều 250 Luật Đất
đai 2024 đã sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 29 Luật Đầu tư.
Theo đó, thủ tục chấp thuận nhà đầu tư trong 2 trường hợp: a) Đấu giá quyền sử
dụng đất không thành theo quy định của Luật Đất đai; b) Chỉ có một nhà đầu tư
đáp ứng điều kiện mời quan tâm trong trường hợp pháp luật quản lý ngành, lĩnh
vực quy định xác định số lượng nhà đầu tư quan tâm khi thực hiện thủ tục lựa
chọn nhà đầu tư.
Khoản 4 Điều 84 Luật Nhà ở 2023
quy định đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được đầu tư không bằng
nguồn vốn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này và
không thuộc trường hợp chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trực
tiếp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội thì việc lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư
xây dựng nhà ở xã hội thực hiện như sau:
a) Trường hợp chỉ có 01 nhà đầu tư quan tâm theo
quy định của pháp luật về đấu thầu, cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục
chấp thuận nhà đầu tư làm chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội khi
nhà đầu tư đáp ứng các điều kiện, tiêu chí theo quy định của Chính phủ;
b) Trường hợp có từ 02 nhà đầu tư trở lên quan
tâm thì thực hiện lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội
thông qua hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu;
*/ Về điểm d khoản 2 Điều 57
Luật Nhà ở năm 2014
- Theo quy định của pháp luật về đất đai, dự án
NOXH thuộc trường hợp được miễn tiền sử dụng đất; trường hợp được miễn tiền sử
dụng đất,tiền thuê đất một số năm hoặc miễn toàn bộ thời gian sử dụng đất đối
với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư thì
cơ quan có thẩm quyền thực hiện giao đất, cho thuê đất không thông qua hình
thức đấu giá quyền sử dụng đất, không thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Lĩnh vực NOXH là lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Do đó, theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư, việc chấp thuận chủ
trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư được thực hiện trong trường hợp
không thuộc diện đấu giá, đấu thầu theo quy định của pháp luật. Bộ KHĐT không
nhận được phản ánh nào về vướng mắc pháp luật về đầu tư và đấu thầu trong trường
hợp giao doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp sản
xuất trong khu công nghiệp hoặc doanh nghiệp có chức năng kinh doanh BĐS được
Nhà nước làm chủ đầu tư dự án.
Hiện nay, Điều 84 Luật Nhà ở
2024 đã bỏ hình thức giao chủ đầu tư này.
*/ Về việc xây dựng NOXH để bố trí cho người
lao động làm việc trong khu công nghiệp:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 6
Luật Nhà ở năm 2014, không được xây dựng nhà ở trên đất không phải là đất
ở. Theo quy định của pháp luật về đất đai năm 2013, đất khu công nghiệp không
phải là đất ở. Do đó, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP không quy định việc cho phép
xây dựng nhà ở cho công nhân trong phạm vi ranh giới khu công nghiệp. Đối với
đất ở ngoài KCN để bố trí xây dựng nhà ở cho công nhân hoặc các đối tượng
khác phù hợp với pháp luật về nhà ở do UBND cấp tỉnh xem xét trên cơ sở nhu cầu
về nhà ở xã hội trên địa bàn.
Đến nay, khoản 7 Điều 202 Luật Đất
đai 2024 đã quy định: "Diện tích đất để xây dựng nhà lưu trú công
nhân trong khu công nghiệp theo quy hoạch thì được quản lý như đất thương mại,
dịch vụ và được hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật".
|
2
|
Luật Nhà ở 2014;
pháp luật về thuế
|
Quy định về chính sách thuế liên quan đến NOXH
trong pháp luật về nhà ở chưa đồng bộ, thống nhất với pháp luật về thuế:
- Theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của
Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý
nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, trong đó có chỉ
đạo mở rộng cơ sở thuế, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội
trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, đảm bảo tính
trung lập của thuế.
Tại điểm 1b Mục I Điều 1 Quyết định
số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt
Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 quy định: “Các chính
sách thuế chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế và
được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính nhất quán về hiệu lực pháp lý
giữa các luật thuế và các văn bản pháp luật có liên quan”.
- Luật Nhà ở năm 2014 (điểm b
khoản 1 Điều 58) có quy định trường hợp xây dựng NOXH để cho thuê thì
được giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều hơn so với
trường hợp xây dựng NOXH để cho thuê mua, bán. Tuy nhiên, quy định này là
chưa thống nhất với quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng và thuế
thu nhập doanh nghiệp.
- Luật Nhà ở năm 2014 (Điều 62)
có quy định cho phép người mua NOXH nếu trong thời hạn 5 năm được bán cho
đơn vị quản lý NOXH đó hoặc bán cho đối tượng thuộc diện được mua NOXH nếu
đơn vị này không mua với giá bán tối đa bằng giá bán NOXH cùng loại tại cùng
địa điểm, thời điểm bán và không phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Tuy
nhiên, quy định này chưa phù hợp với Luật Thuế Thu nhập cá nhân hiện hành (khoản 6 và 7 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13 quy định thu nhập
chịu thuế từ chuyển nhượng BĐS được xác định là giá chuyển nhượng từng lần và
áp dụng thuế suất thuế thu nhập cá nhân là 2% và thu nhập từ hoạt động chuyển
nhượng NOXH không thuộc thu nhập được miễn thuế Thu nhập cá nhân quy định tại
Điều 4 Luật Thuế Thu nhập cá nhân).
Mặt khác, theo quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 thì cá nhân chỉ được
miễn thuế đối với: (i) thu nhập từ chuyển nhượng BĐS giữa vợ với
chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ
chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội;
ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau; (ii)
thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với
đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất.
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
3
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Tồn tại, bất cập trong Luật Nhà ở năm
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành):
- Luật Nhà ở năm 2014 quy định NOXH được đầu tư từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước để cho thuê, cho thuê mua cho cả 10 đối tượng
chính sách xã hội là quá rộng, trong khi ngân sách nhà nước không có khả năng
đáp ứng[3] (hiện nay
việc phát triển NOXH hầu hết đều do các doanh nghiệp tự huy động các nguồn vốn
ngoài ngân sách để thực hiện).
- Luật Nhà ở năm 2014 quy định chỉ được bán, cho
thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội cho đối tượng là các hộ gia đình, cá nhân,
không có quy định bán cho tổ chức. Quy định này dẫn đến việc doanh nghiệp, hợp
tác xã sản xuất công nghiệp, dịch vụ trong các khu công nghiệp không thể đứng
ra mua hoặc thuê nhà ở xã hội để bố trí cho người lao động của đơn vị mình, mặc
dù có quy định doanh nghiệp được tính chi phí này là chi phí hợp lý trong giá
thành sản xuất khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 59
Luật Nhà ở).
- Pháp luật về nhà ở hiện hành quy định việc quản
lý và quản lý sử dụng vốn cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội do Ngân hàng Chính sách
xã hội hoặc các tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định thực hiện. Tuy nhiên,
quy định hiện hành chưa nêu rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý nguồn vốn
này; chưa có quy định về tiêu chí phân bổ nguồn vốn cho các địa phương, các
ngân hàng cũng như các tiêu chí, điều kiện cho các chủ đầu tư dự án nhà ở xã
hội được vay. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động cho vay vốn chưa có vai
trò của Bộ Xây dựng với chức năng quản lý nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao chịu trách nhiệm phát triển nhà ở nói chung và NOXH nói riêng.
- Pháp luật về nhà ở hiện hành quy định ưu đãi
cho phép chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội loại hình nhà chung cư được điều chỉnh
tăng mật độ xây dựng hoặc hệ số sử dụng đất lên tối đa 1,5 lần so với quy chuẩn,
tiêu chuẩn hiện hành, tuy nhiên quy định này khi triển khai thực hiện gặp nhiều
vướng mắc liên quan đến quy hoạch và chấp thuận đầu tư.[4]
- Pháp luật về nhà ở có quy định về nguyên tắc
xác định giá thuê, giá thuê mua, giá bán NOXH không phải do Nhà nước đầu tư
xây dựng phải bảo đảm lợi nhuận định mức[5], nhưng chưa tính đến một số chi phí hợp lý, hợp
lệ của doanh nghiệp (chi phí tổ chức bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp,
chi phí hợp lý khác); bên cạnh đó, lợi nhuận định mức như trên (hạch toán
chung toàn bộ dự án, bao gồm cả phần 20% công trình kinh doanh thương mại)
cũng chưa hấp dẫn được nhà đầu tư tích cực tham gia đầu tư xây dựng NOXH. Mặt
khác, việc thẩm định giá thuê NOXH không đảm bảo quyền tự do kinh doanh sản
phẩm của doanh nghiệp, thúc đẩy nguồn cung NOXH để cho thuê và cải cách thủ tục
hành chính.
- Pháp luật về nhà ở hiện hành mới chỉ có các cơ
chế ưu đãi, khuyến khích nguồn vốn xã hội hóa của các thành phần kinh tế
trong nước nhưng chưa có cơ chế ưu đãi để khuyến khích, thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài vào lĩnh vực này.
- Cơ chế sử dụng nguồn vốn địa phương để hỗ trợ về
chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật và đấu nối hạ tầng
kỹ thuật chưa có hướng dẫn cụ thể, các địa phương áp dụng khác nhau, có nguy
cơ bị coi là dự án đầu tư công và phải thực hiện theo Luật Đầu tư công sẽ rất
khó triển khai.
|
- Về đối tượng chính sách: Điều 76 Luật Nhà ở 2023 đã sửa đổi, bổ sung đối tượng chính
sách này (12 đối tượng).
- Luật Nhà ở 2023 đã quy định việc doanh nghiệp,
hợp tác xã sản xuất công nghiệp, dịch vụ trong các khu công nghiệp phát triển
nhà ở xã hội (khoản 12 Điều 76, khoản 7 Điều 77, khoản 7 Điều
78, khoản 3 Điều 80).
- Về việc cho vay qua NHCSXH:
+ Điều 25 Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý NOXH đã quy định chi tiết về việc vay
vốn ưu đãi của chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội không bằng vốn đầu
tư công, nguồn tài chính công đoàn (vay vốn qua NHCSXH, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam). Trong đó, đã quy định cụ thể về điều kiện vay vốn, mức vốn vay, thời
hạn vay, lãi suất vay.
+ Điều 50 Nghị định số
100/2024/NĐ-CP đã quy định về nguồn vốn nhà nước hỗ trợ cho vay ưu đãi
thông qua NHCSXH, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Nguồn vốn ưu đãi từ ngân
sách nhà nước, Nguồn vốn cho vay ưu đãi từ các tổ chức tín dụng. Trong đó, đã
quy định NSNN bố trí cấp 100% nguồn vốn, cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản
lý trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm cho NHCSXH theo quy định
để cho vay đối với các đối tượng quy định tại Điều 25, Điều
26, khoản 1 Điều 47, khoản 3 Điều 71 của Nghị định này; NSNN bố trí cấp
50% nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm, NHCSXH đáp ứng
50% nguồn vốn huy động; ngân sách nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất và phí
quản lý cho NHCSXH theo quy định để cho vay đối với các đối tượng quy định tại
khoản 5 Điều 77 của Luật Nhà ở;
- Về việc điều chỉnh tăng mật độ xây dựng
hoặc hệ số sử dụng đất lên tối đa 1,5 lần:
Nghị định số 100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024 đã bỏ
quy định này. Riêng đối với thành phố Hồ Chí Minh thì thực hiện theo Nghị quyết
số 98/2023/QH15, cụ thể: Tại thời điểm chấp thuận chủ trương đầu tư, trường hợp
quy hoạch chi tiết, quy hoạch phân khu chưa phù hợp quy hoạch chung thì cho
phép thực hiện việc chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy hoạch chung và chỉ
tiêu về hệ số sử dụng đất hoặc mật độ xây dựng theo quy định của pháp luật về
nhà ở. Trường hợp quy hoạch chi tiết chưa phù hợp quy hoạch chung và quy hoạch
phân khu thì cho phép thực hiện việc chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy hoạch
chung, quy hoạch phân khu và chỉ tiêu về hệ số sử dụng đất hoặc mật độ xây dựng
theo quy định của pháp luật về nhà ở. Quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết
phải được phê duyệt hoặc phê duyệt điều chỉnh theo quy định của pháp luật trước
khi lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng và triển khai các bước tiếp
theo của dự án.
- Quy định về chi phí hợp lý, hợp lệ của
doanh nghiệp đã được bổ sung tai Luật Nhà ở 2023 và Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024.
- Cơ chế ưu đãi để khuyến khích, thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Chưa có cơ chế ưu đãi thu hút FDI vào lĩnh vực
này.
- Cơ chế sử dụng nguồn vốn địa phương để hỗ
trợ về chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật và đấu nối
hạ tầng kỹ thuật:
Việc sử dụng vốn đầu tư công phải thực hiện theo
quy định của pháp luật về đầu tư công. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định
về sử dụng vốn đầu tư công để hỗ trợ về chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí
đầu tư hạ tầng kỹ thuật và đấu nối hạ tầng kỹ thuật cho các dự án về nhà ở xã
hội nên không có cơ sở để thực hiện.
|
4
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Cần xem xét quy định rõ xác định thời
gian sau 5 năm để được bán NOXH; vì hiện nay, các đối tượng đang gặp khó
khăn do quy định là 05 năm sau khi thanh toán hết tiền mua, tiền thuê mua nhà
ở, tuy nhiên thời gian ký hợp đồng đã sau 05 năm nhưng 1 số đối tượng (khách
hàng) và công ty (chủ đầu tư) chưa giải quyết xong việc thanh toán tiền để
hoàn tất các thủ tục và đối tượng được chuyển nhượng NOXH (nếu có nhu cầu)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
5
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Việc lựa chọn chủ đầu tư dự án NOXH đối
với trường hợp tổ chức đang thuê đất của nhà nước: Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
có một số tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã) đang thuê đất của nhà nước để sản
xuất, kinh doanh và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (mục đích sử
dụng đất không phải là đất ở). Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay theo quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt thì khu đất đó phù hợp để
xây dựng NOXH.
UBND tỉnh Đồng Nai kính đề nghị các Bộ, ngành
Trung ương có ý kiến hướng dẫn trường hợp trên thì các doanh nghiệp, hợp tác
xã đang thuê đất của nhà nước có đủ năng lực tài chính, có chức năng kinh
doanh BĐS, có nhu cầu đầu tư NOXH thì có được giao làm chủ đầu tư dự án NOXH
tại khu đất trên như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 57 Luật
Nhà ở hay không?
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Theo quy định tại điểm c khoản
4 Điều 84 Luật Nhà ở 2023, đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được
đầu tư không bằng nguồn vốn quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều này và không thuộc trường hợp chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở
thương mại trực tiếp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, chủ đầu tư dự án đầu tư
xây dựng nhà ở xã hội được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận
nhà đầu tư làm chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội khi nhà đầu tư
có quyền sử dụng đất thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất đối với
loại đất được thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội hoặc đang có quyền
sử dụng đất đối với loại đất được thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội
theo quy định của Luật Đất đai.
Tuy nhiên, Luật Đất đai 2024 chỉ quy định về loại
đất được thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại (có quyền sử dụng đất
ở và đất khác, nhận quyền sử dụng đất ở); không có quy định về loại đất thực
hiện dự án NOXH).
|
6
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Đối với các dự án nhà ở thương mại
(đang triển khai thực hiện hoặc đã hoàn thành) mà có quỹ đất 20% NOXH: Tại
các Văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư trước
đây có quy định chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại bàn giao quỹ đất 20% cho
nhà nước sau khi đầu tư hoàn thành hạ tầng kỹ thuật. Đến thời điểm hiện nay
UBND tỉnh Đồng Nai chưa tiếp nhận quỹ đất này và chủ đầu tư dự án nhà ở
thương mại có nguyện vọng trực tiếp đầu tư NOXH trên quỹ đất này thì UBND tỉnh
có được phép điều chỉnh Văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận
đầu tư để cho phép chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại được phép đầu tư xây dựng
NOXH hay phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư khác
|
Đối với dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư
hoặc Giấy chứng nhận đầu tư trước khi Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực thi
hành (dự án chuyển tiếp), đề nghị tỉnh Đồng Nai nghiên cứu các quy định về việc
thực hiện dự án chuyển tiếp tại khoản 2, khoản 3 Điều 77, Điều
117 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP. Cụ thể:
Khoản 1 Điều 117 NĐ
31/2021/NĐ-CP quy định đối với dự án đầu tư quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 77 của Luật Đầu tư (dự án trúng
đấu giá, đấu thầu; dự án được cấp GCNĐT, GCNĐKĐT, Giấy phép đầu tư) không phải
thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc điều chỉnh chấp thuận chủ
trương đầu tư khi điều chỉnh dự án đầu tư, trừ các trường hợp sau:
“a) Thay đổi hoặc bổ sung nội dung, mục tiêu
mà nội dung, mục tiêu dược thay đổi hoặc bổ sung thuộc diện chấp thuận chủ
trương đầu tư quy định tại các Điều 30, 31 và 32 của Luật Đầu
tư;
b) Mở rộng quy mô dự án đầu tư dẫn đến dự án
thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư quy định tại các Điều
30, 31 và 32 của Luật Đầu tư;
c) Điều chỉnh dự án đầu tư trong đó có bổ sung
một trong các nội dung: Đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông
qua đấu giá, đấu thầu, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn
liền với đất; đề nghị Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, trừ trường
hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia
đình, cá nhân không thuộc diện phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Khoản 3 Điều 117 quy định
trường hợp điều chỉnh dự án đầu tư quy định tại điểm a khoản
2 Điều 77 của Luật Đầu tư (dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư, chấp
thuận chủ trương đầu tư) và nội dung điều chỉnh thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g khoản 3 Điều 41
của Luật Đầu tư, nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu
tư theo quy định.
Ngoài ra, đề nghị tỉnh Đồng Nai nghiên cứu quy định
về việc lựa chọn chủ đầu tư thực hiện đầu tư xây dựng NOXH theo pháp luật về
nhà ở, đảm bảo thực hiện đúng quy định.
|
7
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Thủ tục đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự
án NOXH vẫn còn phức tạp, mất thời gian. Hiện nay nhu cầu NOXH là nhu cầu thật,
cấp bách, nhất là các địa phương có đông công nhân; trong khi nhu cầu nhà ở
thương mại ở một số nơi chưa thật sự là nhu cầu thật. Do đó việc đẩy mạnh
phát triển NOXH cũng là biện pháp quan trọng để bình ổn thị trường BĐS. UBND
tỉnh Đồng Nai kiến nghị Tổ Công tác tham mưu Thủ tướng Chính phủ cho thực hiện
thí điểm cơ chế bốc thăm khách quan, minh bạch để lựa chọn các chủ đầu
tư dự án NOXH trên địa bàn thành phố Biên Hòa và huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai (sau khi đã xác định các nhà đầu tư đã đáp ứng yêu cầu về năng lực và
kinh nghiệm).
|
Tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về "Tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu
nhập cao", Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ đạo: “Thực
hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất,
đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định cụ thể về đấu giá quyền sử dụng đất,
đấu thầu dự án có sử dụng đất; hạn chế và quy định chặt chẽ các trường hợp
giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự
án có sử dụng đất; bảo đảm công khai, minh bạch”.
|
8
|
Luật Nhà ở 2023
|
1. Quy định hiện nay không cho phép kinh
doanh thương mại dịch vụ trong dự án NOXH. Tuy nhiên, đối với dự án NOXH, nhất
là dự án NOXH độc lập thì cần thiết bố trí công trình hoặc phần diện tích sàn
dịch vụ, tiện ích công cộng để phục vụ cho cư dân (nhà trẻ, mẫu giáo, cửa
hàng tiện lợi, công trình văn hóa, thể dục thể thao,...).
Luật Nhà ở 2023 có cho phép bố trí 20% diện tích
đất hoặc sàn để kinh doanh thương mại, tuy nhiên Luật đến ngày 01/01/2025 mới
có hiệu lực. Điều khoản chuyển tiếp tại khoản c điểm 2 Điều
198 của Luật về chính sách ưu đãi chưa rõ ràng và cần có hướng dẫn chi tiết.
Cụ thể: khoản 2 điểm 2 Điều 198
của Luật Nhà ở 2023 quy định: “Trường hợp dự án đầu tư xây dựng NOXH,
dự án đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư đã được cơ quan có thẩm quyền
quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; chấp thuận đầu tư dự án; quyết
định phê duyệt dự án trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì chủ đầu tư
dự án tiếp tục được hưởng cơ chế ưu đãi theo nội dung văn bản đã được quyết định,
chấp thuận, phê duyệt, trừ trường hợp Luật này, văn bản pháp luật mới được
ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới, ưu đãi đầu tư cao hơn thì chủ đầu tư được
hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của
dự án đầu tư”.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
9
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Điều kiện thu nhập thu nhập người mua
NOXH: Tỷ lệ người mua NOXH được Ngân hàng Chính sách Xã hội duyệt cho vay thấp.
