BỘ
TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC HẢI QUAN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
489/QĐ-TCHQ
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 3
năm 2019
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT, BAN HÀNH ĐỀ ÁN LIÊM CHÍNH HẢI QUAN GIAI ĐOẠN
2019-2020
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC HẢI QUAN
Căn cứ Luật Hải quan
số 54/2014/QH13 ngày 23 tháng 6 năm 2014;
Căn cứ Quyết định số
65/2015/QĐ-TTg ngày 17/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính;
Căn cứ Quyết định số
448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược
phát triển Hải quan đến năm 2020;
Xét đề nghị của Chánh
Văn phòng và Vụ trưởng Vụ Thanh tra - Kiểm tra Tổng cục Hải quan,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều
1. Phê
duyệt, ban hành kèm theo Quyết định này Đề án Liêm chính Hải quan giai đoạn
2019-2020.
Điều
2. Thủ
trưởng các đơn vị thuộc, trực thuộc Tổng cục Hải quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ,
lập kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các nội dung liên quan thuộc phần “Các
giải pháp cụ thể về Liêm chính Hải quan cần thực hiện trong giai đoạn
2019-2020” trình Lãnh đạo Tổng cục trước 30/4/2019.
Điều
3. Trường
hợp có những giải pháp chưa xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện đúng thời
hạn tại Điều 2 nêu trên thì phải báo cáo Lãnh đạo Tổng cục phụ trách và nêu rõ
thời gian thực hiện.
Điều
4. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều
5. Thủ
trưởng các đơn vị thuộc và trực thuộc Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm thi
hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 5;
- Bộ Tài chính (để b/c);
- Lãnh đạo Tổng cục Hải quan;
- Lưu: VT, TTr (03b).
|
TỔNG
CỤC TRƯỞNG
Nguyễn Văn Cẩn
|
ĐỀ ÁN
LIÊM CHÍNH HẢI QUAN GIAI ĐOẠN 2019-2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 489/QĐ-TCHQ ngày 15/3/2019 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan)
Phần
I
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết xây dựng
đề án
Liêm chính là một
trong những vấn đề chủ yếu luôn được các cơ quan công quyền quan tâm, chú trọng
tới. Liêm chính hải quan lần đầu tiên được đưa vào chương trình nghị sự của Tổ
chức Hải quan thế giới (WCO) vào đầu những năm 1990 và đến năm 1993 thì WCO
thông qua Tuyên bố Arusha với những nội dung trọng tâm đề cập đến những nỗ lực
của WCO trong việc tăng cường liêm chính và chống tham nhũng. Từ đó đến nay,
WCO cũng như các cơ quan Hải quan trên thế giới, dù ở các trình độ phát triển
khác nhau đều hết sức coi trọng việc xây dựng và duy trì mức liêm chính cao
trong các hoạt động hải quan. Điều này đóng vai trò
hết sức quan trọng nhằm tăng tính cạnh tranh trong thu hút thương mại và đầu tư
quốc tế, tạo hình ảnh tốt đẹp về cơ quan hải quan, về đất nước nơi mà giới
doanh nghiệp, đầu tư, khách du lịch hướng tới. Trong điều kiện hội nhập và toàn
cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, cơ hội sẽ chỉ đến với những nước có chính sách cởi mở,
thuận lợi, điều kiện kinh doanh minh bạch, có thể dự đoán được và quan trọng nhất
là có môi trường lành mạnh, tính minh bạch và liêm chính cao, do vậy sẽ giảm được
các chi phí hậu cần, hành chính cho doanh nghiệp, giúp tăng hiệu quả kinh
doanh.
Đối với Việt Nam nói
chung, Ngành Hải quan nói riêng, vấn đề nâng cao tính liêm chính và chống tham
nhũng luôn được các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tài chính và Ngành
Hải quan quan tâm và triển khai áp dụng nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên, từ
thực tiễn cuộc sống có thể thấy rằng, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, đạt
nhiều kết quả tích cực, song về tổng thể có thể thấy rằng, cuộc chiến chống
tham nhũng tiếp tục xây dựng và duy trì mức độ liêm chính cao trong các cơ quan
công quyền, trong đó có Ngành Hải quan vẫn còn có nhiều bất cập, hạn chế, hiệu
quả đạt được chưa như mong muốn. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp
hiệu quả để đấu tranh chống tham nhũng, nâng cao liêm chính hải quan vẫn luôn
là một đề án nóng, cấp thiết, là một nhiệm vụ dài lâu. Việc nghiên cứu đòi hỏi
có sự tập trung đầu tư nguồn lực, triển khai thực hiện có hiệu quả các biện
pháp chống tham nhũng, xác định rõ những việc liên quan đến chống tham nhũng và
nâng cao đạo đức hải quan, trao đổi và chia sẻ thông tin về kinh nghiệm thực tiễn
trong phòng chống tham nhũng, các giải pháp để nâng cao liêm chính hải quan đề
ra vừa phải mang tính thực tiễn cao phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước,
đồng thời phải tiếp cận được với những thông lệ và cam kết quốc tế về hải quan,
đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và
quan trọng nhất là hoạch định được các kế hoạch chiến lược và đề ra quyết sách
đúng đắn trong phòng chống tham nhũng, nâng cao đạo đức và liêm chính hải quan.
Phòng chống tham nhũng, xây dựng một đội ngũ cán
bộ công chức chuyên nghiệp, hoạt động minh bạch với tính liêm chính cao không
còn là một sự lựa chọn nữa mà đã trở
thành yêu cầu bắt buộc để Ngành Hải quan trở thành một ngành trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả, triển khai thành công chương trình hiện đại hóa hải
quan. Ý thức được tầm quan trọng của việc phòng chống tham nhũng, tăng cường
liêm chính, Lãnh đạo Tổng cục Hải quan đã giao nhiệm vụ "Nghiên cứu
xây dựng đề án nhằm nâng
cao hiệu quả liêm chính hải quan ở Việt Nam" nhằm
đề ra và áp dụng thành công các giải pháp đảm bảo tính hiệu lực, tính minh bạch
trong thủ tục hành chính, nâng cao tính trong sạch và hiệu quả hoạt động của đội
ngũ cán bộ, công chức hải quan cũng như toàn hệ thống hải quan.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong công tác quản
lý Nhà nước về hải quan, Ngành Hải quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hàng
hóa, phương tiện vận tải, phòng và chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa qua biên giới, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu. Do yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc, cán bộ công chức hải quan
luôn tiếp xúc với tiền hàng, với các doanh nghiệp, phải xử lý các vụ buôn lậu,
gian lận thương mại, vận chuyển hàng cấm,...Vì vậy, vấn đề liêm chính hải quan
luôn được Hải quan các nước nói chung, Hải
quan Việt Nam nói riêng rất quan tâm và chú trọng thực hiện.
Hải quan Việt Nam thời
gian trước cũng đã có một số đề án khoa học nghiên cứu về các lĩnh vực hoạt động
nghiệp vụ hải quan, về tổ chức bộ máy, về đào tạo cán bộ, về liêm chính hải
quan. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm với nhiều sự biến động của đất nước và của
ngành cần phải có một đề án nghiên cứu khoa học tiến hành hệ thống hóa, phân
tích sâu các nội dung của liêm chính hải quan, nghiên cứu một cách tổng thể về
tình hình thực hiện liêm chính trong Ngành Hải quan, các yếu tố tác động và chi
phối đến liêm chính hải quan, để từ đó kiến nghị các giải pháp mang tính thiết
thực, hữu hiệu nhằm nâng cao đạo đức liêm chính Hải quan ở Việt Nam, nhất là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và Hải quan Việt Nam đang thực
hiện cải cách và hiện đại hóa.
Tổ chức Hải quan thế
giới cũng như Hải quan các nước cả phát triển và đang phát triển đều rất quan
tâm đến việc xây dựng liêm chính hải quan, thể hiện từ việc xây dựng chiến lược
liêm chính hải quan, triển khai nhiều hoạt động, sáng kiến nhằm nâng cao tính
liêm chính trong việc thực thi các hoạt động hải quan, góp phần nâng cao tính
minh bạch, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, nâng cao chất lượng hiệu
quả hoạt động hải quan, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển, đồng thời góp
phần tăng trưởng thương mại thế giới nói chung và đã
thực hiện đạt được nhiều kết quả. Vì vậy, Hải quan Việt Nam cần nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước để vận dụng vào điều kiện hoạt động thực tế của ngành.
3. Đối tượng, phạm vi
nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về liêm chính hải quan thông qua các nội dung và yếu tố hình
thành và tác động đến tính liêm chính của mỗi cán bộ công chức Hải quan, cũng
như mỗi bộ phận, đơn vị, tổ chức Ngành Hải quan.
Phạm vi nghiên cứu chủ
yếu đề cập, phân tích các hoạt động diễn ra trong Ngành Hải quan Việt Nam, tuy
nhiên có sự gắn kết nhất định tới hoạt động của các bộ, ngành liên quan, của
các đối tác có quan hệ với hải quan như doanh nghiệp, khách du lịch…….
4. Mục đích và nhiệm
vụ nghiên cứu:
4.1. Hệ thống hóa và
phân tích các nội dung cơ bản của Tuyên bố Arusha và Tuyên bố
Arusha sửa đổi về liêm chính hải quan của Tổ chức hải quan thế giới. Các biện
pháp, giải pháp mới được đưa ra về liêm chính hải quan.
4.2. Phân tích và
đánh giá thực trạng thực hiện liêm chính trong từng lĩnh vực công tác cụ thể của
hải quan thế giới.
4.3. Tìm hiểu kinh
nghiệm xây dựng liêm chính hải quan của WCO và Hải quan một số nước trên thế giới,
phân tích và đề xuất các nội dung có thể học hỏi và áp dụng cho Hải quan Việt
Nam.
4.4. Đề xuất một số
giải pháp nâng cao liêm chính hải quan ở Việt Nam và kiến nghị một số vấn đề
xây dựng và triển khai áp dụng thực hiện kế hoạch liêm chính hải quan.
5. Cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận của đề
án: chủ trương của Đảng và Nhà nước, của Bộ Tài chính về chống tham nhũng, thực
hiện cải cách hành chính; Chỉ đạo của lãnh đạo Ngành Hải quan về đẩy mạnh liêm
chính hải quan; nhu cầu chính đáng, khách quan và thực tế của các đối tượng
khách hàng có quan hệ với cơ quan hải quan, yêu cầu,
đòi hỏi của xã hội đối với lực lượng hải quan trong quá trình
thực thi nhiệm vụ.
Đề án sử dụng phương
pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tổng hợp, phân tích, đối
chiếu các vấn đề hiện tại với nội dung nghiên cứu, có kết hợp với phương pháp
khảo sát, thống kê, phân tích số liệu minh chứng. Việc kết hợp các phương pháp
cho phép nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện khách quan, biện chứng các mối
quan hệ qua lại, gắn bó, tác động với nhau trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể nhất định.
6. Những điểm mới của
đề án:
Trong bất kỳ thời
gian nào, đối với bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào thì yêu cầu đặt ra cũng
là hoạt động minh bạch, có hiệu quả, mang lại lợi ích, kinh tế, xã hội cho đất
nước, đề án nghiên cứu các giải pháp nâng cao liêm chính hải quan sẽ đáp ứng được
nhu cầu đó, vừa tạo môi trường làm việc lành mạnh, nâng cao đạo đức nghề nghiệp
hải quan, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Hải
quan, vừa góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp, ngăn chặn tiêu cực, tham
nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho
các doanh nghiệp.
Là đề án tổng hợp có
sự kế tiếp đề cập toàn diện về vấn đề chống tham nhũng nâng cao liêm chính hải
quan, trong đó chú trọng đến yếu tố nguồn nhân lực
và sự chuyển biến từ nhận thức, tư duy đến hành động của cán bộ,
công chức hải quan. Đề án không chỉ đề cập đến tính liêm chính của mỗi cá nhân,
mà còn đề cập và phân tích tính liêm chính và những yếu tố để đảm bảo tính liêm
chính trong mỗi tổ chức, đơn vị hải quan.
Đề án phân tích những
yêu cầu cần có của các vấn đề liêm chính cơ bản từ đó đề xuất những
nội dung kế hoạch thực hiện cụ thể để triển khai các giải pháp thực hiện trong
Ngành Hải quan cho hiện tại và thời gian sau này.
7. Ý nghĩa của đề án:
7.1. Ý nghĩa khoa học:
Đề án có ý nghĩa khoa học là đề ra được những
giải pháp mang tính khả thi trên cơ sở phân tích thực trạng việc thực hiện liêm
chính hải quan, các giải pháp đề ra xuất phát từ nhu cầu nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ hải quan, đổi mới phương thức làm việc,
gắn việc thực thi nhiệm vụ của ngành với việc quan tâm đến nhu cầu chính đáng của
các đối tượng có liên quan, nâng cao chất lượng phục vụ của hải quan trước yêu
cầu tình hình mới, các giải pháp đề ra vừa bám sát vào thực tiễn, vừa tính đến
xu hướng phát triển của Ngành Hải quan.
7.2. Ý
nghĩa kinh tế: Đề án được nghiên cứu đạt kết quả sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế là hoạt động của Ngành Hải quan sẽ có hiệu quả hơn, đội
ngũ cán bộ công chức hải quan làm việc sẽ văn minh và chuyên nghiệp hơn, hoạt động
hải quan sẽ được minh bạch, công khai, rõ
ràng, đi vào thực tiễn cuộc sống, đáp ứng được sự mong đợi của Chính phủ, doanh
nghiệp và của toàn xã hội. Trên cơ sở đó sẽ đẩy mạnh được hoạt động XNK, thu
hút đầu tư nước ngoài và du khách quốc tế đến Việt Nam, nâng cao tính cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên toàn thế giới.
7.3. Ý
nghĩa xã hội: Đề án có hiệu quả xã hội là các giải pháp
của đề án sẽ được áp dụng vào thực tiễn, tạo ra nhiều chuyển biến không chỉ đối
với hoạt động của Ngành Hải quan, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực đến một số ngành
khác có liên quan.
Sau khi đề án nghiên
cứu được Lãnh đạo Tổng cục Hải quan phê duyệt, các kết quả nghiên cứu sẽ được triển
khai ứng dụng ngay vào hoạt động thực tiễn của Ngành Hải quan, đặc biệt trong
Ngành Hải quan về công tác quản lý, chỉ đạo điều hành công việc có hiệu quả,
nâng cao vị thế và uy tín của ngành, đáp ứng kỳ vọng của Chính phủ và Xã hội.
8. Bố cục của đề án:
Phần
I: mở đầu
Phần II: Nội dung cụ
thể:
Chương I- Tổng quan
liêm chính hải quan.
Chương II- Tình hình
thực hiện liêm chính hải quan ở Việt Nam.
Phần III: Mục tiêu, định
hướng và giải pháp thúc đẩy nâng cao liêm chính Hải quan ở Việt Nam, cụ thể:
Chương I- Mục tiêu, định
hướng
Chương II- Giải pháp
toàn diện để thực hiện liêm chính hải quan đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Chương III: Các giải
pháp cụ thể về liêm chính hải quan cần thực hiện trong giai đoạn 2019-2020.
Phần
II
NỘI DUNG CỤ THỂ
Chương
I.
TỔNG QUAN LIÊM CHÍNH HẢI QUAN; KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG THỰC
THI LIÊM CHÍNH HẢI QUAN
I.
QUAN ĐIỂM CỦA WCO VỀ LIÊM CHÍNH HẢI QUAN
Liêm chính là điều kiện
tiên quyết, là tiền đề để cơ quan hải quan thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình. Liêm chính là cơ sở để xây dựng lòng tin cho doanh nghiệp, người dân,
công chúng đối với cơ quan hải quan và các cơ quan khác của Chính phủ.
Theo WCO, liêm chính
là “một tập hợp các quan điểm, thái độ tích cực nhằm thúc đẩy các hoạt động nghề
nghiệp và các hành vi ứng xử phù hợp với luân thường đạo lý và mang tính trung
thực”. Do vậy, liêm chính hải quan là một nhiệm vụ bao trùm được duy trì và đảm
bảo thực thi trong các lĩnh vực công tác, hoạt động của Hải quan.
II.
TUYÊN BỐ VỀ LIÊM CHÍNH HẢI QUAN
1. Tuyên bố Arusha của
Tổ chức Hải quan thế giới năm 1993 về tính liêm chính hải quan thế giới
Liêm chính hải quan là
một trong những chủ đề quan trọng, được WCO đề cập và nhấn mạnh tại các diễn
đàn của Tổ chức từ cuối những năm 1980 của thế kỷ trước. Năm 1993, WCO đưa ra
tuyên bố Arusha về liêm chính hải quan, trong đó nhấn mạnh
việc WCO khuyến khích Hải quan các nước thành viên tuân thủ các quy tắc ảnh hưởng
tới liêm chính để làm căn cứ thực thi các hoạt động hải quan một cách hiệu quả.
Nội dung cụ thể của Tuyên bố gồm:
(1) Giảm
thiểu các quy định hành chính:
Các luật, quy định về
hải quan, các hướng dẫn hành chính và các thủ tục hải quan cần rõ ràng, hài
hòa, đơn giản hóa và chính xác. Hải quan các nước thành viên cần thực hiện các
chuẩn mực quốc tế được công nhận như Hiệp định về mô tả và mã hàng hóa, Hiệp định
trị giá GATT, Hiệp định về sở hữu trí tuệ, Công ước Kyoto, Công ước Istanbul/Công
ước về số ATA. Các chế độ thuế nhập khẩu, thuế VAT và thuế suất cần được hài
hòa, số lượng các mức thuế cần được hạn chế. Cần phải có một số trường hợp miễn
thuế theo các chuẩn mực nếu có thể, bãi bỏ những hàng rào thuế quan không cần
thiết.
Các quy định hành
chính về thương mại cần được giảm xuống mức tối thiểu như sửa đổi hay điều chỉnh
hệ thống và quy trình thủ tục hiện hành cho phù hợp hơn với thực tiễn, bãi bỏ
các bước không cần thiết hay trùng lặp trong
quy trình thủ tục, giảm thiểu các ngoại lệ theo các quy tắc chuẩn mực. Bãi bỏ
các quy định, hệ thống hoặc quy trình dễ dẫn đến tham nhũng, lạm quyền, tự quyền
hoặc không có tinh thần trách nhiệm của nhân viên.
(2) Tính
minh bạch:
Các doanh nghiệp, đối
tác có quan hệ với hải quan và công chúng nói chung mong muốn có một mức độ chắc
chắn cao khi làm việc với cơ quan Hải quan. Cơ sở hoặc các tiêu chí mà theo đó
nhân viên hải quan đưa ra quyết định cần được xác định rõ ràng và công khai,
quyết định đưa ra phải phù hợp với quy định của pháp luật và đúng lúc.
Thủ tục hải quan cần
đơn giản, phù hợp và dễ thực hiện. Các luật, quy định, thủ tục và hướng dẫn cần
được công khai, có thể truy cập dễ dàng và được áp dụng một cách ổn định. Khi
quyền tự quyết định của một nhân viên Hải quan được áp dụng, các lý do, cơ sở để
thực hiện quyền đó cần được ghi chép và lưu lại để có thể xem xét về sau này
khi cần thiết. Các chuẩn mực dịch vụ do cơ quan Hải quan cung cấp cần được xây
dựng, triển khai và công bố công khai để các khách hàng được biết.
Cần có một quy trình
khiếu nại đối với các quyết định của Hải quan, với khả năng có thể yêu cầu sự
phân xử độc lập tại cấp cuối cùng. Quy trình này có thể dựa trên Công ước Kyoto
và có thể được điều chỉnh để giảm thiểu việc đưa ra quyết định một cách tùy tiện.
Cơ chế khiếu nại cần đơn giản và dễ thực hiện, nhưng không quá dễ dàng để giải
quyết những khiếu nại nhỏ nhặt, đồng thời cần có cơ chế kiểm tra và xem xét khiếu
nại cả trong nội bộ cơ quan Hải quan.
(3) Tự
động hóa:
Tự động hóa là một
công cụ hữu ích và quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Tự động hóa cần được
lãnh đạo các cơ quan Hải quan quan tâm và ưu tiên nguồn lực để phát triển công
khai. Hệ thống tự động hóa có thể cải thiện tính hiệu lực và hiệu quả cho hoạt
động hải quan, giúp cho việc đưa ra kết quả giải quyết với một mức độ chính xác
và thống nhất mà hệ thống thủ công không bao giờ có được.
Tự động hóa sẽ góp phần
giảm, tiến tới hủy bỏ những cơ hội cho tham nhũng bằng
cách loại bỏ dần những cơ hội tạo ra sự tiếp xúc trực
tiếp giữa nhân viên hải quan và khách hàng và giảm bớt quyền tự quyết định của
nhân viên hải quan. Một môi trường làm việc mà ở đó tin học hóa không cao,
không hiệu quả sẽ dễ dàng nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Vì vậy, các cơ quan Hải
quan cần sử dụng tối đa công nghệ thông tin để hỗ trợ phân tích rủi ro, lập hồ
sơ và lựa chọn hàng hóa nhập khẩu để kiểm tra: giảm mức độ kiểm tra thực tế
hàng hóa, cải thiện việc thu thập dữ liệu phục vụ cho các yêu cầu về quản lý hải
quan.
Các cơ quan Hải quan
cần lưu ý đặc biệt khi thiết kế các hệ thống tin học phục vụ quy trình thủ tục
hải quan nhằm đảm bảo rằng những phần, khâu công việc dễ bị sơ hở, lợi dụng
trong hệ thống thủ công không được tái tạo trong hệ thống tự động, nhấn mạnh sự
cần thiết duy trì hệ thống tự động dựa trên chứng từ giấy cùng với các bản sao,
yêu cầu hệ thống in ra các mẫu chứng từ cần có chữ ký.
(4) Luân
chuyển, sắp xếp và kiểm tra nhân viên:
Nhằm giảm thiểu các
cơ hội dẫn đến hành vi phạm pháp, các nhà lãnh đạo, quản lý Hải quan cần sử dụng
các biện pháp như phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận, thực hiện
luân chuyển nhân viên và kiểm tra ngẫu
nhiên các nhân viên hải quan và trong một số trường hợp cụ thể cần thường xuyên
sắp xếp lại vị trí của các nhân viên. Điều quan trọng là phải tạo ra sự cân bằng
hợp lý để nhân viên có đủ thời gian phát triển kiến thức chuyên môn nghiệp vụ,
các kỹ năng và hiểu biết đáp ứng yêu cầu của khách hàng, cũng như đảm bảo rằng
họ không phát triển những mối quan hệ không phù hợp với quy định của pháp luật,
của Ngành Hải quan.
Cần theo dõi, xem xét
để giảm bớt những cơ hội mà một nhân viên có thể nắm giữ trong thời gian dài đối
với những vị trí dễ có vấn đề, dễ có rủi ro. Do vậy, cần xác định những
vị trí nhạy cảm cao và cần hạn chế mức thời gian đảm
nhận. Ngoài ra, cũng cần hạn chế các trường hợp ngoại lệ nhằm đảm
bảo kế hoạch luân chuyển, điều động, bàn giao công việc và chuyển giao các kỹ
năng cần thiết phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Cần xây dựng được cơ
chế xác định và luân chuyển nhân viên đang nắm giữ những vị trí dễ có vấn đề
trong thời gian dài. Việc ra các quyết định điều chuyển nhân viên hải quan ở vị
trí dễ có vấn đề cần dựa trên những tiêu chí khách quan và cơ sở đưa ra quyết định
cần được ghi chép lại để xem xét và tham khảo về sau. Việc sắp xếp lại cần được
hạn chế để đảm bảo rằng nhiều nhân viên có thể hoàn thành được một số nhiệm vụ
được giao.
Khi luân chuyển hoặc điều
chuyển nhân viên, cần chú ý rằng họ được coi là những cá nhân chứ không phải là
một nhóm, để họ không thể tạo ra những mối liên hệ và kết cấu không phù hợp.
Các công việc cần được xem xét và điều chỉnh lại để đảm bảo rằng cá nhân các
nhân viên không thể thực hiện được công việc mà không tham khảo đến, hoặc trao đối
với các nhân viên khác.
Các quyết định hành
chính, quyết định kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và các quyết định tương tự cần
được rà soát thường xuyên và thực hiện độc lập, khách quan.
(5) Trách
nhiệm quản lý/giải trình:
Các nhà lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở có trách nhiệm phát hiện những kẽ hở trong phương pháp làm việc và
tính liêm chính của nhân viên, và thực hiện các bước khắc phục những kẽ hở này.
Đồng thời, cần xác định rõ trách nhiệm quản lý và trách nhiệm giải trình về
tính liêm chính và ngăn chặn tham nhũng xảy ra trong
đơn vị. Tất cả mọi người đều phải chấp nhận một mức độ trách nhiệm phù hợp với
vị trí làm việc và chức trách được giao.
Các nhà lãnh đạo, quản
lý cần phải làm việc với nhân viên Hải quan để
rà soát lại hệ thống, quy trình thủ tục hải quan và tiến hành kiểm tra để xác định
các khâu công việc, các vị trí có khả năng dễ xảy ra tham nhũng. Lãnh đạo các cấp
phải luôn có cư xử đúng mực, không chỉ dừng ở mức độ không có tham nhũng, mà phải
được coi là không có bất kỳ việc làm, hành vi nào trái với các chuẩn mực đã được
đề ra, các cư xử của tất cả mọi người cần phải tuân theo đúng tinh thần của luật
ứng xử.
(6) Kiểm
toán:
Kiểm toán nội bộ và
bên ngoài rất quan trọng. Kiểm toán nội bộ là một công cụ đặc biệt hiệu quả đảm
bảo cho các thủ tục hải quan phù hợp và được thực hiện chính xác. Công tác kiểm
toán nội bộ cần được đảm nhiệm bởi một đơn vị thanh tra trong cơ quan chịu
trách nhiệm tiến hành điều tra tất cả các trường hợp nghi vấn có hành vi vi phạm.
Các chương trình kiểm tra như kiểm tra nội bộ, kiểm tra ngẫu nhiên, kiểm tra tại
chỗ là những biện pháp chống tham nhũng hiệu quả. Những biện pháp này cần được
hỗ trợ bởi các phương pháp kiểm toán nội bộ và bên ngoài.
Các lực lượng đặc biệt
cần được thành lập để tiến hành kiểm tra tại
chỗ và kiểm tra bất ngờ tại những khu vực trọng điểm. Việc này cần được tiến
hành thường xuyên để ngăn chặn hữu hiệu các hành vi tham nhũng xảy ra. Tất cả
những lý do dẫn đến hành vi sai trái mà
nhân viên hải quan phạm phải cần được điều tra. Tùy thuộc vào các lý do, mức độ
vụ việc cụ thể mà có thể chuyển giao quyền điều tra cho những cơ quan điều tra
độc lập khác.
Nhân viên đảm nhận
công việc điều tra nội bộ cần được lựa chọn tốt và được đào tạo phù hợp. Trong
một số trường hợp, khi cần thiết, những nhân viên này cần được bảo vệ tốt để
tránh được các áp lực và sức ép từ các phía.
Cần khuyến khích nhân
viên Hải quan, khách hàng, doanh nghiệp và các thành viên trong công chúng cung
cấp thông tin về tham nhũng, về các hành vi phạm pháp và không đúng nguyên tắc
quy định. Khi những thông tin có liên quan được cung cấp, cần tiến hành điều
tra kỹ lưỡng và giữ bí mật tên của những người cung cấp thông tin để đảm bảo an
toàn cho họ.
Nhân viên Hải quan có
thể báo cáo về các dấu hiệu, hành vi tham nhũng mà không nhất thiết phải báo
cáo với người quản lý, chỉ đạo trực tiếp của mình. Do vậy,
cần khuyến khích các nhân viên báo cáo trực tiếp với một cấp độc lập khi thấy
có vấn đề không phù hợp với quy chuẩn.
(7) Văn
hóa và đạo đức tổ chức:
Công tác quản lý của
người lãnh đạo cần làm cho nhân viên trong
đơn vị hiểu được lòng tự trọng và sự trung thành của họ trong công việc, hiểu
rõ tinh thần tập thể và mong muốn cùng hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa mọi người
trong đơn vị nhằm giảm bớt khả năng dẫn đến
tham nhũng.
Tham nhũng thường xảy
ra trong những tổ chức, đơn vị mà ở đó đạo đức hay tinh thần tập thể thấp và
khi nhân viên không thật sự tự hào về cơ quan hải quan của mình.
Tương tự như vậy, tham nhũng cũng thường xảy ra trong những tổ chức, đơn vị mà ở
đó có sự bao che, xúi giục hay thậm chí cổ vũ cho các việc làm, hành vi không phù
hợp với quy định của pháp luật và các quy định về ứng xử nghề nghiệp và đạo lý.
Để giải quyết vấn đề này, cần có sự tham
gia của nhân viên ở tất cả các cấp trong Ngành Hải quan vào việc phân tích vấn
đề, tìm ra các giải pháp và đưa các giải pháp đó vào thực hiện. Có thể thành lập
các Tổ để kiểm tra những lĩnh vực có rủi ro cao trong Ngành Hải quan. Song điều
quan trọng là cần có sự thay đổi trong văn hóa ứng xử
của tổ chức, vì nếu không có sự thay đổi thì sẽ không
thể có sự cải thiện tình hình thực sự, ngay cả khi các nhân viên tham nhũng đã
bị phát hiện, xử lý kỷ luật hoặc miễn nhiệm. Các cách cư xử cũ sẽ dần xuất hiện
lại với những đối tác khác nhau.
(8) Tuyển
dụng và lựa chọn:
Quy trình tuyển dụng
và đề bạt nhân viên Hải quan cần khách quan và tránh
được những tác động can thiệp từ bên ngoài. Cần có các tiêu chí để xác định những ứng viên có, và có thể có khả
năng duy trì một chuẩn mực cao về đạo đức cá nhân. Các quy trình
hành chính gắn với việc tuyển chọn và bổ nhiệm cần phải công bằng, khách quan
và dựa trên thành tích thực tế đạt được.
Việc lựa chọn các
nhân viên cần dựa trên phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn/và hoặc kiến thức
nghề nghiệp như tính trung thực, độ tin cậy, mức độ tín nhiệm, tư cách cá
nhân... Việc tuyển dụng hoặc bổ nhiệm cần có sự tham gia của một thành viên độc
lập được lựa chọn từ bên ngoài bộ phận đang có cá nhân người được xem xét.
Việc tuyển chọn cho
những vị trí quan trọng cần phải xem xét kỹ lưỡng thông qua kiểm tra hồ sơ làm
việc, hồ sơ của cảnh sát, các thông tin tham khảo và những người sử dụng lao động
trước đây của người tham gia tuyển chọn đó. Trong một số trường hợp cần khuyến
khích các ứng viên đã có quá trình làm việc ở các cơ quan khác của Chính phủ,
đó là những người đã được biết đến về sự trung thực, tin cậy và độ am hiểu
chuyên môn nhất định.
(9) Luật
ứng xử:
Nhân viên hải quan cần
có một luật ứng xử, trong đó họ sẽ được giải thích đầy đủ về các tác động của
nó. Cần có những biện pháp có hiệu lực về kỷ luật, trong đó có cả khả năng miễn
nhiệm để nhân viên hải quan hiểu và nắm rõ trong khi thực thi nhiệm vụ.
Việc xây dựng, ban
hành và triển khai thực hiện luật ứng xử là một phần quan trọng của bất kỳ chương
trình liêm chính nào đối với cơ quan Hải quan. Luật phải đề ra một cách rõ ràng
và thực tiễn các chuẩn mực ứng xử của nhân viên Hải quan. Luật cần bao gồm những
điểm sau: trách nhiệm cá nhân đối với vấn đề liêm chính và ngăn chặn tham
nhũng; tuân thủ luật pháp; quan hệ với khách hàng và công chúng; nhận quà tặng;
phần thưởng, sự ưu đãi và tài trợ khác; tránh những mâu thuẫn về lợi ích; ứng xử
trong vấn đề tiền bạc; bảo mật và sử
dụng các thông tin chính thức; sử dụng tài sản và các dịch vụ công; việc nhân
viên mua các tài sản nhà nước; môi trường làm việc.
Khi ban hành luật ứng
xử cần đưa ra tính hiệu lực và các chế tài để thấy rằng bất kỳ hành vi tham
nhũng nào cũng đều không thể được chấp nhận và sẽ bị xử lý theo quy định như xử
phạt, hạ cấp, bãi nhiệm, sa thải, kể cả truy tố trước pháp luật. Luật ứng xử cần
bao gồm một hệ thống xử lý tương ứng với mức nghiêm trọng của vi phạm và mang
tính răn đe thật sự để nhân viên Hải quan không dính dáng vào hành vi tham
nhũng nữa.
(10)
Phát triển nghiệp vụ:
Nhân viên Hải quan cần
được đào tạo đầy đủ về chuyên môn nghề nghiệp, trong đó bao gồm cả các vấn
đề đạo đức và tính liêm chính. Giáo dục và
đào tạo, cả chính thức và không chính thức đều có vai trò quan trọng trong đấu
tranh chống tham nhũng.
Cơ quan, tổ chức cần
giúp nhân viên phát triển kiến thức nghiệp vụ thích ứng với công việc được
giao, hỗ trợ tăng thêm hiểu biết về kỹ thuật nghiệp vụ và triển vọng phát triển
nghề nghiệp, duy trì và tăng cường các mối quan hệ, cư xử đúng mực. Khi cơ quan
Hải quan có một luật ứng xử chính thức, công tác đào tạo nên tập trung vào các
chuẩn mực ứng xử cần thiết của toàn thể nhân viên và các cơ chế báo cáo kịp thời
những hành vi vi phạm luật này. Đào tạo có thể hỗ trợ nâng cao ý thức chia sẻ
trách nhiệm đối với vấn đề liên quan đến thực thi liêm chính. Tất cả các hoạt động
đào tạo cần phản ánh những vấn đề đang diễn ra và không được để nhân viên coi
là khác hoàn toàn với những gì đang xảy ra trong thực tế công việc.
(11)
Trả lương hợp lý:
Mức lương của nhân
viên hải quan phải đảm bảo để họ có một mức sống tươm tất, và trong một số trường
hợp bao gồm cả những phúc lợi xã hội như được đảm bảo chăm sóc sức khỏe và mua
sắm đồ đạc thiết yếu trong nhà, và một số khoản tiền khuyến khích khác.
Các yêu cầu về điều
kiện làm việc và mức lương phù hợp, tương xứng với công việc là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với việc duy trì và phát triển một môi trường văn hóa mang
tính liêm chính cao. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng ngay cả mức lương cao
cũng không hẳn loại trừ hoàn toàn hay làm nản chí các
hành vi tham nhũng, mà mức độ tiền lương tương xứng sẽ đảm bảo các nhân viên
không có ý định chấp nhận bù thêm các khoản hoa hồng bất hợp
pháp vào thu nhập của họ, không dễ dàng từ bỏ các vị trí làm việc mà họ được cơ
quan chính phủ trả lương.
Khi xây dựng các chiến
lược về liêm chính, cần lưu ý rằng sẽ không thể tiêu diệt được tham nhũng nếu
các mức lương không đủ để cho phép nhân viên duy trì một mức sống đầy đủ. Trong
một số trường hợp, khi thật sự gặp khó khăn để tăng mức lương, thì cần chú ý
xem xét các khoản phúc lợi xã hội khác như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ
nhà ở và các khoản tiền thưởng. Nếu
Chính phủ không tăng được lương thì cần có những điều kiện,
chế độ đãi ngộ khác thu hút, hấp dẫn cán bộ nhân viên hải quan làm việc liêm
chính.
Hệ thống thưởng nên
được thực hiện để ghi nhận và khen thưởng các cá nhân có hành vi cư xử đúng mực,
góp phần tăng tính liêm chính của tổ chức. Ví dụ, khi đánh giá, xem xét các
thành tích, cơ quan, tổ chức cần nêu cao những tấm gương mẫu mực và khuyến
khích việc phát hiện các vấn đề phát sinh, khó khăn vướng mắc trong quy trình
và thủ tục hiện hành. Ngoài thưởng bằng vật chất, cần có các hình thức khuyến
khích tinh thần như được đi du lịch, được tham dự các khóa đào tạo nâng cao, được
bình chọn, tuyên dương và ca ngợi trong ngành, trong công chúng.
Các nhân viên đang có
những vấn đề nghiêm trọng, khó khăn trong cuộc sống thường dễ bị ảnh hưởng bởi
sự cám dỗ của tham nhũng, vì vậy, lãnh đạo đơn vị
cần quan tâm chú ý đến việc phát hiện và hướng dẫn họ có những cư xử đúng mực.
Các nhân viên này có thể và nên nhận được những lời khuyên bảo và giám sát chặt
chẽ của mọi người. Trong một số trường hợp cần thiết, họ nên được chuyển khỏi
những vị trí làm việc, những công việc có độ rủi ro cao.
(12)
Quan hệ với tổ chức khai thuê và các ngành công nghiệp:
Cơ quan Hải quan cần
tăng cường và tạo nên một mối quan hệ minh bạch với các tổ chức khai thuê hải
quan và các thành phần kinh tế khác trong cộng đồng kinh doanh. Do đó, cần thiết
có các Ủy ban liên lạc trong vấn đề này.
Tham nhũng là một vấn
đề vừa có liên quan đến các yếu tố bên trong, vừa có liên quan đến các yếu tố
bên ngoài. Vì vậy, làm việc với khu vực tư nhân, với các nhóm khách hàng có vai
trò quan trọng trong việc phát triển và thực hiện kế hoạch hành động liêm chính
hải quan. Đồng thời cần xem xét đến việc thành lập Ủy ban liên lạc với các nhóm
khách hàng chủ yếu khác nhau.
Việc xây dựng các chuẩn
mực hoặc hiến chương về dịch vụ có thể đưa ra một bước khởi đầu có hiệu quả và
có thể đưa ra những phương tiện giám sát việc
tuân thủ kế hoạch hành động liêm chính. Cơ quan Hải quan cũng có thể thông qua
những Ủy ban như thế để
thông báo rõ ràng các chuẩn mực ứng xử và các mong đợi từ phía khách hàng của
mình, cũng như các hình thức xử lý nghiêm khắc sẽ được áp dụng khi phát hiện ra
các mức độ hối lộ, hành vi tiêu cực cố ý.
Khách hàng, công
chúng và các bên thứ ba như ngân hàng và các tổ chức thương mại cũng có thể
cung cấp các thông tin có giá trị về những khâu công việc dễ bị ảnh hưởng, tác
động bởi tham nhũng. Việc cung cấp những thông tin như vậy có thể được khuyến
khích với việc đưa ra các đảm bảo giữ bí mật, thiết lập các đường dây nóng,
khuyến khích các nhân viên và công dân báo cáo về các thủ đoạn tham nhũng.
Đương nhiên, nếu có những thông tin được cung cấp thì chúng cần được kiểm tra kỹ
lưỡng, và nếu được chứng minh, thì sẽ bị xử lý thích đáng theo quy định của
pháp luật.
Các phần thưởng và
hình phạt có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực cần phải phù hợp để các nhóm
khách hàng không tham gia vào vụ việc đó nữa. Các hình phạt cần được xác định để
tương ứng với tính nghiêm trọng của vi phạm, nhưng cần phải có tính răn đe thực
sự. Trong một số trường hợp, cần thu hồi giấy phép của một tổ chức khai thuê hoặc
doanh nghiệp có vi phạm nghiêm trọng và thông báo rộng rãi trên phương tiện
thông tin đại chúng
2. Tuyên bố Arusha
2001 sửa đổi của WCO.
Kể từ khi Tuyên bố
Arusha về liêm chính hải quan của WCO được thông qua
và triển khai thực hiện từ năm 1993, WCO cũng đã triển khai Chiến lược và một số
chương trình liêm chính thông qua Nhóm làm việc về liêm chính, và hiện nay là
Tiểu ban liêm chính. Tại kỳ họp tháng 6/2001, Hội đồng WCO đã quyết định xem
xét lại nội dung của Tuyên bố Arusha để xác định
xem Tuyên bố đó có còn đáp ứng nhu cầu của các nước thành viên hay không. Căn cứ
vào chủ trương của Hội đồng, Ban Thư ký đã tiến hành cuộc xem xét tổng thể bản
Tuyên bố và lưu ý đến những kết quả thu được trong bản khảo sát liêm chính năm
2000, xem xét tài liệu liên quan và các ý kiến bàn luận của Tiểu ban liêm
chính.
Sau khi xem xét, Ban
Thư ký đã đưa ra kết luận là nhìn chung nội dung của Tuyên bố
Arusha phù hợp với các phương pháp tiếp cận hiện nay đối với việc chống lại
tham nhũng trong các cơ quan công quyền nói chung, và trong các cơ quan hải
quan nói riêng. Tuy nhiên, vẫn cần xem xét để tăng cường hơn nữa nội dung của
Tuyên bố trong một số lĩnh vực. Ủy ban Chính sách của WCO đã tán thành bản
Tuyên bố sửa đổi do Ban Thư ký để
trình tại kỳ họp thứ 101/102 năm 2003 Hội đồng WCO đã thông qua Tuyên bố Arusha
sửa đổi.
Vậy sự khác nhau giữa
Tuyên bố Arusha sửa đổi và Tuyên bố Arusha là gì? Nội dung nói chung của Tuyên
bố Arusha sửa đổi 2003 là phù hợp với Tuyên bố Arusha 1993. Tuy nhiên, Tuyên bố
Arusha sửa đổi:
i) Đưa ra bản nội
dung toàn diện, rõ ràng hơn bằng cách đặt tiêu đề cho mỗi một yếu tố trong bản
Tuyên bố, có đoạn mô tả tóm tắt và một số điểm làm rõ hơn nội dung yếu tố đó;
ii) Cấu trúc của
Tuyên bố được thay đổi để phù hợp với một số yếu
tố chính, bằng cách hợp nhất nội dung của một vài yếu tố thành một số tiêu đề rộng
hơn;
iii) Từ các bài học
rút ra qua hơn mười năm thông qua Tuyên bố Arusha, nội dung của Tuyên bố Arusha
sửa đổi được củng cố mạnh hơn ở một số lĩnh vực bằng cách nhấn mạnh sự cần thiết
đối với tầm quan trọng của các cam kết chính trị lâu dài, mối quan hệ đối tác
chiến lược với khu vực tư nhân, trong đó bao gồm cả cơ chế tư vấn, trách nhiệm
chính trong việc ngăn chặn tham nhũng phải là của các nhà lãnh đạo quản lý hải
quan và đề cao tầm quan trọng của hệ thống thủ tục hải quan để loại bỏ các cơ hội
tham nhũng.
Tuyên bố Arusha sửa đổi
với 10 yếu tố nội dung cung cấp thực tiễn tốt nhất để thực hiện chiến lược liêm
chính trong môi trường hoạt động của hải quan. Mười
nội dung đó là: sự lãnh đạo và cam kết của lãnh đạo; khuôn khổ pháp lý; tính
minh bạch; tự động hóa; cải cách và hiện đại hóa; kiểm toán và điều tra; quy tắc
ứng xử; quản lý nguồn nhân lực; văn hóa tổ chức và tinh thần;
và mối quan hệ với khu vực tư nhân. Cụ thể:
(1) Lãnh
đạo và cam kết
Trách nhiệm hàng đầu
chống tham nhũng tùy thuộc vào người đứng đầu cơ quan Hải quan và đội ngũ lãnh
đạo cao cấp. Nhu cầu về mức độ liêm chính cao phải được nhấn mạnh và cam kết chống
tham nhũng phải được duy trì trong một thời gian dài hạn. Các nhà quản lý và
giám sát hải quan cần thực hiện vai trò lãnh đạo mạnh mẽ và chấp nhận mức độ
trách nhiệm và phải giải trình một cách phù hợp nhằm duy trì mức độ liêm chính
cao nhất trong tất cả các lĩnh vực hoạt động hải quan. Lãnh đạo Hải quan cần thể
hiện sự tập trung cao độ và chắc chắn đối với vấn đề liêm chính và phải được
xem là tấm gương theo đúng cả nội dung và tinh thần của Luật ứng xử.
(2) Khuôn
khổ pháp lý
Luật Hải quan, các
quy định, hướng dẫn và thủ tục hành chính cần phải hài hòa và đơn giản hóa tới
mức cao nhất có thể được để các thủ tục hải quan có thể tiến hành mà không có
trở ngại quá mức nào. Quá trình này bao gồm việc thông qua các Công ước, văn kiện
quốc tế khác và chấp nhận các chuẩn mực. Các thực tiễn hải quan cần phải được
rà soát và xây dựng lại để loại bỏ tệ quan liêu và giảm những việc sao chụp
không cần thiết. Thuế suất cần được xây dựng ở mức vừa phải có thể và việc miễn
thuế theo các quy tắc chuẩn mực phải ở mức tối thiểu. Các hệ thống và thủ tục
phải phù hợp với Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải
quan (Công ước Kyoto sửa đổi).
(3) Tính
minh bạch
Các khách hàng của Hải
quan hoàn toàn mong đợi vào độ chắc chắn và khả năng dự báo ở mức độ cao khi
giao dịch với Hải quan. Luật Hải quan, các quy định, các thủ tục và hướng dẫn
hành chính cần phải được công khai, dễ tiếp cận và áp dụng một cách thống nhất
và nhất quán. Cần xác định rõ cơ sở mà dựa vào đó các quyết
định được đưa ra. Thiết lập cơ chế để các khách hàng có thể khiếu nại hay đề
nghị xem xét lại các quyết định hành chính của Hải quan. Cần xây dựng Hiến chương phục vụ khách hàng hoặc các chuẩn mực phục vụ trong
đó chỉ rõ mức độ phục vụ mà khách hàng mong đợi từ Hải quan.
(4) Tự
động hóa
Tự động hóa hay tin học
hóa các chức năng của Hải quan có thể nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả, và loại
bỏ nhiều cơ hội dẫn tới tham nhũng. Tự động hóa cũng có thể tăng mức độ giải
trình và cung cấp dấu hiệu bằng chứng cho việc kiểm tra và xem xét sau này các
quyết định hành chính và việc làm của nhân viên. Ở những nơi có thể, hệ thống tự
động hóa cần phải được xây dựng theo cách thức giảm đến mức tối thiểu cơ hội
cho việc làm không phù hợp của nhân
viên, mối quan hệ trực tiếp giữa nhân viên hải quan và khách hàng, việc làm thủ
tục và chuyển tiền trực tiếp.
(5) Cải
cách và hiện đại hóa hoạt động hải quan
Tham nhũng điển hình
xảy ra trong những bối cảnh nơi mà ở đó hoạt động lỗi thời và không hiệu quả,
nơi mà các khách hàng có động cơ trốn tránh những thủ tục chậm trễ
và phiền toái bằng cách đưa ra những khoản hối lộ và phí để hưởng thuận lợi.
Các cơ quan hải quan cần cải cách và hiện đại hóa các hệ thống và thủ tục của
mình nhằm loại bỏ bất kỳ lợi thế nào có thể có được qua việc phá vỡ các yêu cầu
chính thức. Các sáng kiến cải cách và hiện đại hóa như vậy cần mang tính toàn
diện, tổng hợp và tập trung vào mọi mặt hoạt động hải quan. Công ước Kyoto sửa
đổi cung cấp những điều khoản tham chiếu tốt cho những sáng kiến đó.