Lý do: người mua NOXH bị ràng buộc điều kiện về thu nhập không phải đóng thuế
thu nhập thường xuyên; tuy nhiên thu nhập thấp quá thì không chứng minh được
khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Kiến nghị sửa đổi điều kiện về thu nhập người mua
NOXH theo hướng: không có thu nhập cao nhưng cũng không bị ràng buộc thu nhập
quá thấp, để đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng khi vay mua NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, NHCSXH có ý kiến về nội
dung này.
|
10
|
Luật Nhà ở
|
1. Chưa quy định chi tiết cần tỷ lệ bao nhiêu
đất ở trong tổng diện tích của dự án để đủ điều kiện thực hiện dự án đầu tư
xây dựng nhà ở thương mại.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ TNMT có ý kiến về nội
dung này.
|
11
|
Luật Nhà ở
|
1. Chưa có quy định cụ thể về công thức
xác định giá bán NOXH thuộc sở hữu nhà nước khi tính toán tiền chênh lệch
trong quá trình thực hiện GPMB, bố trí tái định cư cho các hộ dân.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này.
|
12
|
Luật Nhà ở
|
1. Giá bán, giá cho thuê, thuê mua NOXH
chưa tính đến các chi phí hợp lệ, hợp lý khác như chi phí tổ chức bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp,… trong khi lợi nhuận định mức không vượt quá
10% đã làm nản lòng các chủ đầu tư do lợi nhuận thu được quá thấp.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
13
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Kinh doanh BĐS 2013, Luật Nhà ở 2014
|
1. Các quy định chung về hợp đồng kinh
doanh BĐS vẫn có sự giao thoa về phạm vi điều chỉnh, áp dụng của Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014 với Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014, đặc biệt
là hợp đồng kinh doanh BĐS theo pháp luật về kinh doanh BĐS với hợp đồng chuyển
nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai. Bên cạnh đó, hợp đồng
kinh doanh nhà ở thương mại vừa được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh BĐS năm
2014, đồng thời, cũng được quy định, điều chỉnh bởi Luật Nhà ở năm 2014. Luật
Kinh doanh BĐS năm 2014 không quy định riêng về kinh doanh nhà ở mà quy định
gộp chung kinh doanh nhà ở với kinh doanh công trình xây dựng. Điều này đã dẫn
đến sự phân tán, chồng chéo về quy định giữa các văn bản luật và ngay cả
trong cùng một luật cụ thể; gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh BĐS nói
chung và chủ thể thực hiện hợp đồng kinh doanh BĐS nói riêng trong việc
nghiên cứu và lựa chọn áp dụng quy định của pháp luật.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này.
|
14
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Công tác kiểm tra thông tin theo thẩm
quyền đối tượng đã có nhà ở, đất ở đang gặp khó vì chưa có hệ thống thông tin
cơ sở dữ liệu về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất nên dễ dẫn đến bỏ sót thông tin đối với người
đăng ký mua, thuê, thuê mua NOXH mà đã có nhà ở, đất ở trên địa bàn. Bên cạnh
đó, số lượng người đăng ký tương đối nhiều cũng ảnh hưởng đến kết quả kiểm
tra, xác minh.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này.
|
15
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Việc quy hoạch, bố trí quỹ đất, xác định
diện tích đất ở dành để xây dựng NOXH tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở
thương mại, khu đô thị còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; quy hoạch đô thị; chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; điều
kiện kinh tế địa lý của từng vùng, miền, địa phương và nhu cầu nhà ở thực tế
của người dân.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này.
|
16
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Quy định phải dành tỷ lệ tối thiểu 20%
diện tích NOXH để cho thuê trong các dự án NOXH và chủ đầu tư chỉ được bán
sau 5 năm đưa vào sử dụng . Như vậy sẽ kéo dài thời gian thu hồi vốn của chủ
đầu tư, phát sinh chi phí cho việc quản lý đối tượng thuê nhà Điều này dẫn đến
chưa thu hút được các chủ đầu tư tham gia xây dựng NOXH. Ngoài ra, Luật Nhà ở
hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về cách tính giá bán lại NOXH sau một
thời gian mua, thuê mua.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
17
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Quy định về ưu đãi cho chủ đầu tư dự án
NOXH chưa đủ khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng NOXH; chưa
thống nhất với pháp luật về thuế, đầu tư, đầu tư công,...
|
Luật Nhà ở 2023 và Nghị định số 100/2024/NĐ-CP đã
quy định cụ thể về ưu đãi đối với chủ đầu tư dự án NOXH như: Quy trình thực
hiện thủ tục đầu tư dự án NOXH cũng được rút gọn đáng kể, giúp nhà đầu tư tiết
kiệm thời gian, chi phí thực hiện dự án; chủ đầu tư không phải thực hiện thủ
tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn và không
phải thực hiện thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (Luật Nhà
ở 2023); đã xác định chi tiết các thành phần cấu thành tổng chi phí đầu tư
xây dựng phần diện tích NOXH là căn cứ để tính khoản lợi nhuận tối đa bằng
10% tổng chi phí đầu tư xây dựng phần diện tích NOXH (khoản
2 điều 22 Nghị định 100/2024/NĐ-CP); chủ đầu tư dự án còn có thể có thêm
khoản lợi nhuận từ phần diện tích công trình kinh doanh dịch vụ, thương mại,
nhà ở thương mại - chiếm tối đa 20% tổng diện tích đất ở trong dự án đã đầu
tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được báo cáo về
vướng mắc ưu đãi đầu tư NOXH với pháp luật về đầu tư, đầu tư công.
|
18
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Chưa có quy định cụ thể về ưu đãi với
nhà đầu tư dự án nhà ở thương mại dành quỹ đất 20% để xây dựng NOXH, quy định
cụ thể về hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng tại điểm d khoản 1 Điều 58 Luật Nhà ở
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
19
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Khoản 2 Điều 53 Luật
Nhà ở xác định hình thức "Doanh nghiệp, hợp tác xã bỏ vốn mua,
thuê nhà ở để cho người lao động trong đơn vị mình thuê" là một hình
thức phát triển NOXH. Tuy nhiên trong quy định của Luật Nhà ở và các nghị định
của Chính phủ không có hành lang pháp lý cho hình thức phát triển NOXH này
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
20
|
Luật Nhà ở
|
1. Theo quy định Luật Nhà ở, Nghị định số
100/2015/NĐ-CP, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP thì nội dung xác nhận về thực trạng
nhà ở yêu cầu xác nhận hộ gia đình có hay không có “nhà ở thuộc sở hữu của
hộ gia đình”, “chưa có nhà ở, đất ở”. Tuy nhiên, chưa có hướng dẫn cụ thể
“nhà ở thuộc sở hữu”, “đất ở” chỉ bao gồm nhà ở, đất ở hợp pháp (đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở hoặc nhà ở hiện có trên đất có nguồn gốc là đất ở...) hay có bao gồm
các nhà ở hiện có xây dựng trên đất không phải đất ở và nhà ở, đất ở chưa được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng hay không, dẫn đến nhiều đơn vị còn lúng
túng trong công tác kiểm tra, xác nhận thực trạng về nhà ở.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
21
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Bố trí quỹ đất, xác định diện tích đất ở
dành để xây dựng NOXH tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô
thị còn chưa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy hoạch đô thị;
chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; điều kiện kinh tế - địa lý của từng
vùng, miền, địa phương và nhu cầu nhà ở thực tế của người dân. Điều này dẫn tới
thiếu quỹ đất để phát triển NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
22
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Khó khăn vướng mắc trong việc xác định
giá trị quỹ đất 20% theo giá đất mà chủ đầu tư thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
để đầu tư xây dựng NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
23
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Tại Điều 51 Luật Nhà ở
quy định về điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ về NOXH; trong đó, tại điểm a khoản 1 có quy định: “a) Chưa có nhà ở thuộc sở hữu
của mình, chưa được mua, thuê hoặc thuê mua NOXH, chưa được hưởng chính sách
hỗ trợ nhà ở, đất ở dưới mọi hình thức tại nơi sinh sống, học tập hoặc có nhà
ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích nhà ở bình quân đầu người trong hộ
gia đình thấp hơn mức diện tích nhà ở tối thiểu do Chính phủ quy định theo từng
thời kỳ và từng khu vực”. Theo quy định trên thì không quy định việc có đất
ở. Tuy nhiên, tại điểm a khoản 13 Điều 1 Nghị định số
49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung điểm đ Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP), quy định:
"4) nhằm xác định đúng đối tượng được hỗ trợ và loại trừ việc người
được mua, thuê, thuê mua NOXH được hỗ trợ nhiều lần hoặc đã có nhà ở, đất ở;...”
Theo quy định này thì đối tượng có đất ở sẽ không đủ điều kiện để được hưởng
chính sách NOXH, như vậy là trái với quy định tại điểm a khoản
1 Điều 51 Luật Nhà ở nêu trên.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
24
|
Luật Nhà ở 2014
|
1. Hiện nay, theo quy định pháp luật về quản
lý và phát triển NOXH không có quy định về thời điểm chủ đầu tư dự án đầu tư
xây dựng NOXH trình thẩm định giá bán, cho thuê, cho thuê mua NOXH; dẫn đến một
số dự án đã đủ các điều kiện bàn giao đưa vào sử dụng nhưng Chủ đầu tư vẫn
chưa hoàn thành việc thẩm định giá bán, cho thuê, cho thuê mua NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
25
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Chưa quy định rõ về việc bốc thăm: 1.
Chỉ bốc thăm đối với những căn mở bán bị chọn trùng (do nhiều đối tượng
chọn trùng 1 căn) hay 2. Bốc thăm đối với toàn bộ căn hộ mở bán (bao gồm
cả căn bị chọn trùng và căn không bị chọn trùng).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
26
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Quy định các dự án đầu tư xây dựng nhà ở
thương mại tại các đô thị từ loại III trở lên phải dành quỹ đất để xây dựng
NOXH (tỷ lệ 20% theo quy định của Chính phủ) chưa phù hợp với thực tiễn. Thị
trường và quỹ đất dành cho phát triển NOXH, nhà ở cho người thu nhập thấp còn
hạn chế, nhà đầu tư thường lựa chọn hình thức nộp toàn bộ tiền sử dụng đất
thay thế cho 20% quỹ đất NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Khoản 2 Điều 83 Luật Nhà ở 2023;
Điều 17,18,19 Nghị định 100/2024/NĐ-CP)
|
27
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Việc quy hoạch, bố trí quỹ đất, xác định
diện tích đất ở dành để xây dựng NOXH tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở
thương mại, khu đô thị còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất; quy hoạch đô thị; chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở; điều
kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu và nhu cầu nhà ở thực tế của người
dân.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
28
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Luật hiện hành chưa có quy định cho phép
tổ chức kinh tế nước ngoài, quỹ đầu tư phát triển địa phương tham gia làm chủ
đầu tư dự án xây dựng NOXH; một số quy định về hình thức phát triển nhà ở
chưa đồng bộ với các luật mới được sửa đổi, bổ sung trong thời gian qua như
pháp luật về đầu tư công, đầu tư, đầu tư theo phương thức đối tác công - tư,
xây dựng.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
29
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Khoản 4 Điều 1 Nghị định
số 49/2021/NĐ-CP: Về bố trí quỹ đất cho các dự án phát triển NOXH, nhà ở
cho người thu nhập thấp: Quy định về dành quỹ đất 20% NOXH trong các dự án
nhà ở thương mại còn cứng nhắc, đặc biệt đối với các dự án có quy mô nhỏ, dẫn
đến quy hoạch dự án bị manh mún, nhỏ lẻ, gây khó khăn cho nhà đầu tư và nhà
nước trong quản lý đô thị, không phù hợp với thực tế của địa phương. Trong
khi, hiện nay chưa có quy định cho phép địa phương lập quy hoạch dự án NOXH tập
trung thay thế quỹ đất 20% NOXH tại các dự án nhà ở thương mại.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
30
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Quy định tại các đô thị từ loại 3 trở
lên phải dành 20% tổng diện tích đất ở trong các đồ án quy hoạch chi tiết
chưa phù hợp đối với một số địa phương vùng trung du và miền núi phía Bắc hoặc
đối với khu vực chưa có nhu cầu về NOXH.
2. Việc thu từ tiền sử dụng đất đối với
20% quỹ đất dành cho phát triển NOXH ở các dự án có quy mô <10ha đến nay chưa
được hướng dẫn cụ thể của các Bộ ngành liên quan.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
(Khoản 2 Điều 83 Luật Nhà ở 2023;
Điều 17,18,19 Nghị định 100/2024/NĐ-CP).
|
31
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Về khái niệm “NOXH tại khu công nghiệp”
được định nghĩa tại Nghị định số 49/2021/NĐ-CP: “NOXH tại khu công nghiệp
là NOXH được đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật
về NOXH để phục vụ nhu cầu của hộ gia đình, cá nhân làm việc tại khu công
nghiệp”.
Với khái niệm này, đối tượng được thụ hưởng nhà ở
công nhân đang rất vướng mắc và không đảm bảo công bằng với các đối tượng làm
việc tại các nhà máy, xí nghiệp bên ngoài khu công nghiệp. Do vậy cần định nghĩa
lại khái niệm, đối tượng được thụ hưởng chính sách về NOXH tại khu công nghiệp
để đảm bảo phục vụ cho đông đảo các đối tượng là công nhân theo thực tế địa
phương hiện nay.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
32
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Tại các Mẫu 1, Mẫu 3, Mẫu 4 Phụ lục I
ban hành kèm theo Thông tư số 09/2021/TT-BXD có nội dung: “Chưa có nhà ở
thuộc sở hữu của hộ gia đình”.
Tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định
số 100/2015/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ về phát triển
và quản lý NOXH quy định: “Hộ gia đình, cá nhân là người có tên trong sổ hộ
khẩu hoặc sổ tạm trú được cấp theo quy định của Luật Cư trú” và đã được sửa
đổi, bổ sung tại Điều 7 Nghị định 104/2022/NĐ-CP ngày 21
tháng 12 năm 2022 “Hộ gia đình, cá nhân là người có tên trong cùng một hộ
gia đình đăng ký thường trú đã được cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật Cư trú.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
33
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Tại Điều 20 Nghị định
số 100/2015/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi điểm b, khoản
13, Điều 1 Nghị định số 49/2021 quy định: “Chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng
NOXH có trách nhiệm gửi Danh sách các đối tượng dự kiến được giải quyết mua,
thuê, thuê mua NOXH theo thứ tự ưu tiên (theo nguyên tắc quy định tại Điều 23 Nghị định này) về Sở Xây dựng địa phương nơi có dự
án để kiểm tra nhằm xác định đúng đối tượng được hỗ trợ và loại trừ việc người
được mua, thuê, thuê mua NOXH được hỗ trợ nhiều lần hoặc đã có nhà ở, đất ở;
đã được Nhà nước hỗ trợ về nhà ở, đất ở; có phát sinh nộp thuế thu nhập cá
nhân tại địa phương...”.
Quy định nêu trên hiện nay rất bất cập trong việc
triển khai thực hiện tại các địa phương. Tiêu chí không có nhà ở, đất ở không
rõ được thực hiện tại nơi có dự án, địa bàn huyện nơi đối tượng thường trú, tạm
trú hay trên địa bàn toàn tỉnh, cả nước. Dẫn tới cách triển khai của các địa
phương khác nhau, không thống nhất. Bên cạnh đó, việc rà soát các đối tượng để
xem có nhà ở, đất ở hay chưa trong giai đoạn này còn nhiều bất cập, như: Sổ đỏ
thường cấp cho hộ gia đình trong đó có bố mẹ và đối tượng đăng ký mua nhà. Vậy
bố mẹ đã có sổ đỏ đất ở, nhà ở của hộ gia đình thì đối tượng đó có được coi
là chưa có đất ở, nhà ở hay không; dữ liệu về đất đai của các địa phương chưa
hoàn thiện nên thời gian để kiểm tra, xác minh về nhà ở, đất ở thường không đảm
bảo theo quy định... ngoài ra, mặc dù các đối tượng đã có nhà ở, có đất ở
nhưng ở quê, đi làm tại khu công nghiệp ở xa muốn thuê hoặc mua nhà để ổn định
lao động lại không được mua, thuê mua (trên địa bàn tỉnh Bắc Giang khi rà
soát có công nhân làm việc cách 80km đã có nhà, đất ở quê nên ko được mua
NOXH mặc dù là đang rất cần).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
34
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Chưa có quy định cụ thể về việc giao chủ
đầu tư dự án nhà ở cho công nhân khu công nghiệp theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 57; hướng dẫn tại Điều
8 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 7
Điều 1 Nghị định 49/2021/NĐ-CP chưa cụ thể để thực hiện.
Cần nghiên cứu, thống nhất quy định về lựa chọn
Chủ đầu tư tại Luật Nhà ở và quy định về lựa chọn Nhà đầu tư tại Luật Đầu tư,
cần làm rõ khái niệm Chủ đầu tư theo Luật Nhà ở và Nhà đầu tư theo Luật Đầu
tư; lựa chọn Chủ đầu tư với xác định, chấp thuận Chủ đầu tư, điều kiện
làm Chủ đầu tư.
|
- Nhà đầu tư được chấp thuận làm chủ đầu tư dự án
nhà ở công nhân được thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật
về đầu tư.
- Điều 84 Luật Nhà ở 2023 đã
bỏ quy định về việc giao chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng NOXH. Theo đó, hiện
nay xác định chủ đầu tư dự án NOXH theo hình thức sau:
+ Dự án được đầu tư bằng nguồn vốn quy định tại khoản 1 Điều 113 của Luật này (NSNN, nhà nước ngoài NS): việc
xác định chủ đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và
pháp luật về xây dựng.
+ Dự án đầu tư bằng nguồn tài chính công đoàn thì
việc xác định chủ đầu tư thực hiện theo quy định áp dụng với dự án đầu tư
công theo quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp luật về xây dựng.
+ Trường hợp phải dành quỹ đất trong dự án đầu tư
xây dựng nhà ở thương mại để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội: giao chủ đầu tư dự
án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trực tiếp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội,
trừ trường hợp Nhà nước sử dụng diện tích đất này để giao cho tổ chức khác thực
hiện đầu tư xây dựng nhà ở xã hội.
+ Dự án không bằng nguồn vốn nêu trên và không
thuộc trường hợp chủ đầu tư dự án ĐTXD NOTM trực tiếp đầu tư xây dựng NOXH:
thực hiện thủ tục chấp thuận hoặc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án ĐTXD
NOXH.
- Luật Nhà ở 2023 đã thống nhất về việc lựa chọn
nhà đầu tư với pháp luật về đầu tư, đã bỏ thủ tục công nhận chủ đầu tư.
|
35
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Việc xác định phát sinh thuế thu nhập cá
nhân không quy định cụ thể tại thời điểm nào do đó gây khó khăn trong công
tác xét duyệt. Ngoài ra, thời điểm cần xác minh thường thì chưa đến thời hạn
phải kê khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công của
năm đó, nên cơ quan thuế chỉ có thể cung cấp và xác định số thuế thuế thu nhập
cá nhân phải nộp của các năm trước đó.
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
36
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Cá nhân khi vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng
Chính sách xã phủ về phát hội phải thực hiện việc gửi tiết kiệm tại Ngân hàng
Chính sách xã hội hàng tháng, với thời gian tối thiểu 12 tháng và mức gửi
theo quy định của bên cho vay.
|
Kiến nghị NHCSXH, NHNN có ý kiến về nội dung này.
|
37
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Tại điểm c Khoản 1 Điều
9 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ, quy định:
“c) Trường hợp phương án quy hoạch chi tiết của dự án do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt mà không bố trí quỹ đất riêng để xây dựng công trình
kinh doanh thương mại trong phạm vi dự án thì chủ đầu tư được phép dành 20% tổng
diện tích sàn nhà ở của dự án đó để bán, cho thuê, thuê mua theo giá kinh
doanh thương mại”. Tuy nhiên, tại điểm a khoản 8 Điều 1
Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung
khoản 1 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP), không còn quy định
nội dung trên và không có quy định việc chuyển tiếp đối với nội dung này; như
vậy, sẽ có vướng mắc đối với các dự án đã được phê duyệt theo Nghị định số
100/2015/NĐ-CP nhưng đến thời điểm Nghị định số 49/2021/NĐ-CP có hiệu lực thì
mới hoàn thành đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, kinh doanh.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
38
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Hiện nay quy định của pháp luật về dành
quỹ đất để phát triển NOXH tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 (được
sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021) còn có điểm bất
cập, nhiều dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị ở khu vực ngoại
thành không phù hợp bố trí NOXH (như Ba Vì, Ứng Hòa, Mỹ Đức...) hoặc dự án
nhà ở thương mại có quy mô ≥ 2ha nhưng có diện tích đất xây dựng nhà ở nhỏ,
theo quy định vẫn phải dành 20% tổng diện tích đất ở đã đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật để xây dựng NOXH. Do đó việc phải bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội
tại dự án nhà ở thương mại không phù hợp và manh mún, rất khó thực hiện, tuy
nhiên theo quy định phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc không bố trí quỹ đất
xây dựng NOXH tại các dự án này (khoản 3 Điều 5 Nghị định
100/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1
Nghị định số 49/2021/NĐ-CP)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
39
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Pháp luật hiện hành chưa quy định, hướng
dẫn sử dụng khoản tiền thu được từ chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại nộp
tương đương quỹ đất ở tại dự án để đầu tư xây dựng NOXH (theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015
của Chính phủ và Điều 1 Nghị quyết số 06/2013/NQ-HĐND
ngày 12/7/2013 của HĐND thành phố Hà Nội), trong khi đó nguồn lực tài chính của
Thành phố Hà Nội để đầu tư xây dựng NOXH từ nguồn vốn ngân sách còn hạn chế.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này
|
40
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Sở Xây dựng đã có văn bản kèm Danh sách
các đối tượng dự kiến được giải quyết mua, thuê NOXH gửi các sở ngành liên
quan và UBND các quận, huyện, thị xã đề nghị kiểm tra xác định đúng đối tượng,
gửi Cục thuế Hà Nội đề nghị kiểm tra điều kiện về thu nhập của các đối tượng;
trường hợp phát hiện đối tượng trong Danh sách không đúng đối tượng, không đủ
điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ về NOXH thì thông báo về Sở Xây dựng
trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản để loại khỏi Danh
sách dự kiến được giải quyết mua, thuê NOXH. Tuy nhiên Cục thuế Hà Nội không
cung cấp thông tin cho Sở Xây dựng với lý do bảo mật thông tin của người nộp
thuế. Điều này có thể dẫn đến bỏ lọt các đối tượng không đủ điều kiện về thu
nhập để được hưởng chính sách hỗ trợ về NOXH vẫn được giải quyết mua, thuê,
thuê mua NOXH tại các dự án trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này
|
41
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ
|
1. Theo quy định, hồ sơ chứng minh đối tượng
mua, thuê, thuê mua NOXH phải có giấy tờ xác nhận đối tượng, tình trạng cư trú,
thực trạng về nhà ở và điều kiện thu nhập cho người có nhu cầu mua, thuê,
thuê mua NOXH của UBND cấp xã và cơ quan công tác theo mẫu do Bộ Xây dựng ban
hành. Tuy nhiên UBND cấp xã chỉ kiểm tra được thực trạng nhà ở của người dân
trên địa bàn, khó kiểm tra được trên địa bàn xã khác để xác nhận.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
42
|
Nghị định số
35/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
|
1. Chưa hướng dẫn cụ thể, tiến độ ở đây được
hiểu là tiến độ của cả dự án hay tiến độ phần chuyển nhượng quyền sử dụng đất
dưới hình thức phân lô, bán nền cho người dân được tự xây dựng.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này
|
43
|
Nghị định số
35/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
|
1. Quy định không được hưởng ưu đãi dành
20% diện tích đất ở để xây nhà ở thương mại, không được dành 20% diện tích
sàn nhà ở để bán theo giá thương mại (hiện tại các chính sách ưu đãi này đang
được áp dụng và phát huy hiệu quả) nên có ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư
vào các dự án NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
44
|
Nghị định số
35/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
|
1. Đối với các lô đất có quy mô nhỏ thì được
lập quy hoạch chi tiết theo quy trình rút gọn (gọi là quy trình lập quy hoạch
tổng mặt bằng). Tuy nhiên chưa có văn bản hướng dẫn xác định, quản lý chi phí
này.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này
|
45
|
Nghị định số
35/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
|
1. Về ưu đãi dự án NOXH: Điều khoản chuyển
tiếp tại Nghị định 35/2023/NĐ-CP ngày 20/6/2023: "Trường hợp dự án đầu
tư xây dựng NOXH đã có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư trong thời
gian kể từ ngày Nghị định số 49/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đến trước
ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, mà đang áp dụng các cơ chế ưu đãi chủ
đầu tư dự án theo quy định tại Nghị định số 49/2021/NĐ-CP thì tiếp tục thực
hiện các cơ chế ưu đãi theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị
định số 49/2021/NĐ-CP".