(6) Kiểm
toán và điều tra
Ngăn chặn và kiểm
soát tham nhũng trong hải quan có thể
được hỗ trợ bởi việc thực hiện hàng loạt các cơ chế kiểm soát và giám sát thích
hợp như các chương trình kiểm tra nội bộ, kiểm toán bên trong và bên ngoài, hệ
thống điều tra và khởi tố. Các hệ thống như vậy cần duy trì mức cân bằng phù hợp
giữa các chiến lược mang tính tích cực, khuyến
khích mức độ liêm chính cao với các chiến lược mang tính hà khắc hơn nhằm xác định
phạm vi ảnh hưởng của tham nhũng và thi hành kỷ luật hoặc truy tố những người
có liên quan. Công chức Hải quan, khách hàng và công chúng nói chung cần được
khuyến khích báo cáo tham nhũng, các hành động trái đạo đức và bất hợp
pháp và khi thông tin như vậy được cung cấp nó cần được điều tra sớm một cách kỹ
lưỡng và cần bảo vệ các nguồn tin. Ở nơi mà việc điều tra phức tạp và ở phạm vi
rộng, hoặc ở cơ quan mà tham nhũng lan rộng cần
có sự tham gia của các cơ quan độc lập chống tham nhũng.
(7) Quy
tắc ứng xử
Một nhân tố chủ yếu của
bất kỳ chương trình liêm chính có hiệu quả là việc xây dựng, ban hành và chấp
nhận một Quy tắc ứng xử tổng hợp, trong đó chỉ rõ hành vi mong đợi ở tất cả
nhân viên hải quan theo những thuật ngữ mang tính thực tiễn
và rõ ràng. Những hình phạt đối với việc không tuân thủ cần được nêu trong quy
tắc, xác định mức độ nghiêm trọng của việc vi phạm và được hỗ trợ bởi các quy định
pháp lý và hành chính.
(8) Quản
lý nguồn nhân lực
Việc thực hiện các
chính sách và quy trình quản lý nguồn nhân lực tốt đóng vai trò chính trong cuộc
chiến chống tham nhũng trong Hải quan. Các thực tiễn quản lý nguồn nhân lực được
coi là hữu ích trong việc kiểm soát và loại bỏ tham nhũng trong Hải quan gồm:
i) Trả lương, các khoản thù lao và điều kiện khác đủ để đảm bảo công chức có thể
duy trì mức sống, ii) Tuyển dụng và giữ chân những người có và luôn duy trì được
chuẩn mực cao về liêm chính; iii) Đảm bảo các thủ tục lựa chọn và phát triển
cán bộ không bị tác động bởi thành kiến, thiên vị
và dựa trên nguyên tắc công trạng; iv) Đảm bảo rằng các quyết định bố trí,
luân chuyển, sắp xếp lại cán bộ được đưa ra trên cơ sở nhu cầu để loại bỏ các
cơ hội công chức giữ các vị trí nhạy cảm trong thời gian dài; v) Cung cấp các chương
trình đào tạo và phát triển nghề nghiệp đủ cho nhân viên hải quan kể từ khi được
tuyển dụng và trong quá trình nghề nghiệp để họ luôn được tăng cường
và duy trì chuẩn mực cao về nghề nghiệp và đạo đức; vi) Áp dụng hệ thống quản
lý và đánh giá phù hợp nhằm củng cố những thực tiễn tốt nhất và thúc đẩy mức độ
liêm chính cao của các cá nhân và tổ chức.
(9) Văn
hóa tổ chức và tinh thần
Tham nhũng thường hay
xảy ra nhất tại tổ chức mà ở đó tinh thần hay tinh thần đồng đội thấp và nơi mà
cán bộ hải quan không có niềm tự hào vào danh tiếng
của cơ quan. Các nhân viên hải quan thường hay hành động với mức liêm chính khi
tinh thần cao, nơi thực tiễn quản lý nguồn nhân lực thân thiện và nơi có các cơ
hội phát triển nghề nghiệp và tiến bộ. Nhân viên ở tất cả các cấp cần tích cực
tham gia vào chương trình chống tham nhũng và được khuyến khích chấp nhận mức độ
trách nhiệm phù hợp đối với liêm chính trong cơ quan.
(10)
Mối liên hệ với thành phần tư
nhân
Các cơ quan Hải quan
cần phải tăng cường các mối quan hệ cởi mở, minh bạch và có hiệu quả với thành
phần tư nhân. Các nhóm khách hàng cần được khuyến khích chấp nhận một mức độ trách
nhiệm và khả năng phù hợp đối với vấn đề, xác định và
thực hiện các giải pháp mang tính thực tiễn. Việc thiết lập Biên bản ghi nhớ giữa
Hải quan và các doanh nghiệp có thể hữu ích trong vấn đề này. Tương tự như vậy,
việc triển khai Quy tắc ứng xử đối với thành phần tư nhân, trong đó đề rõ các
chuẩn mực hành vi ứng xử nghề nghiệp là có lợi. Các hình phạt đối với việc tham
gia vào hành vi tham nhũng phải đủ để ngăn chặn các nhóm khách hàng không trả
tiền hối lộ hoặc phí tạo thuận lợi để được hưởng các ưu đãi thiên vị hơn.
3. Kinh
nghiệm thực thi liêm chính hải quan của WCO và Hải quan một số nước
a) Kinh nghiệm thực
thi liêm chính hải quan của WCO
Tiểu ban Liên chính hải
quan của WCO (ISC) thực thi nhiệm vụ theo định hướng chung của Hội đồng WCO và Ủy
ban Chính sách, với sự hỗ trợ hành chính của Ban Thư ký WCO. ISC có nhiệm vụ hướng
dẫn các hoạt động của WCO trong lĩnh vực liêm chính. Tham gia ISC có đại diện của
tất cả các khu vực Hải quan của WCO, của các tổ chức hay cơ quan từ thành phần
tư nhân và các tổ chức quốc tế có quan tâm đến vấn đề liêm chính. Việc cử người
tham gia và các cuộc họp của ISC phải là những nhà quản
lý cấp cao, chịu trách nhiệm trong việc xây dựng chính sách, phát triển chiến
lược trong cơ quan, tổ chức của mình.
Mục đích của ISC là
hoạt động như đầu mối chính trong việc thiết kế, triển khai, thực hiện và đánh
giá Kế hoạch hành động liêm chính của WCO và các công
cụ có liên quan đến liêm chính; tư vấn cho Hội đồng, thông qua Ủy ban chính
sách về những sự phù hợp của các Chiến lược của WCO với sự cần
thiết quan trọng của việc thúc đẩy liêm chính và đảm bảo thực hiện có hiệu quả
Tuyên bố
Arusha sửa đổi; Tạo các diễn đàn trao đổi các ý kiến, kinh nghiệm và thực tiễn
tốt nhất giữa các Hải quan thành viên; Đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả và thúc
đẩy các hoạt động thực thi liêm chính với các thành phần tư nhân và tổ chức quốc
tế khác; Đảm bảo gắn kết các nguyên tắc liêm chính vào trong tất cả các chương
trình trợ giúp kỹ thuật và đào tạo...
Do đặc thù của hoạt động
hải quan nên lĩnh vực này rất dễ bị ảnh hưởng
bởi các hình thức tham nhũng - từ hối lộ
vặt cho đến gian lận ở quy mô lớn. Kể từ sau Tuyên bố Arusha năm 1993 (được điều
chỉnh vào năm 2003), WCO đã xây dựng nhiều công cụ nhằm giúp Hải quan các nước
thành viên xác định hoặc giám sát các rủi ro về tham nhũng cũng như xây dựng
các chiến lược chống tham nhũng.
Ngoài ra, WCO cũng
triển khai nhiều hoạt động theo yêu cầu của Hải quan các nước thành viên. Chẳng
hạn như các hoạt động đánh giá mức độ liêm chính, giới thiệu và hướng dẫn các hệ
thống đo lường hiệu quả công việc, hỗ trợ rà soát quy tắc ứng xử, chiến lược
liêm chính, kế hoạch đào tạo hoặc xác định các nguy cơ rủi ro về tham nhũng. Hiện
nay, để chống tham nhũng một cách hiệu quả đòi hỏi các Cơ quan Hải quan phải tập
trung bằng hành động tổng thể dựa trên một cách tiếp cận vấn đề mới để xử lý
các vấn đề về liêm chính.
Kết quả phân tích của
các chuyên gia WCO đang hỗ trợ Hải quan của 26 nước thành viên WCO trong 05 năm
qua cho thấy, để nâng cao hiệu quả chống tham nhũng và nâng cao mức độ liêm
chính, Hải quan các nước cần tập trung vào các vấn đề sau:
(1) Tự
động hóa: Mặc dù hiện Hải quan các nước thành viên WCO đều đã xây dựng
các hệ thống thông quan tự động nhưng phần lớn đều chưa hoàn chỉnh. Một số công
việc vẫn được thực hiện dưới dạng thủ công, văn bản giấy vẫn được lưu hành do
công nghệ chưa cho phép thực hiện dưới dạng điện tử 100%. Điều này cản trở quá
trình tự động hóa và làm gia tăng sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ hải quan và
doanh nghiệp. Mặt khác, yếu tố tiêu cực còn thể hiện ở chỗ những khâu thông
quan không được ghi lại trên hệ thống thì thường
không thể xác thực hoặc đo lường trong trường hợp có các dự án đo lường hiệu quả
công việc. Thậm chí tại một số cơ quan hải quan còn diễn ra tình trạng hai hệ
thống thông quan tự động cùng song song tồn tại, gây khó khăn cho việc giám sát
hoặc không thể phân tích được hiệu quả. Điều này dẫn đến các vấn đề an ninh
cũng như liêm chính trong công tác hải quan.
(2) Đo
lường hiệu suất: Kết quả nghiên cứu của WCO
cho thấy, sau khi tiến hành các nhiệm vụ hỗ trợ đo lường hiệu suất, hành vi của
một số cán bộ thay đổi nhanh chóng, bất thường khi hệ thống phân cấp đưa ra các
biện pháp để ngăn chặn một số hành vi xấu được xác định. Tuy nhiên, để thực hiện
phương pháp tiếp cận này một cách thường xuyên cần phải xem xét và đánh giá
tình hình một cách liên tục để xác định các vấn
đề và theo dõi các chỉ số trên thực tế, coi đây như một biện pháp kiểm soát
hành vi của những cá nhân muốn lợi dụng phương pháp này để phục vụ cho các mục
đích xấu (tham khảo kinh nghiệm của Hải quan Cameroon). Ngoài ra, việc phân
tích dữ liệu có thể được sử dụng để kiểm tra các dịch vụ và đảm bảo kiểm toán nội
bộ, cho phép phân tích các hành vi và các thủ tục.
(3) Thủ
tục: Kết quả khảo sát của WCO tại biên giới đất liền hoặc đường
biển cho thấy, vì lý do xã hội, một số nhiệm vụ lỗi thời vẫn được các cơ quan hải
quan duy trì để không phải cắt giảm công việc (các quan chức thực hiện các nhiệm
vụ này không phải lúc nào cũng có khả năng thực hiện được những nhiệm vụ khác).
Do vậy, sự đa dạng của hoạt động kiểm soát biên giới có thể giúp tạo ra cơ hội
cho tham nhũng.
(4) Cơ
chế thổi còi: Hầu hết các cơ quan hải quan đều áp dụng
cơ chế cho phép các quan chức và khách hàng báo cáo hành vi tham nhũng. Tuy
nhiên, lo sợ bị trả thù và thiếu sự bảo vệ (pháp lý) đã khiến cơ chế thổi còi
không được thực thi triệt để ngay cả trong trường hợp người báo cáo hành vi
tham nhũng được bảo vệ dưới hình thức giấu tên.
(5) Lương:
Tăng lương không nhất thiết là sự đảm bảo tuân thủ về liêm chính, trừ khi chúng
được kèm theo các biện pháp cải cách khác. Tuy nhiên, việc cung cấp điều kiện
làm việc có thể chấp nhận được thúc đẩy hành vi đạo đức và không đặt nhân viên
trong tình huống cực kỳ bấp bênh là rất quan trọng.
(6) Tuyển
dụng: Hồ sơ nghề nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, tránh
bị can thiệp chính trị. Tuyển dụng phải dựa trên
các bài kiểm tra về liêm chính.
b) Kinh
nghiệm thực thi liêm chính hải quan của một số nước trên thế
giới
b1)
Kinh nghiệm của Pháp
Bộ Luật ngày
06/12/2013 của Chính phủ Pháp về chống lậu thuế và tội phạm kinh tế tài chính
có tác động lớn đến việc thực thi công vụ của công chức, qua đó nâng cao tính
liêm chính của công chức trong các cơ quan chính phủ, bao gồm cả Hải quan. Những
nét mới của bộ luật này là: (1) tạo cơ chế cho công chúng vạch trần những vi phạm
của quan chức; (2) tăng cường các biện pháp điều tra và khởi tố những vi phạm.
Cụ thể:
- Công chúng, công luận
được coi là một đối tượng tham gia chính giúp nâng cao chất lượng thực thi công
vụ của công chức. Sự tham gia được thể hiện
thông qua vai trò của các hiệp hội chống
tham nhũng với tư cách là người thổi
còi, phát hiện tham nhũng. Luật mới của Pháp cho phép các hiệp hội chống
tham nhũng đưa ra các yêu cầu bồi thường đối với các thiệt hại gây ra bởi các
hành vi vi phạm của công chức (ví dụ: hành vi nhận hối lộ, vòi vĩnh, lợi dụng
chức vụ quyền hạn, ưu tiên trái quy định, tham ô, biển thủ v.v.).
- Tăng cường các biện
pháp điều tra, khởi tố những hành vi vi phạm của công chức. Theo luật mới, mức
phạt dành cho công chức vi phạm được tăng lên đáng kể. Chẳng hạn, đối với hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, mức phạt tiền tăng từ 75,000 euro lên 500,000
euro và có thể tăng thêm gấp đôi tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm;
mức phạt đối với hành vi nhận hối lộ, biển thủ công quỹ, tài sản công tăng từ
150,000 euro lên 1 triệu euro và có thể tăng lên gấp đôi tùy theo mức độ vi phạm;
mức phạt đối với hành vi ưu tiên trái quy định cũng tăng từ 30,000 euro lên
200,000 euro và lên gấp đôi tùy theo tính chất vi phạm... Ngoài ra, mức phạt tù
đối với các hành vi này vẫn được giữ nguyên, từ 1-10 năm tù tùy theo mức độ vi
phạm.
b2) Kinh nghiệm của
Bolivia
Để nâng cao liêm
chính, Cơ quan Hải quan quốc gia Bolivia đã tăng cường hợp tác với khối tư nhân
trong việc ngăn chặn tham nhũng, đặc biệt là trong lĩnh vực chuỗi cung ứng
thương mại nước ngoài.
Năm 2006, Cơ quan Hải
quan quốc gia Bolivia đã thành lập Đơn vị chống tham nhũng với nhiệm vụ trọng
tâm là giám sát, báo cáo cho người đứng đầu Ngành Hải quan các vấn đề liên quan
đến tham nhũng phát sinh trong công tác hải quan. Đến
năm 2009, nội dung chống tham nhũng trong công tác hải quan đã được Hải quan
Bolivia xây dựng thành chính sách mang tên “Chính sách quốc gia về minh bạch và
chống tham nhũng” với mục tiêu chính là tạo các công cụ giúp ngăn chặn, điều
tra và xử lý các hành vi tham nhũng trong khi vẫn đảm bảo được tính minh bạch
và quyền truy cập thông tin hải quan. Chính sách này được xây dựng trên 04 trụ
cột chính là: (1) Tăng cường sự tham gia của người dân; (2) Tăng cường mức độ
minh bạch trong quản lý công vụ và quyền truy cập thông tin; (3) Các biện pháp
loại bỏ tham nhũng; (4) Các cơ chế xây dựng thể chế và phối hợp.
b3) Kinh nghiệm của
Australia
Cơ quan Hải quan và bảo
vệ biên giới Australia (ACBPS) đã phối hợp với Cao ủy về thực thi luật liêm
chính (ACLEI), cảnh sát liên bang Australia tiến hành nghiên cứu và xây dựng
báo cáo về hành vi tham nhũng của cán bộ hải quan Australia
tại sân bay Sydney giai đoạn giữa năm 2013. Trên cơ sở đó đúc kết thực tiễn,
kinh nghiệm để triển khai công tác đảm bảo liêm chính, ngăn chặn tham nhũng
trong công tác công vụ của lực lượng hải quan-bảo
vệ biên giới nước này.
Nghiên cứu và báo cáo
đã đi sâu một cách có hệ thống quá trình xảy ra vi phạm, thủ đoạn đánh lạc hướng
và vô hiệu hóa các hệ thống giám sát, công nghệ thông tin v.v. tại sân bay của
một số cán bộ hải quan biến chất có ý đồ tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
buôn bán và vận chuyển trái phép chất ma túy qua sân bay quốc tế Sydney. Trên
cơ sở của báo cáo nghiên cứu này, năm 2013 Nghị viện Australia đã thông qua luật
mới tăng cường liêm chính của lực lượng hải quan và bảo vệ biên giới nước này,
trong đó bao gồm các quy định về kiểm tra, xác minh mức độ liêm chính của cán bộ
hải quan bằng các biện pháp giám sát
và kỹ thuật. Để thực thi quy định mới, Hải quan Astralia đã thành lập Phòng Đảm
bảo an ninh và liêm chính, chịu trách nhiệm quản lý, thực thi các vấn đề về
liêm chính, kỷ luật, chống tham nhũng v.v. đối với tất cả cán bộ hải quan của
ACBPS.
b4) Kinh
nghiệm của Anh
Về cơ bản, luật pháp
của Anh quy định rất chặt chẽ, rõ ràng về vấn đề chống tham nhũng.
Để triển khai các quy định đã nêu trong luật, Hải quan Anh thực
hiện chiến lược 06 bước giúp chống tham nhũng gồm: (1) Phòng ngừa; (2) Ngăn chặn;
(3) Phát hiện; (4) Điều tra; (5) Xử lý; (6) Điều chỉnh. Tất cả các bước này có
liên hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau trong suốt quá trình thực hiện. Chiến lược
được thực hiện trên cơ sở được tuyên truyền sâu rộng tới từng bộ phận, công chức
trong ngành cũng như trên truyền thông nhằm
đảm bảo được tiếp thu ngay từ trong nhận thức của công chức. Ngoài ra, việc sử
dụng và kiểm tra thông tin, dữ liệu nhằm phát hiện
sai phạm trong quá trình thực thi công vụ cũng là một trong những nền tảng
chính của chiến lược, giúp xây dựng cơ chế điều chỉnh, bổ sung các quy định kém
hiệu quả hoặc lỗi thời, liệt kê danh sách những hành vi, cá nhân đáng ngờ để
chuyển tiếp sang giai đoạn điều tra.
b5) Kinh
nghiệm của Mỹ
Áp dụng chiến lược tổng
thể về ngăn chặn, phát hiện, điều chỉnh đối với hành vi tham nhũng, đồng thời
nâng cao mức độ liêm chính của cán bộ hải quan. Chiến lược này gồm 4 nội dung:
- Ngăn chặn: Hải quan
Mỹ sử dụng nhiều công cụ để ngăn chặn hành vi tham nhũng và đảm bảo liêm chính
đối với công chức, bao gồm kiểm tra, kiểm soát mức độ tuân thủ và thực thi luật
pháp; mức độ am hiểu luật, lý lịch tư pháp, điều tra tổng thể về lý lịch cá
nhân v.v. từ trước khi công chức được tuyển dụng. Thời hạn điều tra thường
trong vòng 10 năm trước khi ứng viên nộp hồ sơ ứng tuyển.
- Đào tạo: Cán bộ Hải
quan Mỹ phải trải qua các khóa đào tạo về liêm chính. Nội dung tập trung vào vấn
đề tuân thủ các quy định, luật pháp cũng như nâng cao ý thức thường xuyên tuân
thủ. Các khóa đào tạo này được tiến hành theo định kỳ, sau 1, 2, 3 hoặc 10 năm
làm việc của công chức.
- Phát hiện: Hải quan
Mỹ căn cứ vào các biện pháp nghiên cứu phân tích để
phát hiện các dấu hiệu vi phạm và tham nhũng của công chức và dấu hiệu. Quá
trình này được thực hiện nhờ vào quá trình phân tích dữ liệu thông tin, các kỹ
thuật phân tích hành vi cá nhân và dữ liệu có được từ quá trình điều tra tổng
thể.
- Tóm lại, dựa vào nền
tảng công nghệ, cơ sở hạ tầng hiện đại, việc quản lý thông tin cá nhân một cách
đồng bộ trên cơ sở hệ thống thông tin công nghệ hiện đại và quá trình cập nhật
thông tin liên tục là tiền đề, cơ
sở vững chắc để hải
quan Mỹ quản lý, giám sát công chức, qua đó nâng cao mức độ tuân thủ
luật pháp và đảm bảo tính minh bạch trong
hoạt động công vụ của công chức.
b6) Kinh
nghiệm của Brunei
Hải quan Brunei nhận
thức rất rõ tầm quan trọng của liêm chính trong công tác hải quan. Qua đó, Hải
quan Brunei xây dựng một tầm nhìn và chương trình hành động cụ thể để đảm bảo
liêm chính trong ngành. Cụ thể:
- Xây dựng văn hóa đạo
đức ngành trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc đạo đức cơ bản như đề cao sự minh bạch,
tính trung thực, sự mẫn cán. Thường xuyên phổ biến, mở các khóa đào tạo cho cán
bộ công chức về tính liêm chính, kêu gọi sự
tham gia của các khu vực tư nhân, doanh nghiệp trong việc phát hiện, tố cáo
hành vi tham nhũng.
- Phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan khác của chính phủ, đặc biệt là Cơ quan chống tham nhũng để tuân thủ
liêm chính. Trên cơ sở đó, Hải quan Hoàng gia Brunei đã ký Biên bản ghi nhớ về
hợp tác với Cục chống tham nhũng nhằm xây dựng chương trình phối hợp chống tham
nhũng và thúc đẩy văn hóa chống tham nhũng qua các kênh tuyên truyền, phổ biến,
khóa đào tạo, chia sẻ, trao đổi thông tin, nghiên cứu và các hoạt động thúc đẩy
về nhận thức.
b7) Kinh
nghiệm của Canada
Trong số các thành
viên của WCO, Canada được biết đến là một trong những thành viên có mức độ tuân
thủ liêm chính cao nhất. Kết quả này có được nhờ vào việc Hải quan Canada luôn
tuân thủ ở mức độ chuẩn mực cao về liêm chính thông qua một chiến lược tổng thể
với các tiêu chuẩn khắt khe. Cụ thể, tuân thủ liêm chính được coi là một tầm
nhìn và một tiến trình áp dụng chặt chẽ từ thời điểm tuyển dụng cho tới các quá
trình thực thi công vụ của công chức. Để
giám sát quá trình, Hải quan Canada
thực hiện các biện pháp mang tính cập nhật, liên tục như kiểm tra, rà soát nhân
thân, lý lịch, hồ sơ vi phạm, cập nhật dữ liệu thông tin cá nhân, chứng nhận tư
pháp, giám sát vân tay, đối chiếu, thực hiện bảng câu hỏi về liêm chính, kiểm
tra đạo đức, đối chiếu với hồ sơ của cảnh sát, kiểm tra bằng lái xe, đối chiếu
các cáo buộc phạm pháp, điều tra hiện trường vụ án...
- Hải quan Canada
cũng áp dụng thường xuyên, liên tục các sáng kiến nâng cao liêm chính, chống
tham nhũng như tiêu chuẩn hóa đối với tất cả các khâu công tác nhạy cảm, chuẩn
hóa kiểm tra an ninh cá nhân, phổ biến để nâng cao nhận thức về liêm chính,
nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu về công tác rà soát, giám sát đối với cấp
dưới, giám sát việc liên lạc của công chức, luân phiên giám sát viên, đột xuất
thay đổi vị trí công tác và phân công nhiệm vụ, tăng số lượng điều tra viên, quản
lý tự động về hồ sơ dữ liệu thông tin cá nhân, sửa đổi điều chỉnh luật kịp thời
theo hướng tăng thẩm quyền cho cơ quan điều tra, tố tụng hình sự.
Bảng
so sánh những điểm chính của Luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam và tuyên
bố Arusha
Luật
PCTN - Phòng ngừa TN
|
Tuyên
bố ARUSHA
|
Ghi
chú
|
1/ Công khai, minh
bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị;
2/ XD và thực hiện
chế độ, định mức, tiêu chuẩn;
3/ Qui tắc ứng xử,
qui tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi
vị trí công tác của CBCC, VC;
4/ Minh bạch tài sản,
thu nhập;
5/ Chế độ trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng;
6/ Cải cách hành
chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán./.
* Khoản 2, Điều 1 "Tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó
vì vụ lợi";
* Khoản 5, Điều 2: “vụ
lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người
có chức vụ, quyền hạn đạt được
hoặc có thể đạt được thông qua hành vi
tham nhũng”
|
1/ Thái độ và cam kết
của nhà lãnh đạo;
2/ Khuân
khổ qui chế;
3/ Tính minh bạch;
4/ Tự động hóa;
5/ Cải cách và hiện
đại hóa;
6/ Kiểm tra và điều
tra;
7/ Luật ứng xử;
8/ Quản lý nguồn
nhân lực;
9/ Ý thức: đạo đức,
tự hào về uy tín nghề nghiệp,..;
10/ Quan hệ với khu
vực tư nhân, tổ chức nghề nghiệp./.
"Liêm
chính là đạo đức của người có quyền
lực luôn thể hiện sự minh bạch, xử lý
đúng pháp luật những mối quan
hệ trong xã hội" - Từ điển
Tiếng Việt 2002.
|
|
Chương
II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LIÊM CHÍNH HẢI QUAN Ở VIỆT NAM
I.
LÃNH ĐẠO- CAM KẾT- CĂN CỨ PHÁP LÝ
1. Những kết quả hoạt
động đạt được thời gian qua
a) Quan
điểm của Chính phủ, Bộ Tài chính về liêm chính hải quan:
Quan điểm của Đảng,
nhà nước về công tác PCTN; Những văn bản chỉ đạo về phòng chống tham nhũng của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ:
Đảng và Nhà nước đã
tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng và lãng phí (viết tắt là
PCTN, LP) đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần phát triển kinh tế, xã
hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nhiều cán bộ, đảng
viên giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, đi đầu trong cuộc đấu tranh này.
Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có những vụ án lớn, phức tạp, gây hậu quả
nghiêm trọng đã được phát hiện xử lý.
Tuy nhiên, cuộc đấu
tranh PCTN, LP còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp, tham nhũng, lãng
phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm
vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng
tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế
độ ta.
Phòng chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Chính vì
thế Đảng đã có nhiều văn bản, Nhà nước ban hành, sửa đổi kịp thời Luật PCTN, LP
để nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Như Nghị quyết số 04-NQ/TW
khóa X ngày 21/8/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN,
LP; Nghị quyết số 12-NQ/TW khóa XI ngày 16/01/2012 về một số vấn đề cấp bách về
xây dựng đảng hiện nay; Kết luận số 21-KL/TW khóa XI ngày 25/5/2012 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, LP. Kết luận đã nhận thấy vai trò tầm
quan trọng của ban chỉ đạo PCTN TW nên đã kết luận: “Thành lập Ban chỉ đạo
Trung ương về phòng chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí
Tổng Bí thư làm Trưởng ban, lập lại
Ban Nội chính Trung ương,...”
Liêm chính được hiểu “là đạo đức của con người có quyền lực luôn thể hiện sự minh bạch, xử lý đúng
pháp luật những mối quan hệ trong xã hội” - Từ
điển Tiếng Việt năm 2002.
Theo Tổ chức Hải quan
Thế giới: Liêm chính là nền tảng quan trọng của một cơ quan hải quan hiện đại,
một chương trình quốc gia hiệu quả về liêm chính hải quan phải tính đến những yếu
tố dưới đây (10 yếu tố): Thái độ và cam kết của các nhà lãnh đạo; Khuôn khổ qui
chế; tính minh bạch; tự động hóa; cải cách và hiện đại hóa; kiểm tra và điều
tra; luật ứng xử; quản lý nguồn nhân lực; và quan hệ với khu vực tư nhân (Tuyên
bố ARUSHA 2003).
Hiểu theo nghĩa khác,
liêm chính là đạo đức công vụ của cán bộ công chức nhà nước.
Quan điểm của Hồ Chủ
Tịch: Liêm chính đi đôi với cần kiệm. Có kiệm mới liêm được, vì xa xỉ (không tiết
kiệm) mà tham lam: tham tiền, tham địa vị, danh vọng, sống bất liêm. Cần kiệm, liêm chính đi đôi, tương hỗ nhau.
Liêm là trong sạch,
không tham tiền của, địa vị, danh tiếng. Nghĩa rộng ra là: Trung thành với Tổ
quốc, Hiếu với nhân dân, với mọi người, với cha mẹ,...
Kiệm là tiết kiệm từ
cái to đến cái nhỏ, từ công quỹ đến vật dụng hàng
ngày. Không làm thất thoát tài sản nhà nước, tài sản tập thể. Tiết kiệm thời
gian, tài sản, công sức, tiền của,.. "Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư",
phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”; Cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức
truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc, đưa vào những yêu
cầu và nội dung mới. Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân thủ
để phụng sự quyền lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện làm gương
cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân” - Hồ Chí Minh toàn tập, trang 220;
Tháng 6 năm 1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Cần,
kiệm, liêm, chính và
sau đó, Người thường xuyên đề cập tới các phạm trù đạo đức này. Không chỉ giải
thích nghĩa của khái niệm này mà Người còn nêu mối quan hệ giữa bốn phẩm chất
đó “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần
có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng
cần phải CHÍNH mới là người hoàn toàn” - Hồ Chí Minh toàn tập, trang 129. So
sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Người cho rằng “thiếu một mùa,
thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức ,
thì không thành người”. Người viết: “những người
trong các công sở đều có nhiều
hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Dưới góc độ của chúng
ta hiện nay: liêm chính là vấn đề cốt tử của
một chính thể, một chính khách. Nạn tham nhũng có thể phá hủy tính thống nhất của
mọi tổ chức nhà nước, tổ chức hải quan và hạn chế đáng kể khả năng hoàn thành
nhiệm vụ của các tổ chức đó. Đối với Ngành Hải quan, liêm chính là đạo đức công
vụ của hải quan Việt Nam.
Cần, Kiệm, Liêm,
Chính vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc; là cái cần để
làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc
và nhân loại”.
Đảng, Nhà nước, Chính
phủ và Bộ Tài chính luôn quan tâm đến công tác hải quan nói chung, nhất là công
tác xây dựng đội ngũ CBCC hải quan ngày một trong sạch, liêm chính, minh bạch.
Với sự tin tưởng, Chính phủ đã giao Hải quan là đầu mối một cửa Quốc gia, khu vực
Asean về lĩnh vực hải quan; đặt Ban chỉ đạo Phòng chống buôn lậu, hàng giả và sở
hữu trí tuệ tại cơ quan Tổng cục Hải quan. Vào những dịp tổng kết công tác năm,
kỷ niệm lớn,... Tổng cục Hải quan đều
vinh dự được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ
đến thăm, chỉ đạo ngành.... Thông báo 289/TB-VPCP ngày 25/7/2014 của Văn phòng
Chính phủ Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực hải quan; Chỉ thị số 24/CT-TTg
ngày 05/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và cải cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan.
Với đặc thù của ngành,
địa bàn chủ yếu là cửa khẩu quốc gia, quốc tế, các cảng biển, sân bay; Ga đường
sắt liên vận Quốc tế, cán bộ hải quan luôn tiếp xúc với nhiều thành phần kinh tế,
tiếp xúc trực tiếp với tiền hàng và những mặt trái của cơ chế thị trường, không
ít đối tượng luôn tìm cách lợi dụng mua chuộc cán bộ, công chức hải quan để
gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, ... thực tế đó đặt ra yêu cầu rất cao
trong xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngành và thực hiện nhiệm
vụ phòng, chống tham nhũng.
b).
Những nội dung cam kết về chống tham nhũng trong hệ thống Hải
quan
b1.
Việc phổ biến, quán triệt và xây dựng chương
trình, kế hoạch thực hiện Luật PCTN, Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020, chương
trình hành động của Chính phủ về PCTN,
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng
Thời gian qua Tổng cục
Hải quan đã xác định PCTN, tiêu cực là một nhiệm vụ chính trị quan
trọng, gắn liền với công tác đảng và công tác chuyên môn, thực hiện quyết liệt
giữa “xây và chống”. Chú trọng cải cách và hiện đại hóa nhằm tạo thuận lợi cho
hoạt động XNC, XNK hàng hóa, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về hải quan, đồng thời là một trong các giải
pháp hạn chế tiếp xúc trực tiếp giữa công chức hải quan với người dân, doanh
nghiệp. Như thực hiện thông quan tự động (VNACCS/VCIS); đưa vào hoạt động phòng
giám sát hải quan trực tuyến; Đưa hoạt động
đường dây nóng từ 15/11/2016, số duy nhất 19009299; Từ cuối 2017, đã đẩy mạnh
triển khai Hệ thống quản lý tự động tại cảng biển,
cảng hàng không; Ứng dụng CNTT trong thực hiện thu thuế điện tử, đã kết nối với
37 ngân hàng thương mại thu thuế điện tử 24/7; đẩy mạnh cơ chế một cửa quốc
gia, một cửa ASEAN; Ban hành Qui chế hoạt động công vụ của hải quan quan Việt
Nam, số 188/QĐ-TCHQ ngày 02/02/2017; Qui chế kiểm tra công vụ và xử lý, kỷ luật
đối với công chức, viên chức và người lao động trong Ngành Hải quan, số
2799/QĐ-TCHQ ngày 26/9/2018.
Công tác cán bộ cũng
phải được quan tâm thường xuyên, trong đó công tác luân chuyển, chuyển đổi vị
trí công tác thực hiện ở tất cả các cấp, nhất là cấp Chi cục Hải quan. Ngoài ra
nếu phát hiện có dấu hiệu, hoặc phản
ảnh liên quan đến tiêu cực, nhũng nhiễu, đều được xác minh, xử lý kịp thời,
nghiêm khắc;
Công tác đấu tranh
phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới được thực hiện
quyết liệt nhằm phòng ngừa, phát hiện sai phạm của CBCC Hải quan;
Công tác kiểm tra nội
bộ, kiểm tra phòng chống tham nhũng để phòng ngừa, phát hiện, chấn chỉnh sai
sót cũng được duy trì thường xuyên; chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thực hiện
nghiêm chỉnh các kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm tra và kiểm toán cấp
trên nhằm khắc phục sơ hở, tồn tại, xử lý sai phạm;
Đi đôi với cải cách
hiện đại hóa qui trình, thủ tục, đề ra các quy định cụ thể, Tổng cục Hải quan
quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao
nhận thức, phát huy truyền thống của ngành góp phần đẩy lùi tiêu cực, phiền hà,
nâng cao trình độ nghiệp vụ cho CBCC.
- Tổng cục Hải quan
luôn coi trọng công tác PCTN, chống lãng phí, tiêu cực là trách nhiệm chính trị
và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cấp bách, lâu dài, xuyên suốt quá trình
phát triển và xây dựng cơ quan đơn vị, Lãnh đạo các cấp Ngành Hải quan luôn
quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác
PCTN.
- Tại cơ quan Tổng cục
đã thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Luật PCTN, Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí; Duy trì chế độ họp giao ban
thường xuyên định kỳ; tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra và tự kiểm tra;
trong lãnh đạo quán triệt làm đúng 04 biện pháp: không chỉ đạo, định hướng sai;
chủ động tiến hành kiểm tra, thanh tra; Lãnh đạo TCHQ không tiêu cực; xử lý kịp
thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm. BCĐ thực hiện Luật PCTN và Luật thực
hành tiết kiệm, CLP của TCHQ được thành lập và kiện toàn cụ thể như sau:
+ Tổng cục trưởng (Bí
thư Đảng ủy cơ quan TCHQ) trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo PCTN Ngành Hải quan.
+ Phân công 01 đồng
chí Phó Tổng cục trưởng làm Phó trưởng ban, đồng chí Vụ trưởng Vụ Thanh tra-
Kiểm tra làm ủy viên Thường trực và các đồng chí lãnh đạo Vụ, Cục liên quan trực
tiếp đến công tác PCTN làm ủy viên.
+ Hoạt động của Ban
chỉ đạo theo quy chế làm việc, chương trình hành động cụ thể; định kỳ họp hàng
Quý (1 lần/Quý) để đánh giá tình hình, kết quả
thực hiện, đề ra phương hướng, chương trình công tác Quý tới.
+ Thành lập Bộ phận
thường trực giúp việc cho Ban chỉ đạo do Thanh tra Tổng cục là đơn vị phụ trách
và các thành viên là các đơn vị Vụ, Cục có hoạt động nghiệp vụ liên quan.
+ Hàng năm, Ban chỉ đạo
đều xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra công tác PCTN và thực hành tiết kiệm,
CLP đối với Cục Hải quan tỉnh, thành phố; chỉ đạo thực hiện giám sát, kiểm tra
đột xuất khi có thông tin phản ánh liên quan đến tiêu cực, vì vậy đã kịp thời
ngăn chặn, phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
+ Tại 34 Cục Hải quan
tỉnh, thành phố đã kiện toàn lại Ban thực hiện 2 Luật, các thành viên trong Ban
là Lãnh đạo Cục, Trưởng phòng, Chi cục trưởng các đơn vị thuộc và trực thuộc Cục,
do Cục trưởng làm trưởng Ban.
Từ khi được thành lập,
Ban Chỉ đạo PCTN đã phát huy được một số hiệu quả, có đóng góp tích cực đối với
công tác PCTN. Tuy nhiên, hoạt động của Ban Chỉ đạo thường phải lồng ghép trong
các cuộc họp giao ban, ít có điều kiện được tiến hành độc lập. Công tác PCTN có
nhiều trùng lắp trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và vai trò của bộ phận tham
mưu giúp việc Ban chỉ đạo, đơn vị đầu mối tham mưu giúp việc dẫn đến nhiều nội
dung hoạt động bị triển khai thành nhiều lần ở cùng một cấp làm tăng khối lượng
công việc, chương trình công tác của lãnh đạo cũng như toàn bộ hệ thống các cơ
quan, đơn vị ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác. Vì vậy, ngày 06/7/2018, Ban
Cán sự đảng Bộ Tài chính đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-BCSĐ về đơn vị đầu mối
tham mưu, giúp việc Ban Cán sự Đảng Bộ Tài chính về công tác phòng, chống tham
nhũng và kết thúc hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Bộ Tài
chính, các Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tại các đơn vị trực thuộc Bộ Tài
chính.
Ngày 06/7/2018, Bộ
Tài chính có Quyết định số 1100/QĐ-BTC kết thúc hoạt động của Ban Chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng.
Theo đó, ngày
03/8/2018, Tổng cục trưởng TCHQ có Quyết định số 2202/QĐ-TCHQ kết thúc hoạt động
của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng.
Những năm qua, Hải
quan Việt Nam đã tích cực chủ động trong công tác hợp tác quốc tế về phòng chống
tham nhũng, đặc biệt là thực hiện các cam kết trong khuôn khổ các thể chế đa
phương mà Việt Nam tham gia như WCO, ASEAN.
Trong khuôn khổ WCO,
Hải quan Việt Nam đã cam kết tự nguyện triển khai thực hiện các nội dung tuyên
bố của Hội đồng Hợp tác Hải quan về quản trị tốt và liêm chính hải quan (tuyên
bố Arusa). Về cơ bản, Hải quan Việt Nam đã thực hiện tốt các nội dung của tuyên
bố nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng và đảm bảo liêm chính, cụ thể gồm (i)
hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật hải quan đơn giản hài hòa với các chuẩn
mực quốc tế, các quy trình thủ tục hải quan được chuẩn hóa và rõ ràng phù hợp với
công ước Kyoto sửa đổi mà Việt Nam là thành viên; (ii) Minh bạch hóa các quy trình
thủ tục theo hướng bền vững và có tính dự đoán và thống nhất gắn với việc ban
hành tuyên ngôn phục vụ khách hàng; (iii) thực hiện hiện đại hóa hải quan với
trọng tâm là áp dụng thông quan tự động và xử lý tập trung, giảm thiểu việc tiếp
xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp với công chức hải quan; (iv) tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra nội bộ; (v) ban hành quy chế ứng xử đối
với cán bộ công chức; (vi) thúc đẩy đối
thoại giữa hải quan và doanh nghiệp,...
Theo đánh giá của
WCO, những biện pháp mà Hải quan Việt Nam thực hiện trong việc thúc đẩy liêm
chính đã và đang theo đúng các hướng dẫn và nguyên tắc của WCO và được đánh giá
cao.
Trong khuôn khổ
ASEAN, Hải quan Việt nam tích cực tham gia triển khai các hoạt động phòng chống
tham nhũng gắn với các kế hoạch hành động nâng cao tính chuyên nghiệp của đội
ngũ cán bộ công chức và thúc đẩy liêm chính. Hải quan Việt Nam cũng đã chủ động
xây dựng các kế hoạch hợp tác cho ASEAN cũng như ASEAN với các đối tác về xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực liêm chính và chuyên nghiệp đáp ứng với yêu cầu của
cộng đồng kinh tế ASEAN và hướng đến xây dựng bộ quy tắc ứng xử chuẩn cho
ASEAN.
Về hợp tác song
phương, Hải quan Việt Nam cũng đã tham mưu cho Chính phủ và Bộ Tài chính ký kết
các thỏa thuận quốc tế và điều ước quốc tế về hải quan về hợp tác và trợ giúp lẫn
nhau trong lĩnh vực hải quan trong đó có nội dung về hỗ trợ về thúc đẩy
liêm chính và phát triển nguồn nhân lực. Hải quan nhiều nước cũng đã tạo điều
kiện cho Hải quan Việt Nam nghiên cứu, khảo sát và học tập các mô hình
hải quan hiện đại, kinh nghiệm xử lý hải quan, các xử lý liên
quan đến vi phạm, phòng chống tham nhũng tiêu cực và thúc đẩy liêm chính. Bên cạnh
đó, việc thiết lập các kênh thông tin trao đổi giữa Hải quan Việt Nam với hải
quan các nước cũng gián tiếp góp phần hạn chế những tiêu cực trong xử lý thông
quan hàng hóa xuất nhập khẩu.
b2. Tổng cục Hải quan
đã kịp thời ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo và tổ chức thực hiện Luật phòng, chống
tham nhũng; chương trình hành động của Chính phủ về PCTN, Công ước Liên hợp quốc
về chống tham nhũng và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Đảng ủy cơ quan Tổng
cục Hải quan cũng đã ban hành nhiều Nghị quyết, Kế hoạch, chương trình hành động
về tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tổng cục Hải quan đã
ban hành các văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và đôn đốc
các đơn vị trong toàn ngành thực hiện kiến nghị của UBKT
Trung ương; Các văn bản hướng dẫn thực hiện về minh bạch tài sản, thu nhập hàng
năm theo quy định tại Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ; Thông tư số 01/2010/TT-TTCP
ngày 22/01/2010; Nghị định số 78/2013/NĐ-CP
của Chính phủ và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ; các văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Tài chính và nhiều văn bản khác.
Thực hiện công văn số
275/CV-BCSĐ ngày 23/11/2018 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tài chính về việc quán triệt
và thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Ban chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng về đẩy mạnh tiến độ công tác giám định, định
giá tài sản, cung cấp tài liệu phục vụ yêu cầu điều tra các vụ án tham nhũng,
kinh tế. Tổng cục Hải quan đã ban hành văn bản số 483/TCHQ-TTr ngày 14/12/2018
về việc quán triệt, thực hiện chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng Bộ Tài chính.
Các văn bản chỉ đạo
và tổ chức thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng; chương trình hành động của
Chính phủ về PCTN, Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và các văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn của Bộ Tài chính theo phụ lục I đính kèm.
b3. Những nội dung
triển khai của Hải quan về liêm chính:
Tổng cục Hải quan luôn
chú trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa hải quan, tăng cường
trang thiết bị, CNTT phục vụ nghiệp vụ và xây dựng hải quan Việt Nam chuyên
nghiệp, minh bạch, liêm chính. Ban hành các văn bản cho mục đích trên.
- Triển khai VNACCS/VCISC;
bên cạnh đã ban hành hàng loạt văn bản về kỷ cương, kỷ luật hành chính, về
CCTHHC...:
- Hàng năm đều ban
hành Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính.
- Tổ chức quán triệt
và triển khai thực hiện công văn số 475-CV/BCSĐ ngày 29/7/2015 của Ban Cán sự Đảng
Bộ Tài chính về tăng cường công tác phòng chống tham nhũng và thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo công tác phòng chống tham nhũng theo quy định.
- Tổ chức quán triệt
và triển khai thực hiện Chỉ thị số 01-CT/ĐU ngày 17/9/2015 của Ban Thường vụ Đảng
ủy Bộ Tài chính về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tham nhũng tại Bộ Tài chính”, trên cơ sở đó Đảng ủy đã xây dựng ban hành Kế
hoạch số 1134-KH/ĐU ngày 12/11/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng chống tham nhũng trong Đảng bộ cơ quan Tổng cục Hải quan, trong
đó có 100% cán bộ, đảng viên cam kết nói không với các hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng, vi phạm kỷ luật.
- Tổ chức học tập,
quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW và Chỉ thị số 05-CT/TW của
Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, hàng năm xây dựng các chuyên đề học tập theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo
Trung ương. Đảng ủy đã tổ chức Hội thảo “Từ lời dạy của Bác đến chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp trong Ngành Hải quan”; Tổ chức cuộc thi thuyết trình “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công vụ trong Ngành Hải quan”, có hơn 30 thí sinh tham gia
cuộc thi đã mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục cho mỗi cán bộ đảng
viên.
Thực hiện quy tắc ứng
xử, đạo đức nghề nghiệp và việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong thực thi công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Trong những năm qua,
Tổng cục Hải quan đã ban hành các văn bản về quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức
nghề nghiệp, đạo đức công vụ của công chức hải quan:
- Thực hiện Chỉ thị số
24/CT-TTg ngày 05/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan đã ban hành Quyết định số 2544/QĐ-TCHQ , ngày 27/8/2014 về việc ban hành Kế
hoạch triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và cải
cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan đồng thời ban hành công văn số
11433/TCHQ-TTr ngày 19/9/2014 về việc thực hiện Quyết định số 2544/QĐ-TCHQ nêu
trên với nguyên tắc 3 không: 'KHÔNG MUỐN- KHÔNG
THỂ- KHÔNG DÁM'.
+ Chuẩn hóa các quy định,
thông lệ quốc tế bằng việc ban hành Quyết định số 225/QĐ-TCHQ ngày 09/2/2011 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc Ban hành Tuyên ngôn phục vụ khách
hàng (được sửa đổi theo Quyết định số 952/QĐ-TCHQ
ngày 03/4/2015), công văn 3625/TCHQ-TCCB ngày 22/4/2015 của Tổng cục Hải quan về
triển khai thực hiện tuyên ngôn phục vụ khách hàng; Chỉ thị số 815/CT-TCHQ ngày
25/2/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc triển khai thực hiện
Tuyên ngôn phục vụ khách hàng; Quyết định số 557/QĐ-TCHQ ngày 18/02/2013 của Tổng
cục Hải quan ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động Ngành Hải quan. Qua đó nâng cao kỷ cương, kỷ luật hành chính trong
Ngành Hải quan, tạo chuyển biến đáng kể, góp phần ngăn ngừa những sai phạm và
nâng cao hiệu quả công việc.
Việc xác định trọng
tâm, trọng điểm kiểm tra, giám sát để PCTN, uốn nắn những thiếu sót, khuyết điểm
và chỉ đạo xử lý những hành vi
tham nhũng:
Thực hiện Nghị quyết
số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ về việc ban hành Chiến lược quốc gia
PCTN đến năm 2020 và thực thi công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng, Quyết
định số 1923/QĐ-BTC ngày 11/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành
Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 trong các đơn vị thuộc
Bộ Tài chính. Tổng cục Hải quan đã ban hành Kế hoạch số 2872/QĐ-TCHQ ngày
31/12/2009 về thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020. Ngày 06/01/2014,
Bộ Tài chính ban hành Quyết định số
45/QĐ-BTC về Quy chế phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức thuộc Bộ
Tài chính. Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ và
Quyết định của Bộ Tài chính nêu trên, trong những năm gần
đây, Tổng cục trưởng đã ban hành các kế hoạch
kiểm tra công tác PCTN, để triển khai thực hiện.
Qua việc kiểm tra
công tác PCTN, thấy rằng có tác dụng tích cực, vừa tuyên truyền, phổ biến, hướng
dẫn cho Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện đúng các quy định của pháp
luật về PCTN, như công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt; công khai, minh
bạch trong cơ quan, đơn vị; việc thực hiện kê khai minh bạch tài sản thu nhập;
công tác điều động, chuyển đổi vị trí công tác; công tác quản lý, sử dụng tài sản,
trang thiết bị gắn với quy trình nghiệp vụ hải quan... đã được Cục Hải quan tỉnh,
thành phố tiếp thu, chấn chỉnh và tổ chức thực hiện tốt hơn công tác PCTN sau
khi được kiểm tra.
b4. Đào tạo về liêm
chính:
Nhiệm vụ đào tạo để
nâng cao ý thức kỷ luật, kỷ cương, ứng xử, đạo đức công vụ, liêm chính hải quan
cho công chức hải quan luôn được Tổng cục Hải quan, trường Hải quan Việt nam
quan tâm thường xuyên. Đa số các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của trường đều
giành thời lượng thích hợp, hoặc lồng ghép chuyên đề nâng cao nhận thức, quán triệt
tư tưởng, rèn luyện tác phong của người công chức hải quan.
Qua đó góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của CBCC Hải quan.
Việc đào tạo, bồi dưỡng
công chức, viên chức hải quan do Trường Hải quan Việt Nam thực hiện trên cơ sở
Kế hoạch do TCHQ phê duyệt hoặc Kế hoạch được Bộ Tài chính phê duyệt; Ngoài ra
TCHQ mời Học viên Ngoại giao bồi dưỡng kiến thức về kỹ năng giao tiếp, văn hóa
giao tiếp quốc tế cho CBCC;
Tổng cục Hải quan
trình Bộ Tài chính hoặc ban hành theo thẩm quyền các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng thông qua Kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn; Việc phê duyệt chương
trình đào tạo, nội dung được hội đồng
thông qua thể hiện
bằng quyết định phê duyệt:
Quyết định số 1058/QĐ-TCHQ
ngày 29/3/2017 về phê duyệt chương trình đào tạo công chức mới tuyển dụng- trong
đó có thời lượng đào tạo về kỷ cương, đạo đức công vụ.
Quyết định 1580, 1581
BTC ngày 03/7/2013 BTC về chương trình đào tạo Kiểm tra viên Hải quan;
Kết quả đào tạo và chương
trình đào tạo về đạo đức công vụ, liêm chính hải quan tại từ 2006 đến nay là
5.303 CBCC.
Năm 2011-2015: Trường
Hải quan đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức Hải quan triển khai thực hiện
trên cơ sở chương trình, kế hoạch do Vụ TCCB đề xuất, xây dựng trình Lãnh đạo Tổng
cục Hải quan phê duyệt, trong đó có nội dung bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, tác
phong thực hiện nhiệm vụ của cán
bộ công chức, viên chức Hải quan, thời lượng 10 tiết; Công tác phòng chống tham
nhũng: thời lượng 10 tiết (Quyết định 3135/QĐ-TCHQ
ngày 30/11/2011);
Chương trình bồi dưỡng
ngạch Kiểm tra viên Hải quan có nội dung đạo đức công vụ: thời lượng 12 tiết-
quyết định số 1580/QĐ-TCHQ ngày 03/7/2013.
Số lượng công chức,
viên chức được bồi dưỡng theo chương trình hàng năm (2011-2015) như
sau:
Đào
tạo, lợi hình đào tạo, bồi dưỡng
trong nước
|
Năm
2011
|
Năm
2012
|
Năm
2013
|
Năm
2014
|
Năm
2015
|
Công
chức viên chức mới tuyển dụng
|
401
|
624
|
664
|
274
|
167
|
Ngạch
KTV HQ
|
|
|
405
|
306
|
186
|
Tổng
số
|
401
|
624
|
1069
|
580
|
353
|
Tổng
cục Hải quan gửi đi
bồi dưỡng ngoài ngành (2011-2015):
- Học viện Ngoại giao
bồi dưỡng kiến thức về kỹ năng giao tiếp, văn hóa giao
tiếp quốc tế, Thời lượng 3 ngày, số lượng 211 CCVC.
- Trường bồi dưỡng
cán bộ Tài chính, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành Thanh tra, thời lượng 10
ngày, số lượng 94 CCVC.
- Học viện tư pháp, bồi
dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử lý vi phạm hành chính nhằm phòng ngừa khiếu kiện và
giải quyết khiếu nại, thời lượng 05 ngày, số lượng 450 học viên.
2. Một
số hạn chế về
lãnh đạo và cam kết:
a). Về nguồn lực: con người, tài chính, trang thiết bị:
Các hoạt động quản lý
nguồn nhân lực được thực hiện chủ yếu dựa trên quản lý chức danh, ngạch bậc;
chưa đề cập đến từng vị trí việc làm, chưa xác định rõ năng lực chuyên môn (các
kiến thức và kỹ năng) cần có của mỗi vị trí. Chưa có một hệ thống danh mục sản
phẩm và bảng định mức sản phẩm của từng vị trí việc làm trong ngành. Chưa có hệ
thống theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện công việc theo sản phẩm do đó căn cứ
đánh giá đang còn chung chung, chưa có tiêu chí cụ thể. Việc quản lý thông tin
nhân sự và phần lớn các khâu công tác quản lý nguồn nhân lực của cơ quan hải
quan hiện đang thực hiện theo phương thức truyền thống, chưa xây dựng được hệ
thống thông tin quản lý nhân sự theo năng lực, áp dụng phương thức điện tử một
cách hiệu quả.
- Chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức vẫn chưa thực sự đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu của cán bộ,
công chức dẫn đến nhiều công chức vẫn chưa thực sự tâm huyết trong công việc.
b). Về chiến lược: quản lý, HĐHHQ, công tác cán bộ, công tác phòng ngừa, xử
lý vi phạm, đào tạo bồi dưỡng về liêm chính.
Nội dung đào tạo, bồi
dưỡng về kỷ cương, kỷ luật, đạo đức công vụ, liêm chính hải quan chủ yếu mang
tính lý thuyết; Hệ thống văn bản qui phạm về nội dung này còn rườm rà, trùng lắp,
hoặc không rõ ràng; thiếu thông tin về kết quả thực hiện các quy định về kỷ
cương, kỷ luật, liêm chính hàng năm.
3. Nguyên nhân của hạn
chế
a) Vai trò lãnh đạo:
Liêm chính là thuật
ngữ thường được nhắc đến khi vạch kế hoạch xây dựng lực lượng, tăng cường kỷ
cương, kỷ luật hành chính. Tuy nhiên để làm rõ nội hàm của liêm chính nói chung
và liêm chính hải quan nói riêng thì chưa có khái
niệm cụ thể, tổng quát. Từ đó việc vạch ra kế hoạch, chiến lược chưa được đề cập
cụ thể, chưa rõ ràng phải làm những gì, làm như thế nào. Do vậy sự thống nhất trong
nhận thức, hành động chưa có căn cứ cụ thể nào.
Lãnh đạo Đảng, nhà nước
hoặc ngành luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hướng tới phục vụ cộng
đồng. Mỗi ngành có đặc điểm riêng, tính chất công việc khác nhau, đồng nghĩa phải
có kế hoạch, giải pháp khác nhau.
Tổng cục Hải quan đã
đưa ra nhiều quy định, qui trình, qui chế bắt buộc
cho từng vị trí khác nhau nhằm đạt mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ đi đôi với xây
dựng hình ảnh người CBCC Hải quan trong sạch, minh bạch, trung thực.
Tuy nhiên việc quán
triệt, nhận thức chưa đồng đều, thậm chí còn một bộ phận công chức
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm kỷ cương, kỷ luật, tiêu cực, tham nhũng.
Công tác chỉ đạo, kiểm
tra chưa thường xuyên, có lúc còn xem nhẹ.
b) Nguồn lực - con
người, tài chính:
Công chức được
tuyển dụng từ nhiều nguồn, việc đào tạo nghề, rèn luyện kỹ năng nghề và rèn đức
chưa hiệu quả, chưa đồng bộ nên hành động của một số cán
bộ công chức chưa tốt.
c) Chiến lược liêm chính
- trung hạn, dài hạn:
Xây dựng đề án, kế hoạch
bài bản, dễ hiểu, dễ thực hiện và có chế tài xử lý nghiêm minh, chặt chẽ, kịp
thời.
II.
TÍNH MINH BẠCH
Tính minh bạch là vấn
đề chủ yếu đối với tất cả các cá nhân, đơn vị trong toàn Ngành Hải quan phải thực
hiện. Việc nâng cao khả năng giải trình và duy trì
mối quan hệ cởi mở, trung thực với doanh nghiệp và đối tác là điều cực kỳ quan
trọng để có được sự tin tưởng và tín nhiệm của công chúng, cộng đồng doanh nghiệp
đối với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam.
1. Kết quả đạt được:
- Các khách hàng, đối
tác quan hệ với Hải quan có thể có được các thông tin liên quan giúp họ thực hiện
đúng trách nhiệm của mình khi giao dịch với
cơ quan Hải quan thông qua các kênh thông tin tuyên truyền của Ngành Hải quan.
Các thông tin này về cơ bản dễ tiếp cận, chính xác, nhất quán và cũng được theo
dõi, cập nhật đầy đủ trên trang Website, báo hải quan...
- Ở cơ quan Tổng cục
và Cục Hải quan các tỉnh, thành phố đã duy
trì chế độ trực ban hàng ngày; thiết lập đường dây nóng trung tâm (tổng đài) tại
Tổng cục và các đường dây nóng nhánh tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, Chi
cục Hải quan đảm bảo hoạt động thông suốt, liên tục 24/24 giờ trong ngày và 7
ngày trong tuần để tiếp nhận tin báo, xử lý thông tin qua đường dây nóng theo
Quyết định số 3899/QĐ-TCHQ ngày 10/11/2016 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan; nhất là các Cục Hải quan tỉnh, thành phố có lưu lượng hàng hóa XNK lớn đã
có bố trí các bàn tư vấn để hỗ trợ khách hàng. Tại các Chi cục Hải quan đều
thành lập Tổ tư vấn, hướng dẫn và giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp; tiếp
nhận, khai thác thông tin phản ánh từ người dân và doanh nghiệp; ở cơ quan Tổng
cục, Cục Hải quan các địa phương có trang thông tin điện tử Website hải quan để
thông tin những văn bản, chế độ chính sách mới, cũng như tiếp nhận và trả lời
các ý kiến của các đối tượng liên quan hỏi về những vấn đề liên quan chế độ
chính sách xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, ưu đãi hải quan hay những vướng mắc
khác của doanh nghiệp.
- Tổng cục Hải quan
cũng như Cục Hải quan các địa phương đã duy trì cơ
chế gặp mặt, quan hệ phối hợp với đại diện
các cơ quan báo chí, theo định kỳ hàng quý, 6 tháng, năm hoặc mỗi khi có vấn đề
mới hay vấn đề “nóng” phát sinh cần có thông tin kịp thời, chính xác từ những
người có trách nhiệm trong ngành để giúp cho các cơ quan báo chí thông tin tới
mọi người một cách đúng đắn và nhất quán. Đại diện của Tổng cục Hải quan cũng
tham dự các cuộc họp giao ban an ninh tư tưởng, giao ban các cơ quan báo chí để
quán triệt các ý kiến chỉ đạo và tổ chức triển khai đảm bảo đúng định hướng, trọng
tâm tuyên truyền đề ra.
- Tổng cục Hải quan,
các Vụ, Cục nghiệp vụ thuộc cơ quan Tổng cục, các Cục Hải quan địa phương luôn
xác định và cố gắng đảm bảo các ý kiến chỉ đạo
được triển khai một cách thống nhất, nhất quán giữa các đơn vị trong ngành, việc
giải quyết các vấn đề mang tính tổng thể, toàn diện, tránh sa đà vào giải quyết
vụ việc riêng lẻ.
- Cơ sở và tiêu chí
mà dựa vào đó công chức hải quan có quyền thực thi nhiệm vụ theo ý mình đã được
xác định trong văn bản pháp quy và công khai để mọi người biết và thực hiện. Chẳng
hạn như quy định về việc phân luồng hàng hóa, về kiểm tra và xác định xuất xứ,
trị giá hải quan... Cơ sở để công chức ra quyết định được lưu lại trong hồ sơ
và lưu trữ để xem xét sau này khi cần thiết.
2. Hạn
chế:
- Chưa có cơ chế để
thông báo cho khách hàng biết trực tiếp về các chương trình, quyết định mới hay
những thay đổi về các yêu cầu của pháp luật và quy trình thủ tục có thể có tác
động tới các khách hàng, mà chủ yếu họ
có được thông tin, văn bản thông qua phương
tiện truyền thông, bộ chủ quản, hiệp hội ngành hàng, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố... Cơ quan Hải quan chỉ thực hiện niêm yết văn bản thông báo tại nơi
giải quyết thủ tục hải quan để khách hàng
nghiên cứu, mà chưa thông báo trực tiếp đến từng khách hàng.
- Ngành Hải quan chưa
thực sự chú ý đến việc thông báo cho các khách hàng có liên quan biết những quyền
hạn của họ khi giao dịch với hải quan, vì cho rằng những nội dung đó đã được đề
cập trong các văn bản pháp quy và doanh nghiệp khi tìm hiểu văn bản đã nắm được.
- Đã áp dụng một số
biện pháp để minh bạch hóa thông tin và những vấn đề cần thiết cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay Ngành Hải quan cũng chưa thiết lập một Ủy ban tư vấn cho
doanh nghiệp nhằm giúp cho việc trao đổi, chia sẻ, cập nhật thông tin nhanh
chóng, kịp thời, cũng như cho ý kiến về những vấn đề phức tạp trong quá trình
giải quyết thủ tục hải quan, tiến trình giải quyết để các bên liên quan nắm được.
- Trang Website của
Ngành Hải quan hoạt động đang ngày càng hoàn thiện và
phát huy nhiều tác dụng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa sử dụng phương tiện điện
tử qua mạng để phổ biến thông tin tới khách hàng, chưa có cơ chế để khách hàng
tiếp nhận thông tin theo định kỳ hoặc mỗi khi có thông tin mới trên cơ sở đăng
ký nhu cầu và địa chỉ email của khách hàng. Ngoài ra, khách hàng cũng chưa được
tư vấn để quyết định những thông tin và phương thức tiếp nhận thông tin cần thiết
cho họ.
- Trong thực tiễn, có
một số trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ theo đúng quy định của Nhà nước,
của Ngành Hải quan. Có thể có nhiều lý do dẫn đến việc không tuân thủ. Tuy
nhiên, cho đến nay cũng chưa có một nghiên cứu, phân tích nào được tiến hành để
xác định xem trong số đó có bao nhiêu trường hợp không tuân thủ do không có được
thông tin, hoặc không có đầy đủ thông tin cập nhật từ phía cơ quan hải quan.
- Ngành Hải quan có
nhiều cố gắng đảm bảo tính thống nhất, nhất quán trong chỉ đạo nghiệp vụ. Tuy
nhiên, trong thực tiễn có lúc, có nơi tình trạng các quyết định, thủ tục, thông
tin phản hồi của hải quan vẫn còn khác nhau giữa các Cục Hải quan, ví dụ như vấn
đề áp mã số, áp thuế suất, giá tính thuế đối với cùng một mặt hàng xuất khẩu,
nhập khẩu. Cần có hệ thống theo dõi, giám sát đảm bảo sự
nhất quán giữa các đơn vị hải quan.
- Cơ sở để công chức
Hải quan ra quyết định được lưu giữ tại cơ quan hải quan và chỉ những người có
liên quan của hải quan biết. Còn những đối tượng chịu ảnh hưởng của các quyết định
đó không phải lúc nào cũng được biết về lý do ra các quyết định đó, trừ những
trường hợp
doanh nghiệp có ý kiến, yêu cầu làm rõ khi họ thấy quyết định của hải quan
không phù hợp, hoặc có khiếu nại với quyết định của hải quan.
- Từ đầu năm 2011
Ngành Hải quan đã xây dựng và ban hành Tuyên ngôn phục vụ khách hàng, được sửa
đổi một số nội dung tháng 4/2015, Tuyên ngôn
phục vụ khách hàng thể hiện sự cam kết của Ngành Hải quan trước
cộng đồng xã hội về việc đảm bảo tạo thuận lợi,
đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về Hải quan đối với các hoạt động thương mại,
đầu tư và du lịch quốc tế. Do vậy những chuẩn mực phục vụ của cơ quan hải quan
được đề ra và công bố cho mọi người biết để làm cơ sở đối chiếu, đánh giá chất
lượng, kết quả hoạt động của hải quan, tuy nhiên vẫn còn chưa đáp ứng kỳ vọng của
Chính phủ, của doanh nghiệp và các đối tác có liên quan vì những phiền hà, thiếu
nghiêm túc của một số ít công chức hải quan thực thi nhiệm vụ trực tiếp tiếp
xúc với khách hàng.
3. Nguyên nhân của
các hạn chế:
- Khối lượng công việc
ngày càng tăng trong khi nhân lực có hạn, tăng rất ít hoặc không tăng nên chưa bố
trí được bộ phận cung cấp thông tin văn bản
định kỳ kịp thời cho doanh nghiệp.
- Năng lực của một số
cán bộ, công chức hải quan không đáp ứng yêu cầu dẫn đến các kết quả phân loại,
áp mã, áp thuế suất không nhất quán, tạo nên sự thiếu thống nhất trong ngành.
- Ngành Hải quan vẫn
chưa thấy rõ sự cần thiết cũng như chưa quan tâm thực sự đến việc phải ban hành
Tiêu chuẩn dịch vụ khách hàng mà cho rằng đã được quy định trong các văn bản
pháp quy.
III.
CÔNG TÁC THANH TRA- KIỂM TRA
1. Căn
cứ pháp lý:
Luật Thanh tra số
56/2010/QH12 ngày 15/11/2010, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thanh tra, Nghị định số
82/NĐ-CP ngày 09/10/2012 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành
Tài chính, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 của Chính phủ quy định về
cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh
tra chuyên ngành; Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định
việc thực hiện kết luận thanh tra, Thông tư số
05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt
động, quan hệ công tác của Đoàn Thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc
thanh tra; Thông tư số 08/2014/TT-TTCP ngày 24/11/2014 quy định về thẩm quyền,
nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về thanh tra; Thông tư số
01/TT-TTCP ngày 12 tháng 03 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ: Quy định về hoạt
động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra;
2. Đánh
giá chung về hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra góp phần trong thực hiện
liêm chính.
- Lãnh đạo Ngành Hải
quan đã quan tâm, chỉ đạo sâu sát công tác thanh tra, tập trung triển khai thực
hiện mạnh mẽ, đồng bộ Luật Thanh tra năm 2010
và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành thông qua nhiều hình thức:
tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn; ban hành các văn bản để chỉ đạo thống nhất
trong toàn Ngành; tổ chức đào tạo, phối hợp đào tạo cấp chứng chỉ; sắp xếp, củng
cố tổ chức... Với việc triển khai đồng bộ, tích cực
các giải pháp trên, công tác
thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những hạn chế,
thiếu sót của CBCC và các đơn vị trong Ngành; phát hiện sai phạm của doanh nghiệp
qua đó góp phần tăng thu, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về hải quan.
- Lãnh đạo các đơn vị
thuộc và trực thuộc quan tâm, triển khai thực hiện nghiêm túc Kế hoạch thanh
tra hàng năm được phê duyệt; thường xuyên thực hiện việc phổ biến, tuyên truyền,
tạo điều kiện để CBCC trong đơn vị nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật về thanh tra, kiểm tra; công khai, tuyên truyền sâu rộng đến
doanh nghiệp, nhân dân về các quy định trong công tác thanh tra, kiểm tra.
- Các cán bộ công chức
làm công tác thanh tra chuyên ngành được lựa chọn, phân bổ dựa trên năng lực,
phẩm chất đạo đức, trình độ đào tạo để thực hiện công tác chuyên môn. Các đơn vị
đã phân công lãnh đạo phụ trách, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, công chức
theo từng lĩnh vực. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
chuyên trách làm công tác thanh tra, kiểm tra, có thẻ thanh tra chuyên ngành để
đáp ứng nhu cầu thực hiện nhiệm vụ.
- Qua thanh tra, kiểm
tra đánh giá đúng thực trạng việc thực
hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; làm rõ những
nguyên nhân và có những kiến nghị, sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, thiếu
sót mà thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, giúp cho cơ quan lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước không những nắm được tình hình thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật, chỉ thị, mệnh lệnh... mà còn có cơ sở thực tiễn để
nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật, cơ
chế quản lý... đã ban hành hoặc ban hành mới phù hợp hơn.
- Thanh tra, kiểm tra
giúp công tác lãnh đạo, công tác quản lý, chỉ đạo không bị sai lệch. Đó là một
biện pháp rất quan trọng, có hiệu quả góp phần tăng cường năng lực của bộ máy
nhà nước và tính tích cực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc chấp
hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
- Kiểm tra, thanh tra
là một biện pháp quan trọng góp phần tích cực phòng, chống bệnh quan liêu, nạn
tham ô, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Như vậy, Thanh tra,
kiểm tra không chỉ phát hiện ra những vi phạm để xử lý mà còn phát hiện ra những
sơ hở của bản thân cơ chế, chính sách, chỉ ra những khuyết tật của bộ máy và
quá trình vận hành bộ máy để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn cơ chế, chính
sách, thanh tra còn biểu dương những cái tốt, cái tích cực, những yếu tố mới,
những nhân tố điển hình cần nhân rộng phát huy.
3. Kết
quả đạt được
(1)
Công tác triển khai:
- Để triển khai Luật
Thanh tra và các văn bản hướng dẫn, thi hành một cách thống nhất trong Ngành Hải
quan, Tổng cục Hải quan đã ban hành các quyết định:
+ Quyết định số
694/QĐ-TCHQ ngày 14/3/2013 về Quy trình thanh tra thuế trong lĩnh vực hải quan;
+ Quyết định số
4129/QĐ-TCHQ ngày 11/12/2017 quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của
Đoàn thanh tra, trình tự thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành về Hải
quan (thay thế Quyết định số 265/QĐ-TCHQ ngày 14/2/2014 về Quy trình thanh tra
chuyên Ngành Hải quan);
+ Quyết định số
595/QĐ-TCHQ ngày 01/3/2017 ban hành Quy chế hướng dẫn việc cấp, quản lý và sử dụng
Thẻ công chức thanh tra chuyên Ngành Hải quan;
+ Quyết định số
1086/QĐ-TCHQ ngày 4/4/2014 về việc ban hành quy trình kiểm tra nội bộ trong
Ngành Hải quan.
+ Quyết định số
4273/QĐ-TCHQ ngày 26/12/2017 ban hành Quy chế kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm
nghiệp vụ trong ngành Hải quan;
+ Quyết định số
235/QĐ-TCHQ ngày 29/01/2018 quy định về xử lý sau thanh tra, kiểm tra trong
ngành Hải quan;
- Hằng năm Tổng cục Hải
quan xây dựng Kế hoạch thanh tra chuyên ngành của Tổng cục Hải quan trình Bộ
trưởng Bộ Tài chính phê duyệt đồng thời thực hiện việc phê duyệt kế hoạch thanh
tra chuyên ngành, kiểm tra nội bộ của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và tổ chức
kiểm tra việc thực hiện Kế hoạch, kết luận thanh
tra, kiểm tra đã được ban hành đối với các đơn vị trong ngành.
- Tổng cục Hải quan,
trực tiếp là Vụ Thanh tra- Kiểm tra tham mưu cho Lãnh đạo Tổng cục ban hành
công văn hướng dẫn, giải đáp kịp thời các vướng mắc trong quá trình
triển khai, thực hiện Luật Thanh tra, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
về công tác thanh tra chuyên ngành.
(2) Kết quả cụ thể:
Năm 2011:
Tổng số thuế kiến nghị
truy thu qua công tác kiểm tra thanh tra:
221.776.521.780đ (Địa phương: 826.575.238 đ; Thanh tra Tổng cục đã kiến nghị
truy thu: 220.949.946.542đ); Toàn ngành đã truy thu được: 90.144.868.100 và có
13 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó có 01 trường hợp bị tòa xử 9 năm tù;
03 cán bộ đang bị khởi tố
Năm 2012:
Là năm đầu tiên thực
hiện thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra, Tổng cục thực hiện 07 cuộc, kiến
nghị truy thu với tổng số tiền: 486.021.304.028đ và 142.373.7USD; Kết quả thanh
tra chuyên đề: Các cục Hải quan địa phương thực hiện 09 cuộc và kiến nghị truy
thu: 27.756.836đ; Công tác kiểm tra nội bộ: Toàn ngành
đã tiến hành kiểm tra 294 cuộc tại 402 lượt đơn vị. Kiến nghị truy thu thuế với
tổng số tiền hơn 12.497.746.694đ
Qua công tác thanh tra
chuyên ngành đã phát hiện chuyển điều tra, truy tố, xét xử 03 vụ/04 đối tượng.
Năm 2013:
- Thanh tra
chuyên ngành: tiến hành 44 cuộc; Tổng số tiền thuế kiến nghị truy thu, xử phạt
VPHC và phạt chậm nộp qua các cuộc thanh tra chuyên ngành: 401.879.260.136 đồng.
Tổng trị giá loại khỏi danh mục: 473.552 USD, 12.035.052 đồng, và 10 tấn cáp điện
(không khai trị giá).
Trong đó, tổng số tiền
kiến nghị và xử phạt VPHC đã thu nộp vào NSNN: 10.509.557.865 đồng.
- Kiểm tra nội bộ: tiến
hành kiểm tra: 339 cuộc; Tổng số tiền kiến nghị truy thu qua công tác kiểm tra
nội bộ trong toàn ngành 15.850.660.223 đồng, truy
hoàn: 503.016.770 đồng; Trong đó, tổng số tiền kiến nghị đã thu nộp vào NSNN:
10.528.082.153 đồng
- Xảy ra 08 vụ việc có
16 cán bộ, công chức bị khởi tố, bắt tạm giam
Năm 2014:
- Thanh tra chuyên
ngành: tiến hành 74 cuộc; Tổng số tiền thuế kiến nghị truy thu, xử phạt VPHC:
32.393.138.636 đồng, truy hoàn: 146.600.000 đồng; Đã thu nộp vào NSNN:
17.335.054.246 đồng.
- Kiểm tra nội bộ: tiến
hành kiểm tra: 268 cuộc; Tổng số tiền kiến nghị truy
thu 7.661.525.632 đồng; Đã thu nộp vào NSNN: 8.076.619.080 đồng (lũy kế số kiến
nghị năm trước).
Năm 2015:
- Công tác kiểm tra nội
bộ: Số cuộc kiểm tra trong kỳ: 257 cuộc; Tổng số tiền kiến
nghị truy thu 6.390.297.302 đồng, trong đó xử phạt VPHC 473.213.623 đồng và đã
thu nộp NSNN: 65.650.380.634 đồng.
- Công tác thanh tra
chuyên ngành: Tổng số cuộc thực hiện: 63 cuộc; Tổng kiến nghị: 41.479.815.758 đồng,
trong đó xử phạt VPHC 718.375.185 đồng; đã
thu nộp NSNN: 8.024.206.655 đồng.
Năm 2016:
- Công tác kiểm tra
nội bộ: Số cuộc kiểm tra trong kỳ: 310 cuộc; Tổng kiến nghị truy thu:
21.945.000.000 đ
- Công tác thanh tra
chuyên ngành: Đã tiến hành 73 cuộc thanh tra chuyên ngành; Tổng số tiền thuế kiến
nghị truy thu, xử phạt VPHC qua các cuộc thanh tra chuyên ngành: 27.171.041.649
đồng (trong đó xử phạt VPHC 734.651.024 đồng) và truy hoàn: 887.682.045 đồng.
Năm 2017:
- Công tác kiểm tra nội
bộ: Tổng số 313 cuộc, trong đó: Kiểm tra theo
kế hoạch: 240 cuộc; Kiểm tra đột xuất: 73 cuộc.
Qua công tác kiểm tra
đã yêu cầu truy thu thuế: 55.848.904.314 đồng.
- Công tác thanh tra
chuyên ngành: Tổng số cuộc thực hiện: 141 cuộc, trong đó: Số cuộc thanh tra
theo kế hoạch: 138 cuộc; Số cuộc thanh tra đột xuất: 03 cuộc.
Tổng kiến nghị truy
thu 48.818.563.090 đồng, gồm: số thuế truy thu: 40.827.641.330 đồng, xử
phạt VPHC: 7.990.921.760 đồng.
*
Năm 2018
Trong năm 2018, toàn
Ngành đã thực hiện được 399 cuộc thanh tra, kiểm tra; trong đó thanh tra chuyên
ngành 129 cuộc; kiểm tra nội bộ 270 cuộc. Cụ thể:
- Số cuộc thanh tra
chuyên ngành đã thực hiện: 125 cuộc
- Số cuộc thanh tra
chuyên ngành đột xuất: 04 cuộc
- Số cuộc kiểm tra nội
bộ theo kế hoạch: 217 cuộc
- Số cuộc kiểm tra nội
bộ đột xuất: 53 cuộc
Kết quả cụ thể như
sau:
- Xử lý về kinh tế:
Tổng số tiền kiến nghị về kinh tế: 250.978.337.313 đồng, trong đó:
+ Thanh tra chuyên
ngành kiến nghị truy thu: 242.150.398.107 đồng.
+ Kiểm tra nội bộ kiến
nghị truy thu: 8.827.939.206 đồng.
+ Tính đến
31/12/2018, đã thu nộp NSNN số tiền: 221.294.073.283đồng.
- Về xử lý hành chính
CBCC vi phạm: có 65 CBCC hải quan bị xem xét xử lý do có vi phạm, sai sót
trong công tác nghiệp vụ được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra.
4. Tồn
tại, hạn chế.
- Một số Cục Hải quan
tỉnh, thành phố không có Phòng Thanh tra-
Kiểm tra độc lập. Công tác thanh tra, kiểm tra được giao cho các đơn vị chức
năng, như Văn phòng; Tổ chức cán bộ; nghiệp vụ thực hiện nên tính chuyên sâu hạn
chế, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa cao.
- Biên chế CBCC bộ phận
tham mưu làm công tác thanh tra chuyên ngành nhìn chung còn thiếu. Do Luật
Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra và các văn bản khác có
liên quan không xác định biên chế tối thiểu nên ở nơi nào Thủ trưởng cơ quan quản
lý quan tâm đến công tác thanh tra thì số lượng biên chế được đảm bảo để thực
hiện nhiệm vụ thanh tra.
- Một số kết luận
thanh tra phát hiện sai phạm nhưng chưa đi sâu phân tích nguyên nhân sai phạm của
cán bộ công chức Hải quan.
- Qua thanh tra, kiểm
tra chưa phát hiện nhiều sơ hở của chính sách, cơ chế quản lý để đề xuất được
các giải pháp nhằm chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước, khắc phục sơ hở, phòng
chống sai phạm một cách căn cơ hơn.
- Quyền truy cập các
hệ thống quản lý nghiệp vụ đối với công chức thực hiện thanh tra, kiểm tra còn
bị hạn chế, dẫn đến việc thu thập và xử lý thông
tin phục vụ xây dựng kế hoạch thanh tra gặp
nhiều khó khăn, chưa kịp thời, nên ảnh hưởng đến kết quả thanh tra, kiểm tra.
5. Nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Chưa xây dựng được
quy chế thu thập xử lý thông tin phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra trong
Ngành Hải quan.
- Chưa xây dựng được
phần mềm công nghệ thông tin về quản lý hoạt động thanh tra- kiểm tra trong
ngành Hải quan.
- Công tác thanh tra
chuyên ngành là một nhiệm vụ mới, nên CBCC Hải quan chưa có nhiều kinh nghiệm,
chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thanh tra. Mặt khác, Ngành thực hiện
chính sách luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, nên tính chuyên sâu không
cao.
- Cán bộ công chức
làm công tác thanh tra, kiểm tra ở một số đơn vị chưa được quan tâm phân quyền
truy cập tất cả các phần mềm quản lý của ngành nên hạn chế
khả năng thu thập và xử lý thông tin.
- Số lượng biên chế của
lực lượng thanh tra, kiểm tra tại một số đơn vị còn hạn chế,
kiêm nhiệm nhiều, chưa chuyên sâu.
- Quy định về cấp thẻ
thanh tra chuyên ngành còn chặt chẽ, chỉ có CBCC đủ điều kiện và đang công tác
tại bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành mới được cấp thẻ, trong
khi đó nhiệm vụ thanh tra được giao cho nhiều đơn vị cùng thực hiện.
IV.
CẢI CÁCH, HIỆN ĐẠI HÓA HẢI QUAN
Trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng trên mọi phương diện thì tự
do hóa thương mại là một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Các Hiệp định thương
mại tự do (FTA) song phương, đa phương được Việt Nam tham gia ký kết ngày càng
nhiều, với mức độ tự do hóa ngày càng sâu rộng tạo ra sự dịch chuyển sản xuất
giữa các quốc gia, đồng thời lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia và vùng lãnh
thổ sẽ gia tăng nhanh chóng. Như vậy, khối lượng công việc ngày càng lớn cùng với
yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo an ninh, chống gian lận thương mại, chống hàng
giả, hàng nhái trong hoạt động xuất nhập khẩu, mặt khác phải đảm bảo các hoạt động
tạo thuận lợi thương mại sẽ tác động ngày càng mạnh mẽ đến hoạt động của cơ
quan hải quan, đòi hỏi cấp thiết Ngành Hải quan Việt Nam cần đổi mới quy trình
thủ tục và phương thức làm việc. Các sáng kiến cải cách và hiện đại hóa một mặt
tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả và khả
năng đáp ứng nói chung của cơ quan Hải quan, một mặt sẽ làm giảm đến mức tối
thiểu cơ hội phá vỡ các thủ tục đúng đắn, giảm thiểu cơ hội can thiệp vào quá
trình thực hiện các thủ tục thông quan hàng hóa của công chức hải quan. Có thể
thấy, cải cách hiện đại hóa hướng tới hoạt động hải quan công khai, minh bạch,
hiệu quả hơn là phương pháp hữu hiệu nhất để phát
triển liêm chính Hải quan.
Có thể nói, hiện đại
hóa quản lý hải quan là tất yếu khách quan của quá trình xây dựng, phát triển lực
lượng hải quan. Theo thống kê của Ngành Hải quan, quá trình cải cách, hiện đại
hóa hải quan được bắt đầu từ năm 1994. Từ đó đến nay, Ngành Hải quan đã trải
qua 4 giai đoạn cải cách quan trọng. Giai đoạn từ năm 1994-2000: Thay đổi từ
lưu trữ giấy sang lưu trữ điện tử; Giai đoạn từ 2000-2005: Tin học hóa các quy
trình làm thủ công là chính nhưng vẫn kèm hồ sơ giấy; Giai đoạn từ 2006 - 2010:
Tăng cường tự động hóa các nghiệp vụ; Giai đoạn từ 2010 - 2015: Tăng cường tối
đa mức độ tự động hóa, trong đó việc triển khai hệ thống thông quan tự động
VNACCS - VCIS vào tháng 4/2014 đã đánh dấu sự thành công vượt bậc của Ngành Hải
quan.
Ngày 25/3/2011, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển Ngành Hải quan đến năm 2020
(Quyết định số 448/QĐ-TTg), để hiện đại hóa thành công, phải đầu tư xây dựng cả
con người, tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và các
phương tiện kỹ thuật tiên tiến, có các quy định quản
lý về hải quan đồng bộ, với phương án tối ưu theo hướng thống nhất, đơn giản,
tiện lợi nhất.
Thời gian qua, với việc
triển khai đồng bộ công tác cải cách, hiện đại hóa trên phương diện xây dựng cơ
sở pháp lý, cải cách về quy trình, thủ tục, mở rộng ứng dụng phương pháp quản
lý hiện đại, sử dụng trang thiết bị hiện đại nâng cao hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, kiểm soát, Ngành Hải quan đã nâng cao mức độ chuyên nghiệp,
chuyên sâu trong thực hiện các hoạt động nghiệp vụ hải quan trên nền tảng ứng dụng
công nghệ thông tin.
Các mục tiêu về thể
chế, thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan, quản lý thuế, kiểm soát hải
quan, kiểm tra sau thông quan, hệ thống chỉ số đo hiệu quả hoạt động, tổ chức bộ
máy, công nghệ thông tin, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật được đảm bảo
triển khai theo định hướng đề ra. Về cơ bản các mục tiêu này đã được thực hiện
xuyên suốt trong quá trình triển khai kế hoạch cải cách, hiện đại hóa hải quan,
góp phần từng bước cải tiến, nâng cao, khắc phục những khiếm khuyết phát sinh
trong quá trình triển khai, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động tại các mảng nghiệp vụ.
1. Kết quả cải cách,
hiện đại hóa Ngành Hải quan giai đoạn 2011-đến nay
1.1 Về thể chế:
Giai đoạn 2011 đến
nay, đã hình thành hệ thống văn bản pháp luật cơ bản đầy đủ điều chỉnh các lĩnh
vực hoạt động hải quan, đảm bảo hoàn thành mục tiêu, đồng thời đáp ứng các yêu
cầu mới phát sinh, cụ thể:
Một
là: Đã xây dựng, ban hành Luật Hải quan số 54/2014/QH2013 và các
văn bản hướng dẫn thi hành, tạo tiền đề triển khai đổi mới toàn diện hoạt động
hải quan trên cơ sở nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phương pháp quản lý hải quan hiện đại theo
nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong
toàn bộ hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm,
mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động
nghiệp vụ, triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và
Cơ chế một cửa ASEAN.
Bên cạnh đó, Luật Hải
quan ra đời còn tạo động lực cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong lĩnh vực
hải quan, tạo cơ sở để giảm thời gian và chi phí thủ tục, tăng sức cạnh tranh
cho doanh nghiệp đồng thời góp phần thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam;
minh bạch hóa quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan, của tổ chức và cá nhân
có liên quan, phân định rõ trách nhiệm giữa người khai hải quan và công chức hải
quan, của cơ quan hải quan và các cơ quan có liên quan, nâng
cao tính tự chịu trách nhiệm và tạo cơ chế khuyến khích tuân thủ pháp luật của
người khai hải quan.
Hai
là: Đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản
lý Thuế số 21/2012/QH13, trong đó có quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, đáp ứng các yêu cầu: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo
hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch; tạo thuận lợi, giảm chi phí, thời gian của
người nộp thuế; Thúc đẩy công tác hiện đại hóa hệ thống thuế, hải quan theo hướng
thực hiện cơ chế quản lý rủi ro, đẩy mạnh quản lý thuế điện tử, tăng cường vai
trò của tổ chức, cá nhân có liên quan; Tăng cường các biện pháp quản lý kiểm
tra, giám sát, hậu kiểm để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản
lý hành chính thuế nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ thuế.
Ba
là: Đã xây dựng Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi (qua
quá trình xây dựng đã được Quốc hội ký thông qua Luật số 107/2016/QH13 ngày 06
tháng 4 năm 2016 và có hiệu lực ngày 01/9/2016) đáp ứng yêu cầu: Đảm bảo thực
thi các cam kết quốc tế và điều ước quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; tạo tiền đề pháp lý để hội nhập quốc tế sâu
rộng hơn; khuyến khích và bảo hộ hợp lý sản xuất kinh doanh trong nước phù hợp
với định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các cam kết quốc tế đã ký kết;
đơn giản, thuận lợi cho người nộp thuế.
Năm 2018, Tổng cục Hải
quan đã trình các cấp có thẩm quyền ban hành 13 văn
bản quy phạm pháp luật, trong đó có một số văn bản cốt lõi trong lĩnh vực Hải
quan như:
Nghị định số
59/2018/NĐ-CP ngày 20/4/2018 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám
sát, kiểm soát hải quan.
Nghị định quy định thực
hiện thủ tục hành chính thông qua cơ chế
một cửa quốc gia, một cửa ASEAN và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu; Nghị định quy định thủ tục hải quan, kiểm
tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa quá cảnh thông qua hệ thống quá cảnh
ASEAN-ACTS thực hiện Nghị định thư số 7;
Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP
ngày 01/7/2016 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh cửa hàng miễn thuế, kho
bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan;
Thông tư số 39/2018/TT-BTC
ngày 20/4/2018 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25 tháng 3 năm
2015 của Bộ Tài chính về thủ tục Hải quan; Kiểm tra, giám sát hải quan; Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu...
1.2 Về thủ tục hải
quan, kiểm tra giám sát hải quan
- Đã chuẩn hóa các chế
độ quản lý hải quan phù hợp với các quy định tại Công ước Kyoto sửa đổi. Thủ tục
hải quan chủ yếu được thực hiện bằng phương thức điện tử tại 100 % Cục Hải
quan, 100% Chi cục Hải quan, với sự tham gia của trên 99,56% tổng số doanh nghiệp
thực hiện thủ tục hải quan, đạt 99,32% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và hơn
99,63% tổng số tờ khai hải quan trên cả nước (số liệu tính từ 01/01/2015 đến
31/12/2015); cơ sở dữ liệu được xử lý tập trung tại cấp Tổng cục Hải quan; Thời
gian trung bình từ khi doanh nghiệp đăng ký tờ khai đến
khi quyết định thông quan/giải phóng hàng (thời gian thông quan) đối với hàng
nhập khẩu chỉ còn dưới 02 ngày; Thời gian thông quan trung bình đối với hàng
hóa xuất khẩu còn dưới 06 giờ; Đối với lô hàng phân luồng xanh, không phải nộp
thuế thì thời gian này chỉ có 04 giây;
Thời gian trung bình kiểm tra hồ sơ dưới 30 phút; Thời gian trung bình kiểm tra
thực tế hàng hóa dưới 01 giờ (Theo kết quả đo thời gian giải phóng hàng năm
2015 tại 11 Chi cục Hải quan Cảng/Cửa khẩu
thuộc 07 Cục Hải quan tỉnh, thành phố).
- Chế độ ưu tiên đối
với doanh nghiệp theo các chuẩn mực của WCO được triển khai thí điểm và chính
thức áp dụng, đến nay đã có 43 doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp ưu
tiên (chiếm khoảng 25,46% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó, có 16 doanh
nghiệp Việt Nam và 27 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI).
- Công tác thu nộp
thuế, lệ phí được thực hiện bằng phương thức điện tử trên tổng số thuế đã thu
vào ngân sách nhà nước tính đến thời điểm 31/6/2016 là 88%.
- Cơ chế một cửa quốc
gia và Cơ chế một cửa ASEAN: Tổng cục Hải quan với vai trò là cơ quan đầu mối
đã phối hợp với các Bộ, ngành đẩy mạnh triển khai Cơ chế một cửa quốc gia. Đến
tháng 9/2015 đã có 9 Bộ tham gia là Bộ Tài
chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài
nguyên môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và truyền
thông, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và công nghệ. Đồng thời Việt Nam
cũng đã thực hiện kết nối kỹ thuật với 4 nước ASEAN
là Thái Lan, Singapore, Malaysia và Indonesia; Việt Nam cũng đã sẵn sàng kết nối
chính thức với các nước này.
- Ngành Hải quan đã
chủ trì, phối hợp với các cơ quan chuyên ngành có liên quan thành lập địa điểm
kiểm tra chuyên ngành tập trung để thực hiện hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện phải kiểm tra chuyên ngành tại cửa
khẩu, đến nay đã thành lập được 08 địa điểm tại 07 Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
Việc phối hợp kiểm tra chuyên ngành trực tiếp tại cửa khẩu bước đầu đã tạo ra
chuyển biến tích cực trong công tác kiểm tra chuyên ngành, giảm bớt thủ tục
hành chính, rút ngắn thời gian làm thủ tục kiểm tra chuyên ngành (tại cảng Hải
Phòng đã rút ngắn 30% thời gian làm thủ tục kiểm tra chuyên ngành, giảm từ
10-15 ngày xuống còn 7-10 ngày), đồng thời bảo đảm quản lý hàng hóa phải kiểm
tra chuyên ngành chặt chẽ hơn.
- Đẩy mạnh ứng dụng
trang thiết bị kỹ thuật trong kiểm tra hải quan như soi chiếu hàng hóa, hành lý
trước, sau thông quan; sử dụng máy soi container để kiểm tra hàng hóa trong quá
trình làm thủ tục hải quan. Việc
kiểm tra qua máy soi container trung bình từ 1-3 phút, kiểm tra kết hợp máy soi
và thủ công trung bình khoảng hơn 30 phút. Tuy nhiên, để bố trí,
chuẩn bị được hàng hóa trong việc nâng hạ, đưa vào khu vực kiểm tra, soi chiếu
(do trách nhiệm của chủ hàng và đơn vị kinh doanh cảng) lại mất nhiều thời
gian.
- Công tác giám sát hải
quan đã thay đổi cơ bản về mục tiêu, yêu cầu, phương thức giám sát hải quan, đặc
biệt là ở các địa bàn trọng điểm như cảng biển, cảng hàng không. Hệ thống
camera giám sát được triển khai lắp đặt tại các cảng biển, cảng hàng không trọng
điểm và kết nối trực tuyến với Tổng cục Hải quan để phục vụ công tác chỉ đạo, điều
hành. Thực hiện thí điểm hệ thống ứng dụng công nghệ định vị GPS trong giám sát
hải quan đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất, chuyển cửa khẩu và quá cảnh vận
chuyển bằng container, cho phép cảnh báo khi niêm
phong hải quan bị phá hủy, container bị mở và theo dõi
toàn bộ lộ trình của container để có thông tin cảnh báo khi đi sai lộ trình, dừng
đỗ quá thời gian. Hệ thống mã vạch trong giám sát hải quan được áp dụng, tạo tiền
đề kết nối với hệ thống của các cơ quan, doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng;
qua đó giảm thời gian xác nhận hàng hóa qua khu vực giám sát, giúp rút ngắn thời
gian thanh khoản một bộ hồ sơ giám sát trung bình còn khoảng 30 giây (trước đây
là 5-10 phút).
- Đã thí điểm thực hiện
quy định giám sát hàng hóa ra vào cảng theo quy định tại Điều 41 Luật Hải quan
tại cảng Nam Hải - Đình Vũ và cảng Xanh VIP Hải Phòng, thời gian làm thủ tục tại
khu vực giám sát đối với một tờ khai giảm từ 3-5 phút, giảm chi phí đi lại của
người khai hải quan.
- Đã xây dựng được 08
địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung với đầy đủ trang thiết bị phục vụ kiểm tra
giám sát hàng hóa. Việc áp dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại trong kiểm
tra, giám sát hải quan được thực hiện tại một số địa bàn trọng điểm trong cả nước
với việc trang bị hệ thống máy soi container, hệ thống camera giám sát, các
trang thiết bị phát hiện phóng xạ,...