Đề nghị Chính phủ có hướng dẫn cho địa phương như
thế nào là "đang áp dụng các cơ chế ưu đãi". Trường hợp đã
có quyết định chủ trương đầu tư trong thời gian Nghị định 49/2221/NĐ có hiệu
lực thi hành đến trước ngày Nghị định 35/2023/NĐ-CP hiệu lực thi hành nhưng
chưa đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thì có được hiểu là đang áp dụng cơ chế ưu
đãi theo Nghị định 49/2021/NĐ-CP hay không?
|
|
46
|
Nghị định số
35/2023/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng
|
1. Nghị định không còn nội dung Chủ đầu tư
dự án đầu tư xây dựng NOXH (không sử dụng nguồn vốn đầu tư công, vốn nhà nước
ngoài đầu tư công..) được dành 20% tổng diện tích đất ở đã đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng kỹ thuật trong phạm vi dự án đầu tư xây dựng NOXH (bao gồm cả dự
án sử dụng quỹ đất 20%) để đầu tư xây dựng nhà ở thương mại nhằm bù đắp chi
phí đầu tư, góp phần giảm giá bán, giá cho thuê, thuê mua NOXH và giảm kinh
phí dịch vụ quản lý, vận hành NOXH sau khi đầu tư (đã được quy định tại Nghị
định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý
NOXH và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của
Chính phủ). Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi cũng như kế hoạch đầu tư
của các Chủ dự án NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
47
|
Công văn số
1551/BXD- QLN ngày 20/4/2023 của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn về xác định
danh mục dự án, đối tượng, điều kiện, tiêu chí vay ưu đãi phát triển NOXH,
nhà ở công nhân
|
1. Đến nay, tỉnh Cà Mau chưa có dự án NOXH
đủ điều kiện công bố danh mục dự án trên Cổng Thông tin của UBND tỉnh để làm
cơ sở cho các Ngân hàng áp dụng cho vay theo chương trình tín dụng 120.000 tỷ
đồng, vì các dự án vướng ở thủ tục về đất đai (tiến độ giải phóng mặt bằng chậm).
Kiến nghị xem xét, mở rộng điều kiện vay vốn ưu đãi chương trình tín dụng
120.000 tỷ đồng theo hướng “cho vay theo tiến độ hoàn thành bồi thường giải
phóng mặt bằng của dự án, nhưng tối thiểu dự án phải hoàn thành 50% việc bồi
thường, giải phóng mặt bằng”, để các nhà đầu tư dự án NOXH có thêm cơ hội
tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi này.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài
nguyên và môi trường có ý kiến về nội dung này.
|
48
|
Luật Nhà ở 2014,
Luật Đầu tư công
|
1. Theo quy định tại khoản
1 Điều 53 Luật Nhà ở 2014, Nhà nước đầu tư xây dựng NOXH bằng vốn ngân
sách nhà nước, công trái quốc gia, trái phiếu, vốn hỗ trợ phát triển chính thức,
vốn vay,ưu đãi của các nhà tài trợ, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
trên diện tích đất được xác định để xây dựng NOXH theo quy định để cho thuê,
cho thuê mua. Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 Luật Nhà ở
2023, Nhà nước đầu tư xây dựng NOXH bằng vốn đầu tư công để cho thuê,
cho thuê mua. Trong khi đó, đối tượng đầu tư công thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Đầu tư công. Theo quy định tại Điều 5 Luật
Đầu tư công, các đối tượng đầu tư công là dự án kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, đầu tư và hỗ trợ hoạt động đầu tư cung cấp sản phẩm, dịch vụ
công ích, phúc lợi xã hội, cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý, cấp
vốn điều lệ cho các ngân hàng chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách, hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng chính sách khác theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 48
Luật Đầu tư công, việc phân bổ vốn đầu tư công cần phù hợp với khả năng
cân đối của ngân sách nhà nước, nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu
tư công trong từng giai đoạn được cấp có thẩm quyền quy định (UBTVQH quyết
nghị). Theo đó, việc sử dụng vốn đầu tư công hỗ trợ hoạt động xây dựng NOXH
hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua việc cấp bù lãi suất, phí quản lý
cho các ngân hàng chính sách xã hội; đồng thời Nhà nước đã ban hành các chính
sách khuyến khích xã hội hóa việc đầu tư phát triển NOXH. Ngoài ra, theo quy
định tại khoản 4 Điều 4 Luật Quản lý sử dụng tài sản công,
khoản 3 Điều 80 Luật Nhà ở 2014, điểm d
khoản 1 Điều 13 Luật Nhà ở 2023, NOXH được đầu tư xây dựng bằng vốn ngân
sách nhà nước là tài sản công. Do đó, việc bán tài sản công phải thực hiện
theo quy định của Luật Quản lý sử dụng tài sản công và các quy định có liên
quan.
Tuy nhiên, Luật Nhà ở 2014 và Luật Nhà ở 2023 chỉ
quy định riêng về giá thuê, thuê mua NOXH do Nhà nước đầu tư (Điều
60 Luật Nhà ở 2014, Điều 86 Luật Nhà ở 2023), không
có quy định riêng về việc thuê mua đối với NOXH được đầu tư bằng vốn đầu tư
công. Do đó, hiện nay chưa có căn cứ cụ thể để NOXH được đầu tư xây dựng
bằng ngân sách nhà nước/đầu tư công (chưa xác định cụ thể đối tượng đầu tư
công trong Luật Đầu tư công), chưa có căn cứ về sự phù hợp giữa Luật Quản lý,
sử dụng tài sản công và Luật Nhà ở 2014, Luật Nhà ở 2023 trong việc thuê mua
NOXH đầu tư bằng vốn đầu tư công.
|
- Về đối tượng đầu tư công:
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đang dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công. Trong
đó, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 113 Luật Nhà ở 2023,
kiến nghị sửa khoản 3 Điều 5 Luật Đầu tư công theo hướng
bổ sung đầu tư để phát triển nhà ở xã hội thuộc đối tượng đầu tư công.
- Về việc thuê, mua đối với NOXH được đầu tư bằng
vốn đầu tư công: nội dung này thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quản
lý tài sản công. Do đó, đề nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
49
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP
|
1. Khoản 1 Điều 29 Nghị định
số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý
NOXH quy định trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc nghiên cứu
trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, bổ sung các dự án NOXH vào danh mục các
dự án được vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ đầu tư (kể cả nguồn vốn ODA)
theo quy định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về đầu tư; hướng dẫn việc
huy động công trái quốc gia, trái phiếu, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
(kể cả nguồn vốn ODA) để thực hiện chính sách phát triển và quản lý NOXH để
cho thuê, cho thuê mua theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này. Tuy
nhiên, như đã nêu trên, việc huy động và thu hút vốn đầu tư công (kể và vốn
ODA) để đầu tư phát triển NOXH để cho thuê, cho thuê mua chưa thực hiện được.
|
Sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung
bình, chính sách hợp tác phát triển của nhà tài trợ có sự điều chỉnh theo hướng
giảm dần hoặc chấm dứt các khoản ODA viện trợ không hoàn lại, các khoản vay
ODA với điều kiện ưu đãi được chuyển dần sang các khoản vay kém ưu đãi hơn. Một
số nhà tài trợ song phương vẫn tiếp tục cung cấp các khoản ODA và vay ưu đãi
nước ngoài dưới dạng tín dụng xuất khẩu thường kèm các điều kiện ràng buộc về
dịch vụ, xuất xứ hàng hóa của nhà tài trợ. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến hết
năm 2023 không có chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nào được
ký kết để đầu tư cho lĩnh vực nhà ở xã hội.
|
50
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật Quy hoạch
|
1. Chưa quy định cụ thể mối liên hệ, tương
tác chương trình phát triển nhà ở với hệ thống các quy hoạch khác có liên
quan như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng để làm căn cứ xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
51
|
Luật Đất đai 2013
và Luật Nhà ở 2023
|
1. Theo quy định của pháp luật đất đai,
các dự án phát triển NOXH thuộc trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
không thông qua đấu giá sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất nhưng pháp
luật về nhà ở quy định dự án đầu tư xây dựng NOXH được đầu tư xây dựng không
phải bằng nguồn vốn đầu tư công thì Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực
hiện dự án thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
|
- Theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 2 của Luật Đấu thầu 2023, dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc trường
hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 126 của Luật Đất đai, dự án đầu tư có sử dụng đất gồm thuộc
trường hợp Nhà nước thu hồi đất tại Điều 79 của Luật này
và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này
mà thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều
84 Luật Nhà ở 2024, dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội không bằng nguồn vốn
quy định tại khoản 1, khoản 2[6] Điều này và không thuộc trường hợp chủ đầu tư
dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trực tiếp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội
thì thì Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án thông qua đấu thầu
dự án có sử dụng đất
Như vậy, pháp luật về đất đai, đấu thầu, nhà ở thống
nhất về dự án nhà ở xã hội thuộc trường hợp đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng
đất.
|
52
|
Nghị định số
31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày
- 18/12/2020 của Chính phủ; Thông tư số 09/2021/TT- BTNMT ngày 30/6/2021 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Luật Đất đai 2013
và Luật Đầu tư 2020
|
1. Về vướng mắc trong việc chấp thuận chủ
trương đầu tư, chấp thuận nhà đầu tư: Tại điểm d khoản 2 Điều
31 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định để chấp
thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư đối với trường hợp
nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp
để thực hiện dự án thì phải có Bản sao hợp lệ của UBND cấp có thẩm quyền chấp
thuận việc nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất để thực hiện
dự án đầu tư.
Do đó, đang có sự mâu thuẫn giữa việc để đủ điều
kiện chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư thì cần
có Văn bản chấp thuận của UBND cấp thẩm quyền cho phép nhận chuyển nhượng, nhận
góp vốn, thuê quyền sử dụng đất khi dự án đã có trong kế hoạch sử dụng đất;
trong khi điều kiện để đưa dự án vào kế hoạch sử dụng đất thì phải có chủ
trương đầu tư được phê duyệt. Do vậy sẽ không chấp thuận được chủ trương đầu
tư. Đồng thời thủ tục cho phép nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử
dụng đất để thực hiện dự án đầu tư là một thủ tục riêng biệt thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường, không có trong thành phần hồ sơ cấp chủ trương đầu tư
theo quy định tại Điều 33 Luật Đầu tư năm 2020.
|
Khoản 3 Điều 127 Luật Đất đai
2024 đã Quy định điều kiện sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh
tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm: a) Phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất cấp huyện đã được phê duyệt và công bố; b) Chủ đầu tư phải đáp ứng các điều
kiện quy định tại Điều 122 của Luật này; đối với trường
hợp sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại thì được
thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất ở; c) Có văn bản chấp thuận của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh về việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự
án.
Điều 60 Nghị định số
102/2024/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục để tổ chức kinh tế nhận chuyển
nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực
hiện dự án đầu tư không có quy định về sự phù hợp với kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện.
Do đó, hiện nay không có mâu thuẫn với pháp luật
về đầu tư về nội dung này.
|
53
|
Dự thảo Nghị định
về quản lý và phát triển NOXH của Luật Nhà ở 2024
|
1. Về dự thảo Nghị định về quản lý và phát
triển NOXH của Luật Nhà ở 2024: Trên cơ sở thực tiễn công tác thẩm định giá
NOXH tại địa phương, kiến nghị xem xét, bổ sung các quy định công tác thẩm định
giá NOXH sau đây: (i) Bỏ lợi nhuận định mức cho lãi vay trong
thời gian xây dựng để giảm bớt giá thành cho NOXH; (ii) Bổ sung
mức lãi vay tối đa so với tổng chi phí đầu tư xây dựng của dự án để loại trừ
trường hợp lãi vay quá lớn so với các chi phí đầu tư xây dựng khác, cụ thể bổ
sung quy định tổng lãi vay không vượt quá 20% tổng chi phí đầu tư xây dựng; đồng
thời, r (% năm) là lãi suất bảo toàn vốn do người có thẩm quyền quyết định đầu
tư quyết định, do đó, đề nghị quy định cụ thể biên độ của lãi suất bảo toàn vốn
r là bao nhiêu vì người quyết định đầu tư là chủ đầu tư để loại trừ trường hợp
tự xác định giá trị r cao; (iii) Kiến nghị hướng dẫn cụ thể
công thức tính giá bán đối với NOXH được phép bán sau 10 năm cho thuê; (iv)
Kiến nghị cụ thể hơn cho trường hợp dự án đầu tư xây dựng NOXH đã được cơ
quan có thẩm quyền quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; chấp thuận đầu
tư dự án; quyết định phê duyệt dự án trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà
trình thẩm định giá bán, giá thuê, giá thuê mua sau thời điểm Nghị định này
có hiệu lực thì chủ đầu tư có được hưởng toàn bộ lợi nhuận đối với phần diện
tích công trình kinh doanh dịch vụ, thương mại, nhà ở thương mại này hay
không; (v) Theo quy định trước đây, cơ quan có thẩm quyền sẽ thẩm
định giá cho thuê NOXH dựa trên hồ sơ chi phí đầu tư xây dựng do chủ đầu tư
trình kèm theo. Tuy nhiên, hiện nay dự thảo quy định chủ đầu tư không còn
trình thẩm định giá cho thuê mà dựa trên khung giá cho thuê do UBND cấp tỉnh
ban hành. Tuy nhiên, do cơ quan có thẩm quyền không nhận được hồ sơ nên không
biết tổng vốn đầu tư xây dựng của dự án để xây dựng khung giá cho thuê phù hợp.
Do đó, ngoài việc thu thập cơ sở dữ liệu chi phí đầu tư xây dựng, kiến nghị bổ
sung nội dung cho phép tham khảo suất vốn đầu tư xây dựng công trình của Bộ
Xây dựng khi xây dựng khung giá cho thuê, cụ thể bổ sung nội dung: "UBND
cấp tỉnh có thể tham khảo suất vốn đầu tư xây dựng công trình và giá xây dựng
tổng hợp bộ phận kết cấu công trình do Bộ Xây dựng ban hành hoặc bảng giá nhà
ở, công trình, vật kiến trúc do UBND cấp tỉnh ban hành (nếu có) để xây dựng
khung giá cho thuê.”; (vi) Chi phí đầu tư xây dựng NOXH bao
gồm chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Do đó, kiến nghị quy định cụ
thể cách tính chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho dự án NOXH theo bảng
giá đất quy định của UBND cấp tỉnh ban hành hay theo giá bồi thường thỏa thuận
của chủ đầu tư; (vii) Thực tiễn có một số dự án NOXH đã được thẩm
định giá bán, giá thuê và giá cho thuê mua NOXH nhưng chậm triển khai thực hiện
do nhiều lý do khách quan như ảnh hưởng kinh tế liên quan dịch Covid -19, điều
chỉnh quy mô đầu tư xây dựng, điều chỉnh nội dung chấp thuận đầu tư dự án...
dẫn tới tăng tổng chi phí đầu tư xây dựng cũng như thay đổi phương án tài
chính của dự án, do đó phải tăng giá bán, giá cho thuê, giá cho thuê mua NOXH
so với phương án giá được cơ quan có thẩm quyền thẩm định. Tuy nhiên, dự thảo
Nghị định về phát triển và quản lý NOXH không quy định về việc thẩm định điều
chỉnh giá bán, giá thuê và giá cho thuê mua NOXH của các dự án đầu tư xây dựng
NOXH đã được thẩm định giá. Do đó, kiến nghị Bộ Xây dựng xem xét, bổ sung quy
định thẩm định điều chỉnh giá bán, giá cho thuê và giá cho thuê mua NOXH, cụ
thể bổ sung quy định: "Cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh xem xét,
quyết định việc thẩm định điều chỉnh giá bán, giá cho thuê và giá cho thuê
mua NOXH đối với các dự án đầu tư xây dựng NOXH đã được thẩm định giá bán,
giá cho thuê và giá cho thuê mua NOXH.”.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
54
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật Đấu thầu 2013
|
1. Đề nghị ban hành quy định lựa chọn nhà
đầu tư riêng trong lĩnh vực NOXH, xây dựng theo quy trình rút gọn, trong đó
xác định rõ về mục tiêu đầu tư, mục tiêu xây dựng; quy định hướng dẫn chuyển
tiếp cụ thể đối với các trường hợp đã lựa chọn nhà đầu tư qua hình thức đấu
giá, đấu thầu mà chưa làm thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật
về nhà ở; giao thẩm quyền cho địa phương quy định tiêu chí ưu tiên xét duyệt
hồ sơ đăng ký thuê NOXH thuộc sở hữu nhà nước,
|
1. Về việc lựa chọn nhà đầu tư đầu tư xây dựng
NOXH:
Theo quy định tại Điều 34 của Luật
Đấu thầu năm 2023, hình thức lựa chọn nhà đầu tư gồm: đấu thầu rộng rãi
và đấu thầu hạn chế, không gồm hình thức chỉ định nhà đầu tư. Ngoài ra, việc
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án NOXH được điều chỉnh bởi Nghị định quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất và Nghị định số 100/2024/NĐ-CP ngày
26/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát
triển và quản lý NOXH.
Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có
sử dụng đất quy định các nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn
NĐT dự án (trong đó có dự án NOXH), bao gồm cả việc mời quan tâm đối với trường
hợp xác định số lượng quan tâm theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thang điểm và tiêu chí đánh giá thực hiện theo quy định tại Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024.
Về quy định hướng dẫn chuyển tiếp cụ
thể đối với các trường hợp đã lựa chọn nhà đầu tư qua hình thức đấu giá, đấu
thầu mà chưa làm thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật về nhà ở:
điểm c khoản 2 Điều 77 Luật Đầu tư đã quy định rõ trường
hợp chuyển tiếp này. Theo đó, Nhà đầu tư đã trúng đấu thầu lựa chọn nhà đầu
tư, trúng đấu giá quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành
thì không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định tại
Luật này. Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 115 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP, đối với dự án đã xác định được chủ đầu tư theo quy định
của pháp luật có hiệu lực tại thời điểm xác định chủ đầu tư và đã nộp hồ sơ đề
nghị chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 mà
chưa được giải quyết trước ngày 01/01/2021 thì được tiếp tục thực hiện thủ tục
chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 và không
phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu
tư. Như vậy, các quy định nêu trên tại Luật Đầu tư và Nghị định số
31/2021/NĐ-CP đã có quy định chuyển tiếp cụ thể đối với trường hợp nhà đầu tư
đã trúng đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, trúng đấu giá quyền sử dụng đất trước
ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành.