- Đã và đang phối hợp
có hiệu quả với các cơ quan, chủ doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, qua đó đã kiến
nghị các giải pháp, chính sách quản lý đối
với các mặt hàng nhạy cảm gửi kho ngoại quan để tái xuất qua
các tỉnh biên giới phía Bắc, chấm dứt hoạt động và chấn chỉnh các trường hợp
đưa hàng hóa vào gửi kho không đúng quy định, kho không đủ diện tích, kịp thời
có giải pháp giải tỏa, chống ách tắc, ùn ứ hàng hóa nông sản, lâm sản xuất nhập
khẩu tập kết tại các cửa khẩu, địa điểm kiểm tra tập trung.
- Đã xây dựng, trình
Chính phủ ban hành đề án “Giải pháp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu”
theo Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 17/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ, để giảm
thời gian thông quan hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích xuất khẩu
hàng hóa, bảo đảm hàng rào kỹ thuật bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng.
- Đã xây dựng và thực
hiện hiệu quả cơ chế hợp tác giữa cơ quan hải quan với Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề và với các doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu. Việc phát triển, xã hội hóa đại lý làm thủ tục hải quan đã
được chú trọng thời gian vừa qua và sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới.
Hiện nay có 520 đại lý hải quan đã được cấp phép hoạt động, 650 cá nhân đủ điều
kiện cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan.
- Trong năm 2018, Tổng
cục Hải quan tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp về cải cách
thủ tục hành chính (TTHC) nhằm mục tiêu chính là rút ngắn thời gian thông quan
hàng hóa qua biên giới. Theo đó, Tổng cục Hải quan thực hiện đánh giá tác động
của TTHC đối với 06 dự thảo văn bản QPPL, tiến hành rà soát, đánh giá tổng số
17 TTHC, trên cơ sở đó, trình Bộ phê duyệt bãi bỏ 05 TTHC, đơn giản hóa 09
TTHC, giữ nguyên 03 TTHC. Rà soát, đề xuất cắt giảm 16/31 điều kiện kinh doanh
lĩnh vực hải quan (đạt 51,6% so với chỉ tiêu được Chính phủ giao tại Nghị quyết
số 19/2018/NĐ-CP). Giải đáp kịp thời các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp về
quy định và việc thực hiện TTHC.
Có thể nói, công tác
cải cách TTHC của ngành Hải quan đã góp phần quan trọng tạo thuận lợi, và giảm
chi phí tuân thủ TTHC cho doanh nghiệp; Đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều
kiện kinh doanh lĩnh vực hải quan dự kiến tiết kiệm cho cộng đồng
doanh nghiệp khoảng 15 tỷ đồng/năm. Các yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan được
đảm bảo. Bộ Tài chính xếp hạng Tổng cục Hải quan ở vị trí 1/5 đơn vị khối Tổng
cục và tương đương thuộc Bộ về chỉ số cải cách hành chính năm 2017. Hàng năm,
thông qua hoạt động giám sát, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đánh giá cao nỗ
lực cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan.
1.3 Về quản lý thuế
- Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung, thay thế đáp ứng yêu cầu
hội nhập, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, cải thiện môi
trường kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, thực hiện các cam kết quốc
tế về cắt giảm thuế quan, sử dụng hàng rào kỹ
thuật, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan hải quan phối hợp với các ngân
hàng thương mại để thực hiện thu nộp thuế thông qua Cổng thông tin điện tử Hải
quan, đã giảm đối chiếu thủ công, giảm thiểu thời gian xác định hoàn thành
nghĩa vụ thuế, tiết kiệm chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan hải quan, góp
phần giảm thời gian thông quan hàng hóa.
- Các hệ thống ứng dụng
công nghệ thông tin (Hệ thống thông tin dữ liệu quản lý trị giá tính thuế GTT02,
Hệ thống MHS, Hệ thống KTT559) được hoàn thiện; Các chính sách ưu đãi thuế, danh
mục biểu thuế, trị giá tính thuế, tỷ giá tính thuế được chuẩn hóa; thiết lập cơ
sở dữ liệu về thuế, trị giá, tỷ giá để vận hành các chức năng tự động liên
quan đến kiểm tra, xác định thuế của hệ thống thông quan điện tử tự động
VNACCS/VCIS.
Năm 2018, Tổng cục Hải
quan đã trình cấp có thẩm quyền ban hành Thông tư số 112/2018/TT-BTC ngày
15/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số
174/2015/TT-BTC ngày 10/11/2015 hướng dẫn kế toán nghiệp vụ
thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Ban hành Quy chế
xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu trị giá hải
quan. Ban hành các quy trình: Miễn giảm hoàn thuế, không thu thuế và xử lý tiền
thuế nộp thừa; Kiểm tra, tham vấn và xác định trị
giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong quá trình làm thủ tục
hải quan. Ban hành các sổ tay nghiệp vụ: quản lý thuế tại cấp Chi cục Hải quan;
thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa (trị giá hải quan và phân loại hàng hóa).
Ban hành các Quyết định kèm theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu rủi ro
về trị giá và mức giá tham chiếu.
- Tiếp tục hoàn thiện
các thỏa thuận phối hợp thu giữa Tổng cục Hải quan với các ngân hàng thương mại
về kế hoạch triển khai Đề án nộp- tiền trực tiếp tại cổng thanh toán điện tử Tổng
cục Hải quan (24/7). Tổng cục Hải quan đã ký thỏa thuận hợp tác phối hợp thu
NSNN với 39 ngân hàng thương mại, trong đó có 25 ngân hàng thương mại đã triển
khai nộp thuế điện tử và thông quan 24/7. Lập yêu cầu nghiệp vụ để
xây dựng Hệ thống miễn,
giảm, hoàn thuế điện tử..
- Tham gia phối hợp với
Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) xây dựng Luật sửa các Luật về thuế và các luật
thuế liên quan khác; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 134/2016/NĐ-CP ; Luật
sửa các Luật thuế (trong đó có Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
và Nghị định 108/2015/NĐ-CP); Tham gia phối hợp với Tổng cục Thuế sửa Luật Quản
lý thuế góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách và đẩy mạnh công tác quản lý thuế
XNK.
Đã tập trung chỉ đạo
quyết liệt đối với công tác thu thuế, xóa nợ thuế, quản lý nợ thuế...
Năm 2011, 2014 và
2015, Ngành Hải quan đã hoàn thành vượt mức kế hoạch thu thuế đối với hàng hóa
xuất nhập khẩu được giao, đặc biệt năm 2015, mặc dù số thu Ngành Hải quan chịu
tác động trực tiếp từ việc giảm mạnh kim ngạch của các mặt hàng chiếm tỷ trọng
số thu lớn như dầu thô xuất khẩu, xăng dầu nhập khẩu, tác động từ giảm thuế suất
thuế nhập khẩu (hàng hóa được hưởng ưu đãi) tuy nhiên, Ngành Hải quan hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ với tổng
số thu là 261.824 tỷ đồng, đạt 100,7% dự toán (260.000
tỷ đồng). Các năm 2012, 2013, dưới tác động sâu, rộng, trực tiếp của suy thoái
kinh tế thế giới, làm giảm mạnh kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, do vậy, không đạt
được dự toán được giao.
Tính đến ngày
31/12/2018, tổng số thu thuế của toàn ngành Hải
quan đạt 314.907 tỷ đồng, bằng 111,27% dự toán, bằng 107,5 % chỉ tiêu phấn đấu,
tăng 6,0 % so với cùng kỳ 2017.
- Về tình hình xóa nợ
thuế: Tổng số tiền xóa nợ theo quy định từ năm 2011 đến năm 2015 là 519.672 triệu
đồng (Năm trăm mười chín tỷ sáu trăm bảy
mươi hai triệu đồng), cụ thể:
+ Năm 2011: Số tiền
thuế đã thực hiện xóa nợ là 1.066 triệu đồng;
+ Năm 2012: Số tiền
thuế đã thực hiện xóa nợ là 2.622 triệu đồng;
+ Năm 2013: Số tiền
thuế đã thực hiện xóa nợ là 1.374 triệu đồng;
+ Năm 2014: Số tiền
thuế đã thực hiện xóa nợ là 465.780 triệu
đồng;
+ Năm 2015: Số tiền
thuế đã thực hiện xóa nợ là 48.830 triệu đồng.
- Về quản lý nợ thuế:
+ Số lượng doanh nghiệp
nợ thuế chuyên thu quá hạn tăng dần qua các năm từ 2010 đến 2012. Tuy nhiên,
con số này đã giảm đáng kể ở giai đoạn tiếp theo. Cụ thể: năm 2013 giảm được
2.275 doanh nghiệp, tương ứng với 17,53% tổng số doanh nghiệp nợ thuế chuyên
thu quá hạn của năm 2012. Năm 2014 cũng giảm được 1.345 doanh nghiệp tương ứng
12,57% tổng số doanh nghiệp nợ thuế chuyên thu quá hạn năm 2013. Tính đến tháng
9/2015, con số này đã giảm thêm được 648 doanh nghiệp so với năm 2014.
+ Số nợ thuế đã thu hồi
được lũy kế từ
ngày 01/01/2013 đến 31/12/2013 là 1.807 tỷ đồng chiếm 28,18% trong tổng số nợ
chuyên thu năm 2013 (khoảng 6.412,9 tỷ đồng). Tương tự, tổng số thu hồi và xử
lý nợ lũy kế từ ngày 01/01/2014 đến 31/12/2014 là khoảng
2.060 tỷ đồng chiếm 41,63% trong tổng số nợ chuyên thu năm 2014 (khoảng 4.947,4
tỷ đồng), và đến tháng 12/2015 là 56% (740 tỷ đồng) so với chỉ tiêu thu hồi tại
Quyết định số 260/QĐ-TCHQ ngày 30/01/2015. Kết quả thu hồi và
xử lý nợ thuế năm 2018 là 1.521 tỷ đồng, trong đó thu hồi và xử lý nợ phát sinh
trước 01/01/2018 là 511,4 tỷ đồng, thu hồi và xử lý nợ phát sinh trong năm 2018
là 1.009,6 tỷ đồng.
+ Tính đến ngày
31/12/2015, tổng số nợ thuế chuyên thu quá hạn của các lô hàng đã thông quan,
giải phóng hàng là: 4.312,5 tỷ đồng, giảm 634,9 tỷ đồng so với năm 2014, trong
đó: Nợ khó thu là: 3.704,1 tỷ đồng; Nợ chờ xóa, xét miễn, giảm là: 164 tỷ đồng;
Nợ có khả năng thu là: 444,2 tỷ đồng.
+ Tổng số nợ khó đòi
qua các năm từ 2010 đến 2013 đều tăng, năm sau cao hơn năm trước, nguyên nhân
là do đa số nợ còn tồn đọng đến nay phát sinh từ trước khi Luật Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 và Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 có hiệu lực
thi hành. Chỉ đến 2014, số nợ khó đòi
mới giảm so với 2013 (số giảm được là 425,7 tỷ đồng, tương ứng giảm 11,13%).
Tính đến ngày
31/12/2018, Tổng nợ chuyên thu quá hạn là 5.289,44 tỷ đồng, giảm 77 tỷ đồng
(tương đương giảm 1,45%) so với thời điểm 31/12/2017, chiếm 1,68% tổng thu NSNN
(5.289/314.000 tỷ đồng). Trong đó:
+ Nhóm nợ khó thu là
3.815 tỷ đồng, giảm 56,44 tỷ đồng, tương đương giảm 1,46%;
+ Nhóm nợ chờ xóa,
xét miễn, giảm, gia hạn là 100,35 tỷ đồng, giảm 11,12 tỷ đồng, tương đương giảm
9,98 %;
+ Nhóm nợ có khả năng
thu là 1,374,09 tỷ đồng, tăng 54,28 tỷ đồng, tương đương tăng 4,11% so với cùng
kỳ năm 2017.
1.4 Công tác kiểm
soát hải quan
Công tác kiểm soát hải
quan giai đoạn 2011 đến nay được đẩy mạnh: Hoàn thiện cơ sở pháp lý đầy đủ, thống
nhất từ Luật tới các văn bản hướng dẫn thi hành; Kiện toàn tổ chức bộ máy, nhân
sự và hoạt động của lực lượng kiểm soát hải quan theo ngành dọc từ Trung ương đến
cơ sở; xây dựng và triển khai hiệu quả nhiều đề án lớn nhằm tăng cường năng lực
cho lực lượng kiểm soát hải quan theo hướng chuyên sâu- chuyên nghiệp - hiệu quả
gồm: Đề án nâng cao năng lực cho lực lượng hải quan chuyên trách chống buôn lậu
đến năm 2020, Đề án tăng cường năng lực phòng, chống ma túy của Ngành Hải quan,
Đề án đầu tư trang bị và quản lý tàu thuyền của Ngành Hải quan giai đoạn
2011-2020...; Công nghệ thông tin, các kỹ thuật
quản lý hiện đại, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại được ứng dụng, phục vụ hiệu
quả hoạt động nghiệp vụ; Khai thác, sử dụng có hiệu quả hệ thống
thu thập thông tin tình báo và các hệ thống kiểm
soát, cảnh báo trực tuyến; Sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, xây dựng kế
hoạch, xác lập chuyên đề, chuyên án đấu tranh hiệu quả với các lĩnh vực dễ bị lợi
dụng để vi phạm; các mặt hàng cấm, hàng nhập khẩu có điều kiện, hàng có thuế suất
cao, hàng bách hóa, hàng kém chất lượng, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, vi
phạm về môi trường, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sức
khỏe cộng đồng; Công tác phối hợp giữa hải quan với các lực lượng chức năng được
tăng cường thông qua việc ký kết các quy chế phối hợp lực lượng với Bộ đội biên
phòng, Cảnh sát biển...
Nổi bật, Tổng cục Hải
quan đã chủ động, tích cực tham mưu cho Bộ Tài chính, Chính phủ thành lập và
triển khai nhanh chóng, chất lượng mô hình tổ chức, hoạt động của Ban chỉ đạo
quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (gọi tắt là Ban chỉ đạo
389 quốc gia) và Văn phòng thường trực của Ban chỉ đạo; Giúp lãnh đạo Bộ Tài
chính, lãnh đạo Tổng cục Hải quan thực hiện tốt vai trò thường trực giúp việc
cho Ban chỉ đạo 389 quốc gia nhằm tăng cường hiệu quả công tác phối hợp giữa
các cơ quan chức năng, các địa phương về đấu tranh phòng, chống buôn lậu. Từ
16/12/2017 đến 15/12/2018, lực lượng kiểm soát Hải quan toàn Ngành đã chủ trì, phối
hợp phát hiện, bắt giữ, xử lý 16.633 vụ vi phạm pháp luật Hải quan (tăng 9,54%
so với cùng kỳ năm 2017); trị giá hàng
hóa vi phạm ước tính 1.702 tỷ 417 triệu đồng (tăng 115,61% so với cùng kỳ năm
2017). Số tiền thu nộp ngân sách nhà nước là 350 tỷ 966 triệu đồng (tăng 4,83%
so với cùng kỳ năm 2017). Cơ quan Hải quan đã khởi tố 62 vụ (tăng 21,57% so với
cùng kỳ năm 2017). Chuyển cơ quan khác khởi tố 133 vụ (tăng 95,59 % so với cùng
kỳ năm 2017).
Việc triển khai quyết
liệt, đồng bộ các giải pháp đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới của Ngành Hải quan trong thời gian qua
đã góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, thống nhất trong nhận thức và hành
động của cán bộ, công chức; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi hoạt động buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại, hàng giả, góp phần
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, sức khỏe
cộng đồng, chống thất thu ngân sách nhà nước.
1.5 Công tác quản lý
rủi ro
Trong giai đoạn 2011
đến nay, công tác quản lý rủi ro của Ngành Hải quan đã được quan tâm, hoàn thiện
và nâng cao một bước, trở thành nghiệp vụ cơ bản và trọng tâm trong quản lý hải
quan hiện đại với bước đầu được triển khai trong hoạt động thông quan hàng hóa
xuất nhập khẩu và định hướng sẽ triển khai trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ
hải quan.
Kết quả cụ thể đã đạt
được:
- Các nội dung quản
lý rủi ro được luật hóa tại Luật Hải quan 2014 và các văn bản hướng dẫn Luật,
trên cơ sở phù hợp với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn hoạt
động Hải quan.
- Công tác quản lý rủi
ro bước đầu đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý của hải quan Việt Nam, là nền
tảng cho hệ thống thông quan tự động, tập trung VNACCS/VCIS góp phần to lớn cho
việc tạo thuận lợi thương mại, nâng cao hiệu quả công tác quản lý hải quan, đảm
bảo minh bạch, hiệu quả.
- Triển khai thành
công chương trình quản lý rủi ro phục vụ kiểm tra bằng biện pháp soi chiếu qua
máy soi đối với hàng hóa đang trong quá trình xếp, dỡ, vận chuyển,
lưu giữ tại kho, bãi, cảng, khu vực cửa khẩu tại
sân bay và cảng biển tại 03 Cục Hải quan tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng,
TP. Hồ Chí Minh.
- Công tác quản lý,
đánh giá tuân thủ doanh nghiệp được triển khai trên 05 mảng nghiệp vụ: quản lý
hồ sơ doanh nghiệp; đánh giá tuân thủ pháp luật; xếp hạng doanh nghiệp; quan hệ
đối tác doanh nghiệp và áp dụng chính sách quản lý tuân thủ đối với doanh nghiệp
hoạt động xuất nhập khẩu. Tính đến ngày 31/12/2015, trên Hệ thống
thông tin quản lý rủi ro có 132.707 hồ sơ doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu từ năm 2001, trong đó đã phối hợp các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và
các đơn vị liên quan tổ chức thu thập thông tin, kiểm tra đánh giá tuân thủ và
xếp hạng rủi ro đối với 86.908 doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trong
vòng 02 năm trở lại đây; đánh giá, phân loại và
chuyển giao danh sách 3.520 doanh nghiệp FDI để kiểm tra sau thông quan, thẩm định,
đánh giá tuân thủ giai đoạn 2015-2016; thường xuyên tổng
hợp danh sách doanh nghiệp tuân thủ, không tuân thủ, nợ thuế, cưỡng chế thuế,
giải thể, phá sản, ngừng hoạt động để áp dụng phù hợp các biện pháp kiểm soát rủi
ro;
- Triển khai có hiệu
quả chương trình quản lý rủi ro phục vụ giám sát, kiểm tra trọng điểm đối với người
xuất nhập cảnh, hành lý của người xuất nhập cảnh, với một số kết quả cụ thể: Áp
dụng quy trình quản lý rủi ro và triển khai cài đặt, ứng dụng hệ thống thông
tin hành khách xuất nhập cảnh (mô hình của Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh)
tại 09 Chi cục có sân bay quốc tế trực thuộc 09 Cục Hải quan tỉnh, thành phố có
sân bay quốc tế trên cả nước; xây dựng cơ chế áp dụng quản lý rủi ro đối với
hành lý của hành khách xuất nhập cảnh; xây dựng, ban hành danh mục dấu hiệu rủi
ro danh sách hành khách xuất nhập cảnh rủi ro cao để cung cấp, cảnh báo phục vụ
xác định trọng điểm kiểm tra, giám sát hải quan; thu thập thông tin, phân tích
và cảnh báo rủi ro đối với 39 đối tượng trọng điểm là hành khách xuất nhập cảnh;
xác lập các chuyên đề theo tuyến và chuyến bay trọng điểm về buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới.
- Kết quả phân luồng
kiểm tra đối với hàng hóa xuất nhập khẩu:
Phân
luồng
|
Năm
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Xanh
|
2.732.740
|
3.156.302
|
3.416.023
|
3.656.934
|
4.592.990
|
Vàng
|
1.281.470
|
1.262.238
|
1.673.141
|
2.195.212
|
3.155.044
|
Đỏ
|
582.446
|
571.578
|
580.178
|
621.383
|
632.415
|
Tổng
|
4.596.626
|
4.990.307
|
5.669.371
|
6.473.538
|
8.380.449
|
Phân
luồng
|
Năm
|
2016
|
2017
|
13/11/2018
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Số
lượng Tờ khai
|
Xanh
|
5.673.068
|
6.295.894
|
6.135.262
|
Vàng
|
3.304.850
|
4.057.761
|
3.693.366
|
Đỏ
|
508.248
|
565.012
|
528.176
|
Tổng
|
9.486.166
|
10.918.667
|
10.356.804
|
Có thể thấy chỉ tính
từ năm 2011 đến năm 2015, số lượng tờ khai đã tăng gấp 1.82 lần, tuy nhiên, tỷ
lệ luồng đỏ giảm từ 12.54% xuống còn 7.55%. Theo báo cáo của Cục Quản lý rủi ro
tại buổi họp báo chuyên đề ngày 25/8/2017 về "Triển
khai Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/4/2016 về phân luồng tờ khai hàng hóa xuất
nhập khẩu" thì năm 2016, cơ quan hải quan đã tiếp nhận và xử lý gần 9,5
triệu tờ khai; trong đó phân luồng xanh hơn 5,67 triệu tờ khai (chiếm 59,80%);
luồng vàng hơn 3,3 triệu tờ khai (chiếm 34,84%); và luồng đỏ là 508.248 tờ khai
(chiếm 5,36%). Tính đến hết ngày 31/7/2017, luồng xanh có 3.491.560 tờ khai
(chiếm tỷ lệ 57,53%); luồng vàng có 2.273.515 tờ khai (chiếm tỷ lệ 37,46%); luồng
đỏ giảm chỉ còn 304.337 (chiếm tỷ lệ 5,01%.
Từ 16/12/2017 đến
15/12/2018, lực lượng kiểm soát Hải quan toàn Ngành đã chủ trì, phối hợp phát
hiện, bắt giữ, xử lý 16.633 vụ vi phạm pháp luật Hải quan (tăng 9,54% so với
cùng kỳ năm 2017); trị giá hàng hóa vi phạm ước tính 1.702 tỷ 417 triệu đồng
(tăng 115,61% so với cùng kỳ năm 2017). Số tiền thu nộp ngân sách nhà nước là
350 tỷ 966 triệu đồng (tăng 4,83% so với cùng kỳ năm 2017). Cơ quan Hải quan đã
khởi tố 62 vụ (tăng 21,57% so với cùng kỳ năm 2017). Chuyển cơ quan khác khởi tố
133 vụ (tăng 95,59 % so với cùng kỳ năm 2017).
Như vậy, Ngành Hải
quan đã đồng thời vượt mức mục tiêu về tỷ lệ lẫn thời gian giảm luồng đỏ mà
Chính phủ đề ra là đến năm 2020, luồng đỏ đạt dưới 7%. Đây là sự nỗ lực lớn của
Ngành Hải quan khi giảm được 9% luồng đỏ chỉ trong 6 năm”.
1.6 Về kiểm tra sau
thông quan
Về cơ bản công tác kiểm
tra sau thông quan đã đi vào hoạt động một cách chuyên nghiệp, đạt được kết quả
nhất định góp phần quản lý hải quan hiệu quả: đã xây dựng được cơ sở pháp lý
cho hoạt động kiểm tra sau thông quan; hoạt động kiểm tra sau thông quan cơ bản
được triển khai theo thông lệ phổ biến của Hải quan các nước là Kiểm toán sau
thông quan (PCA), tuy nhiên mới chỉ chủ yếu tập trung cho việc đảm bảo nguồn
thu ngân sách nhà nước; quy trình nghiệp vụ đang được chuẩn hóa trên cơ sở ứng
dụng công nghệ thông tin; hình thành được cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp để phân
loại đánh giá doanh nghiệp phục vụ kiểm tra sau thông quan cũng như phản hồi kết
quả cho các khâu nghiệp vụ. Bộ máy tổ chức kiểm tra sau thông quan thống nhất từ
Tổng cục Hải quan đến các Cục Hải quan; lực lượng
kiểm tra sau thông quan đã cơ bản đạt trình độ đáp ứng công việc, hoạt động có
hiệu quả, biên chế chiếm 7,5 % tổng
biên chế của ngành.
Giai đoạn 2011-2015,
tổng số cuộc kiểm tra sau thông quan: 18.322 cuộc (tăng gấp 4,5 lần so với giai
đoạn trước năm 2011), tổng số tiền ấn định 6.848 tỷ đồng (tăng gấp 5,2 lần so với
giai đoạn trước năm 2011), thực thu vào ngân sách nhà nước là 6.009 tỷ đồng
(tăng gấp 5,8 lần so với giai đoạn trước năm 2011).
Năm 2016: Tổng số cuộc
kiểm tra sau thông quan: 9.295 cuộc. Quyết định truy thu 3.303 tỷ
đồng (bằng 169% cùng kỳ năm 2015); Đã thực thu vào NSNN (bao gồm cả thu nợ từ
những năm trước) 2.223 tỷ đồng (bằng 118% so với cùng kỳ năm 2015).
Năm 2017: Tổng số cuộc
đã kết thúc KTSTQ: 8.252 cuộc. Tổng số tiền ấn định thuế và xử phạt vi
phạm hành chính là: 2.184.811.163.828 đồng (bằng 64,46% so với cùng kỳ năm
2016); Đã thực thu vào NSNN số tiền: 1.982.658.894.101 đồng (đạt 99,13% chỉ
tiêu năm 2017, bằng 95,11% so với cùng kỳ năm 2016).
Từ ngày 01/1/2018 đến
ngày 31/12/2018: Tổng số cuộc KTSTQ đã thực hiện: 6.320 cuộc, trong đó có 1.313
cuộc tại trụ sở người khai hải quan (đạt 103% chỉ tiêu năm 2018), 5.007 cuộc tại
trụ sở cơ quan hải quan. Tổng số tiền ấn định thuế và xử phạt vi phạm hành
chính là: 2.262 tỷ đồng, đã thực thu vào NSNN số tiền (bao gồm thu cả các cuộc
năm 2017) là 2.080 tỷ đồng , đạt 93% chỉ tiêu năm 2018 (2.235 tỷ đồng), đạt
107% chỉ tiêu điều chỉnh (1.949 tỷ đồng).
1.7 Về xây dựng hệ thống
chỉ số đo lường hoạt động của ngành
- Hình thành được
phương pháp luận cho các công việc: Xây dựng và sử dụng chỉ số đánh giá hoạt động
hải quan; Tiến hành cuộc đo thời gian giải phóng hàng; Khảo sát sự hài lòng của
khách hàng đối với hoạt động hải quan (các năm 2012, 2013, 2014). Đã xây dựng
và ban hành danh mục chỉ số hoạt động hải quan sử dụng thống nhất trong ngành từ
năm 2011 và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong năm 2012-2013.
- Thực hiện cuộc đo
thời gian giải phóng hàng cấp quốc gia trong năm 2013, ban hành công văn
9533/TCHQ-CCHĐH ngày 30/7/2014 về việc ghi nhận kết quả
chỉ số năm 2013. Đến nay, một số Cục Hải quan đã chủ động tổ chức thực hiện đo
thời gian giải phóng hàng và khảo sát nhận thức khách hàng như: Cục Hải quan
Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Quảng Ninh; Tổng cục Hải quan đã công bố kết
quả đo thời gian giải phóng hàng của Hải quan Việt Nam năm 2013 vào ngày
19/9/2014 với sự tham gia của đại diện 05 Bộ, ngành, 07 Cục Hải quan tỉnh,
thành phố, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, Phòng thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, các tổ chức quốc tế (ADB, USAID) và các cơ quan báo đài, theo đó thời
gian trung bình từ khi đăng ký tờ khai đến khi Hải quan thông quan/giải phóng đối
với hàng nhập khẩu là 32:37:55 (giờ: phút: giây), thời gian trung bình từ khi
tiếp nhận tờ khai hải quan đến khi thông quan/giải phóng đối
với hàng xuất khẩu là 11h 06 phút.
- Tháng 6/2015, Tổng
cục Hải quan đã phối hợp với VCCI, các Bộ, ngành để tổ chức cuộc đo thời gian trung bình giải phóng hàng tại 07 Cục Hải
quan tỉnh, thành phố và 11 Chi cục.
1.8 Một số nội dung cải
cách hiện đại hóa cơ bản khác
a. Các chương trình
phát triển quan hệ đối tác
Tổ chức các phiên làm
việc với chuyên gia quốc tế của dự án StarPlus, WCO để trao đổi kinh nghiệm và
phương pháp thúc đẩy quan hệ đối tác; tổ chức các hội thảo khu vực và hội thảo
quốc gia về quan hệ đối tác; thực hiện tham vấn các hiệp hội doanh nghiệp: VCCI,
VBF để tìm kiếm cơ hội và khả năng hợp tác; tiến
hành khảo sát thực tế tại một số địa bàn trọng điểm; xây dựng Báo cáo Phân
tích khoảng cách. Xây dựng, ban hành "Kế hoạch phát triển quan hệ đối tác
Hải quan - Doanh nghiệp giai đoạn 2013 - 2015"
làm căn cứ cho việc tổ chức các hoạt động thúc đẩy mối quan hệ đối tác giữa Hải
quan - Doanh nghiệp. Tổ chức Lễ ra mắt Nhóm công tác Hải quan - Doanh nghiệp và
ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Tổng cục Hải quan với VCCI và Liên minh VBF về
Cơ chế thông tin, hỗ trợ và tăng cường quan hệ hợp tác Hải quan - Doanh nghiệp
giai đoạn 2014 - 2020 tại trụ sở Tổng cục Hải quan; tổ chức Hội nghị tập huấn về
công tác phát triển
quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp với sự
tham gia chuyên gia dự án USAID GIG và 18 hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp;
tập huấn giới thiệu kỹ năng tham vấn hải
quan tại 03 khu vực Bắc, Trung, Nam; tập huấn kỹ
năng giải quyết xung đột và kỹ năng đàm phán cho một số Cục Hải quan tỉnh,
thành phố lớn và một số đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan; hướng dẫn và lập kế hoạch
tổ chức các cuộc tham vấn tại 07 Cục Hải quan tỉnh, thành phố lớn: TP. Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng, TP. Hải Phòng, Lạng Sơn, Bình Dương,
Đồng Nai.
b. Hợp tác quốc tế
lĩnh vực hải quan
Hải quan Việt Nam tiếp
tục được duy trì thúc đẩy và mở rộng từ các nước
bạn bè truyền thống sang hợp tác với hải quan các nước có quan hệ kinh tế
thương mại lớn với Việt Nam, gắn chặt chẽ với nhiệm vụ trọng tâm của ngành là
quản lý tốt hơn hoạt động xuất nhập khẩu thông quan việc trao đổi thông tin
nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm nghiệp vụ. Nhiều hiệp định, thỏa thuận hợp tác hải
quan đã được ký kết, nhằm nâng cao hiệu quả tạo thuận lợi cho hàng hóa xuất nhập
khẩu, phương tiện xuất nhập cảnh qua biên giới, đồng thời tăng cường đấu
tranh phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển các chất ma túy
hàng cấm qua biên giới, nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật đảm bảo an ninh, chủ quyền lợi ích kinh tế quốc gia.
Hợp tác hải quan đa
phương giai đoạn 2011 đến nay đã mang lại cho Hải quan Việt Nam nhiều kết quả hết
sức quan trọng thúc đẩy quá trình cải cách hiện đại hóa bằng việc triển khai
các cam kết đa phương nhờ đó tiếp cận và khẳng định được trình độ quản lý hải
quan hiện đại và đã nâng trình độ chuyên môn về quản lý và thực thi các hiệp
thương mại đã cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại
tự do,...
Vị thế của Hải quan
Việt Nam trong ASEAN tiếp tục được khẳng định trong việc thực hiện các chương
trình sáng kiến hợp tác hải quan khu vực. Tháng 6/2014, Hải quan Việt Nam đăng cai
tổ chức Hội nghị Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN lần thứ 23. Trong giai đoạn
2011-2015, Tổng cục Hải quan đã làm tốt vai trò chủ trì điều phối của chính phủ
trong đàm phán hiệp định tạo thuận lợi thương mại WTO trong bối cảnh nội dung
đàm phán rộng, có liên quan đến
nhiều bộ ngành và đan xen lợi ích. Với các thể chế đa phương khác như WCO, APEC,
ASEM các cam kết liên quan đến Hải quan được thực hiện đúng tiến độ đáp ứng yêu
cầu hội nhập. Giai đoạn này, lần đầu
tiên đã cử đại diện Hải quan tại Brussels, Bỉ vừa để tham gia các hoạt động của
WCO vừa theo dõi cập nhật thông tin từ các nước Châu Âu phục vụ cho công tác hội
nhập và quản lý hải quan.
Trong thời gian qua,
sự hỗ trợ của các đối tác phát triển đã đóng góp tích cực, thúc đẩy cải cách thể
chế, phát triển nguồn lực con người và đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại hóa. Các
hoạt động hỗ trợ dưới hình thức viện trợ không hoàn lại các thiết bị kiểm tra,
kiểm soát hiện đại (máy soi container, máy phát hiện hiện phóng xạ, thiết bị phục
vụ công tác kiểm hóa trị giá hàng trăm triệu USD...), đào tạo
các mảng nghiệp vụ, xây dựng năng lực nghiệp vụ... bắt nguồn từ các chương
trình hợp tác với các nước đối tác như WCO, Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc...
Trong khuôn khổ hợp
tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, Tổng cục Hải quan đã thực hiện tốt giai đoạn
1 thí điểm một cửa một lần dừng tại cặp cửa khẩu
Lao Bảo - Đen Sa Vẳn, hoàn tất đàm phán thỏa thuận với phía
Lào để triển khai bước 4 (giai đoạn 2) của việc thực hiện kiểm tra một cửa một
lần dừng tại cặp cửa khẩu này từ ngày 1/4/2015.
2. Một số tồn tại, hạn
chế trong quá trình cải cách, hiện đại
hóa Ngành Hải quan giai đoạn 2011 đến nay
2.1.
Về Thể chế
- Các văn bản hướng dẫn
Luật Hải quan cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung làm cơ sở cho việc triển khai hiệu
quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Hiệp định tạo thuận lợi thương mại
(TF) đã ký kết.
- Các văn bản triển
khai thi hành Luật Hải quan chưa được ban hành cùng thời gian với Luật Hải quan
dẫn đến vướng mắc trong công tác thực hiện. Bên cạnh đó, vẫn có tình trạng văn bản
quá dài, nhiều nội dung dễ dẫn đến cách hiểu, cách áp dụng không thống nhất.
- Các văn bản hướng dẫn
Luật Hải quan chưa hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục hải quan đối với các loại hình
hàng hóa có loại được quy định chi tiết ở Nghị định, có loại lại được chi tiết ở
Thông tư dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng văn bản. Một số nội dung về thủ tục
hải quan đối với một số trường hợp chưa được quy định chi tiết dẫn
đến phải hướng dẫn bằng công văn.
- Một số quy trình
nghiệp vụ còn chậm ban hành. Theo kế hoạch
cần ban hành 21 quy trình nghiệp vụ để triển khai thi hành Luật Hải quan. Tuy
nhiên, đến nay mới ban hành được 16 quy trình (chủ yếu liên quan đến lĩnh vực
quản lý rủi ro).
- Văn bản pháp luật về
kiểm tra chuyên ngành của các Bộ, ngành liên quan quá nhiều, còn chồng chéo,
chưa đồng bộ, gây khó khăn cho cơ quan hải quan
và cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực thi. Mặt khác, chưa có sự tương thích
giữa một số văn bản quy phạm pháp luật hoặc thực tế công tác kiểm tra chuyên
ngành với Luật Hải quan 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành nên
một số quy định chưa phát huy hết
vai trò tích cực trong công tác cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian
thông quan.
2.2.
Về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan
- Hệ thống công nghệ
thông tin thực hiện thủ tục hải quan điện tử chưa được xây dựng đồng bộ với các
mảng nghiệp vụ khác như kiểm tra sau thông quan, hệ thống thông tin hỗ trợ công
tác kiểm soát, chống buôn lậu, khai báo thông tin manifest hàng không...và
các công cụ khai thác hỗ trợ quản lý hải quan;
- Việc kiểm tra hàng
hóa tại kho, bãi, cảng, khu vực cửa khẩu qua hệ thống máy soi còn chưa hiệu quả
do chưa có tiêu chí lựa chọn lô hàng kiểm tra, số lượng máy soi, vị trí bố trí
máy soi còn chưa hợp lý khó khăn cho công tác soi chiếu. Tỷ lệ kiểm tra hồ sơ,
kiểm tra thực tế hàng hóa giảm so với năm trước nhưng chưa
đáp ứng mục tiêu yêu cầu tạo thuận lợi. Kết quả
kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa chưa hiệu quả, tỷ lệ phát hiện vi
phạm trong kiểm tra hải quan chưa phản ánh đúng thực trạng vi phạm đang diễn ra
(mới đạt trên 1,43%).
- Số lượng hồ sơ thực
hiện qua Cơ chế một cửa quốc gia giai đoạn đầu kết nối chính thức còn chưa nhiều.
Các Bộ, ngành vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Hệ thống Công nghệ
thông tin để kết nối và thực hiện các thủ tục hành chính trên cổng thông tin một
cửa.
- Công
tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập
dẫn đến thời gian thực hiện kéo dài ảnh hưởng đến quá trình và thời gian làm thủ
tục thông quan hàng hóa của cơ quan hải quan (danh mục hàng hóa phải kiểm tra
quá rộng; phương tiện kỹ thuật, nguồn nhân lực phục vụ kiểm tra
chuyên ngành tại khu vực cửa khẩu còn thiếu và yếu; phối hợp và trao
đổi thông tin giữa các đơn vị còn hạn
chế...).
- Công tác giám sát
chưa chuyển biến mạnh mẽ theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản quy định
chi tiết thi hành. Việc giám sát chủ yếu vẫn thực hiện thủ công nên mất nhiều
thời gian và nguồn lực, hiệu quả không cao. Việc ứng dụng trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại trong giám sát còn hạn chế, nhiều phương
pháp giám sát mới đang áp dụng thí điểm (GPS, giám sát qua doanh nghiệp kinh
doanh kho bãi cảng). Quy trình quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong giám
sát hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu chưa được ban hành, chưa có tiêu
chí quản lý rủi ro để áp dụng biện pháp giám sát phù hợp;
- Cơ sở vật chất kỹ
thuật của một số doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng còn chưa đáp ứng, một số
doanh nghiệp chưa sẵn sàng, do đó hiện nay việc thực hiện quy định giám sát
hàng hóa ra vào cảng theo quy định tại Điều 41 Luật Hải quan
mới đang được thực hiện thí điểm tại Cục Hải quan Hải Phòng.
- Đại lý hải quan
chưa phát huy được vai trò, số lượng đại lý
hải quan hoạt động đúng nghĩa còn nhỏ so với tổng
số lượng đại lý, theo Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh, đã có 80% doanh nghiệp sử dụng
dịch vụ của đại lý hải quan nhưng chỉ có 10% đại lý hải quan đứng tên tờ khai.
Hoạt động đại lý gặp sự cạnh tranh không lành mạnh của các cá nhân, doanh nghiệp
không phải đại lý nhưng thực hiện dịch vụ làm thủ tục thay cho chủ hàng, dẫn đến
nhiều rủi ro cho chủ hàng khi không chịu trách
nhiệm pháp lý và không chịu sự quản lý của cơ quan hải quan.
2.3.
Về quản lý thuế
- Mức thuế xuất nhập
khẩu ưu đãi là 43 mức (theo Thông tư số 164/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ
Tài chính), chưa đạt được kế hoạch đề ra (năm 2015 còn 5 mức), do các nguyên
nhân: Thực hiện các mức cam kết về thuế suất với WCO; thực hiện yêu cầu bảo hộ
sản xuất trong nước (sử dụng hàng rào thuế quan); phải đảm bảo nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước.
- Công tác phối hợp
thu thuế triển khai giữa cơ quan hải quan với 27 ngân hàng thương mại, một số
trường hợp doanh nghiệp đã nộp thuế (qua các ngân hàng chưa ký thỏa thuận phối
hợp thu với cơ quan hải quan) nhưng chưa được cập nhật vào hệ thống
của cơ quan hải quan theo quy định. Chưa có sự phối hợp đồng bộ về thời gian
làm việc giữa ngân hàng và cơ quan hải quan dẫn đến tình trạng hàng hóa đã làm
thủ tục hải quan nhưng không thể nộp thuế để thông quan do ngân hàng hết giờ
làm việc hoặc nghỉ cuối tuần, nghỉ lễ, nghỉ tết.
- Theo kiến nghị của VCCI,
những quy định cần được sửa đổi trước hết là các quy định liên quan đến thuế và
quản lý thuế như cách xác định trị giá, các thủ tục không thu thuế, hoàn thuế,
quyết toán thuế, kiểm tra sau thông quan.
2.4.
Về công tác kiểm soát hải quan
- Thẩm quyền của lực
lượng Kiểm soát hải quan chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Dưới áp lực về
khối lượng và thời gian lưu thông hàng hóa ngày càng tăng, phương thức thông
quan ngày càng hiện đại; địa bàn quản lý của một số hải quan biên giới trải
dài, phức tạp, nhiều đường mòn, lối mở; các đối tượng hoạt động với thủ đoạn
ngày càng tinh vi, liều lĩnh nên việc kiểm soát, ngăn chặn, bắt giữ gặp nhiều
khó khăn do lực lượng kiểm soát còn mỏng, các trang thiết bị hiện đại phục vụ
kiểm soát như thiết bị soi chiếu hàng hóa còn thiếu, kinh phí phục vụ công tác
đấu tranh với tội phạm, chống buôn lậu còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ.
- Việc áp dụng việc
giám sát trực tuyến mới được thực hiện ở bước đầu và tại một số điểm nên khả
năng hỗ trợ kiểm soát vẫn còn hạn chế; Công tác phối hợp, cung cấp thông tin giữa
các đơn vị chưa đạt được hiệu quả cao. Nguồn nhân lực dành cho công tác phân
tích đánh giá số liệu còn mỏng, hạn chế gây khó khăn cho công tác kiểm soát hải
quan; Hệ thống báo cáo của các chương trình nghiệp vụ chưa cung cấp được nhiều
thông tin cho lực lượng kiểm soát trong các công tác nghiệp vụ có liên quan.
2.5.
Về công tác quản lý rủi ro
- Mặc dù việc tổ chức
triển khai thực hiện các biện pháp, kỹ thuật quản lý rủi ro có vai trò hết sức
quan trọng, đảm bảo chất lượng và hiệu quả công tác quản lý rủi ro; tuy vậy thời
gian qua, việc triển khai công tác này còn chưa đồng đều, một số biện pháp còn
chưa chuyên nghiệp, trong khi có những biện pháp, kỹ thuật đang trong quá trình
triển khai thí điểm, ví dụ như công tác đo lường tuân thủ trong hoạt động nghiệp
vụ hải quan.
- Việc triển khai áp
dụng quản lý rủi ro trong một số lĩnh vực nghiệp vụ hải quan chưa phát huy được
hiệu quả; một số lĩnh vực nghiệp vụ chưa được triển khai áp dụng quản lý rủi ro
theo quy định của pháp luật.
- Tỷ lệ kiểm tra hồ
sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa đối với hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên
ngành còn cao. Tỷ lệ phát hiện vi phạm trong kiểm tra thực tế hàng hóa còn thấp,
khoảng 1%.
- Hoạt động thu thập,
xử lý thông tin trong ngành còn tình trạng riêng rẽ, cát cứ, thiếu tập trung thống
nhất; thông tin trên các hệ thống còn chưa đầy đủ, tản mát, chưa được chuẩn
hóa, chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời để đáp ứng cho việc xử lý, đánh giá rủi
ro.
- Cán bộ, công chức
làm công tác quản lý rủi ro nói riêng và đội ngũ công chức ở các khâu nghiệp vụ
tại Hải quan các cấp còn hạn chế về nhận thức, năng lực và kiến thức nghiệp vụ.
2.6.
Về công tác kiểm tra sau thông quan
- Áp dụng quản lý rủi
ro đối với kiểm tra sau thông quan chưa được áp dụng đầy đủ, chưa chú trọng vào
việc phân tích, lựa chọn đối tượng kiểm tra. Phương thức kiểm toán hải quan
chưa được triển khai thực hiện đầy đủ trong các hoạt động kiểm tra sau thông
quan. Đánh giá tuân thủ mới chỉ dừng ở đánh giá trên cơ sở thông tin thu được
qua công tác kiểm tra sau thông quan. Trong khi đó mục tiêu đánh giá tuân thủ
theo yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại là đánh giá tổng thể quá trình chấp
hành pháp luật hải quan và pháp luật có liên quan của doanh nghiệp để xác định
mức độ tin cậy đối với cơ quan hải quan, qua đó xác định thủ tục tương ứng
trong quá trình tiến hành thủ tục hải quan.
- Mô hình tổ chức bộ
máy kiểm tra sau thông quan tại Tổng cục (Cục Kiểm tra sau thông quan) chưa phù
hợp dẫn đến hạn chế trong việc triển khai hoạt động kiểm tra sau thông quan tại
các địa bàn, các khu vực trong toàn quốc; Mô hình các phòng thuộc Cục Kiểm tra
sau thông quan (kiểm tra sau thông quan theo lĩnh vực) thiếu thẩm quyền trong
việc kiểm tra xử lý; hạn chế trong việc kiểm tra tính tuân thủ pháp luật của
doanh nghiệp.
- Cán bộ làm công tác
kiểm tra sau thông quan còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu khối lượng công việc
ngày càng tăng; thiếu cán bộ có kinh nghiệm, kỹ năng chuyên nghiệp, trình độ
chuyên sâu.
- Ứng dụng công nghệ
thông tin và thu thập thông tin phục vụ hoạt động
kiểm tra sau thông quan còn hạn chế. Chưa xây dựng và áp dụng hệ thống chỉ số
đo lường trong hoạt động kiểm tra sau thông quan.
2.7.
Về xây dựng hệ thống chỉ số đo lường hoạt động của ngành Hải quan.
Sự quan tâm và đầu tư
nguồn lực đối với công tác chỉ số đánh giá hoạt động tại nhiều đơn vị còn chưa
tương xứng; chưa sử dụng thông tin về kết quả của chỉ số để phục vụ cho hoạt động
quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan; việc báo cáo kết quả chỉ số tại một số
đơn vị vẫn còn mang tính chất hình thức mà không xây dựng nguồn số liệu ngay từ
đầu, không có sự rà soát, kiểm soát số liệu, kết quả chỉ số; còn nhiều đơn vị
chưa quan tâm đến nội dung phân tích, đánh giá các yếu tố tác động đến chỉ số,
xác định những yếu tố tác động gây ra những thay đổi
số liệu, qua số liệu chỉ số chưa nêu được điểm
mạnh, điểm yếu của hoạt động được đánh giá, chưa
xác định được nguyên nhân của tồn tại để có giải pháp khắc phục, việc ứng dụng
hệ thống chỉ số trong công tác điều hành chưa được quan tâm đúng mức nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả lĩnh vực hoạt động.
2.8.
Về tổ chức bộ máy,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
a. Về tổ chức bộ
máy
- Chức năng, nhiệm vụ
của một số Vụ, Cục thuộc Tổng cục vẫn còn chưa rõ ràng, chồng chéo. Cơ cấu tổ
chức của các phòng tham mưu thuộc Cục Hải quan
chưa tinh gọn, hiệu quả cần được sắp xếp lại theo hướng giảm bớt cấp trung gian
để phù hợp với yêu cầu quản lý hải quan tập trung khi triển khai hệ thống thông
quan điện tử VNACCS/VCIS. Số lượng các Đội (Tổ) nghiệp vụ tại một số Chi cục
chưa đáp ứng được khối lượng công việc tăng cao và địa bàn quản lý mới phát
sinh.
- Việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan; các đơn vị Vụ,
Cục thuộc Tổng cục và tương đương; các Phòng, Chi cục Hải quan, Đội Kiểm soát Hải
quan và đơn vị tương đương chậm triển khai ảnh hưởng tới tiến độ sắp xếp lại tổ
chức, bộ máy.
b. Về quản lý
nguồn nhân lực
- Các hoạt động quản
lý nguồn nhân lực được thực hiện chủ yếu dựa trên quản lý chức danh, ngạch bậc;
chưa đề cập đến từng vị trí việc làm, chưa xác định rõ năng lực chuyên môn (các
kiến thức và kỹ năng) cần có của mỗi vị trí. Chưa có một hệ thống danh mục sản
phẩm và bảng định mức sản phẩm của từng vị trí việc làm trong ngành. Chưa có hệ
thống theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện công việc theo sản phẩm do đó căn cứ
đánh giá đang còn chung chung, chưa có tiêu chí cụ thể. Việc quản lý thông tin
nhân sự và phần lớn các khâu công tác quản lý nguồn nhân lực của cơ quan hải
quan hiện đang thực hiện theo phương thức truyền thống, chưa xây dựng được hệ
thống thông tin quản lý nhân sự theo năng
lực, áp dụng phương thức điện tử một cách hiệu quả.
- Chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức vẫn chưa thực sự đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu của cán bộ,
công chức dẫn đến nhiều công chức vẫn chưa thực sự tâm huyết trong công việc.
c. Về đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực
- Cơ chế tài chính áp
dụng trong hoạt động đào tạo gặp nhiều vướng mắc dẫn đến việc tổ chức đào tạo
còn gặp nhiều khó khăn. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức có điểm còn
chưa theo kịp sự phát triển hiện đại hóa của Ngành Hải quan, dẫn tới công tác bồi
dưỡng còn bị động, thiếu tổng thể gây khó khăn cho triển khai thực hiện và công
tác quy hoạch các cấp lãnh đạo.
- Đội ngũ chuyên gia
các lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản của ngành đã bước đầu hình thành nhưng chưa xây dựng
được khung năng lực phù hợp, chưa có cơ chế sử dụng hiệu quả, chưa đảm bảo về số
lượng và chất lượng theo yêu cầu.
- Hình thức đào tạo
trực tuyến chưa được tổ chức nghiên cứu một cách khoa học để đưa vào thực tiễn
hoạt động. Việc triển khai phân tích nhu cầu đào tạo và đào tạo
theo khung năng lực của vị trí việc làm chưa triển khai được do
chưa kịp xây dựng đủ khung năng lực cho các lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản.
- Hệ thống tài liệu
thay đổi chậm dẫn đến nhiều bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức Hải quan.
- Một số nội dung
chương trình và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng còn chưa bám sát nhu cầu của người
học cũng như yêu cầu của các đơn vị dẫn đến việc đào tạo còn trùng lắp, chồng
chéo và chưa hiệu quả.
- Công tác đánh giá
hiệu quả, chất lượng sử dụng cán bộ công chức sau đào tạo chưa tốt do chưa có hệ
thống tiêu chí đánh giá, sử dụng hoặc việc sử dụng sau đào tạo không đúng, không
phù hợp với nội dung cán bộ công chức được đào tạo.
2.9.
Một số nội dung cải cách hiện đại hóa
cơ bản khác
Bên cạnh những kết quả
đạt được, trong lĩnh vực hợp tác quốc tế Hải quan Việt Nam chưa xây dựng được định
hướng dài hạn. Việc triển khai các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trên
thực tế đều xuất phát từ sức ép hội nhập chung của đất nước và các yếu tố xuất
phát từ bên ngoài, do đó dẫn đến những bị động trong triển khai thực hiện. Việc
chỉ đạo thực hiện và mối quan hệ phối hợp còn chưa thực sự thống nhất. Việc
theo dõi, đánh giá kết quả triển khai các cam kết quốc tế chưa thường xuyên và
chặt chẽ; hiệu quả của việc tiếp thu kiến thức của các đoàn học tập kinh nghiệm
quốc tế còn hạn chế.
3. Nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế trong hoạt động cải cách, hiện đại hóa Hải quan
- Do tính chất và yêu
cầu của các công việc về cải cách, hiện đại hóa là phải tiến hành nghiên cứu, đề
xuất, xây dựng và triển khai thực hiện những công việc mới, phức tạp, chưa được
áp dụng trong Ngành Hải quan; kết quả của việc cải
cách, hiện đại hóa hải quan đòi hỏi phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả, góp phần
quan trọng để thực hiện quản lý Nhà nước về hải quan
có hiệu lực.
- Yêu cầu đặt ra đối
với Ngành Hải quan là khi tiến hành nghiên cứu, đề xuất những vấn đề mới về cải
cách, hiện đại hóa sẽ đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có kiến thức, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm; đồng thời, phải có sự sáng tạo, linh hoạt
và tâm huyết với công việc.
- Nhiều việc phải tiến
hành trong thời gian dài, đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về công sức và nhân
lực (thường là huy động trong toàn ngành); công chức thực hiện phải tiến hành
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm trong nước và quốc tế về những vấn đề liên
quan.
- Việc triển khai, thực
hiện đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ với nhiều đơn vị trong và ngoài
Ngành Hải quan.
- Làm cái mới, thay đổi
cái cũ, đụng chạm đến tư duy, thói quen, lợi ích. Do vậy, khi bắt đầu triển
khai, thực hiện thường chưa nhận được sự đồng tình, ủng hộ của một bộ phận công
chức trong Ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, phải tổ chức tuyên truyền,
quán triệt để nâng cao nhận thức của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài Ngành
Hải quan.
V.
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1. Kết quả triển khai
ứng dụng công nghệ thông tin
trong lĩnh vực hải quan giai đoạn 2011 đến nay
Đặc điểm hoạt động của
Ngành Hải quan là chuyên tiếp xúc với khối lượng hàng hóa, tiền
tệ lớn thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Do vậy, đây là khu vực
nhiều nguy cơ xảy ra tham nhũng. Thủ tục hải quan lạc hậu, thủ công, nhiều
giấy tờ phiền
phức chính là một trong những nguyên nhân khiến cho doanh nghiệp, khách hàng muốn
làm thủ tục nhanh, không mất thời gian, công sức chờ đợi thường hay chi một khoản
tiền để hối lộ, lót tay cho cán bộ, công chức hải quan. Thủ tục hải quan lạc hậu
cũng chính là cái cớ để công chức hải quan vin vào gây khó dễ, chậm trễ cho
doanh nghiệp. Mặt khác, các đối tượng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt
là các đối tượng có hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả) sẽ
vì lợi ích của mình, tìm mọi cách hối lộ công chức hải quan với giá trị lớn, thậm
chí là rất lớn, gây thất thoát nguồn thu vào ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp chân chính.
Để giảm bớt cơ hội tiếp
xúc giữa cán bộ, công chức hải quan và các doanh nghiệp, giảm thiểu các cơ hội
dẫn đến tiêu cực, tham nhũng, nâng cao liêm chính hải quan, một trong những giải
pháp hữu hiệu là tự động hóa các khâu nghiệp vụ chủ yếu
trong quy trình thủ tục hải quan và tin học hóa các chức năng của hải quan. Việc
tin học hóa và tự động hóa sẽ góp phần giảm cơ hội tiếp xúc trực tiếp giữa cán
bộ hải quan và doanh nghiệp, giảm thiểu cơ hội can thiệp quá trình thông quan
hàng hóa của cán bộ hải quan, tăng tính khách quan trong giải quyết công việc của
cán bộ, công chức hải quan, tăng mức độ giải trình trách nhiệm
của cán bộ công chức hải quan khi ra các quyết định hành chính và thực hiện việc
kiểm tra, kiểm soát trên cơ sở các quyết định đó.
Giai đoạn 2011-2016,
tin học hóa, tự động hóa đã được ứng dụng mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước
về hải quan và trở thành một trong những động lực quan trọng nhất để hiện đại
hóa Ngành Hải quan. Công nghệ thông tin đã làm
thay đổi căn bản, toàn diện phương thức hoạt động của Ngành Hải quan, hình
thành nên một hệ thống Hải quan Việt Nam hiện đại, minh bạch, hiệu quả; góp phần
quan trọng vào cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hải
quan và là cơ sở quan trọng để thực hiện mục tiêu liêm chính hải quan. Kết
quả ứng dụng tin học hóa, tự động hóa cụ thể như sau:
a) Thực hiện thủ tục
hải quan điện tử:
Từ năm 2005, Tổng cục
Hải quan đã thực hiện thí điểm thủ
tục hải quan điện tử (TTHQĐT) tại Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh và Cục Hải quan
TP. Hải Phòng theo Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng
Chính phủ. Trong năm 2011, TTHQĐT được thực hiện mở rộng theo Quyết định
103/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đến
năm 2012, tiếp nối triển khai thí điểm thủ tục hải quan điện tử từ năm 2009 đồng
thời thực hiện Nghị định số 87/2012/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết
một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu thương mại Tổng cục Hải quan triển khai mở rộng việc thí điểm
thủ tục hải quan điện tử tại 21/34 Cục Hải quan tỉnh, thành phố, chiếm 61,8% tổng
số Cục Hải quan toàn ngành với 102 Chi cục được triển khai thí điểm. Từ đầu năm
2013, đã triển khai thành công thủ tục hải quan điện tử, chuyển từ triển khai
thí điểm đến triển khai chính thức trong phạm vi toàn quốc với cơ sở dữ liệu
chuyển từ xử lý phân tán tại các Chi cục sang xử lý tập trung tại Tổng cục.
Nhằm tiếp tục hoàn
thiện TTHQĐT, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển mới của đất nước, đảm bảo
tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, đồng thời tăng cường sự quản lý nhà nước
về hải quan, từ ngày 01/4/2014, TCHQ đã chính thức triển khai thực hiện Hệ thống
thông quan tự động (VNACCS/VCIS), tạo ra bước đột phá trong công tác cải cách
hiện đại hóa của ngành, với thủ tục hải quan chủ yếu
được thực hiện bằng phương thức điện tử tại tất
cả các Cục Hải quan, Chi cục Hải quan trên cả nước, nổi bật là hệ thống xử lý dữ
liệu tập trung ở cấp Tổng cục, với mức độ tự động hóa cao. Theo đó, tất cả các
quy trình thủ tục hải quan cơ bản đã được tự động hóa ở mức độ rất cao trừ những
thủ tục hải quan đối với hàng hóa tiểu ngạch biên giới.
Đến nay, Hệ thống
VNACCS/VCIS luôn được vận hành ổn định, an ninh, an toàn với sự tham gia của
hơn 99,65% doanh nghiệp tại 100% các đơn vị hải quan trên phạm vi toàn quốc.
Thông qua việc triển khai Hệ thống VNACCS/VCIS đã rút ngắn thời gian làm thủ tục
hải quan cho doanh nghiệp, giảm thiểu giấy tờ và đơn giản hóa hồ sơ hải quan.
Hiện nay, thời gian tiếp nhận và thông quan đối với hàng luồng xanh chỉ từ 1-3
giây, đối với hàng luồng vàng, thời gian xử lý và kiểm tra hồ sơ không quá 02
giờ làm việc.
Kết quả triển khai Hệ
thống VNACCS/VCIS:
STT
|
Chỉ
tiêu
|
01/4/2014
đến 31/12/2014
|
01/01/2015
đến 31/12/2015
|
01/01/2016
đến 31/12/2016
|
1
|
Kim
ngạch xuất nhập khẩu (Tỷ
USD)
|
197,02
|
323,41
|
350,23
|
|
- Xuất khẩu
|
98,45
|
160,09
|
176,24
|
|
- Nhập khẩu
|
98,57
|
163,32
|
173,99
|
2
|
Tờ
khai xuất nhập khẩu (Triệu tờ khai)
|
4,93
|
8,41
|
9,74
|
|
- Xuất khẩu
|
2,45
|
4,13
|
4,69
|
|
- Nhập khẩu
|
2,49
|
4,28
|
5,04
|
3
|
Doanh
nghiệp xuất nhập khẩu (Nghìn Doanh nghiệp)
|
50,38
|
63,07
|
72,89
|
b) Triển khai thành
công thanh toán điện tử (E-Payment):
Nhằm hướng tới mục
tiêu cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian nộp thuế, hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, từ năm 2012 đến nay,
Ngành Hải quan đã ứng dụng CNTT trong việc thu nộp thuế xuất nhập khẩu thông
qua triển khai rộng rãi thanh toán điện tử (E-payment) trên cơ sở kết nối hệ thống
CNTT Hải quan với các hệ thống CNTT của Kho bạc nhà nước và các Ngân hàng thương
mại. Hệ thống cho phép cơ quan hải quan tiếp nhận thông tin nộp thuế, lệ phí
online từ ngân hàng thương mại, thực hiện hạch toán, trừ nợ ngay sau khi nộp
thuế.
Tính đến hết năm
2016, Ngành Hải quan đã ký thỏa thuận hợp tác thu thuế XNK bằng phương thức điện
tử với 33 ngân hàng thương mại với số thu ngân sách chiếm
88% số thu ngân sách của Ngành. Việc thực hiện
thanh toán điện tử đã giúp doanh nghiệp thanh toán tiền thuế mọi lúc, mọi nơi,
thời gian nộp thuế giảm (trước đây mất thời gian từ 1 - 2 ngày, cá biệt có thể
mất 5 ngày, nay chỉ còn 3 phút); hạn chế tình trạng cưỡng chế, xét ân hạn nhầm,
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp. Đến nay, đã triển khai thanh toán
thuế điện tử tại 100% Chi cục Hải quan trên cả nước, với sự tham gia hợp tác của
27 ngân hàng thương mại phối hợp thu, với số thu chiếm khoảng 63,48% tổng số
thu của Tổng cục Hải quan. Đây là tiền đề cho việc mở rộng thanh toán điện tử đối
với các loại phí và lệ phí khi thực hiện các thủ tục hành chính của các Bộ,
Ngành tham gia vào Cơ chế một cửa quốc gia.
Kết quả triển khai hệ
thống thanh toán điện tử E-Payment được thể hiện qua sơ đồ sau:
Biểu
đồ: Kết quả triển khai hệ thống thanh toán điện tử E-Payment giai đoạn
2013-2016
c) Triển khai việc tiếp
nhận thông tin liên quan đến tàu biển XNC (E-Manifest):
Năm 2012, Ngành Hải
quan đã khai trương và triển khai thí điểm hệ thống tiếp nhận bản khai hàng
hóa, các chứng từ có liên quan và thông quan điện tử đối với tàu biển
xuất cảnh, nhập cảnh (E-manifest). Từ năm 2013, triển khai hệ thống tiếp nhận
100% hồ sơ điện tử tàu biển (E-Manifest)
và thông quan điện tử đối với tàu biển xuất cảnh, nhập cảnh tại 9 Cục Hải quan
tỉnh, thành phố có các cảng biển quốc tế lớn trên cả nước thông qua hệ thống Cổng
thông tin một cửa quốc gia như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Bình Định, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và Cần
Thơ. Trên 90% các hãng tàu, đại lý hãng tàu, công ty giao nhận đã tham gia thực
hiện e-Manifest.
d) Triển khai cơ chế
hải quan một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN
Việc ứng dụng CNTT mạnh
mẽ trong công tác cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan còn được thể hiện
trong việc triển khai Cơ chế Hải quan một cửa quốc gia. Theo đó, Giấy phép điện
tử (E-Permit) và C/O điện tử (E-C/O) được thực hiện từ tháng 12/2014 trong
khuôn khổ Cơ chế Hải quan một cửa quốc gia với 3 Bộ, ngành.
d1.
Triển khai Cơ chế một cửa quốc gia:
Tổng cục Hải quan đã
hoàn thành 3 giai đoạn triển khai Cơ chế
một cửa quốc gia với sự tham gia của 09 Bộ liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). Tính đến hết tháng 12 năm 2016, Cơ chế
một cửa quốc gia đã kết nối chính thức với 10 Bộ, ngành (Bộ Tài chính, Bộ
Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch); với 36 thủ tục
hành chính được thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc gia; xử lý trên 236
nghìn bộ hồ sơ hành chính và có tham gia của gần 8,7 nghìn doanh nghiệp.
Tính đến ngày
15/7/2017, Cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối
chính thức với 11 Bộ, ngành bao gồm: Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính (Tổng
cục Hải quan), Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 39 thủ tục
hành chính của 10 Bộ, ngành còn lại đã thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc
gia với tổng số hồ sơ hành chính được xử lý: hơn 422,3 nghìn bộ và khoảng trên
12,8 nghìn doanh nghiệp tham gia.
Tính đến ngày
31/12/2018, 12 Bộ, ngành đã triển khai 148 thủ tục hành chính trên Cơ chế một cửa
quốc gia (trong đó, từ sau khi tổ chức Hội nghị
thúc đẩy phát triển Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi
thương mại ngày 24/7/2018 đến 31/12/2018 đã triển khai mới được thêm 95 TTHC),
với tổng số hồ sơ hành chính đã được xử lý trên cổng
thông tin một cửa quốc gia trên 1,8 triệu bộ hồ sơ và xấp xỉ 26 nghìn doanh
nghiệp tham gia.
Triển
khai mở rộng Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển
theo Nghị định 58/2017/NĐ-CP: từ tháng 7/2018, Tổng cục Hải
quan đã phối hợp với các Bộ, ngành và các đơn vị có liên quan
triển khai mở rộng Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển,
cảng dầu khí ngoài khơi thuộc 24 tỉnh,
thành phố với 11 thủ tục hành chính liên quan đến tàu, thuyền. Và triển khai
4/4 thủ tục hành chính thuộc lĩnh cảng thủy nội địa, cụ thể: từ tháng 10/2018,
bắt đầu triển khai tại 8 cảng thủy nội địa thuộc tỉnh Long An với 02 TTHC liên
quan đến tàu xuất, nhập cảnh tại cảng thủy nội địa và từ tháng 11/2018, triển
khai mở rộng tại các cảng thủy nội địa thuộc tỉnh Long An, An Giang, TP. Hồ Chí
Minh với 02 thủ tục liên quan đến phương tiện thủy nội địa Việt Nam - Campuchia
nhập, xuất cảnh cổng, thủy nội địa.
Triển khai mở rộng Cơ
chế một cửa quốc gia đường hàng
không theo Quyết định số 43/2017/QĐ-TTg ngày 26/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ:
từ ngày 15/11/2017, Cơ chế một cửa quốc gia đã được triển khai tại các cổng
hàng không quốc tế trên cả nước (cho 03 thủ tục đối với tàu bay xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh) nhằm đảm bảo tính sẵn sàng của cổng thông
tin một cửa quốc gia phục vụ triển
khai chính thức Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không, Đồng thời, phối hợp với
các Bộ (Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Bộ y tế) tổ chức triển khai chính thức Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng
không: (i) Cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng hàng không
đã được cấp tài khoản và sử dụng Cổng thông tin một cửa quốc gia để tiếp nhận
thông tin liên quan đến tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
(ii) Từ ngày 01/11/2018, triển khai chính thức kết nối hệ thống của
Bộ Giao thông vận tải với Cổng thông tin một cửa quốc gia để nhận dữ liệu hành
khách trước chuyến bay.
d2.
Triển khai Cơ chế một cửa ASEAN:
Từ tháng 9/2015, Cơ
chế một cửa quốc gia của Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành công với 04 nước
ASEAN (Indonesia, Malaysia, Thái Lan,
Singapore) để trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng hóa xuất khẩu có
xuất xứ ASEAN (ATIGA C/O mẫu D). Hiện tại, Cơ chế một cửa quốc
gia đang tiếp tục trao đổi thông tin về ATIGA C/O mẫu D với 04 nước thành viên
trên (thông qua môi trường thử nghiệm) để đảm bảo chính thức vận hành khi Nghị
định thư về khung pháp lý để thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN được đủ 10 nước
thành viên phê chuẩn. Đến hết năm 2016, 06/10 nước đã phê duyệt
Nghị định thư. Tính đến hết ngày 31/7/2017, đã có 10/10 nước thành viên phê duyệt
Nghị định thư.
• Cơ chế một cửa quốc
gia và Cơ chế một cửa ASEAN (e-Permit, e-C/O): Tổng
cục Hải quan đã hoàn thành 3 giai đoạn triển khai Cơ chế một cửa quốc gia với sự
tham gia của 09 Bộ liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công
Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ
Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch). Tính đến ngày 31/12/2015, ngoài thủ tục thông quan hàng hóa
(Bộ Tài chính), 28 thủ tục hành chính của 8 Bộ còn lại (Bộ Công thương, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế,
Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và
Công nghệ, Bộ Thông tin và truyền thông) đã được thực hiện thông qua Cơ chế một
cửa quốc gia. Tổng số doanh nghiệp thực hiện thủ tục xuất nhập cảnh phương tiện
là 2.149 với tổng số hồ sơ thực hiện là 28.585; Tổng số doanh nghiệp thực hiện
thủ tục cấp phép là 873 với tổng số hồ sơ là 7.548. Với vai trò là cơ quan thường
trực của Ban Chỉ đạo quốc gia về Cơ chế hải quan một cửa quốc gia và Cơ chế một
cửa ASEAN, Tổng cục Hải quan đã nỗ lực với các Bộ, ngành triển khai Cơ chế một
cửa ASEAN, hoàn thành tốt nhiệm vụ của một nước thành viên, trở thành một trong
những nước tiên phong trong việc thúc đẩy việc triển khai Cơ chế một cửa ASEAN
trong khu vực.
- Trong giai đoạn
2011 đến nay đã xây dựng, triển khai: Cơ sở dữ liệu thông tin tình báo và quản
lý tuân thủ (quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan), Cơ sở dữ liệu quản lý
rủi ro phục vụ phân luồng hàng hóa, Cơ sở dữ liệu trị giá hải quan, Cơ sở dữ liệu
quốc gia về hàng hóa xuất khẩu/nhập khẩu phục vụ thống kê nhà nước về hải quan
và Cơ sở dữ liệu Danh mục, Biểu thuế và Phân loại, mức thuế. Hoàn thiện và đưa
vào vận hành các hệ thống ứng dụng trong các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan như: Hệ
thống thông tin quản lý rủi ro, Hệ thống kế toán thuế xuất nhập khẩu, Hệ thống
thông tin quản lý dữ liệu giá tính thuế, Hệ thống xác thực chữ ký số, Hệ thống
thông tin tình báo hải quan, Hệ thống thông tin phục vụ kiểm tra sau thông
quan, Hệ thống thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu. Các hệ thống trên đều đã được
triển khai thống nhất và rộng rãi trong
toàn ngành, từng bước tạo môi trường nghiệp vụ được thực hiện trên hệ thống
công nghệ thông tin.
- Hiện nay ngành Hải
quan đã cung cấp trên 182 dịch vụ công trực tuyến trong đó có 168 dịch vụ liên
quan đến thủ tục hành chính, (Cụ thể: mức độ 1, 2 có 94 dịch vụ; mức độ 4 có 74
dịch vụ), cho phép doanh nghiệp thực hiện thông qua mạng Internet các thủ tục
hành chính liên quan đến thông quan hàng hóa; nộp thuế, phí, lệ phí; thủ tục đối
với phương tiện vận tải đường biển. Cổng thông tin điện tử Hải quan đã cung cấp các dịch vụ công trực tuyến
hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan. Các trang thông
tin điện tử của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố cũng được kết nối với các Cổng
thông tin điện tử của chính quyền địa phương, góp phần tích cực vào công tác cải
cách thủ tục hành chính của các tỉnh, thành phố.
- Giai đoạn 2011 đến
nay, ngành Hải quan cũng đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin phục vụ công tác
quản lý điều hành, giảm giấy tờ hành chính. Đã triển khai trong toàn ngành các
hệ thống quản lý cán bộ, quản lý tài sản. Áp dụng Hệ thống Netoffice trong toàn
ngành để theo dõi, điều hành xử lý công việc thông qua mạng nội bộ. Hệ thống
thông tin báo cáo đã được đơn giản hóa, giảm bớt giấy tờ, giảm số lượng báo
cáo. Việc ứng dụng công nghệ thông tin còn được sử dụng trong việc quản trị
công việc như giao việc, đôn đốc thực hiện, tổ chức Hội nghị trực tuyến trong
toàn ngành. Việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong công tác quản lý điều hành
đã góp phần nâng cao một bước hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hải quan
trong bối cảnh khối lượng công việc tăng nhanh hơn rất nhiều so với nguồn nhân
lực.
- Giai đoạn 2011 đến
nay, Tổng cục Hải quan là cơ quan thống kê Bộ, ngành tiên phong trong việc ứng
dụng phương pháp thống kê hiện đại, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và ứng dụng mạnh
mẽ công nghệ thông tin trong công tác thống kê; Đáp ứng tốt các yêu cầu cung cấp
thông tin xuất nhập khẩu hàng hóa cho quản lý điều hành kinh tế vĩ mô, giữ vững
an ninh kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới sau khủng hoảng và suy thoái
cũng như đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của toàn xã hội.
Từ ngày 01/01/2018, Tổng
cục Hải quan đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kết nối chính
thức Cơ chế một cửa ASEAN: trao đổi chứng nhận xuất xứ mẫu Đ (C/O form D) bản
điện tử với 04 nước ASEAN (Singapore, Malaysia, Indonesia và Thái Lan).
Tính đến ngày
31/12/2018, tổng số C/O Việt Nam nhận từ 04 nước ASEAN là: 59.053 (trong đó: Indonesia:
44.972, Malaysia: 13.757, Singapore: 324, Thái Lan: 0). Tổng số C/O Việt Nam gửi
sang các nước là: 98.820 (trong đó; Indonesia: 24.062, Malaysia; 25.140,
Singapore; 8.508, Thái Lan: 41.110). Trong thời gian tới, theo kế hoạch sẽ triển
khai kết nối kỹ thuật thử nghiệm trao đổi thông tin tờ khai hải
quan ASEAN, chứng nhận kiểm dịch thực vật (ePhyto), chứng nhận kiểm dịch động vật
(e-AH).
đ) Hệ thống dịch vụ
công trực tuyến:
Trong những năm qua,
ngành Hải quan đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng và số lượng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh
nghiệp thông qua việc vận hành Cổng thông tin điện tử
hải quan như: (i) Tuyên truyền, phổ biến các cơ chế, chính sách, các quy trình,
hướng dẫn; (ii) Tiếp nhận các ý kiến phản ánh của người dân và doanh nghiệp để tổng
hợp, xử lý; (iii) Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong các lĩnh
vực: thông quan hàng hóa và phương tiện; nộp thuế điện tử; tra cứu và xác định
mã số hàng hóa, thuế suất; đăng ký sử dụng chữ ký số, tài khoản tham gia thủ tục
hải quan điện tử; tra cứu quá trình thực hiện thủ tục hải
quan; cung cấp thông tin xuất nhập khẩu cho các Bộ, ngành và cơ quan liên quan;
phổ biến số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu,...
Nhằm đáp ứng yêu cầu
triển khai các Nghị quyết của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là Nghị quyết số 36a/NQ-CP về Chính phủ
điện tử, trong năm 2016, TCHQ đã hoàn thành việc xây dựng và cung cấp dịch vụ
công trực tuyến tối thiểu mức độ 3 cho 46 thủ tục hành chính; nâng tổng số thủ
tục hành chính được cung cấp trực tuyến tối thiểu ở mức độ 3 là: 119/168 thủ tục
hành chính (chiếm 71%), trong đó 114/168 thủ tục hành chính được cung
cấp trực tuyến mức độ 4 (chiếm 68%). Từ ngày 01/01/2017 đến hết ngày 28/2/2017,
Tổng cục Hải quan đã vận hành thử nghiệm Hệ thống
cung cấp dịch vụ công trực tuyến tối
thiểu mức độ 3 cho 46 thủ tục hành chính. Bắt
đầu từ ngày 01/3/2017, đưa Hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến của TCHQ
vào vận hành chính thức.
Từ ngày 01/02/2018,
phiên bản mới của Hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) đã được triển
khai và cung cấp DVCTT cho 42 thủ tục hành chính (TTHC). Góp phần
đưa số DVCTT mức độ 3 và 4 của Tổng cục Hải quan lên tổng số 171/181 TTHC. Đến
tháng 7/2018, Hệ thống tiếp tục cung cấp 18 DVCTT cho các thủ tục không phải là
TTHC nhưng thường xuyên phát sinh. Tính từ ngày 01/3/2017 đến hết ngày
31/12/2018, Hệ thống DVCTT HQ 36a đã tiếp nhận và xử lý gần 191 nghìn bộ với sự
tham gia của gần 22 nghìn doanh nghiệp và cá nhân.
2. Ứng dụng CNTT
trong hoạt động nghiệp vụ hải quan:
Cục CNTT & TKHQ phối
hợp cùng các đơn vị nghiệp vụ đã từng bước ứng dụng CNTT một cách toàn diện vào
tất cả các mặt công tác nghiệp vụ của Ngành nhằm đáp ứng triển khai Luật Hải
quan, Luật quản lý Thuế và các yêu cầu nghiệp vụ:
Cụ thể, trong lĩnh vực
giám sát quản lý nhà nước về hải quan: Đã xây dựng, nâng cấp và triển khai các hệ
thống CNTT phục vụ cho công tác quản lý theo từng chế độ, loại hình nghiệp vụ
như: Hệ thống quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu theo phương thức quản
lý mới; Hệ thống quản lý, giám sát hải quan tại cảng
biển, sân bay; theo dõi và quản lý cửa hàng miễn thuế, kho ngoại quan, chế độ
riêng,...
Các hệ thống này đã
tạo ra một môi trường điện tử cho phép doanh nghiệp khai báo các thông tin về đối
tượng hàng hóa chịu sự quản lý, giúp cơ quan hải quan tiếp nhận, xử lý, theo dõi
tình hình thực hiện thủ tục hải quan của doanh nghiệp, quản lý các số liệu một
cách đầy đủ, kịp thời. Từ năm 2014, Ngành Hải quan đã
triển khai áp dụng hệ thống mã vạch trong công tác giám sát hải quan tại các
Chi cục Hải quan lớn, nhờ đó giảm thời gian xử lý hải quan tại khu vực giám sát
từ 30 phút/lô hàng xuống còn dưới 3 phút/lô hàng.
Trong công tác quản
lý thu thuế XNK, Ngành Hải quan đã triển khai trên phạm vi toàn quốc hệ thống Kế
toán thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và Hệ thống Quản lý thông tin giá tính thuế,
qua đó nâng cao hiệu quả công tác kế toán và xác định trị giá hàng hóa.
Từ tháng 12/2005,
Ngành Hải quan đã triển khai trên phạm vi toàn quốc Hệ thống quản lý rủi ro
(QLRR). Với tốc độ tăng không tương xứng giữa khối lượng công việc với công chức
Hải quan thì việc ứng dụng CNTT trong công tác QLRR có ý nghĩa rất lớn. Hệ thống
này cung cấp thông tin phục vụ quá trình thông quan tự động cũng như giúp Ngành
Hải quan tập trung nguồn lực để xử lý hồ sơ nghi vấn.
Bên cạnh đó, nhằm tiếp
tục nâng cao mức độ tự động hóa trong các khâu nghiệp vụ hải quan, Cục Công nghệ
thông tin và Thống kê hải quan tiếp tục thực hiện nâng cấp các hệ thống CNTT
khác: Hệ thống thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu; Xây dựng phân hệ tiếp nhận và
xử lý thông tin trước về hành khách trên các chuyến bay thương mại phục vụ
thông quan điện tử và quản lý rủi ro (API); Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ
ra quyết định nghiệp vụ giai đoạn 1...
Trong năm 2018, tiếp
tục sử dụng, khai thác có hiệu quả Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định nghiệp
vụ giai đoạn I; Tiếp tục triển khai Đề án nộp thuế điện tử và thông quan 24/7 mở
rộng cho các ngân hàng thương mại và các hệ thống
CNTT khác.
2.1. Ứng dụng CNTT phục
vụ công tác quản lý, điều hành:
Trong giai đoạn
2011-2016, Ngành Hải quan luôn đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý điều
hành, giảm giấy tờ hành chính. Đã triển khai trong toàn Ngành các hệ thống quản
lý cán bộ, quản lý tài sản. Hiện đang xây dựng Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết
định nghiệp vụ giai đoạn I. Áp dụng Hệ thống Net.Office trong toàn Ngành để
theo dõi, điều hành xử lý công việc thông qua mạng nội bộ. Hệ thống thông tin
báo cáo đã được đơn giản hóa, giảm bớt giấy tờ, giảm số lượng báo cáo. Việc ứng
dụng CNTT còn được sử dụng trong việc quản trị công việc như giao việc, đôn đốc
thực hiện, tổ chức Hội nghị trực tuyến trong toàn Ngành. 100% cán bộ, công chức
hải quan được cấp hòm thư điện tử và thường xuyên sử dụng thư điện tử trong
công việc.
Triển khai thí điểm Hệ
thống quản lý văn bản điều hành tập trung (EdocCustoms):
Hệ thống đã triển khai tại Tổng cục Hải quan và 17
Vụ/Cục, 22 Cục Hải quan tỉnh thành phố tới mức
2 (tức là toàn bộ cán bộ nhân viên đều tham gia sử dụng chương trình); còn lại
13 Cục Hải quan tỉnh thành phố được triển
khai hệ thống ở mức 1 (tức là mức đầu mối Văn thư Cực). Góp phần nâng cao hiệu
quả công tác văn phòng, kịp thời hỗ trợ, giải đáp các khó khăn vướng mắc cho cá
nhân, đơn vị trong quá hình triển khai hệ thống.
Trong năm 2018 Tổng cục
Hải quan tập trung quản lý, giám sát và đảm bảo vận hành Hệ thống thông quan tự
động VNACCS/VCIS và các hệ thống công nghệ thông tin tập
trung của ngành Hải quan ổn định 24/7, đảm bảo an ninh, an
toàn, đường truyền thông suốt phục vụ đắc lực cho việc thông quan hàng hóa xuất
nhập khẩu; đồng thời hướng dẫn, hỗ trợ, giải đáp vướng mắc
kịp thời cho các đối tượng sử dụng hoặc có kết nối với
các hệ thống CHTT của Ngành. Việc
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nghiệp vụ hải quan góp phần
tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, tăng tính minh bạch, giảm thời gian, tiết
kiệm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, Đồng
thời, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về Hải quan, hiện thực hóa các mục
tiêu trong Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020. Đây là động lực
để đẩy mạnh cải cách hành chính nằm trong chủ trương chung của Chính phủ.
2.2. Ứng dụng CNTT
trong công tác thống kê:
Nhờ đẩy mạnh ứng dụng
CNTT, chất lượng số liệu thống kê hàng hóa XNK, đánh giá tình hình XNK... của
cơ quan hải quan ngày càng chính xác và đáng tin cậy. Đặc biệt, sau khi Ngành Hải
quan triển khai Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCICS, mô hình xử lý thông
tin của cơ quan hải quan đã có thay đổi đáng kể. Đó là việc chuyển đổi từ mô
hình xử lý thông tin phân tán tại cấp Cục và cấp Chi cục sang mô hình xử lý
thông tin tập trung cấp Tổng cục. Điều này dẫn đến những thay đổi trong lĩnh vực
công nghệ thông tin nói chung và thống kê nói riêng.
Để đáp ứng được sự
thay đổi về mô hình xử lý thông tin tập trung, Tổng cục Hải quan đã xây dựng dự
án Nâng cấp Hệ thống thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu.
Hệ thống thống
kê mới này dựa trên nền tảng công nghệ thông tin tập trung sẽ
cung cấp một công cụ mới để khai thác thông tin từ Hệ thống tập trung. Cụ thể,
hệ thống thống kê mới với việc thực hiện kết nối thông tin với Hệ thống
VNACCS/VCIS và các hệ thống công nghệ thông tin khác sẽ hỗ trợ tốt công tác kiểm
tra số liệu, phát hiện lỗi nhờ đó nâng cao chất lượng số liệu. Đồng thời, Hệ thống
bổ sung nhiều biểu mẫu báo cáo, bổ sung các chức năng về phân tích, dự báo
thông tin, nhờ đó sẽ đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thông tin phục vụ việc xây dựng
chính sách, quản lý, điều hành của Lãnh đạo các cấp và phục vụ tốt công tác quản
lý nghiệp vụ của cơ quan Hải quan. Triển khai Hệ thống Thống kê mới vận hành
vào đầu năm 2018.
2.3. Đảm bảo điều kiện
hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu triển khai ứng dụng CNTT ổn
định, đảm bảo an toàn, an ninh mạng
Hiện nay, hệ thống
thông quan tự động VNACCS/VCIS và hệ thống CNTT cốt lõi của Ngành Hải quan là hệ
thống xử lý dữ liệu tập trung tại Tổng cục và hoạt động liên tục 24/7. Do đó,
việc đảm bảo các Hệ thống CNTT cốt lõi của Ngành Hải quan hoạt động ổn định, an
ninh, an toàn, không làm gián đoạn các hoạt
động nghiệp vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong năm 2016, vai trò và trách
nhiệm trong việc bảo đảm điều kiện hạ tầng kỹ thuật và an ninh, an toàn cho việc
vận hành các hệ thống công nghệ thông tin trong năm qua đã được nâng cao rõ rệt
với kết quả cụ thể như sau:
Về đảm bảo hạ tầng kỹ
thuật:
- Sau nhiều năm nỗ lực,
năm 2016, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan đã thực hiện chuyển đổi
thành công mô hình mạng diện rộng (mạng WAN), phù hợp với Hệ thống VNACCS/VCIS
và Hệ thống Một cửa quốc gia. Theo đó, bên cạnh mạng diện rộng chạy chung với Bộ
Tài chính, hiện nay, Tổng cục Hải quan đã có mạng WAN riêng, nối trực tiếp từ
Chi cục - Cục Hải quan - Khu vực - Tổng cục. Đây là điều kiện để đường truyền mạng
vận hành một cách ổn định, an ninh, an toàn, không làm gián đoạn hoạt động nghiệp
vụ hải quan.
Để đảm bảo hoạt động
nghiệp vụ hải quan, trong năm 2016, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải
quan cũng đã trang bị đầy đủ máy móc, trang thiết bị, máy tính cho cán bộ, công
chức trong toàn Ngành; bước đầu triển khai danh mục dự án về hạ tầng kỹ thuật
năm 2016 làm tiền đề để triển khai các năm tiếp theo như: Ảo hóa máy trạm, nâng
cấp cải tạo mạng LAN;...
Bên cạnh đó, trong
năm 2016, lực lượng cán bộ làm công tác công nghệ thông tin đã được nâng cao rõ
rệt về năng lực nghiệp vụ thông qua các khóa đào tạo và triển khai thực tế. Đến
nay, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan đã có một lực lượng cán bộ,
chuyên gia về công nghệ thông tin đủ năng lực và chủ động xử lý sự cố và hỗ trợ
cho các đơn vị trong toàn Ngành trong quá trình triển khai các ứng dụng công
nghệ thông tin.
Về đảm bảo an ninh,
an toàn thông tin:
Trong bối cảnh hệ thống
CNTT xử lý dữ liệu tập trung tại Tổng cục và hoạt động 24/7, công tác đảm bảo
an ninh, an toàn cho các hệ thống công nghệ thông
tin có một ý nghĩa rất quan trọng. Trong năm 2016, tội phạm an ninh, an toàn
thông tin đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp, các vụ tấn công mạng, tấn công vào
hệ thống máy tính của các cơ quan quản lý nhà nước tăng lên một cách nhanh chóng
với quy mô và hậu quả rất lớn, điển hình là vụ tấn công, làm tê liệt hệ thống
công nghệ thông tin của Hãng hàng không Việt Nam Airline trong nhiều giờ.
Trong bối cảnh đó, Cục
Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp đảm
bảo an ninh, an toàn hệ thống CNTT như: Chuẩn hóa quy trình quản lý vận hành
các hệ thống công nghệ thông tin, thực hiện quy trình quản lý mật khẩu một cách
chặt chẽ, khoa học; Thực hiện dịch vụ dò quét,
khắc phục lỗ hổng bảo mật Hệ thống CNTT cốt lõi hải quan tại Trung tâm quản lý
vận hành CNTT Hải quan; Dò quét mã độc toàn bộ máy chủ, dữ liệu, phần mềm tại
Trung tâm quản lý vận hành hệ thống CNTT Hải quan; Kiểm tra đánh giá cơ sở dữ
liệu Oracle của Hải quan.
Bên cạnh đó, một
trong những kết quả nổi bật của công tác bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống công
nghệ thông tin trong năm 2016 là Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan
đã xây dựng Bộ tiêu chuẩn đánh giá an ninh, an toàn về Hệ thống CNTT hải quan.
Đây là cơ sở để đánh giá, xây dựng và triển khai các hệ thống CNTT trong thời
gian tới một cách an ninh, an toàn.
Với những nỗ lực như
vậy, trong năm 2016, Hệ thống CNTT của Ngành Hải quan hoạt động ổn định, không
xảy ra sự cố lớn nào về an ninh, an toàn thông tin. Kết quả dò quét khắc phục lỗ
hổng bảo mật cho thấy hiện nay hệ thống CNTT Ngành Hải quan chưa nguy cơ an
ninh làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống.
3. Đánh giá về
kết quả triển khai công tác ứng dụng CNTT:
a) Những mặt tích cực:
Trong giai đoạn 2011
đến nay, Tổng cục Hải quan luôn nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các
khâu nghiệp vụ quản lý nhà nước về hải quan đáp ứng triển khai Luật Hải quan,
Luật quản lý thuế và các yêu cầu nghiệp vụ của ngành, đồng thời góp phần quan
trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu cải cách thủ tục hành chính của Ngành
nhằm triển khai có hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ như Nghị quyết
36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Nghị quyết 19/NQ-CP năm 2015, năm
2016 về các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh Quốc gia...
Đồng thời, việc ứng dụng
CNTT vào hoạt động nghiệp vụ hải quan đã góp phần giảm thiểu giấy tờ, giảm thời
gian làm thủ tục và thông quan hàng hóa XNK, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp
trong quá trình làm thủ tục hải quan, tăng tính minh bạch trong quá trình làm
thủ tục hải quan, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam; theo
Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ đánh giá: "Việc
thực hiện thủ tục hải quan điện tử theo Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS
và Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế đã giảm thời gian thông quan
hàng hóa bình quân từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối
với nhập khẩu, giảm được 10 -
20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp".
Bên cạnh đó, việc ứng
dụng CNTT trong lĩnh vực hải quan còn giúp nâng cao năng lực quản lý nhà nước về
hải quan, hiện thực hóa mục tiêu nêu trong Chiến lược phát triển Hải quan Việt
Nam đến năm 2020. Đây là động lực để đẩy mạnh cải cách hành chính nằm trong chủ
trương chung của Chính phủ.
b) Một số tồn tại và
nguyên nhân:
b1.
Khó khăn, vướng mắc:
Mặc dù đã đạt được
nhiều thành công, tuy nhiên so với yêu cầu cần phải đáp ứng trong giai đoạn mới,
hệ thống CNTT hải quan đã bộc lộ những tồn
tại cần xử lý như sau:
- Việc ứng dụng công
nghệ thông tin vẫn chưa phủ tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước
về Hải quan. Mức độ tích hợp giữa các hệ thống
CNTT còn hạn chế do đó gây khó khăn cho công tác điều hành chung đặc biệt công
tác quản lý và xây dựng chính sách. Khả năng thay đổi, đáp ứng các yêu cầu thay
đổi của quy định pháp luật của hệ thống CNTT còn chậm và thiếu các hệ thống
CNTT dự phòng; hoạt động của các hệ thống CNTT đôi khi còn chưa ổn định. Bên cạnh
đó, hệ thống CNTT được phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ
4 đã khiến cho một số công nghệ đặc biệt hệ thống CNTT tụt hậu một cách tự
nhiên.
- Một số công tác quản
lý chưa được tin học hóa hoặc có mức độ tự động hóa chưa cao, như quản lý hàng
hóa kiểm tra chuyên ngành, quản lý hàng hóa TNTX, quản lý phương tiện XNC; Các
phần mềm nghiệp vụ được xây dựng tách biệt, độc lập với nhau, do đó khả năng
liên thông giữa các hệ thống bị hạn chế, làm giảm hiệu quả hỗ trợ quản lý, công
chức Hải quan phải cùng một lúc sử dụng nhiều hệ thống làm mất thời gian và gây
áp lực công việc lớn.
- Hệ thống CNTT hải
quan chưa có hệ thống dự phòng đúng nghĩa, mới chỉ backup lưu trữ dữ liệu; Nếu
xảy ra sự cố thì việc khôi phục mất rất nhiều thời gian, gây gián đoạn, đình trệ
mọi hoạt động nghiệp vụ; Hệ thống bảo mật tại trung tâm dữ liệu của Tổng cục đã
được đầu tư, nhưng chưa đáp ứng được tình hình phức tạp về an ninh thông tin tại
Việt Nam và trên thế giới.
Một số tồn tại trong
triển khai Cơ chế một cửa quốc gia:
- Số TTHC được thực
hiện trên cơ chế MCQG (36 thủ tục) là còn thấp so với số thủ tục cấp phép đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh
(khoảng 13% trong số 280 thủ tục); Tổng số giấy phép điện tử trên cổng thông
tin MCQG/tổng số lô hàng XNK có thể thuộc diện phải cấp phép theo các thủ tục
đã triển khai qua cơ chế MCQG cho thấy, hầu hết các thủ tục này vẫn chưa được
triển khai trên diện rộng.
- Chưa có Nghị định
hướng dẫn đầy đủ về cơ chế MCQG; Việc thực hiện thủ
tục hành chính qua cơ chế MCQG chưa đơn giản, đồng bộ do mỗi đơn vị ban hành
quy định riêng về biểu mẫu hồ sơ, chứng từ mặc dù có rất nhiều chỉ tiêu tương tự
nhau; Việc triển khai thủ tục đầu tư tại các Bộ, ngành để xây dựng hệ thống xử
lý chuyên ngành không theo kịp với yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ.
b2. Nguyên nhân:
- Quá trình hiện đại
hóa công tác hải quan kéo dài trong khoảng 20 năm
(1996-2016), được hiện đại hóa từng phần, từng khâu quy trình nghiệp vụ, mỗi
giai đoạn, việc ứng dụng CNTT cụ thể vào một nhóm các công việc, dẫn đến phát
sinh các phần mềm quản lý nghiệp vụ khác nhau; Việc hạn chế về công nghệ giai
đoạn trước năm 2010 đã không cho phép triển
khai các hệ thống lớn, với quy mô toàn ngành và số lượng giao dịch như hiện
nay; Các đơn vị nghiệp vụ chưa rà soát, đánh giá tổng thể về quy trình quản lý
và yêu cầu xây dựng hệ thống, dẫn đến các chương trình quản lý phân tán, thiếu
đồng bộ.
- Nguyên nhân những tồn
tại trong công tác triển khai Cơ chế một cửa quốc gia: Hạ tầng công nghệ thông
tin của các Bộ ngành chưa hoàn thiện đồng đều;
Các Bộ, ngành vẫn chưa thực sự quyết liệt chỉ đạo thực
hiện, do đây là phương thức thực hiện mới, thủ tục đầu tư phức tạp nên vẫn
có sự e ngại về tính khả thi, trách nhiệm xử lý hồ sơ và tính ổn định của hệ thống;
Việc triển khai vẫn còn mang tính thăm dò, chưa đi vào thực chất. Hệ thống văn
bản QPPL về TTHC liên quan đến XNK và vận tải quốc tế chưa được rà soát triệt để
nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất khi thực hiện; Tư duy triển khai vẫn theo
hướng tin học hoá và tổng hợp cơ học, chưa thực sự theo hướng đơn giản hoá, hài
hoà hoá các thủ tục dựa trên các chuẩn mực quốc tế;
VI-
MỐI QUAN HỆ HẢI QUAN- DOANH NGHIỆP- ĐỐI TÁC
1. Kết quả triển khai
quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp
Cải cách hành chính,
tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh mạnh mẽ hơn nữa là yêu cầu quan trọng
được đặt ra đối với Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Nhưng để đánh giá
được nhu cầu cải cách hành chính, khó có thể dựa vào nhu cầu quản lý của Nhà nước
hay các đánh giá nội tại của các cơ quan hành chính nhà nước. Rất cần có những
thông tin từ cộng đồng kinh doanh bên ngoài, từ các doanh nghiệp và đặc biệt cần
những thông tin để có thể so sánh được thực trạng hiện tại.