Về việc đăng ký thuê NOXH thuộc sở hữu nhà
nước: nội dung này không thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.
|
2. Về nội dung đề xuất chủ trương đầu tư,
hiện chưa có quy định về đề xuất chủ trương đầu tư do cơ quan nhà nước tổ chức
lập, do đó không có kinh phí chi cho nhiệm vụ này, trong khi đó nhiệm vụ này
tương tự như lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, phải giao cho đơn vị tư vấn
có điều kiện năng lực lập, cơ quan nhà nước kiểm soát và lập tờ trình phê duyệt
chủ trương đầu tư. Đề nghị sửa đổi, bổ sung Thông số 09/2021/TT-BXD về NOXH
và Thông tư số 09/2021/TT- BKHĐT về lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư có sử
dụng đất để bổ sung nội dung này.
|
2. Quy định về đề xuất chủ trương đầu tư do cơ
quan nhà nước tổ chức lập: đã được quy định tại khoản 2 Điều
33 Luật Đầu tư.
Về kinh phí chi cho nhiệm vụ này: Đề nghị Bộ Xây
dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này.
|
3. Về lựa chọn chủ đầu tư dự án NOXH đối với
quỹ đất 20% của các dự án nhà ở thương mại, đề nghị hướng dẫn trường hợp văn
bản chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư quy định chủ đầu
tư dự án nhà ở thương mại phải bàn giao quỹ đất 20% cho nhà nước sau khi đầu
tư hoàn thành hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên, chủ đầu tư có nguyện vọng trực tiếp
đầu tư NOXH trên quỹ đất này thì UBND tỉnh có được phép điều chỉnh văn bản chấp
thuận chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư để giao cho chủ đầu tư xây dựng
NOXH trên quỹ đất 20% trong dự án nhà ở thương mại? hay phải đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư khác.
|
3. Quy định về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư:
Đối với dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư
hoặc Giấy chứng nhận đầu tư trước khi Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực thi
hành (dự án chuyển tiếp), đề nghị nghiên cứu các quy định về việc thực hiện dự
án chuyển tiếp tại khoản 2, khoản 3 Điều 77, Điều 117 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP. Cụ thể:
Khoản 1 Điều 117 NĐ
31/2021/NĐ-CP quy định đối với dự án đầu tư quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 77 của Luật Đầu tư (dự án trúng
đấu giá, đấu thầu; dự án được cấp GCNĐT, GCNĐKĐT, Giấy phép đầu tư) không phải
thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc điều chỉnh chấp thuận chủ
trương đầu tư khi điều chỉnh dự án đầu tư, trừ các trường hợp sau:
“a) Thay đổi hoặc bổ sung nội dung, mục tiêu
mà nội dung, mục tiêu được thay đổi hoặc bổ sung thuộc diện chấp thuận chủ
trương đầu tư quy định tại các Điều 30, 31 và 32 của Luật Đầu
tư;
b) Mở rộng quy mô dự án đầu tư dẫn đến dự án
thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư quy định tại các Điều
30, 31 và 32 của Luật Đầu tư;
c) Điều chỉnh dự án đầu tư trong đó có bổ sung
một trong các nội dung: Đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông
qua đấu giá, đấu thầu, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn
liền với đất; đề nghị Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, trừ trường
hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia
đình, cá nhân không thuộc diện phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Khoản 3 Điều 117 quy định
trường hợp điều chỉnh dự án đầu tư quy định tại điểm a khoản
2 Điều 77 của Luật Đầu tư (dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư, chấp
thuận chủ trương đầu tư) và nội dung điều chỉnh thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g khoản 3 Điều 41
của Luật Đầu tư, nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu
tư theo quy định.
Ngoài ra, đề nghị nghiên cứu quy định về việc lựa
chọn chủ đầu tư thực hiện đầu tư xây dựng NOXH theo pháp luật về nhà ở, đảm bảo
thực hiện đúng quy định.
|
4. Đề xuất quy định thống nhất thời điểm
xác định giá trị quỹ đất 20% trong dự án nhà ở thương mại, hiện nay việc xác
định giá trị quỹ đất 20% còn mâu thuẫn giữa pháp luật về nhà ở và pháp luật về
đất đai; pháp luật về nhà ở (Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021) quy định
xác định giá trị quỹ đất 20% tương đương tại thời điểm hoàn thành hạ tầng kỹ
thuật; trong khi đó pháp luật về đất đai quy định xác định giá trị quyền sử dụng
đất tại thời điểm giao đất.
|
4. Nội dung này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Tài chính
|
5. Về hoàn trả chi phí đầu tư hạ tầng kỹ
thuật và các khoản chi phí hợp pháp khác để thanh toán cho chủ đầu tư dự án
nhà ở thương mại khi bàn giao lại quỹ đất ở 20% trong dự án cho Nhà nước để đầu
tư xây dựng NOXH. Tuy nhiên, Bộ Xây dựng chưa có Thông tư hướng dẫn thực hiện.
Do đó, kiến nghị Bộ Xây dựng hướng dẫn: (i) Cách thức xác định
giá trị đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, cách thức phân bổ chi phí nêu trên
của dự án nhà ở thương mại vào quỹ đất NOXH bàn giao cho Nhà nước; (ii)
Cơ quan chủ trì thẩm định giá trị đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, cách thức
phân bổ chi phí nêu trên của dự án nhà ở thương mại vào quỹ đất NOXH bàn giao
cho Nhà nước, việc kiểm toán (nếu có); (iii) Đơn vị và phương
thức tiếp nhận quỹ đất và thanh toán.
|
5. Nội dung này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Xây dựng.
|
6. Về thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự
án đầu tư theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 198 Luật Nhà
ở năm 2023, theo đó xác định cụ thể trường hợp dự án NOXH áp dụng ưu đãi
theo văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới, ưu
đãi đầu tư cao hơn thì chủ đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định mới cho
thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư, trường hợp dự án
NOXH đã được chấp thuận đầu tư và đã đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư trước ngày
01 tháng 01 năm 2025, thì sau ngày 01 tháng 01 năm 2025 có được điều chỉnh
chủ trương để bổ sung ưu đãi dành 20% diện tích kinh doanh thương mại hay
không?
|
6. Về ưu đãi đầu tư dự án NOXH đối với dự án đã
chấp thuận chủ trương đầu tư trước ngày Luật Nhà ở 2023 thi hành: đề nghị thực
hiện theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 198 Luật Nhà ở
2023 quy định: "Trường hợp dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, dự
án đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư đã được cơ quan có thẩm quyền
quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; chấp thuận đầu tư dự án; quyết
định phê duyệt dự án trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì chủ đầu tư
dự án tiếp tục được hưởng cơ chế ưu đãi theo nội dung văn bản đã được quyết định,
chấp thuận, phê duyệt, trừ trường hợp Luật này, văn bản pháp luật mới được
ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới, ưu đãi đầu tư cao hơn thì chủ đầu tư được
hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của
dự án đầu tư".
Theo quy định tại khoản 3 Điều
41 Luật Đầu tư, chỉ những trường hợp sau được điều chỉnh chủ trương đầu
tư:
a) Thay đổi mục tiêu đã được quy định tại văn bản
chấp thuận chủ trương đầu tư; bổ sung mục tiêu thuộc diện chấp thuận chủ
trương đầu tư;
b) Thay đổi quy mô diện tích đất sử dụng trên 10%
hoặc trên 30 ha, thay đổi địa điểm đầu tư;
c) Thay đổi tổng vốn đầu tư từ 20% trở lên làm
thay đổi quy mô dự án đầu tư;
d) Kéo dài tiến độ thực hiện dự án đầu tư mà tổng
thời gian đầu tư dự án vượt quá 12 tháng so với tiến độ thực hiện dự án đầu
tư quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư lần đầu;
đ) Điều chỉnh thời hạn hoạt động của dự án đầu
tư;
e) Thay đổi công nghệ đã được thẩm định, lấy ý kiến
trong quá trình chấp thuận chủ trương đầu tư;
g) Thay đổi nhà đầu tư của dự án đầu tư được chấp
thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư trước khi dự án
khai thác, vận hành hoặc thay đổi điều kiện đối với nhà đầu tư (nếu có).
Theo đó, trường hợp điều chỉnh ưu đãi đầu tư mà
thay đổi các nội dung trên của dự án thì mới điều chỉnh chủ trương đầu tư dự
án.
|
7. Về quy định rút ngắn tối đa trình tự thực
hiện thủ tục giải phóng mặt bằng, giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu
tư xây dựng NOXH so với các dự án đầu tư xây dựng có sử dụng đất theo quy định
pháp luật về đất đai (Ví dụ: thực hiện giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch
ngày sau khi có chủ trương đầu tư dự án, trước khi lựa chọn chủ đầu tư nhằm
giảm tối đa thời gian thực hiện dự án).
|
7. Nội dung này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ
TNMT
|
8. Trình tự, thủ tục thu hồi NOXH, việc chủ
đầu tư bán, cho thuê, cho thuê mua NOXH không đúng đối tượng hoặc không đảm bảo
các điều kiện theo quy định thì biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc thu hồi
NOXH và buộc hoàn trả bên mua, thuê mua số tiền mua, thuê, thuê mua NOXH”
theo điểm b khoản 6 Điều 64 Nghị định số 16/2022/NĐ-CP
ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng.
Tuy nhiên, pháp luật nhà ở không quy định về trình tự, thủ tục thu hồi NOXH đối
với trường hợp này nên việc khắc phục hậu quả chưa mang tính khả thi nếu trường
hợp người mua, thuê, thuê mua NOXH không chấp nhận việc thu hồi
|
8. Nội dung này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Xây dựng
|
9. Về xác định chi phí đầu tư hạ tầng kỹ
thuật và các khoản chi phí hợp pháp khác và việc phân bổ các chi phí này vào
quỹ đất xây dựng NOXH khi chủ đầu tư nhà ở thương mại thực hiện bàn giao quỹ
đất ở 20% cho Nhà nước để phát triển NOXH; hướng dẫn áp dụng quy định pháp luật
về thực hiện nghĩa vụ NOXH khi điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án[7].
|
9. Nội dung này thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ
Xây dựng
|
10. Về danh mục các hạng mục, công trình hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu trong dự án đầu tư xây dựng khu NOXH
được ngân sách nhà nước hỗ trợ, làm cơ sở để cơ quan Nhà nước thực hiện đầu
tư, hỗ trợ đầu tư để thu hút nhà đầu tư tham gia phát triển NOXH (quy định hiện
hành chưa rõ loại công trình, hạng mục hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội nào
được Nhà nước hỗ trợ đầu tư).
|
10. Về hỗ trợ NSNN đầu tư dự án NOXH:
a) Về quy định sử dụng vốn đầu tư công tại Luật
Nhà ở 2023:
Theo quy định tại Luật Nhà ở 2023, nhà nước đầu
tư xây dựng nhà ở xã hội bằng vốn đầu tư công để cho thuê, cho thuê mua (khoản 1 Điều 80 Luật Nhà ở 2023). Đối với dự án không đầu
tư bằng nguồn vốn đầu tư công, nguồn tài chính công đoàn thì chủ đầu tư được
vay vốn với lãi suất ưu đãi (khoản 2 Điều 85 Luật Nhà ở 2023).
Theo quy định tại điểm e, điểm g khoản 2 Điều 85 Luật Nhà ở
2023, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hỗ trợ thực hiện đấu nối hệ thống hạ tầng
kỹ thuật của dự án với hệ thống hạ tầng kỹ thuật của khu vực, bảo đảm đồng bộ
hạ tầng xã hội trong và ngoài phạm vi dự án; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh căn cứ
điều kiện của địa phương ban hành cơ chế hỗ trợ thực hiện dự án đầu tư xây dựng
nhà ở xã hội trên phạm vi địa bàn phù hợp với thẩm quyền và quy định khác của
pháp luật có liên quan. Theo đó, Luật Nhà ở 2023 không có quy định việc dùng
vốn đầu tư công để hỗ trợ đầu tư xây dựng các hạng mục, công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu trong dự án đầu tư xây dựng khu NOXH.
b) Về quy định sử dụng vốn đầu tư công theo pháp
luật về đầu tư công:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 5
Luật Đầu tư công, đối tượng đầu tư công có bao gồm việc hỗ trợ đầu tư cho
các đối tượng chính sách khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 43 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP
ngày 06/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đầu tư công, căn cứ nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, bộ, cơ quan trung ương,
địa phương tổ chức lập, thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định
chính sách, bao gồm cơ chế hỗ trợ sử dụng vốn đầu tư công cho các đối tượng
thuộc chính sách. Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Đầu
tư công, đối tượng đầu tư công là chương trình, dự án kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội không có mức hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng
kinh tế kỹ thuật trong phạm vi dự án nhà ở xã hội. Do đó, không có quy định
việc sử dụng vốn đầu tư công hỗ trợ đầu tư các hạng mục, công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu trong dự án đầu tư xây dựng khu NOXH.
|
55
|
Luật Nhà ở năm
2014; Nghị định 42/2017/NĐ-CP; Nghị định số 44/2022/NĐ-CP
|
1. Hiện nay, việc rà soát đối tượng thụ hưởng
chính sách NOXH để phát hiện trùng lặp mới dừng lại ở quy mô cấp tỉnh mà chưa
có sự liên thông với các địa phương trên toàn quốc, dễ dẫn tới tình trạng người
mua NOXH tại địa phương này nhưng tiếp tục đăng ký tại các địa phương khác.
Hơn nữa, đây cũng là cơ sở để chủ đầu tư dự án xây dựng NOXH xác định được
nhu cầu của người dân để triển khai đầu tư dự án. Do đó, cần sớm hoàn thành
xây dựng, áp dụng thống nhất trên cả nước hệ thống công cụ rà soát, quản lý đối
tượng mua, thuê, thuê mua NOXH để giúp cho công tác xét duyệt được nhanh
chóng, thuận lợi và hạn chế trục lợi chính sách.
2. Hướng dẫn phương pháp lập dự toán để địa
phương có căn cứ bố trí nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ duy trì và vận hành
cơ sở dữ liệu thông tin về nhà ở và thị trường BĐS tại địa phương, đảm bảo kết
nối với hệ thống cơ sở dữ liệu của Bộ Xây dựng theo quy định tại Nghị định số
44/2022/NĐ-CP về xây dựng, quản lý và khai thác, sử dụng hệ thống thông tin về
nhà ở và thị trường BĐS.
3. Phân cấp hoặc ủy quyền cho địa phương
thực hiện đối với một số thủ tục đơn giản (như việc ủy quyền cho Sở Xây dựng
thẩm định công trình NOXH có chiều cao dưới 25 tầng theo Nghị định
42/2017/NĐ-CP[8] và ủy
quyền kiểm tra công tác nghiệm thu đối với một số công trình cấp I).
4. Về điều chỉnh bổ sung đối tượng được
mua, thuê mua, thuê NOXH tại dự án NOXH dành cho công nhân tại khu công nghiệp
tại các dự án này sau khi dự án đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định,
đối tượng là công nhân làm việc tại các khu công nghiệp đăng ký mua/thuê/thuê
mua nhà ở tại dự án là rất ít, trong khi đó chủ đầu tư không thu hồi được vốn
để tái đầu tư. Do đó, chủ đầu tư đề nghị được điều chỉnh dự án từ “xây dựng
nhà ở xã hội dành cho công nhân tại các khu công nghiệp” sang “Xây dựng
khu nhà ở xã hội” để được bán/cho thuê/ cho thuê mua cho công nhân và các
đối tượng thụ hưởng chính sách khác theo quy định tại điều
49 Luật Nhà ở năm 2014. Tuy nhiên, chưa có quy định hướng dẫn việc chuyển
đổi này, do đó, đề nghị Bộ Xây dựng hướng dẫn trình tự để điều chỉnh bổ
sung dự án để bán/ cho thuê mua/ cho thuê cho các đối tượng được quy định tại
điều 49 Luật Nhà ở năm 2014.
5. Về điều chỉnh mở rộng mở rộng đối tượng
thuê nhà ở đối với loại nhà khu chung cư sinh viên có hiệu suất cho thuê thấp
và ở vị trí riêng biệt (bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người
có thu nhập thấp,.. nhằm tránh lãng phí và tạo nguồn kinh phí bù đắp cho việc
quản lý, vận hành, bảo trì công trình.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
56
|
Luật Đất đai 2013;
Luật Đầu tư 2020 và các nghị định, thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành; Nghị định số 100/2015/NĐ-CP; Nghị quyết số 33/2023/NQ- CP của Chính phủ
|
1. Về phương pháp xác định lợi nhuận thu
được từ việc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại trong dự án NOXH: Điều 9 Thông tư số 09/2021/TT-BXD về NOXH quy định “Trường
hợp chủ đầu tư bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại thì phần lợi nhuận
thu được tính theo thực tế (trong trường hợp chưa tính được theo thực tế thì
phải dự kiến phần lợi nhuận thu được để phân bổ) nhưng tối thiểu không được
thấp hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn cho phần diện tích đất xây
dựng nhà ở thương mại”. Tuy nhiên, không có hướng dẫn cụ thể về phương
pháp xác định lợi nhuận thu được theo quy định này, dẫn đến các địa phương
đang áp dụng nhiều phương pháp khác nhau[9]. Đối chiếu với quy định tại khoản
2 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP[10], việc xác định lợi nhuận thu được từ phần đất
kinh doanh thương mại không thuộc trường hợp xác định giá đất cụ thể. Do có
nhiều cách hiểu và cách làm khác nhau giữa các địa phương nên nội dung này
gây lúng túng trong việc xác định giá NOXH. Đề nghị hướng dẫn cụ thể về căn cứ
và phương pháp xác định lợi nhuận thu được từ phần đất kinh doanh thương mại
để bù đắp chi phí trong việc xác định giá NOXH.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính có ý kiến về
nội dung này
|
1. Về cho vay NOXH theo Nghị định số
100/2015/NĐ-CP: Một trong những tồn tại, bất cập của chương trình này là việc
giao vốn để cho vay còn chậm (đến năm 2018, ngân sách nhà nước mới cấp nguồn
vốn cho NHCSXH để triển khai thực hiện cho vay NOXH và việc chưa bố trí ngân
sách để cấp bù lãi suất cho các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại) được
chỉ định cho vay NOXH theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP nên chưa triển khai được
việc cho vay qua ngân hàng thương mại, thủ tục giải ngân còn nhiều bất cập,
việc tiếp cận vốn vay mua NOXH còn hạn chế. Trình tự, thủ tục cho vay NOXH
theo quy trình, hướng dẫn cho vay của NHCSXH Việt Nam còn có điểm chưa phù hợp[11], cụ thể, NHCSXH tiếp
tục thẩm định lại các điều kiện của đối tượng vay NOXH, như đối tượng, điều
kiện về nhà ở, thu nhập, cư trú mặc dù các điều kiện này đã được các cơ quan
có thẩm quyền dành nhiều thời gian xác minh, xét duyệt dẫn đến thời hạn xét
duyệt tiếp cận NOXH lại tiếp tục kéo dài; đồng thời, theo quy định của NHCSXH
thì khi xác minh điều kiện cho vay, đối tượng cho vay phải là thành viên của
Tổ tiết kiệm và vay vốn tại thôn, xóm, ấp, bản..., trường hợp chưa phải là
thành viên thì phải được kết nạp, phải được sự bình xét của tổ chức đoàn thể
như hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, hội nông dân ... tại nơi
cư trú, sau khi được chấp nhận thông qua bình xét thì Tổ tiết kiệm và vay vốn
mới gửi danh sách đã được bình chọn đến NHCSXH để làm điều kiện cho vay. Thực
tế cho thấy nhiều trường hợp đối tượng vay NOXH vì nhiều lý do nên không sinh
hoạt tại các đoàn thể nên không được bình xét vay vốn, mặc dù họ là những đối
tượng được hưởng chính sách này theo quy định của Luật. Bên cạnh đó, điều kiện
về cho vay là phải có vốn tự có tối thiểu hằng 20% giá trị hợp đồng mua,
thuê mua NOXH dẫn đến nhiều trường hợp không thể có điều kiện này để vay
mua, thuê mua NOXH. Từ thực tiễn như trên, có địa phương đề nghị không quy định
về lãi suất ưu đãi cho vay để phát triển NOXH, bởi thực tế doanh nghiệp không
tiếp cận được nguồn vốn và lãi suất này.
|
1. Về cho vay NOXH theo Nghị định số
100/2015/NĐ-CP:
- Về việc việc giao vốn để cho vay còn chậm:
+ Theo quy định tại khoản 2, khoản
3 Điều 48 Luật Đầu tư công, việc phân bổ vốn đầu tư công cần phù hợp với
khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân
bổ vốn đầu tư công trong từng giai đoạn được cấp có thẩm quyền quy định (Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị).
+ Hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi của nhà nước thông
qua Ngân hàng Chính sách xã hội, tổ chức tín dụng do nhà nước chỉ định:
Giai đoạn 2016-2020: ngân sách nhà nước đã bố trí
cấp cho Ngân hàng Chính sách xã hội để vay NOXH là 2.163 tỷ đồng.
Giai đoạn 2021-2025: căn cứ theo Quyết định số
1535/QĐ-TTg ngày 15/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch vốn
đầu tư công trung hạn nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, kế hoạch
đầu tư công trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 bố trí để
cho vay NOXH là 1.000 tỷ đồng.
- Về việc chưa bố trí ngân sách để cấp bù lãi suất
cho các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại) được chỉ định cho vay NOXH
theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Theo đề xuất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 (văn bản số
9716/NHNN-TCKT ngày 21/12/2016), nhu cầu vốn hỗ trợ để thực hiện chính sách
nhà ở xã hội dự kiến cấp cho cho 04 ngân hàng thương mại được chỉ định là
9.977,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, do gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn cấp
bù lãi suất cho 04 ngân hàng thương mại được chỉ định, ngày 03/10/2018, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản số 7481/NHNN-TD điều chỉnh lại kế hoạch vốn
cấp bù lãi suất cho 04 ngân hàng thương mại được chỉ định từ 9.977,5 tỷ đồng
xuống còn 248,63 tỷ đồng. Tuy nhiên, tính đến hết năm 2020, các ngân hàng
thương mại không được bố trí dự toán cấp bù lãi suất thực hiện các chương
trình tín dụng chính sách của nhà nước (bao gồm cả chính sách nhà ở xã hội).
Tại Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội ngày
28/7/2021 về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 không bố trí
vốn cấp bù chênh lệch lãi suất cho các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
ưu đãi giai đoạn 2021-2025.
Do không được bố trí dự toán cấp bù lãi suất nên
các ngân hàng thương mại vẫn còn e ngại trong việc cho vay chính sách theo
quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP. Trên thực tế, chưa có ngân hàng
thương mại nào cho vay theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP từ năm 2016 đến nay.
Chính sách cấp bù lãi suất cho chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội vay ưu đãi thông
qua ngân hàng thương mại theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đến nay chưa thực
hiện được do ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, việc tổng hợp nhu cầu
vốn hỗ trợ lãi suất từ các ngân hàng thương mại cũng như việc thực hiện các
thủ tục liên quan đến lập, thẩm định chủ trương đầu tư, bố trí kế hoạch vốn đầu
tư công chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ cũng như chưa đảm bảo đúng quy định của
pháp luật về đầu tư công nên chưa đủ điều kiện để bố trí kế hoạch vốn.
Thực tế việc hỗ trợ lãi suất cho chủ đầu tư dự án
nhà ở xã hội vay thông qua ngân hàng thương mại vay cải tạo chung cư cũ, xây
dựng NOXH, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua theo Chương trình phục hồi
và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15, Nghị quyết số
11/NQ-CP cho thấy quá trình thực hiện gặp nhiều vướng mắc do chủ đầu tư phần
lớn chưa đáp ứng được tiêu chí về nhóm đối tượng hỗ trợ lãi suất; tâm lý e ngại
của chủ đầu tư và các ngân hàng thương mại đối với công tác thanh tra kiểm
tra; cân nhắc lợi ích được hỗ trợ lãi suất với chi phí phải bỏ ra để theo dõi
hồ sơ, chứng từ, chi phí tuân thủ các thủ tục hậu kiểm của nhà nước...
- Về hình tự, thủ tục cho vay NOXH: đề nghị Ngân
hàng nhà nước, NHCSXH có ý kiến về nội dung này
|
2. Về gói tín dụng 120.000 tỷ đồng:
+ Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam để thống nhất điều kiện tham gia vay ưu đãi gói tín dụng
120.000 tỷ đồng của Chính phủ theo hướng đơn giản thủ tục, điều kiện vay làm
cơ sở để các chủ đầu tư dự án NOXH, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại
chung cư áp dụng thực hiện.
+ Theo Nghị quyết số 33/2023/NQ-CP của Chính phủ,
Bộ Xây dựng có nhiệm vụ “Chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và các bộ, ngành, cơ quan có liên quan xác định danh mục dự án, đối tượng,
điều kiện, tiêu chí được thụ hưởng Chương trình”. Thực hiện nhiệm vụ
này, Bộ Xây dựng đã ban hành Công văn số 1699/BXD-QLN ngày 23/4/2024 hướng
dẫn xác định danh mục dự án, đối tượng, điều kiện, tiêu chí vay ưu đãi phát
triển NOXH, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư. Theo đó, đối
với chủ đầu tư dự án NOXH, nhà ở công nhân phải có trong danh mục các dự
án NOXH, nhà ở công nhân (NOXH tại khu công nghiệp) do UBND cấp tỉnh công
bố và phải đảm bảo điều kiện sau: “Đối với dự án xây dựng NOXH, nhà ở
cho công nhân: đã được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư theo
quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về nhà ở; đã được lựa chọn là
chủ đầu tư dự án theo pháp luật về nhà ở đã có quyết định giao đất hoặc đã có
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”. Theo quy định
của Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Nhà ở năm 2023, chủ đầu tư dự án NOXH phải thực
hiện ký quỹ và bảo đảm năng lực tài chính thực hiện dự án như chủ đầu tư dự
án nhà ở thương mại, do đó, quy định nhiều điều kiện như trên là chưa thuận lợi
cho chủ đầu tư tiếp cận nguồn vốn 120.000 tỷ đồng. Mặt khác, làm tăng thêm thủ
tục hành chính khi quy định UBND cấp tỉnh phải công bố danh mục chủ đầu
tư NOXH, nhà ở công nhân đủ điều kiện vay vốn. Thực tiễn cho thấy, tại thời
điểm Báo cáo có nhiều địa phương công bố danh mục chủ đầu tư dự án NOXH đủ điều
kiện vay vốn nhưng mới chỉ có có 15 dự án được ngân hàng cam kết cấp tín dụng
với số tiền khoảng 7.000 tỷ đồng, trong đó có 08 dự án NOXH tại 07 địa phương
được giải ngân với số vốn khoảng 640 tỷ đồng (đạt 1%).
Do đó, đề nghị bãi bỏ thủ tục công bố danh mục dự
án NOXH đủ điều kiện vay vốn theo Chương trình tín dụng 120.000 tỷ đồng theo
Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ và thay thế bằng văn bản
của Bộ Xây dựng hướng dẫn điều kiện về hồ sơ pháp lý để các ngân hàng thương
mại kiểm tra trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn. Nghiên cứu, điều chỉnh
điều kiện về hồ sơ pháp lý đối với dự án NOXH được vay vốn ưu đãi theo Chương
trình tín dụng 120.000 tỷ đồng tại Công văn số 1551/BXD-QLN ngày 20/4/2023 của
Bộ Xây dựng[12] theo
hướng tạo điều kiện để các chủ đầu tư sớm tiếp cận nguồn vốn đầu tư xây dựng NOXH
+ Tổng hợp danh mục NOXH, nhà ở công nhân, dự án
cải tạo, xây dựng lại chung cư làm cơ sở để các ngân hàng thương mại chủ động
tiếp cận, thẩm định và cho vay gói tín dụng 120.000 tỷ đồng theo Nghị quyết
33/NQ-CP của Chính phủ.
3. Về mức cho vay tối đa để xây dựng mới
hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở, sửa đổi mức cho vay cho vay tối đa bằng 70%
giá trị dự toán hoặc phương án vay, tối đa không quá 500 triệu đồng và không
vượt quá 70% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay” tại Nghị định số
100/2015/NĐ-CP về NOXH thành mức từ 500 triệu đồng trở lên và không quá 1 tỷ
đồng để phù hợp với chi phí nguyên vật liệu và nhân công tăng cao.
|
2, 3. Về gói tín dụng 120.000 tỷ đồng; mức cho
vay tối đa để xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở: đề nghị Bộ Xây dựng,
Ngân hàng Nhà nước có ý kiến về nội dung này.
|
4. Quy định, hướng dẫn xử lý đối với các
dự án BĐS, NOXH trước đây chưa thực hiện đầy đủ thủ tục về chủ trương đầu tư,
lựa chọn chủ đầu tư nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để dự
án tiếp tục triển khai, hoàn thiện, đưa vào sử dụng, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội địa phương, tránh lãng phí nguồn lực đất đai, tài sản xã hội.
|
Hiện nay không có quy định về việc xử lý đối với
các trường hợp thực hiện sai quy định pháp luật về đầu tư, đấu thầu. Đề nghị
rà soát, xác định lỗi của các bên (cơ quan nhà nước, nhà đầu tư) khi không thực
hiện đúng thủ tục. Đồng thời, cân nhắc khi xây dựng quy định xử lý đối với
các trường hợp này, tránh trường hợp hợp thức hoá sai phạm.
|
57
|
Luật Nhà ở 2014,
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đất đai 2013; Nghị định số
148/2021/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ; Thông tư 09/2021/TT-BXD ngày
16/8/2021 của Bộ Xây dựng;
|
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc báo cáo
Chính phủ ban hành quy định riêng về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án NOXH
theo hướng chỉ định nhà đầu tư trong một số trường hợp; hoặc rút ngắn thời
gian tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh việc
thực hiện các dự án NOXH, nhà ở công nhân.- Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư
làm rõ hơn những vấn đề đang triển khai liên quan đến quy hoạch còn vướng mắc;
làm rõ về quy hoạch các địa giới hành chính thì ảnh hưởng, tác động đến việc
chậm phê duyệt và điều chỉnh mục tiêu của các dự án BĐS như thế nào.
|
1. Về lựa chọn nhà đầu tư:
Theo quy định tại Điều 34 của Luật
Đấu thầu năm 2023, hình thức lựa chọn nhà đầu tư gồm: đấu thầu rộng rãi
và đấu thầu hạn chế, không gồm hình thức chỉ định nhà đầu tư. Ngoài ra, việc
đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án NOXH được điều chỉnh bởi Nghị định quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất và Nghị định số 100/2024/NĐ-CP ngày
26/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát
triển và quản lý NOXH.
Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có
sử dụng đất quy định các nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn
NĐT dự án (trong đó có dự án NOXH), bao gồm cả việc mời quan tâm đối với trường
hợp xác định số lượng quan tâm theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thang điểm và tiêu chí đánh giá thực hiện theo quy định tại Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024.
Đối với nội dung liên quan đến quy hoạch:
- Báo cáo không đề cập đến vướng mắc liên quan đến
quy hoạch nên Bộ Kế hoạch và Đầu tư không có cơ sở để có ý kiến về nội dung
này.
- Về việc làm rõ về quy hoạch các địa giới hành
chính thì ảnh hưởng, tác động đến việc chậm phê duyệt và điều chỉnh mục tiêu
của các dự án BĐS như thế nào: Luật Quy hoạch không có "quy hoạch các địa
giới hành chính".
|
2. Thực tế, nhiều địa phương còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc liên quan đến dự án BT sau khi Luật PPP ra đời trong quá
trình triển khai tiếp các dự án. Đề nghị đánh giá kỹ xem với những dự án BT
như vậy thì những khó khăn, vướng mắc còn lại là gì và cách thức xử lý dứt điểm
như thế nào với hệ thống pháp luật hiện nay.
|
2. Thực hiện ý kiến của Lãnh đạo Chính phủ, hiện
nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều các luật, trong đó có Luật PPP để kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc của các dự án PPP, dự án BT chuyển tiếp.
|
58
|
Thông tư số
10/2018/TT- BTC của Bộ Tài chính; Thông tư số 80/2021/TT- BTC ngày 29/9/2021
của Bộ Tài chính
|
1. Về thu tiền sử dụng đất khi chuyển nhượng
nhà ở thương mại thuộc quỹ đất 20% ưu đãi chủ đầu tư trong dự án NOXH (Thông
tư số 10/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính): Theo đó, chủ đầu tư chuyển nhượng
quỹ NOTM này thì phải nộp số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm cho Nhà nước,
tuy nhiên theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014, Luật Đất đai năm 2013 thì diện
tích đất phát triển NOXH thuộc diện được ưu đãi miễn tiền sử dụng đất. Cụ thể
hoá quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về NOXH
quy định về miễn tiền sử dụng đất, quỹ đất để đầu tư xây dựng công trình
kinh doanh thương mại (kể cả NOTM cao tầng hoặc thấp tầng) trong dự án NOXH;
chủ đầu tư dự án được bán nhà ở thuộc phần kinh doanh thương mại trong dự án
đầu tư xây dựng dự án NOXH cho khách hàng có nhu cầu theo giá kinh doanh
thương mại, trong cơ cấu giá bán đã bao gồm tiền sử dụng đất. Chủ đầu tư có
trách nhiệm phân bổ lợi nhuận từ việc bán phần diện tích kinh doanh thương mại
này (bao gồm cả tiền sử dụng đất đã tính trong giá bán) để bù đắp chi phí đầu
tư NOXH, góp phần giảm giá bán, giá cho thuê, giá cho thuê mua NOXH và giảm
chi phí quản lý, vận hành NOXH của dự án, đảm bảo lợi nhuận định mức của toàn
bộ dự án không vượt quá 10% tổng chi phí đầu tư; lợi nhuận thu được tính theo
thực tế (trong trường hợp chưa tính được theo thực tế thì phải dự kiến phần lợi
nhuận thu được để phân bổ) nhưng tối thiểu không được thấp hơn tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất được miễn cho phần diện tích đất xây dựng nhà ở thương mại.
Do đó, chủ đầu tư không phải nộp lại tiền sử dụng đất khi bán phần kinh doanh
thương mại này. Xuất phát từ quy định tại Thông tư số 10/2018/TT-BTC, tại nhiều
địa phương, chủ đầu tư dự án NOXH sau khi đã bán phần kinh doanh thương mại
này thì không thể làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn liền
với tài sản, dẫn đến tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện giữa các bên trong
giao dịch nhà ở. Ngược lại có nhiều địa phương lại áp dụng quy định của Nghị
định số 100/2015/NĐ-CP, theo đó, chủ đầu tư dự án NOXH không phải nộp lại tiền,
sử dụng đất đối với phần kinh doanh thương mại trong dự án NOXH. Bên cạnh đó,
tại Đề án 1 triệu căn hộ NOXH, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính “Nghiên
cứu sửa đổi quy định hướng dẫn cụ thể chế độ miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất đối với chủ đầu tư dự án NOXH, nhà ở công nhân (quy định tại Thông tư số
10/2018/TT-BTC ngày 03/01/2018 của Bộ Tài chính) theo hướng không phải nộp
lại số tiền sử dụng đất được miễn khi chủ đầu tư khi bán nhà (cùng với chuyển
nhượng quyền sử dụng đất) cho khách hàng”. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã
báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc chưa có căn cứ để trình sửa đổi, bổ sung
Thông tư số 10/2018/TT-BTC và đề nghị giữ nguyên quy định này[13]. Đề nghị Bộ Tài
chính nghiên cứu bãi bỏ quy định thu tiền sử dụng đất khi chuyển nhượng nhà ở
thương mại thuộc quỹ đất 20% ưu đãi chủ đầu tư trong dự án NOXH tại Thông tư
số 10/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính về tiền sử dụng đất.
- Về hồ sơ, trình tự, thủ tục miễn, giảm tiền
sử dụng đất đối với dự án NOXH: Theo quy định tại khoản
8 Điều 60 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP
ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý
thuế thì trong thành phần hồ sơ miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với dự án
NOXH (cho người lao động trong đơn vị mình thuê theo khoản 2
Điều 53 Luật Nhà ở năm 2014) yêu cầu “Bản sao danh sách người lao động
của doanh nghiệp, hợp tác xã được bố trí nhà ở có xác nhận của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhà ở”, theo đánh giá của doanh
nghiệp, quy định này là gây khó khăn, vướng mắc cho chủ đầu tư trong quá
trình thực hiện dự án. Do đó, đề nghị Bộ Tài chính bãi bỏ nội dung này.
- Về việc sử dụng nguồn thu từ tiền sử dụng
đất, tiền cho thuê đất để lại cho địa phương phục vụ công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, thu hồi đất để giao cho chủ đầu tư dự án Xây dựng NOXH
(bao gồm nguồn tiền thu được từ các quỹ đất 20% tại các dự án nhà ở thương
mại). Qua giám sát cho thấy, việc sử dụng nguồn tiền nêu trên để phát triển
NOXH tại các địa phương là rất hạn chế, một trong những nguyên nhân theo phản
ánh là chưa có hướng dẫn cụ thể từ để Bộ Tài chính quản lý nguồn tiền này
thành mục riêng để phát triển NOXH mà đều hoà chung vào ngân sách[14]. Do đó, đề nghị Bộ
Tài chính hướng dẫn cụ thể nội dung này.
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này
|
- Sắp tới sửa Luật Thuế giá trị gia tăng, đề nghị
Bộ Tài chính báo cáo thêm về những nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách
về ưu đãi cho NOXH và thu nhập doanh nghiệp ngoài chính chính sách giảm thuế
giá trị gia tăng cho mua NOXH như hiện nay.
- Đề nghị Bộ Tài chính đánh giá về sự hợp lý và
tình hình thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng
đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao đối với
nội dung “cần phải có mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện
tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất chậm đưa vào sử dụng”.
|
Kiến nghị Bộ Tài chính có ý kiến về nội dung này
|
59
|
Luật Nhà ở, Luật Đất
đai, Luật Quy hoạch đô thị, Nghị định số 100/2021/NĐ-CP
|
1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Theo quy định tại Điều 174 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 29 Nghị định số 100/2021/NĐ-CP về NOXH, Bộ Tài nguyên và
Môi trường có trách nhiệm “Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng hướng dẫn các
địa phương trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bảo đảm đủ quỹ đất
để triển khai thực hiện các dự án xây dựng NOXH”. Thực tiễn thực hiện
chính sách, pháp luật về nhà ở giai đoạn 2015 - 2023 cho thấy, một số địa
phương chưa triển khai thực hiện đầu tư xây dựng công trình NOXH trên quỹ đất
dành cho NOXH trong các dự án khu đô thị đã được phê duyệt, chưa triển khai dự
án NOXH độc lập mà chủ yếu khi lập quy hoạch chi tiết các dự án mới, khu dân
cư mới dành một phần quỹ đất để phát triển NOXH. Một số dự án đầu tư được chấp
thuận chủ trương đầu tư, giao đất, cho thuê đất nhưng chậm đầu tư, đưa vào sử
dụng; có trường hợp được giao đất, cho thuê đất ngoài quy hoạch hoặc không theo
quy hoạch sử dụng đất. Việc giao đất, cho thuê đất tại các khu, cụm công nghiệp
ở nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện đúng theo quy định. Đề nghị Bộ Tài
nguyên và Môi trường cho biết, giai đoạn 2015-2023, Bộ đã quy định/hướng dẫn
nội dung cụ thể nào đối với địa phương trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, bảo đảm đủ quỹ đất để triển khai thực hiện các dự án xây dựng
NOXH.
2. Về công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ tái định cư, giao đất để đầu tư xây dựng NOXH: Một số địa phương đang gặp
khó khăn do việc hướng dẫn chưa cụ thể về “giao đất theo tiến độ bồi thường,
giải phóng mặt bằng”, cụ thể là có địa phương xuất phát từ thực tiễn thực
hiện giao đất theo tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng để tháo gỡ khó
khăn cho chủ đầu tư NOXH vì có trường hợp chủ đầu tư đã bồi thường, giải
phóng mặt bằng đạt 98% và chỉ còn một số hộ chưa đồng ý với phương án bồi thường,
hỗ trợ tái định cư nên kéo dài trong nhiều năm, chủ đầu tư không thể triển
khai dự án, gây thiệt hại cho chủ đầu tư, lãng phí nguồn lực; nhưng cũng có địa
phương không áp dụng hình thức giao đất này, dẫn đến nhà đầu tư không thể triển
khai thực hiện dự án vì cơ quan địa phương cho rằng việc giao đất theo tiến độ
dự án là chưa phù hợp với Luật Đất đai năm 2013. Về vấn đề này, tại Điều 116 của Luật Đất đai năm 2024 đã quy định “Trường hợp
quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án có phân kỳ tiến độ hoặc việc
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo tiến độ thì cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất quyết định việc giao đất, cho thuê đất
theo tiến độ của dự án đầu tư, tiến độ thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư”.
Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết,
giai đoạn 2015- 2023, Bộ đã quy định/hướng dẫn nội dung cụ thể nào đối với địa
phương trong giao đất thực hiện dự án NOXH theo tiến độ bồi thường, hỗ trợ
tái định cư, giải phóng mặt bằng; giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong việc giao
đất theo tiến độ bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải phóng mặt bằng đối với
các dự án hiện đang thực hiện trước thời điểm Luật Đất đai 2024 có hiệu lực
thi hành.
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này
|
60
|
Luật Thi hành án
dân sự; Luật Đất đai 2023
|
1. Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp, quy định
hiện hành còn chưa thống nhất giữa giai đoạn thực hiện dự án và giai đoạn
THADS, cụ thể như sau: (i) Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất chưa phù hợp: Cấp giấy chứng nhận riêng từng mảnh cho từng cá nhân để thế
chấp trong Dự án tổng thể, dẫn đến cơ quan THADS không thể kê biên, bán đấu
giá tài sản; Bản án tuyên duy trì lệnh kê biên để đảm bảo thi hành án (xử lý
một phần các lô đất) nhưng Dự án là khối thống nhất, không thể phân chia vị
trí từng lô trên thực địa; một số Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được
cấp sau khi đã hoàn tất thủ tục giải phóng mặt bằng; nếu phát mại từng lô đất
như theo bản án tuyên thì có thể phá vỡ quy hoạch ban đầu...; (ii)
Mặc dù là tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án, nhưng qua xác minh dự án
đã có sự thay đổi, điều chỉnh về quy hoạch; có thể phát sinh nhiều tranh chấp
dân sự do chủ đầu tư đã tiếp tục thực hiện chuyển nhượng trong khi dự án đang
thế chấp; (iii) Khi thế chấp tài sản để vay vốn đầu tư xây dựng
các chung cư cũng như NOXH, chủ đầu tư chỉ được thế chấp phần diện tích đất
mà Nhà nước cấp phép là đất ở, không được thế chấp phần diện tích đất mà Nhà
nước quy hoạch là khu vui chơi giải trí, khuôn viên vườn hoa, đường đi nội bộ...
trong khu vực nhà ở và chung cư đó. Do vậy, người mua trúng đấu giá sẽ chỉ được
quyền quản lý, sử dụng đối với phần tài sản mình đã mua mà không được quyền
quản lý, điều hành sử dụng đối với khu vui chơi giải trí, khuôn viên, vườn
hoa, đường đi nội bộ. Thực tế có thể có việc chồng chéo trong quản lý, vận
hành, đảm bảo an ninh, trật tự, phòng cháy chữa cháy... chung của khu chung
cư và NOXH vì đang do 02 đơn vị cùng quản lý (người mua trúng đấu giá, chủ đầu
tư cũ của toàn bộ dự án); (iv) Bản án tuyên phải thu hồi lại
quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp với khu đất của
dự án; tuy nhiên, UBND không đủ căn cứ để thực hiện việc thu hồi giấy chứng
nhận đã cấp. Nếu thu hồi đất thì các hợp đồng đã ký kết giữa nhà đầu tư và
người nhận chuyển nhượng phải hủy nhưng nội dung bản án tuyên vẫn yêu cầu đảm
bảo quyền lợi cho người dân, do đó, có thể không thực hiện được trên thực tế.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp có ý kiến về nội
dung này
|
C
|
Tổng hợp của các Bộ,
ngành
|
|
|
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư
|
|
|
1.
|
Luật Nhà ở 2014,
Luật Đầu tư công
|
1. Theo quy định tại khoản
1 Điều 53 Luật Nhà ở 2014, sửa đổi, bổ sung tại khoản 6 Điều
99 Luật PPP, Nhà nước đầu tư xây dựng NOXH bằng vốn ngân sách nhà nước,
công trái quốc gia, trái phiếu, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu
đãi của các nhà tài trợ, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên diện
tích đất được xác định để xây dựng NOXH theo quy định để cho thuê, cho thuê
mua. Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 Luật Nhà ở 2023,
Nhà nước đầu tư xây dựng NOXH bằng vốn đầu tư công để cho thuê, cho thuê mua.