Ở cấp độ quốc gia, Việt
Nam đã chấp nhận và sử dụng tương đối hiệu quả các thông tin đánh giá từ các tổ
chức quốc tế có uy tín như Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Ngân hàng thế giới về
năng lực cạnh tranh của Việt Nam để thúc đẩy cải thiện môi trường kinh doanh.
Liên tiếp trong hai năm 2014 và 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP
về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghị quyết này đã đề ra nhiệm vụ cho Ngành Hải
quan: “Đơn giản hóa quy trình, hồ sơ và thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hải
quan và giảm thời gian thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho doanh nghiệp,
phấn đấu thời gian thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bằng mức trung bình
của các nước ASEAN 6”.
Đặc biệt, cũng tại
Nghị quyết 19, Chính phủ đã khuyến khích VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp “tiến
hành những khảo sát, nghiên cứu độc lập đánh giá định kỳ về chất lượng thủ tục
hành chính và đưa ra các khuyến nghị với Chính phủ”, “nghiên cứu xếp hạng tín
nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với các bộ, ngành và các địa phương”. Như
vậy, đã có một sự thay đổi, chuyển đổi rất lớn từ tư duy nhà nước quản lý và quản
lý đặc quyền, ban ơn, ban phát... sang tư duy nhà nước cung cấp dịch vụ công,
tư duy nhà nước phục vụ, đồng hành với sự phát triển. Trong đó, muốn cải thiện
dịch vụ công, đánh giá chất lượng phục vụ thì điều rất quan trọng là phải biết
người đang sử dụng dịch vụ công, thụ hưởng chất lượng phục vụ đánh giá như thế
nào, cảm nhận và kỳ vọng ra sao.
Trong lĩnh vực Hải
quan, phát triển quan hệ đối
tác Hải quan - Doanh nghiệp cũng là một nội dung hoạt động quan trọng của các nền
hải quan hiện đại theo khuyến nghị của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO).
Hòa cùng xu thế phát triển của thế giới, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay Chính phủ rất quan tâm đến
việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, từ
năm 2014, Tổng cục Hải quan đã chú trọng phát triển quan hệ đối tác hải quan -
DN như là một hình thức triển khai tuyên truyền, hỗ trợ thực thi pháp luật hải
quan; tham vấn về các nội dung thời sự gắn với hoạt động của DN một cách hiệu
quả. Quá trình triển khai phát triển quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp
với xuất phát điểm từ năm 2015 đến năm 2017 và nửa đầu năm 2018 của Tổng cục Hải
quan đã đạt được những kết quả như sau:
1.1 Về nhiệm vụ xây dựng,
hoàn thiện chính sách pháp luật hải quan
- Năm 2015, Tổng cục
Hải quan đã ban hành Quy chế tham vấn giữa cơ quan hải quan, doanh nghiệp và
các bên liên quan (theo quyết định số 1200/QĐ-TCHQ ngày 25/4/2015). Việc đưa cơ
chế tham vấn vào hoạt động sẽ góp phần giải quyết các xung đột, vướng mắc giữa
các bên, nâng cao tính phản biện và trách nhiệm giải trình của các bên, tìm kiếm
giải pháp, tiếng nói chung giữa các bên, qua đó xây dựng sự hiểu biết đồng thuận
và đồng hành giữa các bên tham gia tham vấn. Hiện nay, các hoạt động tham vấn
đang được tích cực triển khai ở 3 cấp Tổng cục - Cục - Chi cục.
Bên cạnh đó, Tổng cục
Hải quan cũng ban hành Quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ phát triển quan hệ đối
tác Hải quan - Doanh nghiệp trong Ngành Hải quan (theo Quyết định số
1761/QĐ-TCHQ ngày 23/6/2015) và phê duyệt định hướng phát triển quan hệ đối tác
HQ-DN đến 2020 làm cơ sở để xây dựng Kế hoạch phát triển cải cách hiện đại hóa
giai đoạn 2016-2020; và làm căn cứ xây dựng Kế hoạch chi tiết triển khai công
tác phát triển quan hệ đối tác hải quan doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020. Việc
ban hành Quy chế quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan hải quan các cấp trong
thực hiện nhiệm vụ phát triển quan hệ đối tác; Hình thành cơ chế phối hợp, trao
đổi thông tin từ trung ương đến địa phương đảm bảo yêu cầu cung cấp thông tin đối
tác kịp thời, đáp ứng tiến độ triển khai các chương trình đối tác của từng đơn
vị; Thiết lập cơ chế giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ đối tác giữa
cơ quan hải quan, doanh nghiệp và các bên liên quan.
- Sang năm 2016, thực
hiện quy chế Quy chế tham vấn giữa cơ quan hải quan, doanh nghiệp và các bên
liên quan, các đơn vị nghiệp vụ chức năng đã tổ chức lấy ý kiến cộng đồng doanh
nghiệp đối với các văn bản pháp luật xây dựng trong năm 2016. Bên cạnh đó, qua
kênh hợp tác song phương, Ban CCHĐH đã chủ động lấy ý kiến Nhóm chuyên gia Thuế
- Hải quan thuộc Liên minh Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) ngay sau khi
các đơn vị soạn thảo có công văn xin ý kiến dự thảo văn bản pháp luật (Công văn
số 09/CCHĐH-TH ngày 29/01/2016; số 32/CCHĐH-TH ngày 10/5/2016, số 34/CCHĐH-TH
ngày 20/5/2016, số 42/CCHĐH-TH ngày 15/6/2016);
Ở các Cục Hải quan tỉnh,
thành phố, hoạt động hội thảo, hội nghị, tham vấn trong xây dựng, hoàn thiện
chính sách pháp luật cũng được tích cực triển khai. Đến hết tháng 11/2016, các
Cục hải quan tỉnh, thành phố đã tổ chức 107 hoạt động lấy ý kiến cộng đồng
doanh nghiệp về chính sách pháp luật, tiếp nhận 1688
ý kiến đóng góp với đối tượng tham gia chủ yếu là doanh nghiệp xuất nhập khẩu
và các cơ quan quản lý có liên quan trên địa bàn.
- Trong năm 2017, hoạt
động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp được tổ chức rộng khắp ở cả cấp trung ương
và địa phương. Cụ thể:
Tại cơ quan Tổng cục
hải quan, các dự thảo văn bản pháp luật sửa đổi, bổ sung đã được tổ chức tham vấn,
lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp qua nhiều lượt, dưới nhiều
hình thức khác nhau, như: lấy ý kiến rộng rãi
trên cổng thông tin điện tử hải quan, qua VCCI,
qua các hiệp hội doanh nghiệp, qua các nhóm doanh nghiệp chịu tác động lớn từ sự
thay đổi chính sách. Các cuộc tham vấn
cũng được quan tâm tổ chức tập trung theo nhóm vấn đề. Những vấn đề tiếp thu đều
được ghi nhận và phản ánh trực tiếp tại các dự thảo để các bên liên quan có thể
theo dõi và phản biện.
Tại địa phương, nhiều
đơn vị đã tích cực triển khai hoạt động tham vấn với doanh nghiệp trên địa bàn,
như: Quảng Ninh với 17 buổi tham vấn, ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp và giải
pháp phù hợp thực tiễn cho sửa đổi Thông tư 38/2015/TT-BTC ; Bà Rịa - Vũng Tàu tổ
chức 07 hội nghị tham vấn với chủ đề vướng mắc doanh nghiệp kinh doanh cảng,
doanh nghiệp nhập khẩu hàng xá (khô dầu, bắp hạt, lúa mỳ); kinh doanh kho ngoại
quan và doanh nghiệp chế xuất; Hải Phòng tổ chức 125 lượt tham vấn lấy ý kiến cộng
đồng doanh nghiệp và các bên liên quan; Hồ Chí Minh thực hiện trên 500 lượt
tham vấn thường xuyên với doanh nghiệp.
Có thể thấy thời gian
qua, cộng đồng doanh nghiệp và các bên liên quan đã tích cực tham gia ý kiến
trong quá trình xây dựng pháp luật hải quan góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
hải quan đối với hàng hóa XNK, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Các
cuộc tham vấn giữa cơ quan hải quan với Hiệp hội doanh nghiệp nói riêng và cộng
đồng doanh nghiệp nói chung ngày càng chuyên nghiệp và có chất lượng. Cụ thể,
hoạt động tham vấn đã chú trọng đến các nhóm vấn đề chịu tác động của việc điều
chỉnh chính sách, pháp luật. Các nội dung kiến nghị, đề xuất của Hiệp hội doanh
nghiệp đã được cơ quan hải quan nghiêm túc ghi nhận, xem xét, nghiên cứu và phản
ảnh trên các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để các bên liên quan có thể dễ
dàng theo dõi, phản biện. Ý kiến đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp đã góp phần
tích cực đơn giản hóa thủ tục hành chính, tháo gỡ vướng mắc
trong hoạt động XNK, đồng thời làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ các bên, cũng như
quy định chặt chẽ các điều kiện thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK
đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ quan hải quan.
1.2 Về nhiệm vụ hỗ trợ
doanh nghiệp thực hiện quy định pháp luật mới trong lĩnh vực hải quan
Trong năm 2016, toàn
ngành đã thực hiện 359 hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong thực thi pháp luật hải
quan thông qua các hình thức tập huấn, tuyên truyền, đối thoại, gặp gỡ doanh
nghiệp ...
Một số đơn vị có nhiều
cách thức tuyên truyền, hỗ trợ thực thi pháp luật hiệu quả như:
- Triển khai thí điểm
chương trình đối tác chuyên đề giữa cơ quan hải quan và các doanh nghiệp. Đây
là một trong những biện pháp triển khai quan hệ đối tác điển hình và được đánh
giá là có hiệu quả nhất. Trong năm 2016, các chuyên đề nổi bật được triển khai
là:
+ Chuyên đề “Báo cáo
quyết toán đối với loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu” (Cục Hải quan Bình
Dương, Hà Tĩnh, Tây Ninh, Đồng Tháp, Khánh Hòa, Đà Nẵng,
Long An, Đắc Lắk đã hợp tác với các doanh nghiệp gia công, sản xuất xuất khẩu
và các bên liên quan như các chuyên gia từ Học viện tài chính để thí điểm thực
hiện báo cáo quyết toán hoặc thảo luận các vấn đề gặp phải khi thực hiện quy định
này).
Qua các chương trình hợp
tác, cơ quan hải quan và doanh nghiệp đã đạt được những kết quả nhất định trong
việc triển khai quy định về báo cáo quyết toán:
Về phía doanh nghiệp
đã phát hiện và xây dựng giải pháp cho các vấn đề như: cách thức lưu trữ dữ liệu,
lập báo cáo (bóc tách số liệu giữa bộ phận xuất nhập khẩu, kế toán nhằm làm rõ
nguồn gốc nguyên vật liệu trong nước hay nhập khẩu); cải thiện hệ thống quản trị
nội bộ nhằm tăng cường hiệu quả của việc tập hợp,
trao đổi số liệu giữa các bộ phận kế toán, kho, quản lý sản xuất, xuất nhập khẩu
trong doanh nghiệp;
Về phía cơ quan hải
quan đã phát hiện, đề xuất giải pháp cho một số vấn đề như: xây dựng tiêu chí
quản lý rủi ro nhằm xác định đối tượng phải kiểm tra; xây dựng hệ thống phần mềm
hỗ trợ quản lý hoạt động gia công, sản xuất xuất khẩu, chế xuất phù hợp với quy
định cho cả phía cơ quan hải quan và doanh nghiệp; hệ thống cơ sở dữ liệu thông
tin doanh nghiệp cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất
xuất khẩu, chế xuất; bồi dưỡng kiến thức, cung cấp thông tin về kế toán, kiểm
toán; cách thức xác định định mức cho công chức hải quan; đề xuất về thời hạn
kiểm tra và tỷ lệ kiểm tra; cách thức lập kế hoạch kiểm tra; thủ tục, nội dung
kiểm tra báo cáo quyết toán...
+ Chuyên đề “trách
nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi” nhằm triển khai Điều
41 của Luật Hải quan về trách nhiệm của doanh
nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi trong việc giám sát hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu đưa vào lưu giữ, đưa ra khu vực giám sát. Nội dung này được thí điểm tại cảng
Nam Hải Đình Vũ thuộc Cục Hải quan thành phố Hải Phòng theo Quyết định số
2495/QĐ-TCHQ ngày 24/8/2015 của Tổng cục Hải quan và tiếp tục mở rộng triển
khai ở Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh theo kế hoạch 358.
Qua quá trình
triển khai, cơ quan hải quan và doanh nghiệp tham gia chương trình (Tổng công
ty Tân cảng Sài Gòn) đã phát hiện một số vấn đề vướng mắc trong quy trình thực
hiện cũng như hệ thống kết nối, điển hình như: cách thức xử lý với các trường hợp
tờ khai hủy, sai số contaner, đóng ghép hàng chung container, khai bổ sung;
cách thức truyền dữ liệu giữa hệ thống của doanh nghiệp
và hệ thống hải quan: phương thức nhập số liệu, chuẩn dữ liệu trao đổi, quy
trình quản lý trên hệ thống...
Các vấn đề vướng mắc trên
đã được Tổng cục Hải quan kịp thời hướng dẫn Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh (công
văn số 11194/TCHQ-GSQL về việc vướng mắc khi triển khai Điều 41
Luật Hải quan), đồng thời giao các đơn vị liên quan hỗ trợ Cục hải quan Hồ
Chí Minh và các doanh nghiệp kinh doanh cảng trong quá trình chạy thử, triển
khai chính thức.
Trên cơ sở đó, ngày
26/12/2016, tại cảng Cát Lái (TP.HCM), Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn và Chi cục
Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 đã đưa vào sử dụng hệ thống kết nối
công nghệ thông tin để thực hiện giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực giám sát hải quan tại cảng biển, giúp
doanh nghiệp không phải thực hiện khâu xác nhận hàng đã qua khu vực giám sát,
vì tất cả thông tin này được cơ quan Hải quan và doanh nghiệp kinh doanh cảng
thực hiện xác nhận trên hệ thống điện tử. Đại diện Tổng công ty Tân cảng Sài
Gòn đã đánh giá: việc triển khai thành công hệ thống kết nối công nghệ thông
tin để thực hiện Điều 41 Luật Hải quan tại cảng Cát Lái góp
phần tiếp tục nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin đối với hoạt động
giao nhận hàng hóa, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng
dịch vụ cảng, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước của cơ quan Hải quan.
Cho đến nay, các Cục
hải quan tỉnh, thành phố khác cũng tích cực hợp tác với doanh nghiệp kinh doanh
kho, bãi, cảng thực hiện nội dung này, điển
hình như: GiaLai-KonTum; Đà Nẵng. Sự hợp tác trên
đã góp phần hỗ trợ, thúc đẩy quá trình thực thi quy định pháp luật mới về giám
sát hải quan; hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh cảng có sự chuẩn bị phù hợp trong
quá trình chuyển tiếp cũng như xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh cảng và cơ quan hải quan trong công tác
giám sát hàng hóa, nhận diện các vấn đề tồn tại của mỗi bên để tìm giải pháp khắc
phục nhằm đảm bảo yêu cầu giám sát đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh.
+ Bên cạnh các chương
trình theo Kế hoạch năm 2016 của Tổng cục, 12 Cục hải quan tỉnh, thành phố cũng
tích cực thực hiện 20 chương trình đối tác chuyên đề tại theo nội dung cụ thể tại
địa bàn điển hình như triển khai cơ chế
một cửa quốc gia tại cảng biển (Hải Phòng, Đồng Nai), triển khai dịch vụ công
trực tuyến (Hà Giang), hỗ trợ các doanh nghiệp khai thuê (Đồng Nai), khai báo
trị giá xăng dầu theo quy định mới (Long An), hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng
lực cạnh tranh (Thừa Thiên Huế),...
- Thường xuyên gặp gỡ,
hợp tác với các Hiệp hội, Hội, Chi hội doanh nghiệp, doanh nghiệp lớn trên địa
bàn và các địa bàn lân cận nhằm nắm bắt
khó khăn, vướng mắc, đề xuất giải pháp tháo gỡ các vấn
đề bất cập, giải quyết vướng mắc trong quá trình
thực hiện thủ tục, kêu gọi doanh nghiệp đến làm thủ tục tại đơn vị như tại Nghệ
An, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng
Nai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Quảng Bình;
- Xây dựng hệ thống
trao đổi thông tin Hải quan - Doanh nghiệp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến mức
độ 4 tại Đồng Nai;
- In ấn sổ tay nghiệp
vụ cho các doanh nghiệp mới thực hiện thủ tục hải quan tại Gia Lai - KonTum
(400 cuốn);
- Phát tờ rơi cho
hành khách xuất nhập cảnh, cư dân biên giới về Danh mục hàng hóa mua bán, trao
đổi của cư dân biên giới ở Lào Cai (3000 tờ), tờ rơi hướng
dẫn thủ tục cho các tàu thuyền khi cập cảng, giới thiệu về đơn vị và các chính
sách lớn về thuế, hải quan bằng nhiều thứ tiếng (Đồng Nai);
- Phối hợp với các
phương tiện thông tin đại chúng, đài phát thanh, truyền hình xây dựng các
chuyên mục tuyên truyền, phổ biến pháp luật thường kỳ cho doanh nghiệp và người
dân điển hình như: Chương trình “Dân hỏi, Thủ trưởng cơ quan hành chính trả lời”
trên Đài phát thanh và truyền hình Đắk Lắk, Hội thảo “Bình Dương - tiềm năng, lợi
thế phát triển logistics và vai trò của hải quan” do Cục Hải quan Bình Dương phối
hợp với tạp chí Việt Nam Logistics Review tổ chức, chuyên mục “Hải quan Đồng
Nai đồng hành cùng doanh nghiệp” trên Báo Đồng Nai, Báo Bình Thuận (43 kỳ),
chuyên mục cung cấp thông tin chính sách trên sóng FM đài phát thanh truyền
hình Đồng Nai (129 kỳ), ...
1.3 Về hỗ trợ thực
thi pháp luật
a) Tuyên truyền, phổ
biến chính sách pháp luật:
Trong năm 2017, Ngành
Hải quan đã chủ động hoặc phối hợp thực hiện 16.353 tin, bài; phối hợp thực hiện
574 phóng sự truyền hình; biên tập, in ấn, phát hành 14.617 tờ rơi, tờ gấp về
pháp luật hải quan. Thống kê cho thấy phần lớn tin, bài viết về Ngành Hải quan
được các loại hình báo chí đăng tải, phản ánh, trong đó cơ quan Hải quan đã phối
hợp, chủ động cung cấp thông tin. Các đơn vị đi đầu
trong thực hiện các công việc trên như: Báo Hải quan, Văn phòng Tổng cục, Cục
CNTT&TKHQ; các Cục Hải quan: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng,
Quảng Trị, TP Hà Nội, Hải Phòng...
Tính đến ngày 31/12/2018
đã có gần 6.000 tin, bài viết, phóng sự về
ngành Hải quan được đăng trên khoảng 90 đầu
báo giấy, báo điện tử, tạp chí, các Đài
Truyền hình. Trong đó, có nhiều bài viết tuyên truyền về kết quả các lĩnh vực
công tác nổi bật của ngành Hải quan, đặc biệt là về công tác cải cách hành
chính.
Trong đó, Báo Hải
quan đã thực hiện hàng nghìn tin, bài (đăng trên báo in và báo điện tử, báo điện
tử tiếng Anh) tuyên truyền về pháp luật hải quan,
thường xuyên đăng tải các loạt bài chuyên sâu về công tác thu hồi nợ thuế; Cơ
chế một cửa quốc gia; Cơ chế một cửa ASEAN; Đề án nâng cao chất lượng kiểm tra
chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu... Cục Hải quan Đồng Nai chủ động
tuyên truyền về phát triển quan hệ đối tác qua website của Cục, báo đài, duy
trì thường xuyên Bản tin công tác tháng (mỗi tháng 01 bản tin gửi 09 cơ quan
trong tỉnh); Cục Hải quan Hà Nội đăng 345 tin, bài viết và 32 phóng
sự trên website của Cục nhằm thông tin, tuyên truyền cập nhật
các văn bản mới, hoạt động hợp tác giữa Cục và
cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn. Cục Hải quan Hải Phòng với tổng số tin bài
thực hiện và phối hợp với cơ quan truyền thông thực hiện để tuyên truyền về hoạt
động phát triển quan hệ đối tác Hải quan - doanh nghiệp từ đầu năm đến nay là
34 tin bài trên website của Cục và một số tin bài trên Báo Hải quan.
Một số đơn vị có nhiều
cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật
hiệu quả như:
- Phát tờ rơi cho
hành khách xuất nhập cảnh, cư dân biên giới về Danh mục hàng hóa mua bán, trao
đổi của cư dân biên giới ở Lào Cai (phát 2.800 tờ rơi hướng
dẫn tờ khai hải quan), tờ rơi hướng dẫn thủ tục cho các tàu thuyền khi cập cảng,
giới thiệu về đơn vị và các chính sách lớn về thuế, hải quan bằng nhiều thứ tiếng
(Đồng Nai);
- Phối hợp với các
phương tiện thông tin đại chúng, đài phát thanh, truyền hình xây dựng các
chuyên mục tuyên truyền, phổ biến pháp luật thường kỳ cho doanh nghiệp và người
dân điển hình như: Chương trình “Dân hỏi, Thủ
trưởng cơ quan hành chính trả lời” trên Đài phát thanh và truyền hình Đắk Lắk;
Hội thảo “Bình Dương - tiềm năng, lợi thế phát triển logistics và vai trò của hải
quan” do Cục Hải quan Bình Dương phối hợp với tạp chí Việt Nam Logistics Review
tổ chức; chuyên mục “Hải quan Đồng Nai đồng hành cùng doanh nghiệp” trên Báo Đồng
Nai, Báo Bình Thuận (43 kỳ), chuyên mục cung cấp thông tin chính sách trên sóng
FM đài phát thanh truyền hình Đồng Nai (129 kỳ), ...
Có thể nói, về cơ bản
công tác thông tin tuyên truyền được thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả tích cực.
Nội dung và hình thức tuyên truyền không ngừng đổi mới, phù hợp với từng giai
đoạn cụ thể. Kế hoạch tuyên truyền xây dựng phù hợp với thực tế từng đơn vị,
công tác phối hợp với các cơ quan truyền thông kịp thời chặt chẽ theo đúng kế
hoạch, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về chính sách
pháp luật hải quan. Qua đó, giúp cộng đồng doanh nghiệp hiểu và phối hợp tích cực
giúp Ngành Hải quan hoàn thành tốt nhiệm vụ đồng thời góp phần nâng cao ý thức,
trách nhiệm của cán bộ công chức hải quan thi đua, phấn
đấu hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
b) Tổ chức đối thoại:
Các đơn nghị Vụ, Cục
thường xuyên quan tâm đến hoạt động đối thoại doanh nghiệp nhằm trả lời các vướng
mắc của cộng đồng doanh nghiệp. Căn cứ phiếu đăng ký đối thoại của người khai hải
quan, người nộp thuế, cơ quan Hải quan tổ chức đối thoại thường xuyên. Bên cạnh
đó, cơ quan Hải quan các cấp đã chú trọng công tác đối thoại định kỳ với người
khai hải quan, người nộp thuế trên cơ sở tổng hợp tình hình chung. Trong năm
2017, toàn Ngành đã tổ chức 89 cuộc đối thoại định kỳ với người khai hải quan,
người nộp thuế. Một số hội nghị đối thoại điển hình như: trong tháng 9/2017, cơ
quan TCHQ phối hợp với Tổng cục Thuế tham mưu, giúp cho Bộ Tài chính tổ chức được
02 Hội nghị đối thoại với doanh nghiệp Hàn
Quốc (miền Nam, miền Bắc); cuối tháng 11/2017 tổ chức 02 hội nghị đối thoại cấp
toàn quốc với doanh nghiệp trong nước (miền Nam và phía Bắc); Cục Hải quan TP.
Hà Nội tổ chức được 26 hội nghị đối thoại với sự tham gia của gần 600 doanh
nghiệp, Cục Hải quan Bình Dương tổ chức được
13 hội nghị đối thoại, Cục Hải quan Đồng Nai thường xuyên cử Lãnh đạo đơn vị
tham gia đối thoại, tháo gỡ các vướng mắc phát sinh cho doanh nghiệp và đã tổ
chức 03 Hội nghị doanh nghiệp định kỳ với Hiệp hội doanh nghiệp Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc.
Công tác đối thoại Hải
quan - doanh nghiệp tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố trong năm 2017 không
ngừng được cải tiến và nâng cao hiệu quả. Cụ thể ở Cục Hải quan Bình Dương,
ngoài các hoạt động đối thoại thường xuyên theo từng Hiệp hội doanh nghiệp, năm
nay đã đổi mới sang loại hình kết hợp giữa đối thoại và tập huấn thủ tục hải
quan cho lãnh đạo các doanh nghiệp FDI (bước đầu đã thực hiện với Hiệp hội
doanh nghiệp Nhật Bản). Cục Hải quan Quảng Ninh đổi mới hình thức đối thoại
theo nhóm, theo loại hình kinh doanh.
- Năm 2018, Tổng cục
Hải quan ban hành Quyết định về kế hoạch triển khai công tác phát triển quan hệ
đối tác Hải quan - Doanh nghiệp và các bên liên quan. Trong năm 2018, chủ trì tổ
chức các Hội nghị: đối thoại với doanh nghiệp Hà Lan; tổ chức thành công tọa
đàm “Hải quan - Doanh nghiệp kết nối, chia sẻ, đồng hành” tại TP. Hà Nội và phối
hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức các Hội nghị đối thoại: Doanh nghiệp
Hàn Quốc, Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản và hội nghị đối thoại doanh
nghiệp toàn quốc năm 2018 tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Hỗ trợ và tăng cường
quan hệ đối tác qua Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), Diễn đàn
kinh tế tư nhân (VPSF), Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI). Qua
các hoạt động này, mối quan hệ phối hợp giữa Doanh nghiệp và cơ quan Hải quan
tiếp tục được cải thiện, củng cố; nhiều cơ chế, chính sách mới đã được phổ biến,
hướng dẫn, nhiều vướng mắc, kiến nghị của Doanh nghiệp đã được giải đáp ngay tại
các Hội nghị, thể hiện sự thẳng thắn, cầu thị của cơ quan Hải quan.
c) Tiếp nhận và giải
quyết vướng mắc:
Tính đến hết ngày
15/11/2017, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Ngành Hải quan đã tiếp nhận và
chuyển giao đến các đơn vị nghiệp vụ thuộc Tổng
cục Hải quan 4.486 hồ sơ để giải quyết theo cơ chế một cửa, trong đó 2.002 hồ
sơ nhận trực tiếp tại bộ phận một cửa, 2.484 hồ sơ nhận qua dịch vụ bưu chính.
Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS và các hệ thống công nghệ thông tin vệ
tinh ổn định 24/7, đã tiếp nhận và xử lý hơn 59.700 bộ hồ sơ thủ tục hành chính
với sự tham gia của hơn 10.000 cá nhân, doanh nghiệp. Số
lần hỗ trợ, tư vấn qua điện thoại tại Tổng cục Hải
quan (Helpdesk): Số cuộc trả lời điện thoại là 56.100 cuộc, số thư điện tử trả
lời doanh nghiệp là 31.810.
d) Đào tạo, tập huấn
cho doanh nghiệp:
Toàn Ngành Hải quan
đã tổ chức 53 hội nghị, hội thảo tập huấn cho người khai hải quan, người nộp
thuế, doanh nghiệp. Qua đó đã phổ biến các văn bản pháp
luật mới trong lĩnh vực hải quan, đồng thời tiếp nhận, hướng dẫn, giải đáp kịp
thời nhiều ý kiến của doanh nghiệp. Các đơn vị thực hiện tốt như Cục Hải quan
Quảng Ninh 10 hội nghị, Cục Hải quan Đồng Tháp 3 hội nghị. Riêng Ban CCHĐH đề
xuất Tổng cục Hải quan đã tổ chức 09 hội nghị tập huấn cho các Hiệp hội doanh
nghiệp tại 2 miền Nam, Bắc cụ thể như sau: Hội nghị tập huấn về phân loại hàng
hóa mặt hàng thép chương 72 và xử lý vi phạm hành chính cho Hiệp hội Thép Việt
Nam (vào tháng 4, tháng 5/2017); Hội nghị tập huấn về cơ chế một cửa quốc gia,
đề án kiểm tra chuyên ngành và tạo thuận lợi thương mại cho Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam, Diễn đàn kinh tế tư nhân, Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản
tại Việt Nam, Hiệp hội Logistics, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt
Nam (vào tháng 7, tháng 9/2017).
e) Hỗ trợ tại doanh
nghiệp:
- Thường xuyên gặp gỡ,
hợp tác với các doanh nghiệp, Hiệp hội, Hội, Chi hội doanh nghiệp, doanh nghiệp
lớn trên địa bàn và các địa bàn lân cận nhằm nắm bắt khó khăn, vướng mắc, đề xuất
giải pháp tháo gỡ các vấn đề bất cập, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực
hiện thủ tục, kêu gọi doanh nghiệp đến làm thủ tục tại đơn vị như tại Nghệ An,
Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Quảng
Bình. Trong năm 2017, Cục HQ TP. Hồ Chí Minh đã đến thăm và làm việc tại trụ sở
30 doanh nghiệp để giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình
làm thủ tục hải quan, phổ biến các văn bản pháp luật, các quy định mới; tổ chức
Hội nghị “Cộng đồng doanh nghiệp - Cơ quan hải quan: đối tác tin cậy, đồng hành
cùng phát triển” đến cộng đồng doanh nghiệp với tổng hợp 86 câu hỏi trên các tất
cả các lĩnh vực nghiệp vụ.
f) Hỗ trợ doanh nghiệp
ưu tiên:
Hiện nay việc quản lý
doanh nghiệp ưu tiên được thực hiện bằng chế độ chuyên quản, mỗi doanh nghiệp
sau khi được công nhận sẽ được Cục KTSTQ chỉ định 01 cán bộ để quản lý, thường
xuyên hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện văn bản pháp luật (dưới các
hình thức điện thoại, thư điện tử, trao đổi trực
tiếp, văn bản). Tính đến nay đã có 64 doanh nghiệp được công nhận doanh nghiệp
ưu tiên. Tình hình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp ưu tiên là tốt. Năm
2017 có 01 doanh nghiệp bị đình chỉ chế độ ưu tiên là Tập đoàn cao su Việt Nam
(với lý do là không còn đáp ứng được điều kiện về kim ngạch).
g) Triển khai dịch vụ
thủ tục hành chính công trực tuyến:
Thực hiện Nghị quyết
19/NQ-CP về cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành
chính hải quan, Ngành Hải quan luôn nỗ lực để giảm bớt thủ tục hành chính hải
quan. Với 224 thủ tục hành chính hải quan năm 2014 thì đến năm 2017 chỉ còn 178
thủ tục. Bên cạnh đó từng thủ tục hải quan cũng thường xuyên được rà soát, đơn
giản hóa để doanh nghiệp dễ dàng triển khai thực hiện. Đồng thời triển khai áp
dụng dịch vụ công trực tuyến ở cấp độ 3-4 là 126
thủ tục (chiếm 71% trong tổng số thủ tục hành chính hải
quan). Riêng Cục Hải quan Đồng Nai xây dựng hệ thống trao đổi thông tin Hải
quan - Doanh nghiệp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; từ khi triển
khai chính thức 01/3/2017 đến nay, đơn vị đã triển
khai thực hiện 100% các thủ tục cung cấp trên hệ thống, xử lý hơn
3.000 hồ sơ, xếp thứ 5 trong toàn Ngành về số hồ sơ xử lý qua hệ thống.
1.4 Giám sát thực thi
quy định pháp luật hải quan
- Trong năm 2016, ở cấp
Tổng cục, Ban CCHĐH đã chủ trì tổ chức cuộc khảo sát sự hài lòng của doanh nghiệp
về hoạt động hải quan. Cuộc khảo sát được thực hiện đối với 500 doanh nghiệp chấp
hành tốt pháp luật, có số thu và kim ngạch lớn thuộc danh sách chiếm 80% số
thu, theo các ngành hàng trọng điểm. Tỷ lệ phản hồi là 284/500, đạt 57%. Kết quả
khảo sát đã cho thấy rằng cộng đồng doanh nghiệp đánh giá khá cao các nỗ lực cải
cách hiện đại hóa của Ngành Hải quan đã đem lại hiệu quả trong thực tế, mức độ
đánh giá tốt đều trên 85%.
- Tại các Cục Hải
quan tỉnh, thành phố, các cuộc khảo sát, đánh giá nhu cầu cũng như lấy ý kiến cộng
đồng doanh nghiệp về hoạt động hải quan cũng được tích cực triển khai, điển
hình như tại Quảng Bình (phát 230 phiếu khảo sát), Gia Lai - Kon Tum
(Phát 107 phiếu khảo sát). Qua khảo sát, phần lớn doanh nghiệp đánh giá tốt và
rất tốt về thái độ và tinh thần phục vụ của công chức hải quan (70%), về thời
gian tiếp nhận và giải quyết vướng mắc (80%);
- Tại các Cục Hải
quan tỉnh thành phố, công tác giám sát thực thi quy định pháp luật hải quan vẫn
được duy trì qua các đường dây nóng, hòm thư góp ý. Đến tháng 11/2016, các Cục
Hải quan tỉnh, thành phố đã tiếp nhận 1820 phản ánh, giải quyết 1113 vụ việc,
thực hiện 47 cuộc kiểm tra hoặc phối hợp với các Bộ, ban ngành thực hiện kiểm
tra hướng tới nội dung chống buôn lậu, gian lận thương mại của doanh nghiệp.
- Trong năm 2017, các
cục Hải quan tỉnh, thành phố chủ động tiếp tục đẩy mạnh việc tiếp nhận, trả lời,
giải đáp các vướng mắc của doanh nghiệp bằng văn bản, qua điện thoại, qua
website của Cục một cách nhanh chóng kịp thời. Cập nhật thường xuyên kết quả giải
quyết trên cổng thông tin điện tử của đơn vị để cộng đồng doanh nghiệp
biết, theo dõi thực hiện. Điển hình như Cục Hải quan Đà Nẵng
thiết kế, in và công khai tại đơn vị Poster nội dung tuyên truyền về số điện
thoại đường dây nóng, số điện thoại website và email hỗ trợ thủ tục hải quan với
hình thức bắt mắt, dễ nhìn rõ ràng. Gia Lai
- Kon Tum đã công khai địa chỉ, số điện thoại tiếp
nhận xử lý kiến nghị, phản ánh của cá nhân, tổ chức. Quảng Ninh thành lập 2 tổ:
Tổ hỗ trợ về cơ chế, chính sách, thủ tục hải quan, đồng hành cùng doanh nghiệp
và Tổ hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ pháp luật.
Công tác tiếp công
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo được
chú trọng, thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo
của Ban Bí thư, Đảng bộ các cấp. Đầu mối xử lý công tác này là đơn vị thanh tra
- kiểm tra chuyên trách. Tổng cục Hải quan duy trì hòm thư góp ý, điện thoại đường
dây nóng để tiếp thu ý kiến, tiếp nhận thông tin và giải đáp vướng mắc của
doanh nghiệp nhanh chóng, hiệu quả. Thông tin của doanh nghiệp gửi đến cơ quan
hải quan chủ yếu là doanh nghiệp đề nghị tư vấn về thủ tục hải quan điện tử
(VNACCS), ưu đãi về miễn thuế nhập khẩu
hàng hóa tạo tài sản cố định, các chính sách thuế, chính sách mặt hàng xuất nhập
khẩu thông qua điện thoại đường dây nóng.
Khiếu nại của doanh
nghiệp phần lớn tập trung vào lĩnh vực hành chính với các nội dung: khiếu nại
việc phân loại hàng hóa, quyết định ấn định thuế và quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan. Trong năm 2017, toàn Ngành Hải quan không
có vụ việc khiếu nại đông người. Các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
pháp luật đều được thi hành nghiêm chỉnh. Tổng cục hải quan tiếp và làm việc với
khoảng gần 250 lượt người dân, doanh nghiệp, như vậy
tính trên ngày làm việc hành chính thì mỗi ngày gần như tiếp và làm việc một lần.
Qua đó kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân và doanh nghiệp để
tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, đồng thời cũng có thông tin và phương
án tham mưu cho lãnh đạo cấp trên trong quản lý điều hành. Giải quyết, trả lời
đơn thư khiếu nại gần đây có xu hướng giảm, với 354 lượt năm 2014 thì đến năm
2016 chỉ còn 295, giảm 12% và chín tháng đầu năm 2017 chỉ còn 153 vụ, ước giảm
gần 40 % so với cùng kỳ.
1.5 Trang bị kiến thức,
kỹ năng phát triển quan hệ đối tác
- Trong năm 2016, Trường
Hải quan Việt Nam đã phối hợp với Ban CCHĐH tổ chức 04 lớp đào tạo về kiến thức,
kỹ năng phát triển quan hệ đối tác cho lãnh đạo, công chức thuộc Tổ tư vấn hải
quan - doanh nghiệp của các Cục hải quan tỉnh, thành phố; các công chức làm nhiệm
vụ phát triển quan hệ đối tác tại Tổng cục và các doanh nghiệp đối tác của các
Cục hải quan tỉnh, thành phố, bao gồm: 02 lớp đào tạo tổng quan về phát triển
quan hệ đối tác cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo; 02 lớp đào tạo chuyên sâu về kỹ
năng phát triển quan hệ đối tác cho cán bộ thực thi.
- Ban hành “Tuyển tập
các tình huống tham vấn Hải quan - Doanh nghiệp và các bên liên quan” (tại Quyết
định số 3199/QĐ-TCHQ ngày 26/9/2016) làm tài liệu cho các đơn vị trong ngành
tham khảo, hỗ trợ thực hiện công tác tham vấn tại đơn vị;
- Ngay sau khi Bộ Tài
chính ký Quyết định 1614/QĐ-BTC ngày 19/7/2016 ban hành “Kế hoạch cải cách,
phát triển và hiện đại hóa Ngành Hải quan giai đoạn 2016-2020”, Tổng cục Hải
quan đã tổ chức 02 Hội nghị triển khai kế hoạch cải cách hiện đại hóa giai đoạn
2016-2020 đến các bên đối tác tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Thông qua Hội nghị,
Tổng cục hải quan đã giới thiệu những nội dung, định hướng phát triển của Ngành
Hải quan đến cộng đồng doanh nghiệp và các Bộ, ngành có liên quan để các bên có
thể nắm bắt, chủ động phối hợp hợp tác, đồng hành với cơ quan hải quan trong tiến
trình cải cách, hiện đại hóa.
- Phối hợp với Viện
nghiên cứu Hải quan, Cục CNTT & TK Hải quan, Báo Hải quan đăng tải các bài
báo, bài viết tuyên truyền về công tác phát triển quan hệ đối tác trên Báo Hải
quan, bản tin nghiên cứu hải quan, Công thông tin điện tử hải quan, Báo hải
quan điện tử.
- Trong năm 2017, Trường
Hải quan Việt Nam đã phối hợp với các đơn vị trong ngành tổ chức 04 khóa đào tạo
tổng quan, chuyên sâu về phát triển quan hệ đối tác cho cán bộ, công chức hải
quan, lãnh đạo các đơn vị và doanh nghiệp đối tác thường xuyên. Hoạt động đào tạo,
tập huấn đã góp phần trang bị kiến thức, kỹ năng về phát triển quan hệ đối tác
cho cơ quan hải quan và doanh nghiệp, đồng thời nâng cao năng lực hợp tác giữa
các bên. Nhờ đó, công tác phát triển quan hệ đối tác
trong năm 2017 ghi nhận sự chuyển biến tích cực về nội dung, chất lượng hoạt động
đối tác ở cơ quan hải quan các cấp, ghi nhận sự tiến bộ về nhận thức cũng như ý
thức trách nhiệm tham gia hoạt động hợp tác, đối tác với cơ quan hải quan từ cộng
đồng doanh nghiệp.
1.6. Các hoạt động hợp
tác khác với doanh nghiệp
a. Hợp
tác với Hiệp hội doanh nghiệp, Phòng thương mại
- Ban CCHĐH đã đề xuất
Lãnh đạo Tổng cục ký kết văn bản thỏa thuận hợp tác với Hiệp hội Thép ngày 17/6/2016.
Thông qua cơ chế phối hợp song phương, Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Thép đã đẩy
mạnh trao đổi thông tin qua các báo cáo hàng tháng
do Hiệp hội Thép cung cấp. Hiện nay, Ban CCHĐH đang xúc tiến việc thiết lập hoạt
động hợp tác với Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam nhằm đẩy mạnh các
hoạt động giám sát thực thi pháp luật hải quan;
- Tiếp tục duy trì mối
quan hệ hợp tác với Liên minh diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) qua các hoạt
động tham vấn, lấy ý kiến trong xây dựng chính sách pháp luật;
- Phối hợp và trao đổi
với các Hiệp hội doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động tham vấn thường xuyên giữa Tổng
cục hải quan với các Hiệp hội doanh nghiệp;
- Thực hiện các hoạt
động hợp tác với Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI) trong xây dựng
chính sách pháp luật, tuyên truyền, tập huấn
văn bản chính sách, phối hợp tổ chức 02 Hội nghị đối thoại về chính sách và thủ
tục hành chính thuế và hải quan năm 2016;
- Trong năm 2016, các
Cục hải quan tỉnh, thành phố đã thiết lập quan hệ đối tác với 19 Hiệp hội, Chi
hội trên địa bàn với nội dung hợp tác hướng tới xây dựng cách thức, quy chế xử
lý vướng mắc cho doanh nghiệp thành viên, trao đổi thông tin về ngành hàng.
b. Hợp
tác với doanh nghiệp
- Tăng cường trao đổi
thông tin với các doanh nghiệp ưu tiên, doanh nghiệp có số thu thuế/kim ngạch
xuất nhập khẩu lớn trên địa bàn nhằm nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, phát hiện sai sót để hướng dẫn doanh nghiệp, nâng cao
năng lực tuân thủ tục doanh nghiệp đồng thời cải thiện khả năng dự báo số thu của
đơn vị như tại Bình Dương, Đồng
Nai;
- Trong năm 2016, các
Cục Hải quan tỉnh, thành phố đã ký kết 40 văn bản thỏa thuận hợp tác với doanh
nghiệp về các nội dung về thực hiện chương trình đối tác chuyên đề báo cáo quyết
toán loại hình gia công, sản xuất xuất khẩu; phối
hợp trong thực hiện việc giám sát hàng hóa tại cảng biển; tăng
cường hiệu quả cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; xây dựng đối
tác thường xuyên.
- Năm 2017, Tổng cục
Hải quan ký 02 văn bản thỏa thuận hợp tác với Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại
Việt Nam và Hiệp hội Logictics Việt Nam. Các cục Hải quan tỉnh, thành phố ký được
145 văn bản thỏa thuận, quy chế phối hợp với các doanh nghiệp, Hiệp hội trên địa
bàn. Trong đó, Bình Dương đã ký được 07 quy chế phối hợp với 07 Chi, Hiệp hội,
ngành hàng trong tỉnh (Hiệp hội thương gia Đài Loan, Hiệp hội doanh nghiệp Hàn
Quốc, Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản, Châu Âu,
Trung Quốc, Hiệp hội XNK Gỗ); ký 03 quy chế phối hợp trao đổi thông tin và hỗ
trợ doanh nghiệp. Đồng Nai ký 02 bản ghi nhớ và 09 quy chế, thỏa thuận hợp tác với
các doanh nghiệp kinh doanh cảng, ICD trên địa bàn về quy chế phối hợp giám
sát, kiểm soát hàng hóa tại kho bãi, quy chế giám sát và quản lý hàng hóa qua hệ
thống camera giám sát tại khu vực cảng, ICD.
Các hoạt động hợp tác
thường xuyên do cơ quan hải quan các cấp chủ động xây dựng, tổ chức và mời Hiệp
hội doanh nghiệp tham gia, tập trung vào các nội dung: tham vấn xây dựng chính
sách pháp luật; tiếp nhận giải quyết vướng mắc, phản ánh kiến nghị từ doanh
nghiệp, Hiệp hội; đề nghị tham gia vào các cuộc khảo sát đánh giá của cơ quan hải
quan (như khảo sát sự hài lòng khách hàng, khảo sát tình hình
thực hiện cam kết phục vụ khách hàng, khảo sát xây dựng nội dung giao diện
chuyên mục đối tác hải quan doanh nghiệp...). Thông qua các hoạt động hợp tác
thường xuyên này đã góp phần đưa cơ quan hải quan đến gần hơn với cộng đồng
doanh nghiệp, từ đó xây dựng được sự hiểu biết, đồng thuận, đồng hành giữa các
bên.
2. Đánh giá
2.1 Đánh giá của cơ
quan Hải quan
Có thể nói, phát triển
quan hệ đối tác hải quan - DN là chủ trương phù hợp với xu thế phát triển của
thế giới; đặc biệt trong bối cảnh hiện nay Chính phủ rất quan tâm đến việc cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Sự hợp tác
tích cực của DN trong xây dựng chính sách, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu
(XNK) là rất cần thiết giúp cơ quan hải quan “tăng tốc” cải cách hành chính,
rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, thực hiện mục tiêu của Nghị quyết 19 và
Nghị quyết 35/NQ-CP .
Bên cạnh đó, việc cơ
quan hải quan chủ động phát triển quan hệ đối tác hải quan - DN đã và đang góp
phần tích cực hỗ trợ, tạo thuận lợi cho phát triển DN, kiến tạo môi trường kinh
doanh minh bạch, bình đẳng, thực hiện các Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35/NQ-CP.
Cơ quan Hải quan cũng tăng cường tương tác giữa hải quan với cộng đồng doanh
nghiệp bằng hoạt động đối thoại, hội nghị, hội thảo chuyên đề; chủ động xây dựng
quan hệ đối tác với các hiệp hội doanh nghiệp,
các doanh nghiệp lớn. Các hoạt động phát triển quan hệ đối tác triển khai trong
năm 2016 đã góp phần nâng cao hình ảnh của cơ quan hải
quan đối với cộng đồng doanh nghiệp, nâng cao
hiệu quả quản lý hải quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cụ thể:
a. Về
phía cơ quan hải quan:
- Hỗ trợ công tác xây
dựng chính sách: Thông qua các hoạt động tham vấn, tiếp thu ý kiến, giải quyết
vướng mắc, cơ quan hải quan có thể tổng hợp, tham mưu, kiến nghị kịp thời cho
Ngành Hải quan và các ngành có liên quan trong xây dựng chính sách phù hợp với
thực tiễn thương mại, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quy định pháp luật, tạo sự
đồng thuận trong cộng đồng doanh nghiệp;
- Dự báo nguồn thu:
Thông qua hoạt động trao đổi thông tin với các Hiệp hội doanh nghiệp, doanh
nghiệp xuất nhập khẩu về tình hình thương mại, sản xuất kinh doanh, cơ quan hải
quan có thể đưa ra các dự báo về tình hình thu thuế xuất nhập khẩu trong năm;
- Đánh giá tuân thủ:
Thông qua các hoạt động hợp tác với Hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, doanh nghiệp dịch vụ xuất nhập khẩu, cơ quan hải quan có thể nắm bắt được
thông tin về hàng hóa xuất nhập khẩu, giá cả hàng hóa, chi phí liên quan cũng
như tình hình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp;
- Nâng cao tính tuân
thủ của doanh nghiệp thông qua các hoạt động:
+ Tháo gỡ vướng mắc
cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hạn chế sai sót;
+ Hỗ trợ doanh nghiệp
cải thiện năng lực thực thi pháp luật thông qua các hoạt động tập huấn, hướng dẫn;
+ Phát hiện và chỉ ra
những vấn đề có tính hệ thống của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp cải thiện
khả năng kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
- Thu hút doanh nghiệp
đến thực hiện thủ tục: Nhờ thực hiện hiệu quả các hoạt động hỗ trợ, giải quyết
vướng mắc, tạo thuận lợi cũng như tăng cường gặp gỡ, trao đổi
với cộng đồng doanh nghiệp, các đơn vị đã thu hút doanh nghiệp đến thực hiện thủ
tục hải quan tại địa phương, góp phần tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và số thu nộp
ngân sách của đơn vị.
b. Về
phía doanh nghiệp:
Các hoạt động phát
triển quan hệ đối tác của cơ quan hải quan góp phần giúp doanh nghiệp:
- Hiểu, thực hiện thuận
lợi thủ tục hải quan cũng như các quy định mới được ban hành trong lĩnh vực hải
quan;
- Hiểu rõ hơn trách
nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong thực hiện pháp luật hải quan, chủ động
trao đổi thông tin, hợp tác với cơ quan hải quan trong quá trình thực hiện thủ
tục;
- Nhận diện được những
vấn đề tồn tại, yếu kém từ phía bản thân doanh
nghiệp như việc tìm hiểu pháp luật, bố trí nhân sự, quản trị nội bộ, trao đổi
thông tin với cơ quan hải quan.
- Hiểu, đồng thuận, đồng
hành với cơ quan hải quan: Qua cuộc khảo sát sự hài lòng của doanh nghiệp về hoạt
động hải quan năm 2016, bên cạnh các cải cách về thể chế, doanh nghiệp đánh giá
cao các hoạt động hỗ trợ, hợp tác của cơ quan hải quan. 92% doanh nghiệp hoàn
toàn hài lòng và hài lòng với hoạt động của Tổ tư vấn Hải quan - Doanh nghiệp tại
Cục và Chi cục. 95% doanh nghiệp hài lòng và hoàn toàn hài lòng với các hội nghị
đối thoại do cơ quan hải quan các cấp tổ chức. Tinh thần hợp tác với cơ quan hải
quan của doanh nghiệp cũng ngày càng tăng, theo kết quả khảo sát, 88% doanh
nghiệp sẵn sàng chia sẻ thông tin với cơ quan hải quan; 71% sẵn sàng tham gia
các chương trình đối tác chuyên đề do cơ quan hải quan tổ
chức.
2.2 Đánh giá của cộng
đồng doanh nghiệp về mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ doanh nghiệp của cơ quan Hải
quan đối với doanh nghiệp
Đánh giá về mối quan
hệ Hải quan - doanh nghiệp sẽ thiếu sót nếu
như không có những đánh giá của chính cộng đồng doanh nghiệp về cơ quan Hải
quan. Hiện nay, chưa có một nghiên cứu và báo cáo riêng về đánh giá của cộng đồng
doanh nghiệp liên quan đến mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ doanh nghiệp của cơ quan
Hải quan đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông qua một số chỉ tiêu trong kết
quả khảo sát của VCCI về Mức độ hài lòng của Doanh nghiệp đối với Thủ tục Hành
chính trong lĩnh vực Hải quan, chúng ta cũng có thể nhận diện một số đánh giá của
cộng đồng doanh nghiệp về cơ quan Hải quan trong mối
quan hệ hợp tác hai bên:
2.2.1 Đánh giá các
phương thức tiếp cận thông tin và chất lượng thông tin về TTHC hải quan
Qua số liệu khảo sát
của VCCI, có thể thấy đa số các doanh nghiệp tham gia khảo sát tương đối hài
lòng với các phương thức tiếp cận thông tin về hải quan hiện nay. Theo đó, có
trên 90 doanh nghiệp hài lòng/hoàn toàn hài lòng về việc tiếp cận thông tin
TTHC hải quan qua trang web của Ngành Hải quan, cũng như qua các lớp tập huấn
hoặc đối thoại hải quan. Những phương thức tiếp cận thông tin khác như trực tiếp
tới gặp, gọi điện, gửi công văn hoặc qua tờ rơi, ấn phẩm cũng có trên 80% doanh
nghiệp hài lòng/hoàn toàn hài lòng.
Tỷ lệ doanh nghiệp
hài lòng/hoàn toàn hài lòng đối với các phương thức tìm hiểu thông tin về TTHC
hải quan năm 2016 đã có sự cải thiện đáng kể so với năm 2015. Theo đó, cả 8
phương thức tiếp cận thông tin về TTHC của năm 2016 đều có tỷ lệ doanh nghiệp
hài lòng/hoàn toàn hài lòng cao hơn so với năm 2015. Đến năm 2018, các chỉ số
có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Chi tiết thể hiện ở biểu
đồ dưới đây:
Biểu
đồ: Tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng/hoàn toàn hài lòng đối với các phương thức tìm
hiểu thông tin về TTHC Hải quan năm 2015-2016
(Nguồn:
Báo cáo kết quả khảo sát năm 2015, 2016 của VCCI về Mức độ hài lòng của doanh
nghiệp đối với thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan)
Mức độ hài lòng đối với
các phương thức tìm hiểu thông tin về TTHC năm 2018 giảm một phần do phạm vi đối
tượng khảo sát năm 2018 lớn hơn so với năm 2015 (năm 2018 có 44.603 doanh nghiệp
nằm trong diện chọn mẫu, trong khi đó năm 2015 là 32.060 doanh nghiệp), mặt
khác, do tiêu chí đánh giá của năm 2015 chỉ có 4 mức đánh giá (Hoàn toàn hài
lòng, hài lòng, không hài lòng) và có khoảng trống
cho phép doanh nghiệp không có ý kiến về nội dung này, còn năm 2018 nêu rõ 5 mức
đánh giá (Rất hài lòng, tương đối hài lòng, bình thường, không hài lòng, rất
không hài lòng). Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy vẫn còn khá nhiều doanh nghiệp
chưa hài lòng với các phương thức tiếp cận thông tin TTHC hải quan. Phản ánh từ
các doanh nghiệp cho thấy không ít doanh nghiệp vẫn chưa kịp thời nắm được những
thay đổi trong pháp luật hải quan. Do vậy, khi tiến hành các thủ tục, họ còn gặp
nhiều khó khăn. Đa phần các ý kiến đóng góp của doanh nghiệp đều cho rằng:
thông tin, chính sách, pháp luật Hải quan có nhiều thay đổi nhưng chưa phổ biến
rộng rãi, doanh nghiệp nhiều lúc chưa tiếp cận được, doanh nghiệp thường bị động
về thông tin chính sách mới, đề nghị CQHQ thông báo kịp thời cho doanh nghiệp
ngay khi có các thông tin thay đổi về thủ tục, chính sách. Ngoài ra, Doanh nghiệp
còn gặp khó khăn trong tìm thông tin về các buổi trao đổi, tập huấn của cơ quan
liên quan đến chính sách, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa. Đề
nghị CQHQ thông báo về các buổi tập huấn, phổ biến kiến thức lên các trang web
của ngành.
Ngoài những phương thức
tiếp cận thông tin cơ bản được liệt kê ở trên, các doanh nghiệp còn tiếp cận
thông tin TTHC bằng một số phương thức khác. Đó
là thông qua việc hỏi các doanh nghiệp từng có vướng mắc tương tự, các đại lý hải
quan, các tổ chức cung ứng dịch vụ kho vận (logistics), trung
gian vận chuyển (forwarders), hoặc qua chính các đơn vị cung cấp dịch vụ phần mềm,
chữ ký số... Đáng lưu ý, các doanh nghiệp cũng tìm hiểu/nắm bắt thông tin qua
các diễn đàn về thủ tục xuất nhập khẩu trên Internet, mạng xã hội (facebook),
nơi họ có thể tham khảo và tương tác nhanh chóng với nhiều doanh nghiệp khác có
chung mối quan tâm về một TTHC cụ thể.
Bên cạnh đó, đánh giá
về chất lượng thông tin TTHC hải quan mà doanh nghiệp đã tiếp cận cũng cho kết
quả tương tự và được cải thiện qua từng năm. Trong khảo sát năm 2016, đa số
doanh nghiệp đánh giá cao về chất lượng các thông tin TTHC hải quan mà doanh
nghiệp đã tiếp cận. Cụ thể, nếu năm 2016, 86% doanh nghiệp cho biết cơ quan hải
quan (CQHQ) cung cấp thông tin thống nhất, 84% đánh giá thông tin là sẵn có, dễ
tìm và 87% cho biết các biểu mẫu TTHC hải quan dễ điền; 77% cho biết CQHQ cung
cấp thông tin cho doanh nghiệp nhanh chóng, kịp thời và 74% cho biết thông tin
đơn giản, dễ hiểu thì đến năm 2018, các tỷ lệ trên lần lượt là 91%, 90%, 89%,
84%, 76%.
Ngoài nội dung đánh
giá về phương thức tiếp cận thông tin hải quan, khảo sát còn đề cập tiêu chí chất
lượng thông tin. Đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng thông tin thủ tục hải
quan năm 2018 đã tiếp cận khá tích cực và cải thiện đáng kể so với cuộc khảo
sát năm 2015. Nếu so sánh năm 2018 và 2015 thì hai khía cạnh được cải thiện
đáng kể là tiêu chí đánh giá biểu mẫu TTHC hải quan dễ điền (+12%) và thông tin
CQHQ cung cấp là thống nhất (+14%). Các doanh nghiệp cũng đánh giá cao hơn về sự
sẵn có, dễ tìm của thông tin TTHC hải quan, việc cung cấp thông tin nhanh
chóng, kịp thời của CQHQ, cũng như mức độ đơn giản, dễ hiểu của thông tin TTHC
hải quan mà doanh nghiệp đã tiếp cận.
Biểu
đồ: Đánh giá việc tiếp cận thông tin TTHC hải quan doanh nghiệp năm
2015, 2016
(Nguồn
VCCI: Báo cáo đánh giá cải cách thủ tục
hành chính Hải quan năm
2016)
Dù vậy, cũng có một số
doanh nghiệp chưa hài lòng với các phương thức tiếp cận thông tin TTHC hải
quan. Phản ánh từ các doanh nghiệp cho thấy không ít doanh nghiệp vẫn chưa kịp
thời nắm được những thay đổi trong pháp luật hải quan. Do vậy, khi tiến hành
các thủ tục, họ còn gặp nhiều khó khăn. Một số ý kiến đóng góp được đưa ra là:
- Thông tin, chính
sách, pháp luật Hải quan có nhiều thay đổi và doanh nghiệp thường bị động về
thông tin chính sách mới. Đề nghị CQHQ gửi thông báo cho doanh nghiệp thường
xuyên hơn...
- Chính sách hải quan
có nhiều thay đổi nhưng chưa phổ biến rộng rãi,
doanh nghiệp nhiều lúc chưa tiếp cận được. Đề nghị CQHQ phổ biến rộng rãi minh
bạch trên cổng thông tin.
- Doanh nghiệp gặp
khó khăn trong tìm thông tin về các buổi trao đổi,
tập huấn của cơ quan liên quan đến chính sách, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa.
Đề nghị CQHQ thông báo về các buổi tập huấn, phổ biến kiến thức lên các trang
web của ngành.
- Các quy định pháp
luật liên quan đến TTHQ thường xuyên thay đổi, có rất nhiều quy định về chính
sách TTHQ, doanh nghiệp không thể cập nhật kịp thời, sự kết nối giữa doanh nghiệp
và CQHQ nhiều lúc còn hạn chế.
- Doanh nghiệp đôi
khi bị chậm tiến độ ra tờ khai do chưa cập nhật kịp sự thay đổi về thủ tục,
chính sách mới. Do vậy, đề nghị CQHQ thông báo kịp thời cho doanh nghiệp ngay
khi có các thông tin thay đổi về thủ tục, chính sách.
2.2.2 Đánh giá
công tác giải đáp vướng mắc về thông tin TTHC hải quan
Mặc dù việc tiếp cận
thông tin về TTHC là tương đối thuận lợi, nhưng vẫn có một số lượng không nhỏ
doanh nghiệp cho biết có gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình tìm hiểu thông
tin TTHC hải quan. Cụ thể, có 1677 doanh nghiệp (56%)
cho biết họ đã từng gặp vướng mắc khi tìm hiểu
thông tin về TTHQ (năm 2015 là 54%). Tỷ lệ gặp khó khăn trong nhóm doanh nghiệp
nhà nước là 63% (năm 2015 là 57%), trong nhóm doanh
nghiệp tư nhân là 55% (năm 2015 là 50%). Nhóm doanh nghiệp FDI có 57% doanh
nghiệp cho biết từng gặp vướng mắc trong quá trình tìm hiểu thông tin về thủ tục
hải quan (năm 2015 là 60%)
Những cơ quan, tổ chức
mà doanh nghiệp thường xuyên tìm sự trợ giúp hoặc gửi câu hỏi khi gặp vướng mắc
với thông tin TTHQ là khá đa dạng. Trong số 1699 doanh nghiệp có cung cấp thông
tin về việc thường xuyên tìm sự hỗ trợ hoặc gửi câu hỏi tới cơ quan, tổ chức
nào, thì cơ quan Cục Hải quan tỉnh/thành phố có tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn cao
nhất (94%). Kế đến là Tổng cục hải quan
(65%), Bộ Tài chính (51%), các Hội/hiệp hội doanh nghiệp hoặc Công ty/Văn phòng
luật (51%). Có 26% doanh nghiệp khi gặp khó khăn thường tìm tới sự trợ giúp của
các cá nhân/tổ chức khác, như các doanh nghiệp cùng ngành, đại lý hải quan,
doanh nghiệp dịch vụ logistics, các diễn đàn thảo luận trên mạng Internet, hoặc
một số cơ quan nhà nước khác.
Mức độ hài lòng của
doanh nghiệp với kết quả giải quyết vướng mắc phần lớn rơi vào mức bình thường,
với tất cả các cơ quan, tổ chức được đánh giá. Theo đó, các doanh nghiệp đánh
giá tích cực nhất về sự phản hồi của các Cục Hải quan địa phương, với 59% phản
hồi rất hài lòng/tương đối hài lòng. Kế đến
là Tổng cục hải quan, với tỷ lệ 50% các doanh nghiệp rất hài lòng/tương đối hài
lòng. Mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối với phản hồi của Bộ Tài chính là
38%, tương tự tỷ lệ đối với các công ty/văn phòng luật. Kết quả chi tiết thể hiện
ở hình dưới đây:
Biểu
đồ: Mức độ hài lòng đối với kết quả phản hồi của CQHQ về vướng
mắc
Tuy nhiên, việc giải
đáp vướng mắc của doanh nghiệp cũng cần tiếp tục được cải thiện. Khảo sát cho
thấy, bên cạnh những đánh giá tích cực nói trên, vẫn khá nhiều doanh nghiệp cho
rằng công văn trả lời cho các vấn đề vướng mắc của doanh nghiệp còn chung
chung, chủ yếu đưa ra các thông tư, nghị định, CQHQ cần trả
lời, hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hơn để
doanh nghiệp hiểu và thực hiện.
2.2.3 Đánh giá về thực
hiện thủ tục hành chính (TTHC) hải quan
Kết quả khảo sát 2018
cho thấy có bước tiến đáng kể trong đánh giá của doanh nghiệp về mức độ thuận lợi
khi thực hiện các TTHC hải quan. Các lĩnh vực TTHC hải quan đề nghị doanh nghiệp
đánh giá bao gồm Thủ tục thông quan, thủ tục quản lý thuế, kiểm tra sau thông
quan, xử lý vi phạm hành chính và
giải quyết khiếu nại. Nhóm khảo sát có phân ra các thủ tục chi tiết cho một
lĩnh vực thủ tục.
Tất cả các thủ tục được
đưa vào đánh giá trong năm 2018 có phần lớn doanh nghiệp cho biết mức độ thuận
lợi là bình thường, song điểm tích cực là tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn là dễ/rất
dễ đều cao hơn so với khảo sát năm 2015. Ví dụ, trong khảo sát năm 2018, thủ tục
có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá cao nhất về mức độ thuận lợi khi thực hiện là thủ
tục nộp thuế (50%) thì năm 2015, tỷ lệ này chỉ là 26%. Với khâu kiểm tra hồ sơ
trong thủ tục thông quan, điều tra năm 2018 cho thấy có 25% doanh nghiệp đánh
giá là dễ/rất dễ, trong khi năm 2015 chỉ là 10%. Hoặc với giải quyết khiếu nại,
thủ tục vốn khó có thể đạt được mức độ đồng thuận của doanh nghiệp, thì năm
2018 cũng có 10% doanh nghiệp đánh giá là dễ/rất dễ, trong khi năm 2015 chỉ là
5%.
Biểu đồ: Mức độ thuận
lợi khi thực hiện TTHC Hải Quan
Dù
có những bước tiến như trên, song nhìn từ một khía cạnh khác là tỷ lệ doanh
nghiệp đánh giá khó/rất khó khi thực hiện, thì cơ quan hải quan vẫn cần nỗ lực
hơn nữa để cải thiện. Đó là một số thủ tục có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá khó/rất
khó vẫn cao hơn so với tỷ lệ đánh giá dễ/rất dễ là: hoàn thuế/không thu thuế
(23% số phản hồi đánh giá khó khăn, so với 17% đánh giá là dễ dàng); thủ tục
KTSTQ (tỷ lệ đánh giá khó/rất khó là 20%, so với 13% chọn dễ/rất dễ); giải quyết
khiếu nại (20% số phản hồi đánh giá khó khăn, so với chỉ 11% đánh giá là dễ
dàng); và xử lý vi phạm hành chính (15% số phản hồi đánh giá khó khăn, so với
chỉ 12% đánh giá là dễ dàng). Điều này cho thấy một số doanh nghiệp vẫn bày tỏ
nhiều kỳ vọng hơn vào CQHQ. Vẫn còn một số trường hợp CQHQ xử lý kiến nghị, vướng
mắc vẫn còn chậm, gây tốn kém thời gian và phát sinh thêm chi phí, ảnh hưởng lớn
tới hoạt động của doanh nghiệp.
Nhìn chung, khảo sát
2018 của VCCI về mức độ hài lòng của doanh nghiệp về việc thực hiện thủ tục
hành chính xuất nhập khẩu năm 2018 cũng cho đặc
biệt là thù lao tương xứng sẽ góp phần tích cực trong việc duy trì chuẩn mục
tiêu liêm chính cao.
- Hệ thống thang bậc
và ngạch lương cán bộ, công chức, viên chức Hải quan thực hiện theo quy định
chung của Nhà nước. Tuy nhiên, trong vài năm qua, thu nhập thực tế của cán bộ,
công chức, viên chức Hải quan được hưởng theo cơ chế thí điểm khoán biên chế và
kinh phí hoạt động, do vậy có phần nào cao hơn so với mặt bằng chung của công
chức các ngành khác chưa thực hiện cơ chế khoán. Ngoài ra, với đặc thù tính chất
hoạt động Hải quan, hầu hết cán bộ công chức Ngành Hải quan đã được hưởng phụ cấp
ưu đãi nghề với các mức 10%, 15% và 20% tương ứng với các ngạch kiểm tra viên
cao cấp, kiểm tra viên chính và kiểm tra viên Hải quan.
- Đã có hệ thống khen
thưởng áp dụng trong ngành, cả thưởng định kỳ và khen thưởng đột xuất, tuy
nhiên chưa được thiết thực lắm, chưa thực sự khuyến khích những người tích cực,
chưa tạo động lực rõ rệt để mọi người phấn đấu.
b. Về tuyển dụng, lựa
chọn và thăng tiến:
Các thủ tục tuyển dụng
và lựa chọn nhân viên cần phải dựa vào việc lựa chọn được những người không
tham nhũng, cũng như có năng lực nghiệp vụ, kỹ thuật và kiến thức chuyên môn.
Tuyển dụng và lựa chọn phải tính đến các đặc tính như trung thực, tin cậy được
và chuẩn mực ứng xử của cá nhân cao.
Lựa chọn và bổ nhiệm
cán bộ phải dựa trên công trạng. Quá trình này cần phải khách quan và không có
sự can thiệp vào. Mỗi ủy ban tuyển dụng và bổ nhiệm phải gồm các thành viên độc
lập được lựa chọn từ những lĩnh vực công việc khác nhau trong tổ chức. Điều này
sẽ có thể giảm đến mức tối thiểu tác động ảnh hưởng của sự thân quen.
Việc kiểm tra hồ sơ
công việc trước đây và sự đảm bảo về tính trung thực cần được lưu ý đến khi xem
xét nhân viên có khả năng. Có thể cũng cần sử dụng chuyên gia bên ngoài để kiểm
tra và gợi ý những điểm hoàn thiện cho quá
trình và thủ tục lựa chọn. Chính sách này đặc biệt quan trọng đối với những vị trí
mà ở đó không tránh khỏi việc tự ý ra quyết định và việc
giám sát là khó khăn.
Một số kết quả chính
đạt được:
- Các tiêu chí lựa chọn,
tuyển dụng cán bộ công chức mới đã được công khai trên báo, phương tiện thông
tin đại chúng và được mọi người tuân thủ.
- Trong các tiêu chí
tuyển chọn công chức mới vào ngành, đã chú ý cả tiêu chí về kiến
thức chuyên ngành, năng lực kỹ thuật và phẩm
chất đạo đức cao.
- Hội đồng Tuyển dụng
công chức đã được thành lập do một Lãnh đạo Tổng cục làm Chủ tịch, với các
thành viên được lựa chọn từ các đơn vị của Tổng cục như Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Hợp
tác quốc tế, Cục Tin học và Thống kê Hải quan và một số vụ cục nghiệp vụ như Vụ
giám sát quản lý, Kiểm tra thu thuế... để đảm bảo tính khách quan của Hội đồng
tuyển dụng.
- Đã tiến hành một số
kiểm tra bên ngoài đối với cán bộ mới tuyển dụng, như xác minh lý lịch tại nơi
cư trú, lấy ý kiến của cơ quan làm việc trước.
- Các cán bộ đề cử bổ
nhiệm về cơ bản đã được đánh giá trên cơ sở công trạng đóng góp, đặc biệt trong
lĩnh vực công việc sẽ được xem xét bổ nhiệm.
c. Về bố trí, luân
chuyển, sắp xếp lại:
Loại bỏ cơ hội để
nhân viên giữ vị trí nhạy cảm trong một thời gian dài là một trong những biện
pháp liêm chính có hiệu quả. Để đảm bảo nhân viên
không có các mối quan hệ gần gũi và không thích hợp với các khách hàng, cần triển
khai cơ chế thay đổi và luân chuyển cán bộ theo từng thời gian định kỳ nhất định.
Các quyết định bố trí
nhân viên cần dựa trên các tiêu chí khách quan và cơ
sở này cần được ghi chép lại. Những nhân viên đang ở một vị trí lâu hoặc đang ở
các vị trí nhạy cảm đối với tham nhũng cần phải được luân chuyển.
Việc chia tách công
việc cần giới hạn ở mức một số người có thể hoàn thành các chức năng công việc
tương tự để các khách hàng không phải chỉ giao dịch với một người mà người này
do quyền tự quyết định của mình có thể thu phí bất hợp
pháp cho công việc thuộc chức năng nhiệm vụ của mình.
Việc phân định công
việc cũng cần hết sức lưu ý để đảm bảo rằng cá nhân công chức Hải quan không thể
tự ý quyết định được nếu không tham khảo nhân viên hải quan khác.
Một số kết quả chính
đạt được:
- Đã ban hành văn bản
quy định về việc luân chuyển cán bộ, công chức trong ngành, và cán bộ công chức
Hải quan biết rõ định kỳ thời gian luân chuyển
công việc. Thực tế thời gian qua các đơn vị đã rà soát và hạn chế
công chức Hải quan giữ những vị trí nhạy cảm trong một thời gian dài, thực hiện
luân chuyển công chức hải quan theo định kỳ thời gian, đặc biệt là tại các Chi
cục Hải quan thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố nơi công chức thường xuyên tiếp
xúc với doanh nghiệp, khách hàng.
- Ngành Hải quan đã
có quy định và triển khai thực hiện việc luân chuyển dựa trên nhu cầu công việc,
tránh tình trạng thành kiến hay thiên vị đối với những trường hợp luân chuyển.
d. Về đào tạo và phát
triển nghề nghiệp:
Giáo dục và đào tạo,
cả chính thức và không chính thức đều đóng vai trò chính trong cuộc chiến chống
tham nhũng. Trước hết, là phát triển nghề nghiệp phù hợp cho nhân viên, từ đó
tăng cường năng lực kỹ thuật cho họ và giảm việc phải trông đợi vào đào tạo tại
nơi làm việc. Thứ hai là, tạo cơ hội cho tổ chức củng cố liêm chính và chống
tham nhũng. Điều này đặc biệt phù hợp khi cơ quan có Bản Quy tắc
ứng xử chính thức. Việc đào tạo cần tập
trung vào các chuẩn mực ứng xử được mong đợi ở tất cả các nhân viên và cơ chế
báo cáo các vi phạm Quy tắc. Cần tăng cường nhận thức
và chia sẻ trách nhiệm của các nhóm làm việc mỗi khi có thể.
Một điều quan trọng để
đảm bảo sự tín nhiệm của đào tạo chính thức và không chính thức là nội dung đào
tạo cần phải phản ánh chính xác những gì diễn ra ở nơi làm việc.
Một số kết quả chính
đạt được:
- Ngành Hải quan đã
cung cấp nhiều chương trình, khóa đào tạo hướng nghiệp khác nhau cho cán bộ,
công chức, cả về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ tổng hợp và chuyên ngành, tin học
và ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh với các mức trình độ khác nhau.
- Trong chương trình
đào tạo có nội dung giảng dạy về liêm chính hải quan, trong đó có đề cập đến
các quy định của Tuyên bố Arusha của WCO, các văn bản quy định và
việc tổ chức thực hiện của Hải quan Việt Nam.
- Thường xuyên tiến
hành đánh giá kết quả các khóa đào tạo, chủ yếu qua hình thức thi viết và vấn
đáp học viên, cách thức đánh giá chủ yếu qua điểm số do giảng viên chấm bài làm
của học viên, do vậy khó đánh giá hiệu quả của việc đào tạo
- Các công chức Hải
quan đã được quán triệt, đào tạo về trách nhiệm, khả năng phát hiện, ngăn chặn
tham nhũng. Các hoạt động này được nhất
quán từ cấp Tổng cục tới các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, mặc dù trong thực tiễn
diễn ra với các mức độ khác nhau.
e. Về quản lý, đánh
giá việc thực hiện của cán bộ nhân viên:
Hệ thống quản lý và
đánh giá bao gồm việc quản lý hàng ngày con người và việc thực thi của những
người đó. Đánh giá việc thực hiện là quá trình mà ở đó những người quản lý có
thể đánh giá việc thực hiện của nhân viên, xác định các cơ hội phát triển, nhận
rõ và trao thưởng cho những người làm việc tốt và
có đóng góp với cơ quan, tổ chức trong việc đạt tới những mục tiêu đề ra.
Tiến hành đánh giá
thường xuyên sẽ khuyến khích được nhân viên nêu cao trách nhiệm duy trì mức độ
liêm chính cao. Quá trình đánh giá thực hiện cần
gắn với quá trình khen thưởng gồm tăng lương, cũng như các phần thưởng ngoài
lương khác như thuyên chuyển, đào tạo, du lịch, tuyên dương, công khai để tiếp
tục khuyến khích hành vi tích cực. Việc khen thưởng có thể thực hiện ngay đối với
việc làm tốt, tuy nhiên hệ thống đánh giá cần phải đảm bảo đánh giá khách quan
việc thực hiện của nhân viên trong một thời gian dài.
Một số kết quả chính
đạt được:
- Ngành Hải quan tiến
hành đánh giá kết quả công việc theo định kỳ thời gian. Cụ thể, từng tháng căn
cứ vào tiến độ, chất lượng công việc để
đánh giá phân loại làm căn cứ để chi tiền lương tăng thêm theo các mức A,
B, C. Cuối năm có đánh
giá phân loại để làm cơ sở bình xét các danh hiệu thi đua như lao động
tiên tiến, chiến sỹ thi đua cơ sở, chiến sỹ thi đua ngành và
xem xét những hình thức khen thưởng cao hơn.
- Việc xét khen thưởng
theo định kỳ thời gian và khen thưởng đột xuất luôn gắn với việc đánh giá kết
quả thực hiện của nhân viên, đảm bảo đúng người, đúng việc. Danh hiệu khen được
gắn với mức thưởng vật chất, tuy nhiên mức độ còn rất khiêm tốn.
- Việc thực hiện các
nội dung của Quy tắc ứng xử cũng được xem xét trong khi đánh giá, phân loại cán
bộ công chức Hải quan, đưa vào mẫu biểu
phân loại hàng tháng.
2.3 Một số hạn chế
trong các nội dung thuộc quản lý nguồn nhân lực
* Về
các khoản thù lao và điều kiện:
- Mặc dù đã có quy định
về đánh giá, phân loại cán bộ công chức, song việc tiến hành đánh giá vẫn mang
tính hình thức do chưa có mô tả, định danh công việc một cách rõ ràng, phù hợp
với thực tiễn của mỗi lĩnh vực công tác. Các tiêu chí đánh giá còn chung chung,
chưa có cơ chế xem xét đánh giá kết quả gắn với từng vị
trí, chức danh, ngạch bậc cụ thể.
- Khoảng cách giữa
các hình thức phân loại thấp, nên chưa thực sự kích thích, động viên khuyến
khích được cán bộ, công chức Hải quan phấn đấu làm tốt để được xếp loại vào mức
cao hơn.
- Chưa tiến hành kiểm
tra, đánh giá việc thực Quy tắc ứng xử trong hoạt động thực tiễn của các đơn vị,
mà mới chủ yếu nắm kết quả thực hiện qua hệ thống báo cáo ngành dọc.
* Về
tuyển dụng, lựa chọn và thăng tiến:
- Mới chỉ công khai
tiêu chí tuyển chọn đối với các vị trí mới vào ngành, còn các vị trí trống khác
chưa được công khai với tất cả mọi người.
- Thí sinh muốn được
tuyển dụng vào ngành mới chỉ phải qua kỳ thi về kiến thức chuyên môn, tin học
và ngoại ngữ, mà chưa có hình thức kiểm tra chuẩn mực đạo đức, chủ yếu qua xác
minh lý lịch của thí sinh khi thí sinh đó đạt yêu cầu của kỳ thi tuyển và được
Tổng cục có quyết định tuyển dụng vào ngành. Chưa áp dụng hình thức phỏng vấn để
nắm thêm nguyện vọng, khả năng ứng xử và cách thức xử lý tình huống theo yêu cầu
của từng nhóm công việc chuyên môn.
- Trong thực tế chưa
có quy định và cũng chưa tiến hành lấy ý kiến nhận xét của công an, chưa lấy ý
kiến giới thiệu của những người có ảnh hưởng đối với những người mới tuyển dụng
để tham khảo giúp cho quá trình tuyển dụng được hiệu quả hơn.
- Hiện nay, không phải
lúc nào bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn của thí sinh cũng được kiểm bởi cơ
quan Hải quan, cơ quan Hải quan chỉ kiểm tra khi có dấu hiệu nghi vấn cần xác
minh làm rõ.
- Cán bộ đề cử bổ nhiệm
mới chủ yếu dựa trên công trạng, mà chưa dựa trên khả năng, mong muốn của họ
trong việc chấp nhận một mức độ trách nhiệm phù hợp chống tham nhũng và thúc đẩy
liêm chính.
- Quy tắc ứng xử chưa
được Ngành Hải quan coi là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng. Những người
tham gia thi tuyển không được yêu cầu cần
chấp nhận Quy tắc ứng xử.
* Về
bố trí, luân chuyển, sắp xếp lại:
- Chưa thống kê hết
các vị trí nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng tiêu cực
trong Ngành Hải quan. Việc luân chuyển còn gặp nhiều khó khăn về chuyên ngành đặc
thù, về phạm vi địa bàn luân chuyển, về các điều kiện đảm bảo cho việc luân
chuyển như đi lại, ăn ở, phương tiện làm việc... đặc biệt đối với những công việc
đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao.
- Chính sách luân
chuyển chưa thực sự phát huy tính hiệu lực và hiệu quả, chưa có cơ chế, tiêu
chí để xem xét, đánh giá một cách độc lập và khách quan.
- Môi trường làm việc
hiện nay còn có nhiều khó khăn, chưa thực sự ngăn chặn hữu hiệu việc thiết lập
mối quan hệ không phù hợp giữa nhân viên Hải quan và khách hàng.
* Về đào tạo và phát
triển nghề nghiệp:
- Chủ yếu
mới là các khóa đào tạo trên lớp, việc đào tạo tại nơi làm việc chưa được tiến
hành thường xuyên, mới chủ yếu kèm cặp, hướng dẫn cho những người mới tuyển
trong thời gian thử việc 1 năm theo quy định của Nhà nước.
- Tuy đã được đào tạo
về liêm chính Hải quan, nhưng công chức Hải quan, nhất là những người mới được tuyển
dụng chưa được truyền đạt kỹ, trọng tâm về các chuẩn mực mà một người mong đợi
cần có ở mỗi công chức Hải quan, cũng như là cách thức giải quyết, xử lý các
tình huống nảy sinh trong thực tiễn có liên quan đến thực thi liêm chính Hải
quan.
- Chưa có tiêu chí,
cách thức đánh giá hiệu quả các chương trình đào tạo. Việc đánh giá kết quả qua
điểm chấm bài thi của học việc mới chỉ đánh giá xem họ nắm kiến thức, vấn
đề đến đâu, còn hiệu quả phải được thể
hiện qua công việc, xem từ những kiến thức mà họ thu được qua các khóa đào tạo
sẽ được vận dụng, chuyển hóa vào công việc ra sao, cách thức giải quyết công việc,
kỹ năng làm việc được nâng lên như thế nào... Việc đánh giá hiệu quả công việc
cần phải dựa vào lãnh đạo quản lý trực tiếp của công chức đó.
- Từ việc được đào tạo,
đến việc phát huy khả năng và trách nhiệm trong việc phát hiện và ngăn chặn
tham nhũng, sửa đổi bất kỳ hành vi nào vi phạm chuẩn
mực liêm chính Hải quan vẫn còn khoảng cách khá xa, vì vấn đề liên quan đến yếu
tố con người, đến văn hóa ứng xử, văn hóa nghề nghiệp nên đòi hỏi có sự nhận thức
và chuyển biến từ tư duy đến hành động, không thể áp đặt một cách máy móc được
và cũng không thể ngày một ngày hai được mà đòi hỏi phải có quá trình liên tục.
* Về
quản lý, đánh giá việc thực hiện của
cán bộ nhân viên:
- Mặc dù đã có quy định
về đánh giá, phân loại cán bộ công chức, song việc tiến hành đánh giá vẫn mang
tính hình thức do chưa có mô tả, định danh công việc một cách rõ ràng, phù hợp
với thực tiễn của mỗi lĩnh vực công tác. Các tiêu chí đánh giá còn chung chung,
chưa có cơ chế xem xét đánh giá kết quả gắn với từng vị trí, chức danh, ngạch bậc
cụ thể.
- Khoảng cách giữa
các hình thức phân loại thấp, nên chưa thực sự kích thích, động viên khuyến
khích được cán bộ, công chức Hải quan phấn đấu làm tốt để được xếp loại vào mức
cao hơn.
- Chưa tiến hành kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện Quy tắc ứng xử trong
hoạt động thực tiễn của các đơn vị mà mới
chủ yếu nắm kết quả thực hiện qua hệ thống báo cáo ngành dọc.
* Nguyên nhân của các
hạn chế:
- Thiếu cơ chế động
viên, khuyến khích thực sự đối với những cán bộ công chức có năng lực, hiệu quả
công tác cao.
- Chưa có nghiên cứu,
khảo sát đánh giá về việc thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ công chức
trong ngành để tham mưu đề xuất những chính sách chế độ có liên quan đối với
cán bộ, công chức Hải quan.
- Chưa gắn đào tạo với
sử dụng, đề bạt, luân chuyển cán bộ công chức nên năng lực của cán bộ, công chức
Hải quan có nơi, có lúc không đáp ứng yêu cầu, không phù hợp với lĩnh vực
chuyên môn được giao.
- Chưa thiết kế được chương
trình đào tạo gắn giữa nhiệm vụ chuyên môn thường xuyên với nhiệm vụ trong
tương lai để chủ động về nhân lực.
3. Về văn hóa tổ chức
và tinh thần:
3.1 Đánh
giá chung
Trước khi thay đổi của
tổ chức diễn ra, điều cần thiết đầu tiên là hiểu rõ văn hóa và thực tiễn đang
hiện diện trong tổ chức và quyết định phương pháp thích hợp nhất để có được sự
cải thiện thực sự và liên tục. Mức độ cần thiết thay đổi phải dựa vào thực trạng
cơ quan và khả năng hỗ trợ phù hợp và áp lực cần thay đổi văn hóa.
Nhân viên và các tổ
chức đoàn thể cần tích cực tham gia vào quá trình này. Cần xác định những lĩnh
vực có độ rủi ro cao và đề xuất những sự thay đổi đối với hệ thống và thực tiễn
công việc hiện tại. Sự thay đổi về thái độ và văn hóa của tổ chức là cực kỳ khó
thực hiện, đặc biệt khi tham nhũng lan rộng hoặc thành bệnh. Tuy nhiên, không
có sự thay đổi, thậm chí nếu những người phạm tội tham nhũng bị thay thế, tham
nhũng có thể lại xảy ra ở những chỗ
đã thay thế đó. Cải thiện văn hóa của tổ chức để
nhân viên có niềm tự hào và trung thành trong công việc là điều quan trọng sống
còn để bẻ gẫy vòng xoáy đó.
3.2 Một
số kết quả đạt được về văn hóa tổ chức và tinh thần:
- Đại đa số cán bộ quản
lý các cấp làm gương cho nhân viên dưới quyền và tỏ rõ cam kết của họ đối với
liêm chính và ngay thẳng thể hiện qua các hành vi cư xử của mình.
- Cán bộ công chức Hải
quan được khuyến khích xác định các cách thức mà tham nhũng có thể xảy ra và đề
xuất cơ chế để tăng cường kiểm soát tham nhũng.
- Đã có nhiều văn hóa
được ban hành nhằm chấn chỉnh, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, liêm
chính, trong đó xác định rõ trách nhiệm của cán bộ thừa hành, lãnh đạo cấp Chi
cục, lãnh đạo cấp Cục, về quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong ngành trong việc
duy trì liêm chính, cũng như kêu gọi sự hỗ trợ, cộng tác từ phía doanh nghiệp.
- Những gương cán bộ
nhân viên có thành tích xuất sắc trong công việc như chống buôn lậu, chống thất
thu thuế... được khen thưởng tại các hội nghị của ngành, đơn vị hay đưa tin
trên báo, đài, phương tiện thông tin nhằm nhân rộng các gương điển hình.
- Mỗi khi có người
nào đó bị phát hiện vi phạm chuẩn mực đạo đức, tiêu cực hay tham nhũng, lãnh đạo
cơ quan, đơn vị có tiến hành các biện pháp như yêu cầu giải trình, làm rõ hành
vi vi phạm, các vấn đề có liên quan, tiến hành họp
các thành phần có liên quan và ra các quyết định hành chính tùy thuộc vào mức độ
vi phạm.
3.3 Một
số hạn chế về văn hóa tổ chức và tinh thần:
- Việc ra quyết định
của cán bộ quản lý cao cấp có lúc chưa được cởi mở và minh bạch vì quy trình ra
quyết định chưa được công khai với mọi người, chỉ những người có liên quan mới
biết được.
- Các biện pháp khuyến
khích nhân viên phát hiện tham nhũng chưa phù hợp, chưa phát huy tác dụng,
trong thực tế chưa có vụ việc tham nhũng nào do cán bộ trong ngành phát hiện,
mà chủ yếu do cơ quan chức năng như công an, quản lý thị trường
hoặc doanh nghiệp phản ánh. Cơ chế ghi nhận và tặng thưởng cho việc phát hiện
và đề xuất các biện pháp kiểm tra không sát thực và không khích lệ được mọi người.
- Chưa xây dựng chiến
lược liêm chính trong hoạt động Hải quan,
do vậy cần thiết xây dựng và triển khai chiến lược với sự
tham gia của mọi cán bộ công chức Hải quan.
- Chưa tiến hành các
biện pháp đo lường mức độ ý chí tinh thần của mọi người, ví dụ tiến hành các cuộc
khảo sát để thu thập ý kiến phản hồi
cũng như những đề xuất của nhân viên.
- Về mặt văn hóa, lý
thuyết thì nhân viên có thể nêu ra, thảo luận và giải quyết các vấn đề có tính
văn hóa hay tinh thần mà các vấn đề này có ảnh hưởng đến những nỗ
lực chống tham nhũng của cơ quan. Tuy nhiên, trong thực tế không phải như vậy,
do chưa có cơ chế phù hợp nên nhân viên còn ngại ngùng, e
dè khi nêu các vấn đề ra, coi đó là việc của lãnh đạo, của đơn vị hoặc nghĩ rằng
nếu có nêu thì cũng không giải quyết được vấn đề gì.
- Chưa có các hội nghị,
cuộc gặp mặt để tuyên truyền các chuẩn mực hành vi ứng xử được mong đợi ở cán bộ
công chức Hải quan, cũng như thông tin về các vụ việc, cá nhân bị phát hiện có
liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, những vấn đề cần lưu ý, rút kinh nghiệm để
mọi người thấy rõ tác hại và có biện pháp phòng tránh không để xảy ra các trường
hợp tương tự đối với đơn vị và cá nhân
- Chưa sử dụng các
phương tiện truyền thông nội bộ để thảo luận về liêm chính và các vấn đề văn
hóa. Các vụ tham nhũng chưa được thảo luận một cách công khai, cởi mở trong cán
bộ công chức của cơ quan.
- Chưa có văn bản
pháp lý quy định việc bảo vệ những nhân viên báo cáo hành vi vi phạm liêm chính
nên ảnh hưởng đến kết quả phát hiện tham nhũng từ trong nội bộ nhân viên Hải
quan. Đây cũng là lý do mà các cá nhân còn e ngại trong việc báo cáo mỗi khi
phát hiện hành vi liên quan đến tiêu cực, tham nhũng vì thấy rằng mình chưa được
cơ quan bảo vệ, việc báo cáo có thể sẽ gây nguy hại cho bản thân, kể cả vị trí
làm việc cũng như sự an toàn của bản thân và những người trong gia đình mình.
- Các hình phạt đối với
hành vi tham nhũng chưa đủ sức răn đe những hành vi không phù
hợp với chuẩn mực đạo đức. Chưa công khai cho mọi người biết về kết quả các cuộc
điều tra có liên quan đến tham nhũng.
3.4 Nguyên
nhân của các hạn chế:
Ngành Hải quan phải
kiến nghị với Bộ Tài chính làm việc cùng với các ngành chức năng khác để
ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản, chế độ chính sách
có liên quan đến thực thi liêm chính có hiệu quả đi vào cuộc sống, trở thành hiện
thực. Đó là tạo điều kiện cho công chức Hải quan có thu nhập đủ sống để ngăn ngừa
tham nhũng, để công chức dù có muốn cũng không thể
tham nhũng vì pháp luật có những quy định chặt chẽ, không bị mập mờ,
không tạo ra những khoảng trống tiếp tay cho công chức lộng quyền,
để công chức không dám liều tức là các chế
tài xử phạt tội tham nhũng phải đủ sức răn đe, khiến công chức Hải quan và các
đối tượng liên quan sợ mà không dám tham nhũng. Cụ thể là, cùng Bộ Nội vụ, Bộ
Lao động-Thương binh và xã hội xây dựng chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ
cho công chức Hải quan, có tham khảo chế độ
lương của Hải quan một số nước khác, cũng như khu vực tư nhân để làm sao công
chức Hải quan có mức lương và thu nhập đảm bảo mức sống hợp lý cho bản thân họ
và gia đình. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát văn bản quy phạm pháp luật, nâng
cao trình độ cán bộ làm công tác pháp chế để
vừa tiếp cận với các chuẩn mực thế giới,
vừa xây dựng văn bản pháp quy đảm bảo nội dung rõ ràng, chuẩn xác, tránh mập mờ,
tạo kẽ hở cho các đối tượng lợi dụng.
- Phương hướng chung
là xây dựng phương pháp trước, sau đó triển khai thí điểm rồi mới nhân ra diện
rộng. Đến nay, Tổng cục đã xây dựng được nền tảng
và các phương pháp cơ bản của mô hình QLNNL theo năng lực dựa trên vị
trí việc làm (VTVL), cụ thể: Xây dựng đề án VTVL của Tổng cục
Hải quan; Xây dựng Khung năng lực chuyên môn nghiệp vụ lĩnh vực GSQL & Thuế
XNK nhằm xác định được kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết của VTVL tại từng
lĩnh vực; Xây dựng & triển khai quy trình xác định biên chế theo VTVL nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng biên chế tại các đơn vị trong Ngành Hải
quan; Xây dựng phương pháp & triển khai thí điểm tại lĩnh vực Thuế XNK của
Cục HQ tỉnh Đồng Nai và bước đầu triển khai ứng dụng kết quả vào công tác cán bộ.
- Đến nay, Tổng cục Hải
quan đã thực hiện được 3/8 hoạt động của mô hình QLNNL theo năng lực gồm: (1)
Hệ thống VTVL, (2) Sổ tay nghiệp vụ, (3) Hệ thống ĐGNL; đang thực
hiện được 2/8 hoạt động gồm (4) Hồ sơ năng lực, (5) Hệ thống quản
lý kết quả công việc, (6) Các hoạt động TCCB (bố trí,
sắp xếp, điều động, luân chuyển) dựa trên kết quả ĐGNL và chưa triển khai 2/8
hoạt động là (7) Hệ thống Đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của công
chức, (8) Điện tử hóa các hoạt động QLNNL theo năng lực.
3.5 Hạn
chế, tồn tại chung.
- Mới dừng ở việc xây
dựng phương pháp & thí điểm diện hẹp, chưa triển khai ứng dụng vào các hoạt
động TCCB (tổ chức đánh giá nhân lực công chức, đào tạo, bố
trí, sắp xếp, điều động, luân chuyển);
- Hệ thống cơ sở dữ
liệu về VTVL chưa được rà soát, bổ sung, chuẩn hóa kịp thời. Việc triển khai
nhân rộng trong năm 2017 và những năm trước đây đều chậm tiến độ.