Trong khi đó, đối tượng đầu tư công thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư
công. Theo quy định tại Điều 5 Luật Đầu tư công, các đối
tượng đầu tư công là dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư và hỗ trợ
hoạt động đầu tư cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích, phúc lợi xã hội, cấp bù
lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý, cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng
chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hỗ trợ đầu tư cho các đối
tượng chính sách khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy định
tại khoản 2, khoản 3 Điều 48 Luật Đầu tư công, việc phân
bổ vốn đầu tư công cần phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước,
nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công trong từng giai đoạn
được cấp có thẩm quyền quy định (UBTVQH quyết nghị). Theo đó, việc sử dụng vốn
đầu tư công hỗ trợ hoạt động xây dựng NOXH hiện nay chủ yếu được thực hiện
thông qua việc cấp bù lãi suất, phí quản lý cho các ngân hàng chính sách xã hội;
đồng thời nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hóa việc đầu
tư phát triển NOXH. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều
4 Luật Quản lý sử dụng tài sản công, khoản 3 Điều 80 Luật
Nhà ở 2014, điểm d khoản 1 Điều 13 Luật Nhà ở 2023,
NOXH được đầu tư xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước là tài sản công. Do đó,
việc bán tài sản công phải thực hiện theo quy định của Luật Quản lý sử dụng
tài sản công và các quy định có liên quan. Tuy nhiên, Luật Nhà ở 2014 và Luật
Nhà ở 2023 chỉ quy định riêng về giá thuê, thuê mua NOXH do nhà nước đầu tư (Điều 60 Luật Nhà ở 2014, Điều 86 Luật Nhà ở
2023), không có quy định riêng về việc thuê mua đối với NOXH được đầu tư
bằng vốn đầu tư công. Do đó, hiện nay chưa có căn cứ cụ thể để NOXH được đầu
tư xây dựng bằng ngân sách nhà nước/đầu tư công (chưa xác định cụ thể đối tượng
đầu tư công trong Luật Đầu tư công), chưa có căn cứ về sự phù hợp giữa Luật
Quản lý tài sản công và Luật Nhà ở 2014, Luật Nhà ở 2023 trong việc thuê mua
NOXH đầu tư bằng vốn đầu tư công.
|
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đang dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công. Trong
đó, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 113 Luật Nhà ở 2023,
kiến nghị sửa khoản 3 Điều 5 Luật Đầu tư công theo hướng
bổ sung đầu tư để phát triển nhà ở xã hội thuộc đối tượng đầu tư công.
|
2.
|
Nghị định số
100/2015/NĐ-CP
|
1. Khoản 1 Điều 29 Nghị định
số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý
NOXH quy định trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc nghiên cứu
trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, bổ sung các dự án NOXH vào danh mục các
dự án được vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ đầu tư (kể cả nguồn vốn ODA)
theo quy định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về đầu tư; hướng dẫn việc
huy động công trái quốc gia, trái phiếu, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn
vay ưu đãi của các nhà tài trợ, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
(kể cả nguồn vốn ODA) để thực hiện chính sách phát triển và quản lý NOXH để
cho thuê, cho thuê mua theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định này. Tuy
nhiên, như đã nêu trên, việc huy động và thu hút vốn đầu tư công (kể và vốn
ODA) để đầu tư phát triển NOXH để cho thuê, cho thuê mua chưa thực hiện được.
|
Sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung
bình, chính sách hợp tác phát triển của nhà tài trợ có sự điều chỉnh theo hướng
giảm dần hoặc chấm dứt các khoản ODA viện trợ không hoàn lại, các khoản vay
ODA với điều kiện ưu đãi được chuyển dần sang các khoản vay kém ưu đãi hơn. Một
số nhà tài trợ song phương vẫn tiếp tục cung cấp các khoản ODA và vay ưu đãi
nước ngoài dưới dạng tín dụng xuất khẩu thường kèm các điều kiện ràng buộc về
dịch vụ, xuất xứ hàng hóa của nhà tài trợ. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến hết
năm 2023 không có chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nào được
ký kết để đầu tư cho lĩnh vực nhà ở xã hội.
|
3.
|
Luật Đất đai 2013
|
1. Các Điều 118 và 119 của
Luật Đất đai đã quy định về các trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất khi
Nhà nước giao đất, cho thuê đất và điều kiện để tổ chức thực hiện đấu giá quyền
sử dụng đất. Tuy nhiên, Luật này chưa làm rõ trường hợp thuộc diện đấu giá
quyền sử dụng đất nhưng không đáp ứng điều kiện để tổ chức thực hiện đấu giá
như trường hợp địa phương không thể bố trí ngân sách cho việc giải phóng mặt
bằng. Luật Đất đai cũng không quy định về việc đấu thầu lựa lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án có sử dụng đất (bao gồm dự án nhà ở, khu đô thị) để phân định
với các trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản công trên đất. Do thiếu
hướng dẫn để thực hiện đồng bộ các quy định nêu trên dẫn đến vướng mắc trong
việc lựa chọn nhà đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án thuộc
diện phải đấu giá, hoặc đấu thầu, dự án có đất đã giải phóng mặt bằng xen lẫn
với đất chưa giải phóng mặt bằng, dự án có tài sản công...
|
1. Các Điều 124, 125, 126, 127 của
Luật Đất đai năm 2024 đã quy định về các trường hợp giao đất, cho thuê đất
cho nhà đầu tư thông qua: (i) không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (ii) đấu giá quyền sử dụng đất; (iii) đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (iv) thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất
hoặc đang có quyền sử dụng đất. Ngoài ra, khoản 2 Điều 126
Luật Đất đai 2024 cũng quy định: "Trường hợp trong khu đất thực hiện
dự án có phần đất quy định tại khoản 1 Điều 217 của Luật
này thì Nhà nước thu hồi để giao, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư thực hiện dự án đối với cả khu đất".
|
4.
|
Nghị định số
02/2022/NĐ-CP
|
1. Theo quy định tại Điều
46 Luật Đầu tư 2020 và Điều 50 Luật Kinh doanh BĐS 2014,
đối với các dự án đầu tư/dự án BĐS đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư..., thủ tục chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư thực hiện thủ
tục điều chỉnh dự án đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư; đối với dự án
không thuộc trường hợp này, việc chuyển nhượng dự án đầu tư thực hiện theo
quy định của pháp luật kinh doanh BĐS và quy định khác của pháp luật có liên
quan... Theo đó, các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sẽ thực
hiện thủ tục chuyển nhượng theo quy định của Luật Đầu tư. Tuy nhiên, theo quy
định tại Điều 9 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày
06/01/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh BĐS, dự
án BĐS được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư
năm 2020 mới thực hiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về đầu tư.
|
Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Nghị định số
96/2024/NĐ-CP đã thống nhất về thẩm quyền, thủ tục chuyển nhượng một phần,
toàn bộ dự án bất động sản theo pháp luật về đầu tư. Cụ thể: khoản
1 Điều 41 Luật KD BĐS 2023 quy định: "Đối với dự án bất động sản
được chấp thuận nhà đầu tư hoặc được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo
quy định của Luật Đầu tư, thẩm quyền, thủ tục chuyển nhượng toàn bộ hoặc một
phần dự án bất động sản thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư".
|
5.
|
Luật kinh doanh
BĐS 2014
|
1. Theo quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 48 Luật Kinh doanh BĐS 2014, việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc
một phần dự án BĐS phải bảo đảm yêu cầu không làm thay đổi nội dung của dự
án. Điểm d khoản 1 Điều 46 Luật Đầu tư quy định nhà đầu
tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư cho nhà đầu tư
khác khi đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật về
kinh doanh BĐS trong trường hợp chuyển nhượng dự án đầu tư xây dựng nhà ở, dự
án BĐS. Căn cứ các quy định nêu trên, việc chuyển nhượng không được thay đổi
nội dung dự án.
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 41 Luật
Đầu tư cho phép dự án được điều chỉnh dự án trong 07 trường hợp, không
phân biệt dự án được điều chỉnh trước hay sau khi chuyển nhượng. Đồng thời,
thực tế việc chuyển nhượng một phần dự án sẽ làm thay đổi nội dung dự án
(thay đổi quy mô dự án) và các dự án chuyển nhượng thực tế thường phải điều
chỉnh tiến độ, thời hạn thực hiện dự án. Do đó, quy định không được điều chỉnh
nội dung dự án khi chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án có thể dẫn đến hạn
chế các giao dịch chuyển nhượng dự án BĐS trong bối cảnh hiện nay nhiều doanh
nghiệp ko có năng lực để tiếp tục triển khai các dự án và nhà nước đang khuyến
khích các doanh nghiệp tái cấu trúc; tạo thêm nguồn cung ra thị trường.
|
Quy định này đã được sửa tại khoản
2 Điều 39 Luật Kinh doanh BĐS 2023: "Khi thực hiện việc chuyển
nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải bảo đảm không thay đổi
quy hoạch, mục tiêu của dự án; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
có liên quan".
|
|
Bộ Tài nguyên
và Môi trường
|
|
|
6.
|
Luật Đất đai năm
2013 và Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
|
1. Pháp luật về kinh doanh BĐS xác định hoạt
động chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất nhằm mục đích sinh lời là kinh
doanh BĐS theo đó quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải thành lập
doanh nghiệp (Khoản 1 Điều 10 của Luật Kinh doanh BĐS và
Điều 3 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP); hay việc chuyển nhượng
toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS phải đáp ứng nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục,
hợp đồng...khi chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án BĐS (Điều
48, Điều 50, Điều 51, Điều 53 Luật Kinh doanh BĐS). Tuy nhiên, theo quy định
của pháp luật về đất đai, người sử dụng đất được quyền kinh doanh quyền sử dụng
đất theo hình thức nhận chuyển nhượng, chia tách quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất (chia tách quyền sử dụng đất) rồi
chuyển nhượng nhưng không quy định phải thành lập doanh nghiệp (Điều 95,...Luật Đất đai và Điều 75 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP); hay việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu
tư xây dựng kinh doanh nhà ở chỉ cần có Giấy chứng nhận và người nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư đúng theo tiến độ đã được phê
duyệt (Điều 194 Luật Đất đai) (Tỉnh Hải Dương)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
|
2. Tại Điều 9, Điều 10,
Điều 11, Điều 1 Luật Kinh doanh BĐS 2014 đã có các quy định về: điều kiện
của BĐS đưa vào kinh doanh; điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS; phạm
vi kinh doanh BĐS của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đối tượng được mua, nhận
chuyển nhượng, thuê, thuê mua BĐS của doanh nghiệp kinh doanh BĐS. Tuy nhiên,
Luật Đất đai hiện hành (tại Điều 188, Điều 189, Điều 192)
cũng đưa ra các quy định về điều kiện thực hiện quyền của người sử dụng đất
như: điều kiện thực hiện quyền chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất; điều
kiện bán, mua tài sản gắn liền với đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất
hàng năm; điều kiện hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Tỉnh
Hải Dương).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
|
3. Từ Điều 48 đến Điều 53
Luật Kinh doanh BĐS 2014 đã có các quy định về: nguyên tắc, điều kiện, thẩm
quyền, thủ tục, hợp đồng.. .trong chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án
BĐS. Tuy nhiên, Điều 193, Điều 194 Luật Đất đai 2013
cũng có các quy định về: điều kiện nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền
sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp; điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thực hiện dự án
đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để
chuyển nhượng hoặc cho thuê (Tỉnh Hải Dương).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
|
4. Theo quy định tại Điều
10 Luật Kinh doanh BĐS thì điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
kinh doanh BĐS là phải có “vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng”.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh BĐS thì “Kinh doanh
BĐS là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng
để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS”. Như vậy,
theo hai điều khoản này thì doanh nghiệp chỉ cần có 20 tỷ là có thể xây dựng
BĐS để kinh doanh.
Trong khi đó Điều 14 Nghị định
43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy
định điều kiện về năng lực tài chính của chủ đầu tư dự án “có vốn thuộc sở hữu
của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án
có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối
với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên”. Điều này có nghĩa là
doanh nghiệp phải có một khoản vốn tối thiểu tương ứng với tỷ lệ một tỷ lệ nhất
định (15% hoặc 20% tùy trường hợp) của tổng mức đầu tư theo từng dự án mới được
phép thực hiện đầu tư xây dựng BĐS để kinh doanh. Và khoản “vốn tối thiểu”
này thay đổi theo tổng mức đầu tư của từng dự án, mà không phải cố định ở một
mức cụ thể nào - do đó nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn 20 tỷ đồng. Như vậy,
giữa các quy định của hai Luật này đang có sự không tương thích về điều kiện
tài chính của doanh nghiệp khi hoạt động kinh doanh BĐS. (Tỉnh Hòa Bình)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
(Điểm b khoản 2 Điều 122 Luật Đất
đai; điểm c khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh BĐS 2023).
|
7.
|
Luật Đất đai, Luật
Kinh doanh BĐS, Luật Đầu tư
|
1. Chưa thấy quy định rõ ràng về chuyển
nhượng một phần dự án BĐS đất thương mại, dịch vụ chưa hoàn thành đầu tư xây dựng
để tiếp tục đầu tư xây dựng dự án. (Tỉnh Quảng Ngãi)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
(Khoản 3 Điều 39, khoản 2 Điều
40 Luật Kinh doanh BĐS 2023).
|
8.
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Kinh doanh BĐS 2014 và Luật Nhà ở năm 2014
|
1. Luật Nhà ở 2014 cho phép cá nhân nước
ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua việc “mua, thuê mua, nhận tặng
cho, nhận thừa kế”, Trong khi đó, Luật Kinh doanh BĐS 2014 quy định “việc mua
bán nhà, công trình xây dựng phải gắn với quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, pháp
luật về đất đai không có quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngoài dự án để xây dựng nhà ở,
dẫn đến hạn chế quyền phát triển nhà ở của đối tượng này. (Tỉnh Lào Cai).
|
Luật Đất đai năm 2024 đã quy định theo hướng: người
Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam thì có quyền như công dân
Việt Nam trong nước (cá nhân sử dụng đất) để phân biệt với người gốc Việt Nam
theo Luật Quốc tịch.
|
9.
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Đầu tư 2020, Luật Đấu thầu 2013
|
1. Việc lựa chọn nhà đầu tư thông qua đấu
giá đất, đấu thầu dự án có gắn liền với quyền sử dụng đất, quyết định chủ
trương đầu tư quy định tại các Luật không thống nhất:
- Tại Luật Đầu tư quy định các trường hợp quyết định
chủ trương đầu tư; tại Luật Đất đai quy định các trường hợp phải áp dụng hoặc
không áp dụng đấu giá quyền sử dụng đất; tại Luật Đấu thầu quy định các trường
hợp phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Các quy định này chưa quy định rõ loại
đất nào (đất đã giải phóng mặt bằng hay chưa; đất giao, thuê hay nhận chuyển
nhượng...), các loại dự án nào (lựa chọn nhà đầu tư hay chỉ định nhà đầu tư)
phải đấu giá, đấu thầu và quyết định chủ trương đầu tư cho nên các địa phương
lúng túng trong việc áp dụng các quy định pháp luật đối với dự án đầu tư có sử
dụng đất. Dẫn đến tình trạng không thực hiện đấu giá, đấu thầu dự án đầu tư
có gắn liền với quyền sử dụng đất mà thay vào đó là thực hiện thông qua cơ chế
cấp chủ trương đầu tư.
- Trong công tác đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực
hiện dự án phát triển nhà ở, khu đô thị, hiện nay chưa có hướng dẫn chi tiết
đối với trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu
tư theo quy định của pháp luật về đầu tư khi chỉ có 01 nhà đầu tư đăng ký và
đáp ứng yêu cầu sơ bộ về năng lực, kinh nghiệm.
-Tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật
Đất đai quy định: b) Đất đã thu hồi theo quy định tại khoản
1 Điều 64 và các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 của Luật này thì giao
cho tổ chức dịch vụ công về đất đai để quản lý, đấu giá quyền sử dụng đất.
Quy định này được hiểu là việc bố trí đất có nguồn gốc nêu trên phải thông
qua đấu giá quyền sử dụng đất, không phân biệt loại hình dự án (kể cả dự án
nhà ở xã hội). Trong khi đó, theo quy định của Luật nhà ở năm 2014 và Luật
Nhà ở năm 2023 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025): Việc lựa chọn chủ đầu tư
dự án nhà ở xã hội trên đất do Nhà nước quản lý được thực hiện thông qua hình
thức đấu thầu dự án có sử dụng đất (trong trường hợp có từ 02 nhà đầu tư trở
lên quan tâm), không có quy định đấu giá quyền sử dụng đất đối với loại hình
dự án này và cũng không quy định về nguồn gốc đất đưa ra sử dụng.(Tỉnh Đắc Lắc)
|
Hiện nay, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của
hệ thống pháp luật, Luật Đấu thầu năm 2023 và Luật Đất đai năm 2024 phân định
rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu và Luật Đất đai theo hướng:
- Luật Đấu thầu quy định về hình thức, hồ sơ,
trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
- Luật Đất đai quy định dự án đầu tư có sử dụng đất
thuộc trường hợp, điều kiện để tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện
dự án có sử dụng đất, gồm:
+ Các Điều 124,125,126,127 của
Luật Đất đai năm 2024 quy định về các trường hợp giao đất, cho thuê đất
cho nhà đầu tư thông qua: (i) không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (ii) đấu giá quyền sử dụng đất; (iii) đấu
thầu dự án đầu tư có sử dụng đất; (iv) thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất
hoặc đang có quyền sử dụng đất.
+ Khoản 3 và khoản 4 Điều 126 của
Luật Đất đai quy định điều kiện tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư,
trong đó gồm điều kiện “thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự
án đầu tư có sử dụng đất được HĐND cấp tỉnh quyết định”.
- Theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 116 Luật Đất đai năm 2024, đối với dự án thuộc danh mục quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 67 của Luật này thì một trong các
căn cứ để giao đất cho thuê đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu,
cho phép chuyển mục đích là kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và quyết định đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư công hoặc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với
chấp thuận nhà đầu tư hoặc quyết định chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư, pháp luật về nhà ở hoặc văn bản phê duyệt kết quả lựa chọn
nhà đầu tư đối với dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Như vậy, pháp luật về đất đai đã có quy định về
giao đất, cho thuê đất trong trường hợp chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản
4 Điều 29 Luật Đầu tư, trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời
chấp thuận nhà đầu tư chỉ áp dụng trong một số trường hợp. Theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Luật Đầu tư (sửa đổi, bổ sung tại Luật Đất
đai 2024), cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục chấp thuận nhà đầu tư
trong các trường hợp sau đây: a) Đấu giá quyền sử dụng đất không thành theo
quy định của Luật Đất đai; b) Chỉ có một nhà đầu tư đáp ứng điều kiện mời
quan tâm trong trường hợp pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực quy định xác định
số lượng nhà đầu tư quan tâm khi thực hiện thủ tục lựa chọn nhà đầu tư. Điều 30 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP đã quy định chi tiết thủ
tục chấp thuận nhà đầu tư theo pháp luật về đầu tư. Theo quy định trên, không
có trường hợp nào là chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu
tư theo quy định của pháp luật khi chỉ có 01 nhà đầu tư đăng ký và đáp ứng
yêu cầu sơ bộ về năng lực, kinh nghiệm.
Đối với dự án NOXH, đề nghị tổng hợp ý kiến của Bộ
Xây dựng.
|
Trường hợp chỉ có một nhà đầu tư đã đăng ký và
đáp ứng yêu cầu hoặc có nhiều nhà đầu tư đăng ký nhưng chỉ có một nhà đầu tư
đáp ứng yêu cầu thì thực hiện thủ tục chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư (không quy định việc giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu
tư thực hiện như thế nào). (Tỉnh Hải Dương)
|
Theo quy định tại điểm a khoản 3
Điều 116 Luật Đất đai năm 2024, đối với dự án thuộc danh mục quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 67 của Luật này thì một trong các
căn cứ để giao đất cho thuê đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu,
cho phép chuyển mục đích là kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và quyết định đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư công hoặc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với
chấp thuận nhà đầu tư hoặc quyết định chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư, pháp luật về nhà ở hoặc văn bản phê duyệt kết quả lựa chọn
nhà đầu tư đối với dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Như vậy, pháp luật về đất đai đã có quy định về
giao đất, cho thuê đất trong trường hợp chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư.
|
10.
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật Quy hoạch
|
1. Chưa quy định cụ thể mối liên hệ, tương
tác chương trình phát triển nhà ở với hệ thống các quy hoạch khác có liên
quan như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng để làm căn cứ xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở. (Tỉnh Lào Cai).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
11.
|
Luật Đất đai năm
2013
|
1. Điều 61, 62 Luật Đất
đai 2013 quy định các dự án thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất; các dự
án còn lại thì sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền
sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo
quy định tại Điều 73 Luật Đất đai.Đối với dự án thuộc
trường hợp nhà nước thu hồi đất thì nhà nước phê duyệt giá đất và phương án bồi
thường giải phóng mặt bằng; các dự án còn lại thì nhà đầu tư phải thỏa thuận
với người đang sử dụng đất (theo Điều 73 Luật Đất đai).
Với quy định như trên, khi triển khai công tác giải phóng mặt bằng dự án thuộc
trường hợp thỏa thuận, người đang có đất trong phạm vi dự án thường yêu cầu
giá trị thỏa thuận cao hơn rất nhiều so với dự án thuộc trường hợp nhà nước
thu hồi đất. Nhiều dự án mà chủ đầu tư không đạt được thỏa thuận với người sử
dụng đất hoặc thỏa thuận được một phần, các thửa đất không liền nhau dẫn đến
thời gian triển khai dự án kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều dự án chủ đầu tư
phải dừng triển khai sau khi thỏa thuận với dân không thành. Một số trường hợp
Dự án đã thỏa thuận được 70- 80% diện tích đất theo quy hoạch, phần còn lại
không thể thỏa thuận được nhưng không có quy định về cưỡng chế thu hồi đất
nên cũng không triển khai được dự án. (Tỉnh Thái Nguyên)
|
Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp
quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”. Do đó,
Nhà nước chỉ được thu hồi đất trong những trường hợp được quy định cụ thể;
các dự án còn lại thì nhà đầu tư phải thỏa thuận với người đang sử dụng đất
Tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về
"Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển
có thu nhập cao", Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cũng chỉ đạo: “Tiếp
tục thực hiện cơ chế tự thoả thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển
nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”.
Điều 79 Luật Đất đai năm 2024
đã quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều
127 Luật Đất đai năm 2024 quy định các trường hợp thỏa thuận về nhận chuyển
quyền sử dụng đất để thực hiện dự án.
Việc thỏa thuận nhận chuyển quyền sử dụng đất với
người sử dụng đất thực hiện theo cơ chế dân sự, Nhà nước không can thiệp vào
thỏa thuận giữa chủ đầu tư với người sử dụng đất.
|
12.
|
Luật Đất đai 2013
và Luật Đấu thầu
|
1. Về thủ tục đầu tư xây dựng các dự án
nhà ở thương mại, khu đô thị: Theo khoản 3 Điều 1 Luật Đấu
thầu năm 2013 quy định: “Lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP), dự án đầu tư có sử dụng đất” và khoản 1 Điều 1 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 02
năm 2020 của Chính phủ quy định dự án sử dụng đất thuộc trường hợp đấu thầu để
lựa chọn nhà đầu tư: “Dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); và dự
án đầu tư có sử dụng đất để xây dựng nhà ở thương mại; công trình thương mại,
dịch vụ: công trình đa năng, tổ hợp đa năng cho mục đích kinh doanh”. Theo
quy định này thì các dự án đầu tư có sử dụng đất bắt buộc phải đấu thầu lựa
chọn nhà đầu tư.
2. Tại Điều 118 Luật Đất đai năm
2013, việc đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê hoặc cho thuê mua;
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê... chỉ quy định
việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất mà không quy
định trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Tương tự, tại điểm b khoản 1 Điều 119 Luật Đất đai năm 2013
quy định: Điều kiện để tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước
giao đất, cho thuê đất là khi “đất đã được giải phóng mặt bằng”. Trong khi đó
theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu 2013 và Điều 22 Luật Nhà ở 2013 quy định đấu thầu lựa chọn nhà đầu
tư thực hiện dự án nhà ở thương mại có sử dụng đất được thực hiện thông qua 2
hình thức: đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai
và đấu thầu dự án. Có nghĩa áp dụng đấu giá và đấu thầu kể cả đối với đất
chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng. Do đó, bất cập này làm cho
nhiều địa phương lúng túng, gặp khó khăn trong việc áp dụng hai hình thức đấu
giá và đấu thầu. Hiện nay với giá bồi thường GPMB còn rất nhiều khó khăn trong
việc xác định giá đất để thực thực hiện các công tác như: Đối với trường hợp
đất hỗn hợp gồm đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và đất do
Nhà nước quản lý (đất sạch) khi thực hiện dự án; Đấu thầu, đấu giá lựa chọn
nhà đầu tư. Đây là vướng mắc, bất cập dẫn tới không giao đất kịp thời cho nhà
đầu tư, dự án kéo dài, lãng phí máy móc, nhân lực, phát sinh chi phí, chậm tiến
độ công trình. (Tỉnh Hậu Giang)
|
1. Hiện nay, để bảo đảm tính thống nhất, đồng
bộ của hệ thống pháp luật, Luật Đấu thầu năm 2023 và Luật Đất đai năm 2024
phân định rõ phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu và Luật Đất đai theo hướng:
- Luật Đấu thầu quy định về hình thức, hồ sơ,
trình tự, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
- Luật Đất đai quy định dự án đầu tư có sử dụng đất
thuộc trường hợp, điều kiện để tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện
dự án có sử dụng đất, gồm:
+ Các Điều 124,125,126,127 của
Luật Đất đai năm 2024 quy định về các trường hợp giao đất, cho thuê đất cho
nhà đầu tư thông qua: (i) không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu
dự án đầu tư có sử dụng đất; (ii) đấu giá quyền sử dụng đất; (iii) đấu thầu dự
án đầu tư có sử dụng đất; (iv) thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang
có quyền sử dụng đất.
+ Khoản 3 và khoản 4 Điều 126 của
Luật Đất đai quy định điều kiện tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư,
trong đó gồm điều kiện “thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu
tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
2. Đối với trường hợp vướng mắc khi thực hiện dự
án trên khu đất hỗn hợp, theo quy định tại khoản 2 Điều 126
Luật Đất đai, trường hợp trong khu đất thực hiện dự án có phần đất quy định
tại khoản 1 Điều 217 của Luật này thì Nhà nước thu hồi để
giao, cho thuê đất thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đối
với cả khu đất.
|
13.
|
Khoản
3, Điều 6 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014
|
1. Việc xác định chi phí xây dựng hạ tầng
của khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa có đơn giá do cơ quan nhà nước ban
hành. Hiện đang vận dụng Quyết định Suất vốn của Bộ xây dựng để xác định (có
so sánh với chi phí đầu tư của chủ đầu tư tại thiết kế cơ sở và lựa chọn chi
phí đầu tư nhỏ hơn để xác định giá đất). Đồng thời tại Quyết định Suất vốn của
Bộ xây dựng chưa có suất vốn hạ tầng của Cụm công nghiệp. Chưa quy định rõ việc
Xác định chi phí quảng cáo, bán hàng, quản lý; Lợi nhuận của nhà đầu tư có
tính đến yếu tố rủi ro trong kinh doanh và chi phí vốn và tỷ lệ bán hàng.
Theo quy định tại Thông tư 145/2016/TT-BTC được xác định các chi phí được xác
định theo thứ tự ưu tiên: Quy định của cơ quan có thẩm quyền; Thu thập và
tính trung bình của ít nhất 03 dự án đầu tư kinh doanh BĐS tương tự tại địa
phương; Thu thập và tính trung bình của ít nhất 03 dự án đầu tư kinh doanh
BĐS trên địa bàn (đã được kiểm toán hoặc quyết toán).
Hiện nay, xác định các chi phí này chưa có quy định
của cơ quan có thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, việc thu thập 03 dự án đầu
tư kinh doanh BĐS tại địa phương gặp nhiều khó khăn không thực hiện được do
việc công khai, tiếp cận báo cáo tài chính của các dự án tương tự. Trường hợp
tiếp cận, thu thập được cũng không đủ tối thiểu 03 dự án có điều kiện tương đồng
để đảm bảo phục vụ xác định các thông số. (Tỉnh Nam Định)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
|
14.
|
Điều
28 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT
|
1. Việc lập kế hoạch định giá đất cụ thể của
năm tiếp theo chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tế: Nguyên nhân do căn
cứ theo dự thảo kế hoạch sử dụng đất để xây dựng kế hoạch định giá đất cụ thể
thì một số dự án nếu không thực hiện theo đúng kế hoạch sử dụng đất việc xác
định giá đất cụ thể cho những dự án này là lãng phí, không cần thiết. (Tỉnh
Nam Định)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này
|
15.
|
Luật Đất đai 2013
và Luật Nhà ở 2023
|
1. Theo quy định của pháp luật đất đai,
các dự án phát triển nhà ở xã hội thuộc trường hợp được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất không thông qua đấu giá quá sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng
đất nhưng pháp luật về nhà ở quy định dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được
đầu tư xây dựng không phải bằng nguồn vốn đầu tư công thì Nhà nước giao đất,
cho thuê đất để thực hiện dự án thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất
(Tỉnh Bình Định).
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường
có ý kiến về nội dung này.
(Điểm b khoản 1 Điều 126 Luật Đất
đai 2024 quy định trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất
bao gồm dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất tại
Điều 79 của Luật này (trong đó có dự án NOXH) và không
thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này mà thuộc
trường hợp phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp
luật quản lý ngành, lĩnh vực.
Điểm b khoản 4 Điều 84 Luật Nhà ở
2023 quy định: "Trường hợp có từ 02 nhà đầu tư trở lên quan tâm thì
thực hiện lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội thông qua
hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu".
Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có
sử dụng đất quy định các nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn
NĐT dự án (trong đó có dự án NOXH), bao gồm cả việc mời quan tâm đối với trường
hợp xác định số lượng quan tâm theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thang điểm và tiêu chí đánh giá thực hiện theo quy định tại Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024).
|
1. Khoản 1, Điều 58, Luật
Nhà ở: Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không sử dụng nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất được
Nhà nước giao hoặc cho thuê để đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Tuy nhiên trong
thực tế triển khai thực hiện, Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội để được miễn tiền
sử dụng đất nhưng vẫn yêu cầu phải xác định tiền sử dụng đất theo pháp luật về
đất đai rồi mới thực hiện thủ tục miễn, làm phát sinh thủ tục hành chính (Tỉnh
Hải Dương).
Theo quy định tại Luật Đất đai, thì sử dụng đất để
thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội thuộc trường hợp không đấu giá
quyền sử dụng đất (điểm đ khoản 2 Điều 118) nhưng theo
Luật nhà ở thì được miễn tiền sử dụng đất (điểm b khoản 1 Điều
110). Theo quy định tại a khoản 1 Điều 58 thì Chủ đầu
tư dự án nhà ở xã hội được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Tuy nhiên trong
thực tế triển khai thực hiện, Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội để được miễn tiền
sử dụng đất nhưng vẫn yêu cầu phải xác định tiền sử dụng đất theo pháp luật về
đất đai rồi mới thực hiện thủ tục miễn, làm phát sinh thủ tục hành chính, mất
thời gian (1-2 năm) và gây khó khăn cho Chủ đầu tư. (Đắk Lắk)
|
Điểm a khoản 1 Điều 63 Luật Đất
đai năm 2024 quy định đối với trường hợp được miễn tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất thì không phải thực hiện thủ tục xác định giá đất, tính tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất được miễn. Người sử dụng đất được miễn tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất không phải thực hiện thủ tục đề nghị miễn tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất.
|
2. Tại điểm a khoản 1 Điều
118 Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước giao đất thông qua hình thức
đấu giá quyền sử dụng đất khi đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê. Tuy
nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 22 Luật Nhà ở
cho phép lựa chọn chủ đầu tư xây dựng nhà ở thương mại theo hình thức đấu thầu
dự án có sử dụng đất
|
Luật Đất đai năm 2024 đã quy định cơ chế tiếp cận
đất đai của chủ đầu tư dự án khu đô thị có nhà ở bao gồm cả giao đất thông
qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án
có sử dụng đất (Điều 125, 126). Đối với dự án nhà ở
thương mại thì phải thoả thuận nhận quyền sử dụng đất ở (Điều
127).
|
16.
|
Luật Nhà ở năm
2014, Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013
|
1. Pháp luật hiện hành thiếu các quy định
về giao đất cho Nhà đầu tư phát triển dự án nhà ở thương mại đối với các quỹ
đất đang có tổ chức kinh tế sử dụng đất theo dự án đầu tư khác mục đích đã được
duyệt trước đó (thiếu cơ chế giải quyết tại Điều 22, Luật
Nhà ở năm 2014, Điều 18 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP
ngày 20/10/2015 của Chính phủ và Điều 8 Thông tư số
19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng quy định việc lựa chọn Chủ
đầu tư dự án nhà ở thương mại quy định việc lựa chọn thông qua 03 hình thức:
(1) đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định Luật Đất đai, (2) Đấu thầu dự án
có sử dụng đất, (3) Chấp thuận nhà đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư. Trường
hợp có nhiều nhà đầu tư được chấp thuận thì việc xác định chủ đầu tư theo quy
định của Luật Xây dựng (có quyền sử dụng đất ở hợp pháp và các loại đất khác
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang
làm đất ở).
|
Khoản 6 Điều 127 Luật Đất đai
2024 quy định: "Trường hợp người đang có quyền sử dụng đất ở hoặc
đất ở và đất khác có đề xuất dự án đầu tư nhà ở thương mại phù hợp với quy hoạch
sử dụng đất, có đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất mà được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư
theo quy định của pháp luật về đầu tư thì được sử dụng đất để thực hiện dự
án".
Liên quan đến thực hiện các dự án nhà ở thương mại,
đề nghị tổng hợp ý kiến của Bộ Xây dựng.
|
17.
|
Luật Đất đai năm
2013
|
1. Đối với nhà ở cho công nhân khu công
nghiệp, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội đại diện
cho công nhân, người lao động, có nguồn lực tài chính, đã thực hiện đầu tư trực
tiếp vào một số dự án nhà ở thuộc khu thiết chế của công đoàn tại một số địa
phương, có mong muốn tham gia làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở cho công
nhân. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định cho phép tổ chức này được
tham gia đầu tư xây dựng nhà ở phục vụ cho công nhân khu công nghiệp (Tỉnh Hải
Dương).
|
Luật Nhà ở năm 2023 đã quy định cụ thể nội dung
trên (khoản 4 Điều 80). Luật Đất đai năm 2024 đã có quy
định giao đất để thực hiện dự án nhà ở xã hội không phân biệt đối tượng.
|
18
|
Thông
tư 36/2014/TT- BTNMT ngày 30/6/2014 (khoản 3, Điều 6)
|
1. Tại khoản 3 Điều 6
quy định việc xác định chi phí xây dựng hạ tầng của Khu công nghiệp, Cụm công
nghiệp chưa có đơn giá do cơ quan nhà nước ban hành. Hiện đang vận dụng Quyết
định suất vốn của Bộ xây dựng để xác định (có so sánh với chi phí đầu tư của
chủ đầu tư tại thiết kế cơ sở và lựa chọn chi phí đầu tư nhỏ hơn để xác định
giá đất). Đồng thời tại Quyết định suất vốn của Bộ xây dựng chưa có suất vốn
hạ tầng của Cụm công nghiệp. Chưa quy định rõ việc xác định chi phí quảng
cáo, bán hàng, quản lý; Lợi nhuận của nhà đầu tư có tính đến yếu tố rủi ro
trong kinh doanh và chi phí vốn và tỷ lệ bán hàng Theo quy định tại Thông tư
145/2016/TT-BTC được xác định các chi phí được xác định theo thứ tự ưu tiên:
Quy định của cơ quan có thẩm quyền;Thu thập và tính trung bình của ít nhất 03
dự án đầu tư kinh doanh BĐS tương tự tại địa phương; Thu thập và tính trung
bình của ít nhất 03 dự án đầu tư kinh doanh BĐS trên địa bàn (đã được kiểm
toán hoặc quyết toán).
Hiện nay, xác định các chi phí này chưa có quy định
của cơ quan có thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, việc thu thập 03 dự án đầu
tư kinh doanh BĐS tại địa phương gặp nhiều khó khăn không thực hiện được do
việc công khai, tiếp cận báo cáo tài chính của các dự án tương tự. Trường hợp
tiếp cận, thu thập được cũng không đủ tối thiểu 03 dự án có điều kiện tương đồng
để đảm bảo phục vụ xác định các thông số.
2. Tại Điều 28 quy định
việc lập kế hoạch định giá đất cụ thể của năm tiếp theo chưa thực sự phù hợp
với điều kiện thực tế: Nguyên nhân do căn cứ theo dự thảo kế hoạch sử dụng đất
để xây dựng kế hoạch định giá đất cụ thể thì một số dự án nếu không thực hiện
theo đúng kế hoạch sử dụng đất việc xác định giá đất cụ thể cho những dự án
này là lãng phí, không cần thiết. (Nam Định)
|
Kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về
nội dung này
|
19.
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật Kinh doanh BĐS 2014
|
1. Điều 5 Luật Đất đai
năm 2013 quy định về người sử dụng đất chỉ quy định tổ chức nước ngoài được
thực hiện dự án nhà ở tại Việt Nam; không quy định cá nhân là người nước
ngoài được sử dụng đất ở tại Việt Nam
Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014
quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài là một trong những đối tượng được sở hữu
nhà ở tại Việt Nam.
Khoản 2 Điều 14 Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014 quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân nước ngoài được thuê các loại BĐS để sử dụng, được mua, thuê nhà ở theo
quy định của pháp luật về nhà ở.
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này
|
20.
|
Luật Đất đai 2013,
Luật Nhà ở 2014, Luật Đấu thầu 2013
|
1. Quy định về lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng nhà ở xã hội còn chồng chéo, chưa thống nhất với quy định của
pháp luật về đầu tư, pháp luật về đấu thầu, pháp luật về đất đai dẫn đến việc
lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội còn phức tạp, kéo dài
thời gian thực hiện thủ tục đầu tư xây dựng dự án làm chậm tiến độ triển khai
dự án. (Tỉnh Lào Cai)
|
Hiện nay, Luật Đấu thầu năm 2023, Luật Đầu tư (sửa
đổi, bổ sung tại Luật Đất đai 2024), Luật Nhà ở 2023, Luật Đất đai năm 2024
đã thống nhất các quy định về việc lựa chọn chủ đầu tư dự án nhà ở (trong đó
có NOXH). Cụ thể: Điều 84 Luật Nhà ở 2023 đã quy định thống
nhất về chủ đầu tư NOXH theo pháp luật về đầu tư công, xây dựng, đầu tư.
|
21.
|
Nghị định số
31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày
18/12/2020 của Chính phủ; Thông tư số 09/2021/TT- BTNMT ngày 30/6/2021 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường
|
1. Về vướng mắc trong việc chấp thuận chủ trương
đầu tư, chấp thuận nhà đầu tư:
Tại điểm d khoản 2 Điều 31 Nghị
định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định để chấp thuận
chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư đối với trường hợp nhà
đầu tư nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để
thực hiện dự án thì phải có Bản sao hợp lệ của UBND cấp có thẩm quyền chấp
thuận việc nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất để thực
hiện dự án đầu tư.
Do đó, đang có sự mâu thuẫn giữa việc để đủ điều
kiện chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư thì cần
có Văn bản chấp thuận của UBND cấp thẩm quyền cho phép nhận chuyển nhượng, nhận
góp vốn, thuê quyền sử dụng đất khi dự án đã có trong kế hoạch sử dụng đất;
trong khi điều kiện để đưa dự án vào kế hoạch sử dụng đất thì phải có chủ
trương đầu tư được phê duyệt. Do vậy sẽ không chấp thuận được chủ trương đầu
tư. Đồng thời thủ tục cho phép nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử
dụng đất để thực hiện dự án đầu tư là một thủ tục riêng biệt thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường, không có trong thành phần hồ sơ cấp chủ trương đầu tư
theo quy định tại Điều 33 Luật Đầu tư năm 2020 (Yên Bái)
|
Khoản 3 Điều 127 Luật Đất đai
2024 đã quy định điều kiện sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh
tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm: a) Phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất cấp huyện đã được phê duyệt và công bố; b) Chủ đầu tư phải đáp ứng các điều
kiện quy định tại Điều 122 của Luật này; đối với trường
hợp sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại thì được
thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất ở; c) Có văn bản chấp thuận của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh về việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự
án.
Điều 60 Nghị định số
102/2024/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục để tổ chức kinh tế nhận chuyển
nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực
hiện dự án đầu tư không có quy định về sự phù hợp với kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện.
Do đó, hiện nay không có mâu thuẫn với pháp luật
về đầu tư về nội dung này.
|
22.
|
Luật Đất đai 2013
và Luật Đầu tư 2020
|
1. Tại khoản 27 Điều 3 Luật
Đất đai quy định: Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ
chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; tại khoản 7 Điều 5 Luật Đất đai
quy định: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư
nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu
tư.
- Tại khoản 17 Điều 3 Luật Đầu
tư năm 2014 quy định: Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
Do đó chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng
thuật ngữ (Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại khoản 7 Điều 5 Luật Đất đai khác với khái niệm doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư)
|
Đã được sửa đổi tại Luật Đất đai 2024 để thống nhất
với Luật Đầu tư 2020, cụ thể: khoản 46 Điều 3 Luật Đất đai
2024 quy định: "Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức
kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư quy định đối với
nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư để thực hiện dự án có sử
dụng đất".
|
2. Theo quy định tại khoản
3 Điều 58 Luật Đất đai thì ký quỹ là biện pháp duy nhất để bảo đảm thực
hiện dự án đối với trường hợp nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư. Theo quy định
của Luật Đầu tư năm 2020 thì hình thức bảo đảm thực hiện dự án đầu tư thông
qua 02 hình thức: ký quỹ hoặc bảo lãnh ngân hàng về nghĩa vụ ký quỹ.
Do đó, chưa có sự thống nhất về hình thức bảo đảm
thực hiện dự án giữa 02 Luật do Luật Đầu tư năm 2020 đã được sửa đổi (bổ sung
thêm hình thức bảo lãnh ngân hàng về ký quỹ) trong khi Luật Đất đai chưa được
sửa đổi (Yên Bái)
|
Nội dung này đã được quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 122 Luật Đất đai 2024: “a) Ký quỹ hoặc các hình thức bảo
đảm khác theo quy định của pháp luật về đầu tư; ”
|
3. Thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất theo Điều 59 Luật Đất đai và Luật Đầu tư không
thống nhất; dẫn đến một số quy định về thủ tục giao đất, cho thuê đất theo
quy định tại Điều 33 Luật Đầu tư, khoản
1 Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 148/2020/NĐ-CP; về
thời điểm, thời gian xác định nhu cầu sử dụng đất và cơ quan tiếp nhận hồ sơ
thủ tục; về các quy định liên quan đến việc chấm dứt dự án đầu tư và thu hồi
đất của dự án đầu tư cũng thiếu thống nhất (Hải Dương)
|
Khoản 1 Điều 122 Luật Đất đai
2024 quy định: "Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng
đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang mục đích khác sau khi có
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đáp ứng các căn cứ quy định tại Điều 116 của Luật này, trừ trường hợp sử dụng đất thực
hiện dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết
định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công,
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Dầu khí; Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu
tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư".
|
23.
|
Luật Nhà ở 2014,
Thông tư 09/2021/TT-BXD ngày 16/8/2021, Luật Đất đai 2013, Nghị định số
148/2021/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ
|
1. Về định nghĩa đối tượng phải nộp thuế
thu nhập cá nhân tại điểm c khoản 1 Điều 51 Luật Nhà ở năm
2014 (đối tượng phải thuộc diện không phải nộp thuế thu nhập thường xuyên
theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân). Tuy nhiên, Luật Thuế
thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn có liên quan không quy định rõ việc
xác định về “thu nhập thường xuyên phải nộp thuế TNCN” hay “thu nhập thường
xuyên không phải nộp thuế TNCN”.
Theo quy định của pháp luật đất đai, các dự án
phát triển nhà ở xã hội thuộc trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất
nhưng pháp luật về nhà ở quy định dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được đầu
tư xây dựng không phải bằng nguồn vốn đầu tư công thì Nhà nước giao đất, cho
thuê đất để thực hiện dự án thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất. (Bình Định)
|
- Về thuế thu nhập cá nhân: Nội dung này thuộc chức
năng, nhiệm vụ của Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính.
- Về việc đấu giá, đấu thầu dự án NOXH:
Điểm b khoản 1 Điều 126 Luật Đất
đai 2024 quy định trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất
bao gồm dự án đầu tư có sử dụng đất thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất tại
Điều 79 của Luật này (trong đó có dự án NOXH) và không
thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này mà thuộc
trường hợp phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp
luật quản lý ngành, lĩnh vực.
Điểm b khoản 4 Điều 84 Luật Nhà ở
2023 quy định: "Trường hợp có từ 02 nhà đầu tư trở lên quan tâm thì
thực hiện lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội thông qua
hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu".
Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử
dụng đất quy định các nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục đấu thầu lựa chọn
NĐT dự án (trong đó có dự án NOXH), bao gồm cả việc mời quan tâm đối với trường
hợp xác định số lượng quan tâm theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thang điểm và tiêu chí đánh giá thực hiện theo quy định tại Nghị định số
100/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024.
|
24.
|
Điểm
c Khoản 5 Điều 101 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 quy
định.
|
1. Dự án đã ký kết hợp đồng trước ngày Luật
này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện việc triển khai thực hiện dự
án, thanh toán theo quy định của hợp đồng BT đã ký kết và quy định của pháp
luật tại thời điểm ký kết hợp đồng. (Hà Nội)
|
Thực hiện ý kiến của Lãnh đạo Chính phủ, hiện nay
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều các luật, trong đó có Luật PPP để kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc của các dự án PPP, dự án BT chuyển tiếp.
|
25.
|
Khoản
2 Điều 44 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định
|
1. Việc sử dụng tài sản công để thanh toán
cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức
hợp đồng xây dựng - chuyển giao được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá; giá
trị tài sản công được xác định theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán
theo quy định của pháp luật. (Hà Nội)
|
Thực hiện ý kiến của Lãnh đạo Chính phủ, hiện nay
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều các luật, trong đó có Luật PPP để kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc của các dự án PPP, dự án BT chuyển tiếp.
|
26.
|
Điều
3 Nghị định số 69/2019/NĐ-CP ngày 15/8/2019 của Chính phủ quy định nguyên
tắc thanh toán Dự án BT bằng tài sản công
|
1. Việc sử dụng tài sản công để thanh toán
cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá,
giá trị Dự án BT tương đương với giá trị tài sản công thanh toán. (Hà Nội)
|
Thực hiện ý kiến của Lãnh đạo Chính phủ, hiện nay
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều các luật, trong đó có Luật PPP để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc của các dự án PPP, dự án BT chuyển tiếp.
|
27.
|
Khoản
3, Điều 90 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (sửa đổi, bổ sung Điều 17 Nghị định số 69/2019/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2019
của Chính phủ) quy định việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu
tư thực hiện Dự án BT
|
1. Đối với các Hợp đồng BT thanh toán bằng
quỹ đất, trụ sở làm việc cho nhà đầu tư thực hiện Dự án BT đã được ký kết
theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm ký Hợp đồng BT trước ngày 01
tháng 01 năm 2018 mà chưa hoàn thành việc thanh toán cho Nhà đầu tư thì tiếp
tục thực hiện việc thanh toán theo nội dung Hợp đồng BT đã ký kết. Giá trị quỹ
đất, trụ sở làm việc để thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT đảm bảo
nguyên tắc ngang giá; theo đó giá trị quỹ đất, trụ sở làm việc thanh toán phải
tương đương với giá trị Dự án BT. (Hà Nội)
|
Thực hiện ý kiến của Lãnh đạo Chính phủ, hiện nay
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều các luật, trong đó có Luật PPP để kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc của các dự án PPP, dự án BT chuyển tiếp.
|
III.
|
Bộ Xây dựng
|
|
|
28.
|
Về Nghị quyết
“Kinh phí từ ngân sách nhà nước được sử dụng để lập và tổ chức thực hiện các
quy hoạch chi tiết thuộc dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức kinh
doanh”
|
1. Trong thời gian Quốc hội thông qua Luật
Quy hoạch đô thị và nông thôn. Đề nghị Bộ Xây dựng báo cáo Chính phủ trinh
Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết chấp thuận việc “Kinh phí từ ngân
sách nhà nước được sử dụng để lập và tổ chức thực hiện các quy hoạch chi tiết
thuộc dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức kinh doanh” (Quảng
Ninh)
|
Kiến nghị Bộ Xây dựng có ý kiến về nội dung này.
|
|
|
|
|
|
|
|
PHỤ LỤC III
(Kèm theo văn bản
số 7377/BKHĐT-PTHTĐT ngày 13 tháng 9 năm 2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
TẠI VIỆT NAM
Lũy kế các dự
án còn hiệu lực đến 20/07/2024
STT
|
Đối tác
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư
(triệu USD)
|
1
|
Singapore
|
239
|
21,950.19
|
2
|
Hàn Quốc
|
231
|
9,935.49
|
3
|
British VirginIslands
|
95
|
9,473.71
|
4
|
Nhật Bản
|
116
|
7,947.44
|
5
|
Canada
|
9
|
4,236.35
|
6
|
Cayman Islands
|
30
|
3,938.60
|
7
|
Hồng Kông
|
89
|
2,202.21
|
8
|
Samoa
|
4
|
1,926.87
|
9
|
Trung Quốc
|
92
|
1,359.66
|
10
|
Vương quốc Anh
|
34
|
1,129.91
|
11
|
Malaysia
|
16
|
981.27
|
12
|
Đài Loan
|
68
|
931.10
|
13
|
Thái Lan
|
29
|
905.84
|
14
|
Hoa Kỳ
|
20
|
557.71
|
15
|
Hà Lan
|
15
|
519.30
|
16
|
British West Indies
|
2
|
495.87
|
17
|
Luxembourg
|
4
|
444.62
|
18
|
Cộng Hòa Síp
|
2
|
405.90
|
19
|
Bỉ
|
3
|
372.47
|
20
|
Ba Lan
|
3
|
318.01
|
21
|
Pháp
|
11
|
145.34
|
22
|
New Zealand
|
2
|
115.14
|
23
|
Australia
|
10
|
69.99
|
24
|
Seychelles
|
11
|
56.35
|
25
|
Slovakia
|
1
|
50.00
|
26
|
Cook Islands
|
1
|
50.00
|
27
|
Bermuda
|
1
|
21.15
|
28
|
Thụy Sỹ
|
6
|
13.61
|
29
|
Brunei Darussalam
|
2
|
13.00
|
30
|
Liên bang Nga
|
2
|
11.92
|
31
|
Ma Cao
|
1
|
10.87
|
32
|
Island of Nevis
|
1
|
6.00
|
33
|
CHLB Đức
|
3
|
5.00
|
34
|
Campuchia
|
1
|
3.06
|
35
|
Indonesia
|
3
|
2.91
|
36
|
Channel Islands
|
1
|
2.63
|
37
|
Tây Ban Nha
|
1
|
2.57
|
38
|
Hungary
|
1
|
2.00
|
39
|
Vanuatu
|
1
|
1.02
|
40
|
Ghana
|
1
|
1.00
|
41
|
Lào
|
1
|
0.90
|
42
|
Đan Mạch
|
1
|
0.85
|
43
|
Ấn Độ
|
3
|
0.46
|
44
|
Ireland
|
1
|
0.35
|
45
|
Nauy
|
1
|
0.27
|
46
|
Áo
|
1
|
0.24
|
47
|
Antigua and Barbuda
|
1
|
0.21
|
48
|
Philippines
|
1
|
0.10
|
49
|
Italia
|
1
|
0.01
|
|
Tổng
|
1,173
|
70,619.45
|
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
VÀO NGÀNH KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Lũy kế các dự
án còn hiệu lực đến 20/07/2024
STT
|
Địa Phương
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư
(triệu USD)
|
1
|
TP. Hồ Chí Minh
|
408
|
16,751.44
|
2
|
Hà Nội
|
205
|
15,775.55
|
3
|
Bình Dương
|
86
|
7,341.30
|
4
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
7
|
4,330.50
|
5
|
Quảng Nam
|
10
|
4,124.76
|
6
|
Hải Phòng
|
63
|
3,819.03
|
7
|
Đồng Nai
|
57
|
3,217.59
|
8
|
Đà Nẵng
|
59
|
2,577.58
|
9
|
Bắc Ninh
|
32
|
2,189.70
|
10
|
Kiên Giang
|
2
|
1,652.55
|
11
|
Hưng Yên
|
29
|
1,028.88
|
12
|
Phú Yên
|
1
|
1,000.00
|
13
|
Bình Thuận
|
9
|
952.95
|
14
|
Long An
|
53
|
879.93
|
15
|
Nghệ An
|
3
|
485.99
|
16
|
Quảng Ninh
|
17
|
465.97
|
17
|
Vĩnh Phúc
|
8
|
459.48
|
18
|
Quảng Ngãi
|
4
|
414.51
|
19
|
Hà Tĩnh
|
21
|
403.03
|
20
|
Thái Bình
|
7
|
380.54
|
21
|
Thừa Thiên Huế
|
10
|
335.29
|
22
|
Lạng Sơn
|
4
|
306.29
|
23
|
Tiền Giang
|
4
|
218.55
|
24
|
Cần Thơ
|
3
|
211.69
|
25
|
Bắc Giang
|
4
|
205.39
|
26
|
Hải Dương
|
16
|
194.42
|
27
|
Thái Nguyên
|
7
|
123.01
|
28
|
Ninh Thuận
|
2
|
111.77
|
29
|
Quảng Trị
|
2
|
93.06
|
30
|
Thanh Hóa
|
3
|
83.88
|
31
|
Hà Nam
|
5
|
80.13
|
32
|
Tây Ninh
|
6
|
80.00
|
33
|
Lâm Đồng
|
1
|
50.00
|
34
|
Bình Phước
|
5
|
49.73
|
35
|
Khánh Hòa
|
2
|
47.64
|
36
|
Bình Định
|
2
|
42.00
|
37
|
Phú Thọ
|
4
|
26.80
|
38
|
Vĩnh Long
|
3
|
25.18
|
39
|
Bạc Liêu
|
1
|
18.35
|
40
|
Đăk Lăk
|
1
|
14.60
|
41
|
Bến Tre
|
2
|
13.35
|
42
|
Nam Định
|
1
|
11.39
|
43
|
An Giang
|
1
|
7.84
|
44
|
Ninh Bình
|
1
|
7.80
|
45
|
Yên Bái
|
1
|
6.99
|
46
|
Đồng Tháp
|
1
|
3.02
|
|
Tổng
|
1,173
|
70,619.45
|
[1]
Trong quá trình dự thảo Luật Nhà ở, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có ý kiến tại văn
bản số 7137/BKHĐT-PTHTĐT ngày 30/8/2023, đề nghị thống nhất với Luật Đầu tư về
nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng không được tiếp thu.
[2]
Khoản 3 Điều 29 Luật Nhà ở 2023.
[3]
Điểm c khoản 1 Điều 33 Luật Nhà ở 2023.
[4]
Điểm b khoản 1 Điều 33 Luật Nhà ở 2023.
[5]
Điểm a khoản 2 Điều 33 Luật Nhà ở 2023.
[6]
Điểm b khoản 3 Điều 33 Luật Nhà ở 2023.
[7]
Quy định này hiện nay được thay thế bởi quy định tại khoản 5 Điều 15 Nghị định
95/2024/NĐ-CP ngày 24/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật
Nhà ở (có hiệu lực từ ngày 01/8/2024), cơ quan chủ trì thẩm định chấp thuận chủ
trương đầu tư gửi lấy ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý nhà ở cùng cấp về
các nội dung theo quy định của pháp luật về đầu tư và các nội dung: tên dự án;
tên khu vực trong dự án (nếu có); tên chủ đầu tư trong trường hợp chấp thuận chủ
trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư dự án; Mục tiêu đầu tư của dự
án, địa điểm, quy mô dự án, diện tích đất dành để xây dựng nhà ở của dự án; Sự
phù hợp của các nội dung đề xuất về nhà ở với nội dung chương trình, kế hoạch
phát triển nhà ở đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Đánh giá sơ bộ phương
án kinh doanh sản phẩm của dự án, bao gồm cả việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo hình thức phân lô bán nền để cá nhân tự xây dựng nhà ở (nếu có); Việc phân
chia dự án thành phần (nếu có), trách nhiệm và tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống
hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của dự án
[8]
Dự án nhà đầu tư trong nước không bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT
(điểm a khoản 2 Điều 37 Luật Đầu tư); dự án chuyển tiếp
[9]
Cao Bằng, Bắc Giang, Hưng Yên, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Trà
Vinh...
[1]
Bao gồm: a) Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp thừa kế quyền sử dụng
đất, chuyển đổi đất nông nghiệp khi dồn điền, đổi thửa, tặng cho quyền sử dụng
đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư và trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 124
và điểm a khoản 4 Điều 127 của Luật này; b) Đất không có tranh chấp hoặc tranh
chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định
của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác để bảo đảm thi
hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự; d) Trong thời hạn sử dụng
đất; đ) Quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
định của pháp luật.
[2]
Điểm d khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư năm 2020 và khoản 12 Điều 1 Nghị định số
148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định
quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
[3]
Theo báo cáo quyết toán ngân sách mới nhất, Kiểm toán Nhà nước xác định nợ công
đến 31/12/2015 theo Luật Quản lý nợ công là 2.556.039 tỷ đồng (hơn 2,5 triệu tỷ
đồng). Nợ công năm 2015 bằng 61,8% GDP, riêng nợ Chính phủ 2.098.022 tỷ đồng (gần
2,1 triệu tỷ đồng), bằng 50% GDP. Đó là con số của năm 2015 đã được kiểm toán
chính thức. Còn năm 2016, theo Bộ Tài chính, nợ công đã bằng 64,7% GDP, gần đụng
trần Quốc hội cho phép là 65% GDP. Xu hướng đỉnh nợ công là năm 2017-2018. Năm
2017 nợ công dự kiến ở mức 64,8% GDP và năm 2018 con số này là 64,7% GDP. Như vậy,
việc phải dựa vào ngân sách để thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ NOXH ngày
càng khó khăn và hạn chế.
[4]
Chủ đầu tư dự án NOXH được cho phép điều chỉnh tăng mật độ xây dựng hoặc hệ số
sử dụng đất lên tối đa 1,5 lần theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP, tuy nhiên, cơ
quan chức năng không phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 của dự án NOXH do
lo ngại không phù hợp với quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 đã được phê duyệt.
Trên thực tế như ở TP. HCM, theo hướng dẫn mới nhất của Thành phố, thủ tục đầu
tư dự án NOXH có ba bước: bước một là đánh giá sơ bộ điều kiện cơ bản như phù hợp
quy hoạch, pháp lý đất đai, bước hai là Sở KHĐT tham mưu UBND TP chấp thuận chủ
trương đầu tư, tuy nhiên Sở KHĐT cho rằng chủ trương đầu tư được chấp thuận trước
khi điều chỉnh quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 là không phù hợp với Luật Đầu
tư. Do đó, các dự án có thể bị tắc ở bước hai này, không thể làm bước ba là lập,
thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500.
[5]
10% đối với NOXH để bán, cho thuê mua; 15% đối với NOXH cho thuê
[6]
“(i) Đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được đầu tư bằng nguồn vốn quy
định tại khoản 1 Điều 113 của Luật này thì việc xác định chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng nhà ở xã hội thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công
và pháp luật về xây dựng, (ii) Đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được
đầu tư bằng nguồn tài chính công đoàn thì việc xác định chủ đầu tư dự án đầu tư
xây dựng nhà ở xã hội được thực hiện theo quy định áp dụng với dự án đầu tư
công theo quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp luật về xây dựng.”
[7]
Thực tế cho thấy, dự án nhà ở thương mại có quy mô sử dụng đất từ 2ha-10ha, đã
được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, công nhận chủ đầu tư,
quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500, giao đất, trong đó yêu cầu chủ đầu tư thực hiện
nghĩa vụ NOXH theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về NOXH, trong đó chủ đầu tư được
lựa chọn 3 hình thức nghĩa vụ NOXH (bằng: tiền, nhà hoặc đất). Đến nay,
dự án chưa hoàn tất thủ tục và văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận
đầu tư hết hiệu lực thực hiện, hết hạn tiến độ dự án. Các trường hợp này khi thực
hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật đầu tư thì được yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ NOXH bằng đất theo Nghị định số 49/2021/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 100/2015/NĐ-CP nên chủ đầu tư không đồng ý và kiến nghị được
áp dụng theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
[8]
Khoản 4 Điều 1 Nghị định 42/2017/NĐ-CP: “Sở quản lý xây dựng chuyên ngành chủ
trì tổ chức thẩm định thiết kế cơ sở ... (trừ phần thiết kế công nghệ) của
dự án đầu tư xây dựng công trình nhà ở quy mô dưới 25 tầng có chiều cao không
quá 75 m”. Tuy nhiên Nghị định này đã được thay thế bởi Nghị định 15/2021/NĐ-CP
và không còn nội dung ủy quyền này.
[9]
Các tỉnh có nhiều NOXH: Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Giang...: Hội đồng thẩm định giá
đất cấp tỉnh xác định giá đất kinh doanh thương mại để bù đắp chi phí NOXH; Tỉnh
Bình Phước xác định giá đất bằng với số tiền sử dụng đất được miễn đối với phần
kinh doanh thương mại (tiền sử dụng đất được miễn được Hội đồng thẩm định giá đất
xác định tại thời điểm bàn giao đất).
[10]
Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP: “Giá đất cụ thể được sử dụng để
làm căn cứ đối với các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 114, khoản 2 Điều 172
và khoản 3 Điều 189 của Luật Đất đai; giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất
khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền một lần
cho cả thời gian thuê’’.
[11]
Hướng dẫn nghiệm vụ cho vay ưu đãi để mua, thuê mua NOXH; xây dựng mới hoặc cải
tạo, sửa chữa nhà để ở.
[12]
Chủ đầu tư các dự án NOXH, nhà ở công nhân phải có trong danh mục các dự án
NOXH, nhà ở công nhân do UBND cấp tỉnh công bố và phải đảm bảo các điều kiện
sau: đã được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư và pháp luật về nhà ở; đã có quyết định giao đất hoặc đã có
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và đã hoàn thành việc
bồi thường, giải phóng mặt bằng; đã được cấp phép xây dựng hoặc được miễn cấp
phép xây dựng theo quy định của pháp luật xây dựng.
[13]
Công văn số 13489/BTC-QLCS ngày 06/12/2023 của Bộ Tài chính.
[14]
Nội dung này liên quan Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Công văn 7377/BKHĐT-PTHTĐT năm 2024 báo cáo bổ sung giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công văn 7377/BKHĐT-PTHTĐT ngày 13/09/2024 báo cáo bổ sung giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
745
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|