- Nguyên nhân dẫn đến
tình trạng nêu trên là do nhận thức về việc tiến hành đổi mới QLNNL theo VTVL
chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức. Thời gian qua, Tổng cục đã tập trung đẩy
mạnh cải cách thể chế, quy trình thủ tục nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động hải quan. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh các hoạt động đổi mới
QLNNL còn chưa được chú trọng và chưa theo kịp với yêu cầu cải cách nghiệp vụ của
Ngành. Các đơn vị nghiệp vụ chưa xác định đổi mới QLNNL thuộc nhóm công việc trọng
tâm thường xuyên phải tiến hành hàng năm. Nhiều đơn vị do bận công việc chuyên
môn, nên chưa chủ động và bố trí nhân lực để triển khai các hoạt động đổi mới
QLNNL
* Những vấn đề tồn tại
trong công tác tổ chức cán bộ của Tổng
cục Hải quan hiện
nay
- Không đánh giá được
năng lực công chức nên chưa đảm bảo bố trí đúng người, đúng việc. Chưa có đầy đủ
các công cụ hỗ trợ nâng cao năng lực công chức (đào tạo, STNV). Một bộ phận
công chức tại cơ quan Tổng cục, Cục Hải quan tỉnh, thành phố chưa đủ trình độ
kiến thức chuyên môn và kỹ năng trong tham mưu, thực thi công vụ. Chưa thực hiện
được việc bố trí công chức phù hợp năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Từ đó dẫn đến
tình trạng có nhiều sai sót, vi phạm trong quá trình xử lý công việc; gây ảnh
hưởng đến uy tín của Ngành
- Chưa kiểm soát được
quá trình thực thi công vụ của công chức, cấp trên chưa kiểm soát được khối lượng,
chất lượng công việc của cấp dưới. Chưa làm rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn
của từng công chức trong quá trình thực hiện công việc. Do vậy Tổng cục chưa có
các biện pháp điều chỉnh kịp thời, nhằm giảm thiểu
các vi phạm, đảm bảo quản lý có hiệu lực và hiệu quả.
- Nhiều hoạt động
TCCB còn rời rạc, chưa có sự kết nối với nhau dẫn đến hiệu quả việc QLNNL chưa
cao (đào tạo chưa gắn với yêu cầu công việc; bố trí, sắp xếp công việc chưa gắn
với trình độ, năng lực chuyên môn công chức)
- Chưa đáp ứng được đầy
đủ các yêu cầu của Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, người dân về việc cải
cách hành chính, nâng cao chất lượng công chức.
* Những tồn tại
nêu trên dẫn đến các hiện tượng,
hậu quả:
Thiếu cán bộ có năng
lực; cào bằng quyền lợi giữa người làm được việc và không làm được việc; giữa người
làm việc và người làm ít việc; thậm chí không làm....cụ thể:
(1). Ở cơ quan Tổng cục
(các Vụ, Cục chuyên môn): Năng lực tham mưu về xây dựng văn bản pháp luật, quy
trình nghiệp vụ, văn bản hướng dẫn còn yếu,
chưa sâu, thiếu khả thi; tiến độ thực hiện xây dựng
nhiều văn bản còn chưa đảm bảo kế hoạch đề
ra; chất lượng xây dựng một số văn bản chưa cao. Chất lượng tham mưu về công
tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc, xử lý các vướng mắc
thuộc về cơ chế, chính sách trong thực hiện nhiệm vụ còn chậm, bị động, thiếu
nhạy bén chưa hiệu quả và chưa thật sự thường xuyên.
(2). Đối với các Cục
Hải quan tỉnh, thành phố: Năng lực tham mưu thực thi còn yếu; nhiều vụ việc thuộc
trách nhiệm của mình, nhưng do hạn chế về năng lực nên có xu hướng đẩy trách
nhiệm xử lý lên Tổng cục. Chưa nắm bắt, phát hiện và xử lý kịp thời, hiệu quả
các tồn tại, vướng mắc về nghiệp vụ hải quan trên địa bàn thuộc trách nhiệm của
đơn vị.
(3). Ở các Chi cục Hải
quan: Một bộ phận công chức còn yếu về trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
và kỹ năng thực thi công việc; nhất là khi luân chuyển đến VTVL mới. Một bộ phận
công chức ý thức tổ chức kỷ luật còn kém, thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn đến vi
phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính, vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng
đến uy tín của đơn vị và của Ngành.
Phần
III
MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NÂNG CAO LIÊM
CHÍNH HẢI QUAN Ở VIỆT NAM
Chương
I
MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG
Để nâng cao hiệu quả
Liêm chính Hải quan một cách toàn diện, trong giai đoạn cải cách hiện đại hóa,
ngành Hải quan cần tập trung triển khai các nội dung sau:
1) Đảm bảo tính minh
bạch trong hoạt động Hải quan:
- Các văn bản luật,
các nghị định, thông tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện cần phải được công
khai, dễ truy cập và được áp dụng một cách đồng bộ, nhất quán. Tổng cục Hải
quan ngoài việc truyền tải các thông tin một cách có hệ thống, cập nhật mới lên
trang web của Tổng cục Hải quan, trang web của Cục Hải quan các tỉnh thành phố,
các ấn phẩm của ngành như Báo Hải quan, Bản tin nghiên cứu Hải quan còn cần phải
bố trí bộ phận thường xuyên theo dõi, cập nhật văn bản mới, hướng dẫn những vấn
đề cốt lõi nhất trong văn bản quy định mới để các đối tượng có liên quan dễ
dàng tiếp cận, hiểu đúng tinh thần và nội dung văn bản, từ đó đảm bảo việc thực
hiện được thống nhất. Điều này đòi hỏi được thực hiện không chỉ riêng đối với
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, những người khai hải quan, mà ngay cả cán bộ
công chức hải quan, cán bộ công chức của các bộ phận có liên quan thuộc các Bộ
ngành khác cũng cần hiểu và
nắm rõ, có như vậy mới thực thi đúng chức
trách nhiệm vụ và hướng dẫn được cho khách hàng.
- Trong các văn bản
pháp quy cần quy định rõ ràng quyền hạn, nghĩa vụ của các bên liên quan như
công chức hải quan, doanh nghiệp để có cơ chế giám sát lẫn nhau...
- Tính minh bạch và
công khai trong các hoạt động của hải quan cần được
thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý và cán bộ công chức hải quan, cơ quan hải
quan có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ cho các đối tác và các bên có
liên quan..
- Một vấn đề cũng cần
được lưu ý để đảm bảo tính minh bạch là các đối tác liên quan như doanh nghiệp,
người khai thuê hải quan, các hiệp hội ngành hàng cần
được tham gia vào việc xây dựng các văn bản pháp quy, đặc biệt là những văn bản
có liên quan đến chế độ, chính sách, đến hoạt động xuất nhập khẩu, bởi hơn ai hết
chính họ sẽ mang tính thực tiễn cao và giúp cho các nhà xây dựng chính sách có
thêm thông tin để hoàn thiện văn bản mang tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên,
không phải bất cứ ý kiến nào của các đối tượng liên quan cũng được xem xét, mà
cơ quan hải quan sẽ chỉ xem xét những ý kiến tích cực, hợp lý, xác đáng, góp phần
hoàn thiện các văn bản pháp quy.
- Ngược lại, các
doanh nghiệp, những người khai thuê hải quan cũng phải có trách nhiệm thường
xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp quy, các chế độ chính sách mới bởi họ
chính là người khai vào tờ khai hải quan các thông tin liên quan đến lô hàng xuất
khẩu, nhập khẩu và chịu trách nhiệm về những thông tin đã khai báo đó. Điều này
rất cần thiết trong xu thế cải cách, hiện đại hóa hải quan hiện nay đó là doanh
nghiệp tự khai, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, cơ quan hải quan chỉ giám
sát, kiểm tra. Thực hiện điều này cũng sẽ khắc phục được tình trạng trước đây
có những doanh nghiệp trông chờ công chức hải quan hướng
dẫn chi tiết, trả lời từng việc cụ thể hay khai thay và khi thông tin không
đúng, không chính xác thì họ cho rằng đã có ý kiến của hải quan và họ cũng
không phải chịu trách nhiệm gì… Vì vậy, vấn đề đặt ra là công chức hải quan
không hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các thủ tục kê khai hải quan, mà hỗ trợ họ
có được các văn bản pháp quy, các chế độ chính sách mới, hỗ trợ
trong việc tập huấn để họ hiểu và nắm chắc các quy định có liên quan, từ đó họ
vận dụng và thực hiện khai báo đối với lô hàng xuất nhập khẩu của mình.
2) Tự động hóa các
khâu nghiệp vụ chủ yếu:
- Để giảm bớt cơ hội
tiếp xúc giữa cán bộ, công chức hải quan và các doanh nghiệp, giảm thiểu các cơ
hội dẫn đến tiêu cực, tham nhũng, nâng cao liêm chính hải quan, một trong những
giải pháp hữu hiệu là tự động hóa các nghiệp vụ hải quan. Việc tin học hóa và tự
động hóa sẽ góp phần tăng tính khách quan trong giải quyết công việc của cán bộ,
công chức hải quan, tăng mức độ giải trình trách nhiệm của cán bộ công chức hải
quan khi ra các quyết định hành chính và thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát
trên cơ sở các quyết định đó.
- Cần xây dựng hệ thống
khai báo hải quan tích hợp, trong đó ứng dụng tối đa công nghệ thông tin vào
quy trình thủ tục, vào các khâu khai báo và truyền nhận dữ liệu từ tờ khai hải
quan, phân tích, xử lý thông tin quản lý rủi ro, ra quyết định hình thức, mức độ
kiểm tra, phân công kiểm hóa viên, kiểm tra mã HS, kiểm tra trị giá tính thuế...
- Tin học hóa và tự động
hóa thủ tục hải quan tốt sẽ góp phần đáng kể vào việc giảm thiểu tiêu cực và
tham nhũng. Tuy nhiên, việc tin học hóa và tự động hóa đòi hỏi các quy trình thủ
tục phải được đơn giản hóa và hợp lý hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc
tế..
- Rà soát, sửa đổi, bổ
sung các quy định về kỷ cương, kỷ luật, liêm chính hải quan hệ thống, đồng bộ
thống nhất, dễ hiểu, dễ tra cứu, dễ áp dụng; tăng thêm thời lượng đào tạo của
trường hải quan Việt Nam về chủ đề trên; tăng cường các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục về đạo đức công vụ, kỷ luật và liêm chính hải quan. Khuyến
khích gương người tốt, việc tốt, đơn vị tốt; thường xuyên kiểm tra và xử lý
nghiêm các vi phạm về đạo đức công vụ, kỷ luật hành chính, liêm chính hải quan;
3) Cải cách, phát triển
và hiện đại hóa ngành Hải quan
Theo Chiến lược phát
triển hải quan đến năm 2020, mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là: Xây dựng Hải
quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải
quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công nghệ
thông tin, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức quản lý rủi
ro, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.
Xây dựng lực lượng hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu có trang thiết
bị kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi
cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước
ngoài, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã
hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
Cụ thể hóa mục tiêu
chiến lược trên, mục tiêu của giai đoạn 2016-2020 là: Xây dựng Hải quan Việt
Nam trở thành cơ quan hải quan điện tử hiện đại, triển khai hiệu quả, hiệu lực
các cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về hải quan, trở thành cơ quan quản lý
nhà nước đi đầu trong cung cấp dịch vụ công, đẩy mạnh mối quan hệ đối tác trong
và ngoài nước, tạo thuận lợi cho các đối tác trong thực hiện thủ tục hải quan.
Xây dựng lực lượng hải quan chuyên nghiệp, chuyên sâu, liêm chính, được trang bị
và làm chủ các trang thiết bị công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển và
hội nhập của đất nước. Theo đó:
- Cơ chế, chính sách
quản lý hải quan đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thực hiện hiệu quả các
cam kết quốc tế. Thủ tục, quy trình nghiệp vụ hải
quan được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện. Rút ngắn
thời gian thông quan/giải phóng hàng và giảm chi phí làm thủ tục hải quan.
- Đẩy mạnh áp dụng cơ
chế tuân thủ tự nguyện trên cơ sở quản lý
rủi ro kết hợp với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát phòng ngừa nguy cơ
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng cấm và các gian lận thương mại; tích cực
triển khai các nội dung chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và tài trợ phổ
biến vũ khí. Phát huy hiệu quả công tác thiết lập và triển khai quan hệ đối tác
giữa cơ quan hải quan với cộng đồng doanh nghiệp và các bên liên quan trong thực
hiện quản lý nhà nước về hải quan.
- Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hải quan, hướng đến môi trường hải
quan điện tử phi giấy tờ, được thực hiện “mọi nơi - mọi lúc - mọi phương tiện”.
Đẩy mạnh việc trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng các trang thiết bị công nghệ
hiện đại trong công tác kiểm tra, giám sát tại các địa bàn trọng điểm.
- Tổ chức bộ máy hải
quan được cơ cấu gọn nhẹ, giảm đầu mối trung gian, thiết kế phù hợp với yêu cầu
hiện đại và nhu cầu quản lý của từng địa bàn.
- Phát triển đội ngũ
công chức hải quan tinh nhuệ, có trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu, làm chủ được
công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, hoạt động liêm chính, được tổ chức,
quản lý một cách khoa học, gắn nhu cầu thực tiễn của vị trí công tác với năng lực
từng cá nhân.
- Việc quản lý, điều
hành, quản trị các hoạt động nội bộ được thực hiện trên môi trường điện tử, ứng
dụng công nghệ quản lý hiện đại, đảm bảo quản trị, giám sát, đánh giá được hiệu
quả hoạt động của các lĩnh vực nghiệp vụ và công chức.
Chương
II.
GIẢI PHÁP TOÀN DIỆN ĐỂ THỰC HIỆN LIÊM CHÍNH HẢI QUAN ĐẾN NĂM
2020 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO
I.
VỀ THỂ CHẾ
1. Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống thể chế, quy trình thủ tục hải quan theo hướng tuân thủ các Hiệp định
thương mại tự do, Hiệp định tạo thuận lợi thương mại, Luật Hải quan, Luật Thuế
Xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng mô
hình Hải quan điện tử. Cụ thể:
2. Xây dựng hệ thống
văn bản quy định chi tiết Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
3. Sửa đổi, bổ sung hệ
thống văn bản quy định chi tiết Luật Hải quan.
4. Xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật để thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia; Cơ chế một cửa ASEAN.
5. Nội luật hóa và
triển khai thực hiện các cam kết của các Hiệp định thương mại theo lộ trình Việt
Nam đã ký kết.
6. Xây dựng, hoàn thiện
cơ sở pháp lý để thực hiện kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa tại các địa
điểm kiểm tra tập trung cho nhiều
Chi Cục Hải quan.
7. Rà soát, kiến nghị
điều chỉnh thủ tục hành chính trong các lĩnh vực có liên quan đến thủ tục Hải
quan theo hướng đơn giản, đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, tạo thuận lợi tốt
nhất cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp
khi tiếp cận, giải quyết các dịch vụ công.
II.
VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT HẢI QUAN
Với mục tiêu thủ tục
hải quan được thực hiện “mọi nơi - mọi lúc - mọi phương tiện”, người khai hải
quan thực hiện khai báo mọi nơi, với thời gian 24/7, trên các thiết bị cố định,
di động, hỗ trợ. Đồng thời, thời gian thông quan hàng hóa qua biên
giới dưới 36 giờ đối với hàng hóa xuất khẩu, 41 giờ đối với hàng hóa nhập khẩu;
các giải pháp về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan được đặt ra là:
1. Chuẩn hóa quy
trình thủ tục hải quan, xác định các yêu cầu nghiệp vụ tạo nền tảng để tăng cường
ứng dụng CNTT và ứng dụng trang thiết bị, công nghệ hiện đại trong kiểm tra,
giám sát hải quan.
2. Triển khai đầy đủ,
nâng cao hiệu quả hoạt động của Hệ thống thông quan điện tử thông qua việc duy
trì, giám sát và vận hành hệ thống VNACCS/VCIS ổn định, an ninh, an toàn 24/7;
rà soát, đánh giá nhu cầu việc sử dụng các trang thiết bị để điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp nhu cầu sử dụng của từng đơn vị và nghiên cứu công nghệ, thiết
bị mới để ứng dụng trong công tác kiểm tra, giám sát hải quan...
3. Nâng cao chất lượng
kiểm tra, giám sát hải quan, giảm thời gian kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế
hàng hóa, kiểm tra chuyên ngành
4. Xây dựng và hoàn
thiện mô hình địa điểm kiểm tra thực tế hàng hóa tập trung cho nhiều chi cục Hải
quan, mở rộng thực hiện soi chiếu trước đối với hàng hóa nhập khẩu và soi chiếu
sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu;
5. Chủ động phối hợp
với các Bộ, ngành sửa đổi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra
chuyên ngành theo Quyết định 2026/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
17/11/2015 phê duyệt Đề án Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; đổi mới
phương pháp kiểm tra chuyên ngành theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, giảm chi phí, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa, xây dựng
và định kỳ rà soát, sửa đổi, bổ sung Danh mục hàng hóa rủi ro về chính sách quản
lý trong lĩnh vực xuất khẩu; xây dựng và ban hành đầy
đủ Danh mục các mặt hàng thuộc diện kiểm tra chuyên ngành theo hướng thu hẹp diện
kiểm tra chuyên ngành, chi tiết mã số HS;
6. Xã hội hóa hoạt động
kiểm tra chuyên ngành để bổ sung cơ sở kiểm tra, đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh
mẽ của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tiết kiệm nguồn lực đầu tư của Nhà nước;
mở rộng thực hiện kiểm tra chuyên ngành tại các địa điểm kiểm tra tập trung tại
cửa khẩu, tăng cường hoạt động của các Chi cục Kiểm định trực thuộc Cục Kiểm định;
mở rộng thực hiện kiểm tra chuyên ngành tại các địa điểm kiểm tra tập trung tại
cửa khẩu; xây dựng mô hình, triển khai áp dụng
phương pháp giám sát, công nghệ giám sát hiện đại...
III.
VỀ QUẢN LÝ THUẾ
Với mục tiêu tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp trong thanh toán chi phí xuất nhập khẩu, đơn giản hóa một
phần thủ tục, góp phần giảm thời gian thông quan, hướng tới thực hiện các thủ tục
hải quan theo hướng dịch vụ công trực tuyến ở
mức độ 3-4, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân, tăng tốc độ xử lý của cơ
quan hải quan, các giải pháp đặt ra là:
1. Mở rộng việc triển
khai thực hiện thanh toán thuế, lệ phí hải quan bằng phương thức điện tử
(e-Payment) thông qua việc mở rộng các ngân hàng tham gia triển khai hệ thống
e-Payment.
2. Mở rộng việc triển
khai thực hiện thanh toán thuế, lệ phí hải quan bằng phương thức điện tử
(e-Payment) thông qua việc mở rộng các ngân hàng tham gia triển khai hệ thống
e-Payment và hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử thân thiện với người dùng đồng
thời vẫn đảm bảo thuận tiện cho công tác thống kê, báo cáo”.
3. Tiếp tục cải cách
thủ tục hành chính công, cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và
doanh nghiệp.
IV.
VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT HẢI QUAN
Với mục tiêu nâng cao
hiệu quả công tác kiểm soát hải quan thông qua việc hoàn thiện hệ thống cơ sở
pháp lý đầy đủ, thống nhất liên quan đến lĩnh vực kiểm soát hải quan; ứng dụng,
khai thác triệt để công nghệ thông tin, các trang thiết bị hiện đại, kết hợp
nhuần nhuyễn, đồng bộ, hiệu quả giữa phương thức kiểm soát hải quan hiện đại với
phương thức kiểm soát hải quan truyền thống, các giải pháp đặt ra là:
1. Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất liên quan đến lĩnh vực kiểm soát hải
quan.
2. Ứng dụng, khai
thác triệt để công nghệ thông tin, các trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại phục vụ
hoạt động nghiệp vụ kiểm soát hải quan.
3. Tăng cường công
tác tham mưu, chỉ đạo; tổ chức lực lượng đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với
hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới.
4. Xây dựng các văn bản
thực hiện cam kết quốc tế về các nội dung thuộc lĩnh vực kiểm soát hải quan.
5. Nâng cao năng lực
của lực lượng kiểm soát toàn Ngành trong áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm
soát hải quan, chủ trì và phối hợp thực hiện hoạt động
kiểm soát hải quan hiệu quả và hiệu lực.
6. Tăng cường quan hệ
đối tác trong trao đổi thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, phối
hợp nghiệp vụ và tuyên truyền về phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
V.
VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO
Với mục tiêu đến năm
2020 và những năm tiếp theo, công tác quản lý rủi ro được tổ chức thực hiện và
áp dụng xuyên suốt trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ hải quan nhằm tạo ra sự
minh bạch, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý hải quan; giảm tỷ
lệ kiểm tra, giảm chi phí cho doanh nghiệp, giảm tỷ lệ kiểm tra luồng vàng, đỏ,
đồng thời là giải pháp tối ưu đảm bảo sự cân bằng giữa kiểm soát và tạo thuận lợi,
trong bối cảnh lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu,
hành khách, phương tiện xuất nhập cảnh đang ngày càng gia tăng nhanh chóng, các
giải pháp đặt ra là:
1. Hoàn thiện cơ sở
pháp lý, quy trình làm cơ sở cho việc triển khai thu thập, xử lý thông tin quản
lý rủi ro. Xây dựng và thực hiện thu tin qua các kênh thông tin từ các tổ chức,
cá nhân có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh.
2. Triển khai áp dụng
quản lý rủi ro để quyết định lựa chọn kiểm tra, giám sát hải quan đối với hành
lý của người xuất nhập cảnh, trong việc lựa chọn kiểm tra hàng hóa trong quá
trình xếp, dỡ từ phương tiện vận tải nhập
cảnh xuống kho, bãi, cảng, khu vực cửa khẩu nhập
và hàng hóa xuất khẩu sau khi đã thông quan được tập kết tại khu vực cửa khẩu
xuất: Hoàn thiện cơ sở pháp lý và quy trình, quy định, xây dựng hệ thống công
nghệ thông tin và triển khai thực hiện việc thu thập, xử lý thông tin, áp dụng
quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan; xây dựng hệ thống
trao đổi dữ liệu điện tử giữa cơ quan hải quan và các doanh nghiệp vận tải,
doanh nghiệp kinh doanh kho, cảng phục vụ áp dụng quản lý rủi ro trong việc soi
chiếu trước và sau thông quan.
3. Theo dõi, kiểm tra
việc áp dụng tiêu chí dựa trên kết quả phân tích, đánh giá rủi ro Cục Hải quan
tỉnh, thành phố theo đúng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 50 Quyết định số
464/QĐ-BTC ngày 29/6/2015 của Bộ Tài chính về
quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan
và Điều 62 Quyết định số 282/QĐ-TCHQ ngày 10/5/2015 của Tổng cục Hải quan ban
hành hướng dẫn thực hiện áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải
quan.
4. Tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra để giảm tỷ lệ chuyển luồng kiểm tra của
Chi cục Hải quan đồng thời xử lý nghiêm đối với các trường hợp chuyển luồng tùy
tiện.
5. Thực hiện áp dụng
Danh mục hàng hóa rủi ro đối với doanh nghiệp không tuân thủ và doanh nghiệp có
rủi ro cao.
6. Công khai tiêu chí
đánh giá, có hệ thống cảnh báo; công khai lý do doanh nghiệp bị phân luồng.
7. Nghiên cứu triển
khai đồng bộ và hiệu quả công tác quản lý tuân thủ trong các hoạt động nghiệp vụ
hải quan, tăng cường đẩy mạnh công tác hợp tác, trao đổi thông tin nhằm hỗ trợ,
khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ và nâng cao năng lực tuân thủ pháp
luật.
VI.
VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN
Với mục tiêu xây dựng
hệ thống kiểm tra sau thông quan trong tổng thể Chiến lược phát triển hải quan
đến năm 2020 và những năm tiếp theo hiện đại, chuyên nghiệp, chuyên sâu phù hợp
với chuẩn mực quốc tế, hoạt động tập trung, thống nhất và hiệu quả trong toàn
ngành trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và phương pháp quản lý rủi
ro, đáp ứng yêu cầu quản lý và yêu cầu cải cách phát triển, hiện đại hóa Ngành
Hải quan; kiểm tra hải quan được chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đảm bảo sự
đồng bộ trong kiểm soát các khâu trước, trong và sau thông quan nhằm tạo thuận
lợi tối đa cho hoạt động xuất nhập khẩu hợp
pháp của doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước về hải
quan, các giải pháp được đặt ra là:
1. Tăng cường công
tác Kiểm tra sau thông quan đáp ứng cải cách hiện đại hóa hải quan và định hướng
chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, hướng dẫn tuân thủ pháp luật, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, răn đe ngăn chặn kịp
thời các trường hợp cố tình gian lận gây thất thu cho ngân sách nhà nước, góp
phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị thu ngân sách của Ngành
Hải quan thông qua việc hoàn thiện và triển khai thực hiện hệ thống pháp luật,
quy trình thực hiện kiểm tra sau thông quan, triển khai đề án tăng cường năng lực
kiểm tra sau thông quan đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, đẩy mạnh thực hiện
chương trình doanh nghiệp ưu tiên và công nhận lẫn nhau với Hải quan các nước.
2. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, áp dụng quản lý rủi ro trong việc thu thập thông tin và
đánh giá doanh nghiệp phục vụ hoạt động kiểm tra sau thông quan, xây dựng các chương
trình, phần mềm chuyên sâu hỗ trợ hiệu quả cho công tác thu thập thông tin phục
vụ công tác kiểm tra sau thông quan xuyên suốt thông tin từ cấp Tổng cục đến
các Cục Hải quan (phần mềm phân tích số liệu
xuất nhập khẩu); xây dựng quy chế phối hợp, trao đổi thông tin nhằm tăng cường
phối kết hợp giữa lực lượng kiểm tra sau thông quan với các đơn vị trong Ngành
Hải quan.
VII.
VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY, ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Với mục tiêu nâng cao
hiệu quả quản lý nguồn nhân lực, nâng cao năng lực công chức hải quan trên cơ sở
các quy định về quản lý nghiệp vụ và quản lý nguồn nhân lực đã được chuẩn hóa,
đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu, liêm chính, tuân thủ các quy định liên
quan công chức hải quan, có phương pháp làm việc hiện đại, hiệu suất xử lý công
việc cao, sử dụng thành thạo các hệ thống phần mềm nghiệp vụ và trang thiết bị
kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, có khả năng làm việc hiệu quả trong môi trường
trong nước và quốc tế, các giải pháp đặt ra là:
1. Hệ thống tổ chức bộ
máy hải quan các cấp được kiện toàn theo hướng gọn, nhẹ, hiệu quả đáp ứng yêu cầu
sử dụng biên chế hiệu quả và quản lý hải quan điện tử.
2. Từng bước áp dụng
phương thức điện tử trong quản lý, điều
hành, thực hiện các hoạt động hải quan nhằm từng bước nâng cao hiệu suất
xử lý công việc, trên cơ sở các quy trình công việc được chuẩn hóa theo tiêu
chuẩn ISO hướng tới một cơ quan hải quan điện tử trong xu hướng hình thành
Chính phủ điện tử tại Việt Nam.
3. Từng bước đổi mới
cơ bản phương thức Quản lý nguồn nhân lực theo năng lực dựa trên mô tả vị trí
việc làm; trước hết là đối với các vị trí việc làm không giữ chức vụ lãnh đạo,
nhằm đảm bảo bố trí đúng người, đúng việc; nâng cao hiệu suất
làm việc; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;
điện tử hóa một số hoạt động quản lý nguồn nhân lực; nâng cao tính khoa học,
công bằng, minh bạch cho các hoạt động quản lý nguồn nhân lực, các nhiệm vụ cụ
thể là:
a) Tiếp tục hoàn thiện
danh mục vị trí việc làm và các bản mô tả công việc của từng vị trí việc làm
trong ngành.
b) Nghiên cứu, xây dựng
các phương pháp quản lý nguồn nhân lực trên cơ sở năng lực, ứng dụng kết quả
xác định vị trí việc làm (xây dựng khung năng lực và danh mục, định mức sản phẩm
của từng vị trí việc làm, xây dựng hệ thống
đánh giá năng lực, hệ thống quản lý kết quả công việc điện tử).
c) Xây dựng và phát
triển hệ thống quản lý nhân sự điện tử tập trung, chuẩn hóa các quy trình quản
lý nguồn nhân lực theo hướng từng bước điện tử hóa các khâu quản lý nguồn nhân
lực.
d) Xây dựng kế hoạch
về tinh giản biên chế của Tổng cục Hải quan trên cơ sở đánh giá, sử dụng biên
chế theo vị trí việc làm gắn với cơ cấu ngạch công chức, viên chức.
VIII.
VỀ CÔNG TÁC THANH TRA- KIỂM TRA
1. Thường xuyên kiện
toàn và bổ sung thêm lực lượng tham mưu công tác thanh tra, kiểm tra và trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra tại đơn vị.
Nên có quy định biên chế tối thiểu để đảm bảo đủ biên chế thực hiện nhiệm vụ
thanh tra, kiểm tra tại các Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
2. Chủ động tổ chức
các lớp tập huấn hoặc cử cán bộ công chức tham gia các lớp tập huấn, các khóa
đào tạo nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, kiểm tra nội bộ nhằm nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.
3. Đảm bảo các chế độ
chính sách, chế độ đãi ngộ và các nguồn lực cần thiết khác cho đội ngũ cán bộ
công chức thanh tra chuyên ngành của đơn vị khi tham gia hoạt động thanh tra
chuyên ngành.
4. Mở rộng đối tượng
thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành: ngoài công chức đang công tác tại bộ
phận thanh tra còn các CBCC tại các bộ phận nghiệp vụ khác nhưng chưa đủ điều
kiện được cấp thẻ thanh tra (do chờ học bồi dưỡng nghiệp vụ thanh
tra), đồng thời, cho các đối tượng này được hưởng chế độ bồi dưỡng khi thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành.
5. Sửa đổi tiêu chuẩn,
điều kiện được cấp Thẻ công chức thanh tra chuyên ngành theo quy định tại Thông
tư 19 của Bộ Tài chính, theo đó, mở rộng đối tượng được cấp thẻ. Đối tượng được
cấp thể không nhất thiết phải đang công tác tại bộ phận tham mưu làm công tác
thanh tra chuyên ngành. Quy định về cấp Thẻ và
quản lý Thẻ giao cho các Tổng cục, Cục thuộc Bộ chịu trách nhiệm hướng dẫn thực
hiện.
6. Đề
nghị Tổng cục xem xét, nghiên cứu, hướng dẫn để mỗi đơn vị có chức năng thanh tra
chuyên ngành xây dựng đội ngũ làm công tác thanh tra chuyên ngành ổn định, sử dụng
lâu dài.
7. Đào tạo cho đội
ngũ CBCC làm công tác thanh tra chuyên ngành vững về
nghiệp vụ thanh tra kiểm tra,
quy trình thanh tra nói chung, giỏi về mã số, chính sách thuế, giá, quản lý
hàng GC-SXXK, nghiệp vụ kế toán kiểm toán, xử lý VPHC...Đội ngũ
này có thể công tác tại phòng TT-KT, có thể công tác/chuyển đổi đến các đơn vị
khác như Chi cục Hải quan, Chi cục KTSTQ, phòng Thuế, Phòng GQSL, QLRR...khi cần
thiết trưng dụng tham gia thanh tra chuyên ngành.
8. Nâng cao hiệu quả
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành về tuyên truyền pháp luật và đẩy mạnh hoạt
động tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về các quy định pháp luật
cho cán bộ công chức cũng như doanh nghiệp và người dân.
9. Thường xuyên thành
lập các Tổ/Đội thực hiện kiểm tra đột xuất nhằm xử lý kịp thời các thông tin,
phản ánh của báo chí, người dân và doanh nghiệp liên quan đến việc thực thi nhiệm
vụ, công vụ của công chức hải quan.
10. Thiết lập hệ thống
trung tâm giám sát trực tuyến cấp Tổng cục và một
số Cục Hải quan các tỉnh, thành phố, địa bàn trọng điểm để giám sát, theo dõi,
xử lý công việc của công chức hải quan thực thi công vụ; Tổ
chức trực ban 24/7 từ Tổng cục đến Cục Hải quan các tỉnh thành phố để kịp thời
giải quyết, xử lý công việc phát sinh theo yêu cầu.
11. Vận hành hệ thống
đường dây nóng liên kết xuyên suốt từ cấp Tổng cục đến các Cục Hải quan, Chi cục
Hải quan trong hệ thống Hải quan để kịp thời tiếp nhận, xử lý thông tin, phản
ánh của người dân, doanh nghiệp liên quan đến thủ tục hải quan, những khó khăn,
vướng mắc khi làm thủ tục hải quan; tiếp nhận thông tin tố giác buôn lậu, tiêu
cực....
12. Thường xuyên chỉ đạo
rà soát các thủ tục hành chính; cắt giảm và công khai hóa thủ tục hải quan, thủ
tục hành chính trên trang Web của Tổng cục, của Cục Hải quan và tại nơi làm thủ
tục hải quan.
13. Niêm yết công
khai các văn bản hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp phí, lệ phí tại nơi giải
quyết thủ tục hải quan để người dân và doanh nghiệp biết, giám sát và thực hiện.
14. Tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong thực thi công vụ.
15. Tổ chức thường xuyên
các cuộc thanh tra, kiểm tra công vụ, kiểm tra phòng, chống tham nhũng nhằm
phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm tiêu cực, tham nhũng; Kiên quyết, kịp thời
xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm kỷ cương, kỷ luật, tiêu cực tham
nhũng làm trong sạch nội bộ.
IX.
VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1. Nâng cao khả năng
kiểm soát của cơ quan hải quan nhưng vẫn duy trì
được thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu thông qua việc xây dựng các cơ chế
kiểm soát bằng phương thức điện tử.
2. Nâng cao mức độ tự
động hóa của quy trình nghiệp vụ; Đồng thời thống nhất các quy trình nghiệp vụ hiện
nay trong bài toán tổng thể.
3. Triển khai ứng dụng
CNTT với các lĩnh vực hiện chưa thực hiện.
4. Tăng cường an
ninh, an toàn cho các hệ thống công nghệ thông tin, trong đó đảm bảo an ninh,
an toàn tuyệt đối cho hoạt động của hệ thống tại Trung tâm quản lý vận hành hệ
thống công nghệ thông tin hải quan, thực hiện giám sát an ninh mạng một cách
chuyên nghiệp, bài bản, liên tục; chủ động phát hiện các nguy cơ đối với hệ thống
từ cả bên trong, tăng cường kiểm soát việc sử dụng
các hệ thống công nghệ thông tin; đảm bảo việc khai thác thông tin theo đúng
quy trình, giảm thiểu các rủi ro do tấn công mạng và truy cập trái phép các cơ
sở dữ liệu nghiệp vụ trong phạm vi toàn ngành.
5. Xây dựng, bổ sung
hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu áp dụng phương thức điện tử trong
thực hiện một số thủ tục, hoạt động quản lý hải quan mà Hệ thống VNACCS/VCIS hiện
chưa triển khai như: xây dựng phân hệ quản lý hàng hóa tại cảng biển, xây dựng
phân hệ quản lý hàng hóa đặc thù, xây dựng phân hệ quản lý hàng hóa lưu giữ tại
các kho và khu vực ưu tiên, xây dựng phân hệ quản lý miễn, giảm, hoàn thuế.
X. VỀ
MỐI QUAN HỆ HẢI QUAN- DOANH NGHIỆP
1. Đối với cơ quan hải
quan
1.1 Thông tin, tuyên
truyền về hoạt động đối tác
- Đưa tin về các hoạt
động hợp tác, đối tác hải quan doanh nghiệp một cách thường xuyên để cộng đồng
doanh nghiệp biết, tham gia.
- Tuyên truyền về lợi
ích kết quả từ hoạt động đối tác để xây dựng niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
- Chủ động tham gia
vào xử lý khủng hoảng truyền thông.
- Thiết lập chuyên mục
đối tác Hải quan doanh nghiệp trên trang thông tin điện tử của các Cục Hải quan
tỉnh, thành phố.
1.2. Nâng cao chất lượng
hỗ trợ doanh nghiệp
Cơ quan Hải quan các
cấp cần chủ động nghiên cứu, đổi mới nâng cao chất lượng hỗ trợ doanh nghiệp với
đa dạng các hình thức thông qua các nội dung:
- Hỗ trợ tạo thuận lợi
thương mại cho doanh nghiệp thông qua tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật;
Cung ứng dịch vụ công trực tuyến có chất lượng; Đổi mới hình thức hướng dẫn, hỗ
trợ doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hải quan.
- Hỗ trợ nâng cao ý
thức, năng lực tuân thủ pháp luật.
1.3. Tăng cường hoạt
động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp và các bên liên quan:
- Tăng cường tham vấn
ở cấp cơ sở, đặc biệt tham vấn trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn chính
sách pháp luật hải quan.
- Tổ chức tham vấn
theo hướng dẫn của Tổng cục đồng thời phản hồi tích cực việc xử lý kết quả tham
vấn nhằm tạo lòng tin cho doanh nghiệp.
1.4. Nâng cao chất lượng
giám sát thực thi pháp luật:
- Đánh giá chất lượng
phục vụ của cơ quan hải quan các cấp.
- Thực hiện đánh giá
về chi phí tuân thủ đối với thủ tục hành chính.
1.5. Mở rộng hoạt động
hợp tác với cộng đồng doanh nghiệp:
- Mở rộng hợp tác với
nhóm đối tác thường xuyên để trở thành lực lượng nòng cốt thúc đẩy hoạt động đối
tác hải quan doanh nghiệp.
- Tăng cường các hoạt
động đối với các nhóm đối tượng trọng điểm như: các doanh nghiệp kinh doanh cảng,
kho, bãi, đại lý hải quan, doanh nghiệp ưu tiên.
- Vận động các Hiệp hội,
doanh nghiệp uy tín tổ chức các khóa đào tạo về hàng hóa thương phẩm cho cán bộ
hải quan các cấp.
1.6. Đào tạo kiến thức,
kỹ năng phát triển quan hệ đối tác
Đào tạo kiến thức, kỹ
năng về phát triển quan hệ đối tác cho cán bộ, công chức hải quan và cộng đồng
doanh nghiệp.”
2. Đối với cộng đồng
doanh nghiệp
a) Hiệp
hội doanh nghiệp
- Đẩy mạnh hoạt động
tham vấn trong xây dựng chính sách pháp luật qua việc hình thành nhóm tham vấn
thường xuyên giữa các Hiệp hội doanh nghiệp nòng cốt và Tổng cục Hải quan;
- Tăng cường hợp tác
trong theo dõi, phản ánh tình hình thực thi pháp luật
hải quan thông qua việc thiết lập kênh trao đổi trực tuyến giữa các Hiệp hội
doanh nghiệp và Tổng cục Hải quan trên Cổng
thông tin điện tử hải quan;
b) Doanh
nghiệp xuất nhập khẩu
- Doanh nghiệp lớn:
+ Triển khai các hoạt
động hợp tác theo nhóm doanh nghiệp;
+ Giao các Chi cục
xây dựng quan hệ hợp tác thường xuyên với doanh nghiệp với các nội dung hợp tác
cụ thể: (i) thiết lập kênh hỗ trợ trực tiếp với doanh nghiệp; (ii) thường xuyên
cập nhật thông tin về quy định, chính sách pháp luật qua đầu
mối liên lạc của doanh nghiệp; (iii) tiếp
nhận thông tin và định kỳ làm việc với doanh nghiệp để nắm tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình chấp hành pháp luật trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; (iv) thường xuyên tham vấn doanh nghiệp
về các giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật; (v) hỗ
trợ doanh nghiệp tự hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, tăng tính tuân thủ của
doanh nghiệp;
- Doanh nghiệp vừa và
nhỏ: Áp dụng các biện pháp hỗ trợ phổ cập như: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật; hướng dẫn thực thi pháp luật; hướng dẫn các vướng mắc thường gặp tại
cấp cơ sở bằng các hình thức cụ thể như: (i) Phát tờ rơi (danh mục hàng hóa mậu
dịch biên giới, hàng hóa cấm xuất nhập khẩu, các
vấn đề cần lưu ý khi xuất nhập cảnh,...); (ii) xây dựng sổ tay hướng dẫn thủ tục
hải quan đối với các thủ tục thường xuyên thực hiện trên địa bàn; (iii) Tổ chức
các hoạt động hỗ trợ theo nhóm, hội doanh nghiệp; (iv)
Ký cam kết chấp hành, tuân thủ quy định pháp luật; (v) Biên tập các vướng mắc
thường gặp, đăng tải trên Cổng thông tin điện tử hải quan, tại địa điểm làm thủ
tục, cung cấp cho doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp qua công văn, thư điện tử,
báo cáo trao đổi thông tin thường kỳ, tờ rơi,...
- Doanh nghiệp kinh
doanh hàng hóa đặc thù: Thực hiện các chương trình đối tác theo các chuyên đề
nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý đối với hàng hóa cho cơ quan hải quan và doanh
nghiệp như:
+ Xây dựng phần mềm
theo dõi, quản lý lượng xăng dầu vào kho, từ kho đưa vào kho nội địa, hoặc tái
xuất, xuất khẩu và kết nối dữ liệu với cơ quan hải quan của doanh nghiệp xuất
nhập khẩu xăng dầu theo khoản 20, Điều 4, Thông tư
69/2016/TT-BTC;
+ Xây dựng phần mềm
quản lý hàng miễn thuế kết nối với cơ quan hải quan quản lý
theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Nghị định 68/2016/NĐ-CP;
+ Kết nối hệ thống quản
lý mã vạch hàng hóa (nếu có) với bộ phận giám sát Hải quan để quản lý, giám sát
đối với hàng hóa đưa ra, đưa vào khu vực giám sát của cơ quan Hải quan của
doanh nghiệp chuyển phát nhanh theo khoản 9, Điều 5, Thông tư
191/2015/TT-BTC;
+ Hợp tác trao đổi
thông tin về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gia
công, sản xuất xuất khẩu;
+ Kiểm tra xuất xứ
hàng hóa trong trường hợp doanh nghiệp xuất nhập khẩu tự chứng nhận xuất xứ.
c)
Doanh nghiệp dịch vụ xuất nhập khẩu:
- Xây dựng mối quan hệ
đối tác thường xuyên, trong đó tập trung vào nội dung:
+ Tăng cường tính an
ninh, an toàn của chuỗi cung ứng qua: (i) Trao đổi thông tin về hàng hóa,
phương tiện vận tải để nắm bắt di biến động của hàng hóa, phương tiện vận tải
phục vụ cho thông quan hàng hóa nhanh chóng, hiệu quả; (ii) Phối hợp trong công
tác giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh;
+ Tăng tính cạnh
tranh của dịch vụ xuất nhập khẩu qua: (i) hợp tác cải thiện quy trình hoạt động,
hệ thống công nghệ thông tin quản lý của doanh nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu
của quy định pháp luật cũng như sự gia tăng của lưu lượng hàng hóa; (ii) trao đổi
thông tin về giá cả, cước phí hàng hóa, vận tải.
3. Đối với hoạt động phát triển quan hệ đối tác hải quan - doanh nghiệp:
3.1. Thông tin, tuyên
truyền về hoạt động đối tác
- Đưa tin về các hoạt
động hợp tác, đối tác hải quan doanh nghiệp một cách thường xuyên để cộng đồng
doanh nghiệp biết, tham gia.
- Tuyên truyền về lợi
ích kết quả từ hoạt động đối tác để xây dựng niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
- Chủ động tham gia
vào xử lý khủng hoảng truyền thông.
- Thiết lập chuyên mục
đối tác Hải quan doanh nghiệp trên trang
thông tin điện tử của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
3.2. Nâng cao chất lượng
hỗ trợ doanh nghiệp
Cơ quan Hải quan các
cấp cần chủ động nghiên cứu, đổi mới nâng cao chất lượng hỗ trợ doanh nghiệp với
đa dạng các hình thức thông qua các nội dung:
- Hỗ trợ tạo thuận lợi
thương mại cho doanh nghiệp thông qua
tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật; Cung ứng dịch vụ công trực tuyến có
chất lượng; Đổi mới hình thức hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong thực hiện thủ
tục hải quan.
- Hỗ trợ nâng cao ý
thức, năng lực tuân thủ pháp luật.
3.3. Tăng cường hoạt
động tham vấn cộng đồng doanh nghiệp và các bên liên quan:
- Tăng cường tham vấn
ở cấp cơ sở, đặc biệt tham vấn trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn chính
sách pháp luật hải quan.
- Tổ chức tham vấn
theo hướng dẫn của Tổng cục đồng thời phản hồi tích cực việc xử lý kết quả tham
vấn nhằm tạo lòng tin cho doanh nghiệp.
3.4. Nâng cao chất lượng
giám sát thực thi pháp luật:
- Đánh giá chất lượng
phục vụ của cơ quan hải quan các cấp.
- Thực hiện đánh giá
về chi phí tuân thủ đối với thủ tục hành chính.
3.5. Mở rộng hoạt động
hợp tác với cộng đồng doanh nghiệp:
- Mở rộng hợp tác với
nhóm đối tác thường xuyên để trở thành lực lượng nòng cốt thúc đẩy hoạt động đối
tác hải quan doanh nghiệp.
- Tăng cường các hoạt
động đối với các nhóm đối tượng trọng điểm như: các doanh nghiệp kinh doanh cảng,
kho, bãi, đại lý hải quan, doanh nghiệp ưu tiên.
- Vận động các Hiệp hội,
doanh nghiệp uy tín tổ chức các khóa đào tạo về hàng hóa thương phẩm cho cán bộ
hải quan các cấp.
3.6. Đào
tạo kiến thức, kỹ năng phát triển quan hệ đối tác
Đào tạo kiến thức, kỹ
năng về phát triển quan hệ đối tác cho cán bộ, công chức hải quan và cộng đồng
doanh nghiệp.
Chương
III
CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ VỀ LIÊM CHÍNH HẢI QUAN CẦN THỰC HIỆN
TRONG GIAI ĐOẠN 2019-2020
I.
ĐỐI VỚI THỦ TỤC KIỂM TRA, GIÁM SÁT HẢI QUAN:
Đơn vị chủ trì thực
hiện: Cục Giám sát quản lý, Cục Công nghệ thông tin
Xây dựng bổ sung hệ
thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu áp dụng phương thức điện tử trong thực
hiện một số thủ tục, hoạt động quản lý hải quan mà Hệ thống VNACCS/VCIS chưa
triển khai:
1. Xây dựng phân hệ
thực hiện thủ tục quá cảnh.
2. Xây dựng phân hệ
quản lý hàng hóa tại cảng biển.
3. Xây dựng phân hệ
quản lý hàng hóa đặc thù.
4. Xây dựng phân
hệ quản lý hàng hóa lưu giữ tại các kho và khu vực ưu tiên
5. Xây dựng phân hệ
quản lý miễn, giảm, hoàn thuế.
6. Xây dựng phân hệ
tiếp nhận và xử lý thông tin trước về hành khách và hàng hóa trên các chuyến
bay thương mại phục vụ mở rộng thông quan điện tử và quản lý rủi ro.
II.
ĐỐI VỚI QUẢN LÝ THUẾ
Đơn vị chủ trì thực
hiện: Cục Thuế XNK
và các đơn vị liên quan
Tiếp tục tham gia
cùng Bộ Tài chính sửa đổi Luật quản lý Thuế 2012 cho đồng bộ.
Tiếp tục tham gia
cùng Bộ Tài chính hoàn thiện Dự thảo Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13.
Tiếp tục tham gia
cùng Bộ tài chính (Vụ chính sách thuế) Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số
134/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính Phủ.
Phối hợp với Kho bạc
nhà nước, các ngân hàng
thương mại đã ký kết thực hiện dự án phối hợp thu 24/7 tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục hải quan và thông quan hàng hóa
nhanh chóng,.
III.
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO
Đơn vị thực hiện: Cục
Quản lý rủi ro
1.
Xây dựng Bộ tiêu chí, bộ chỉ số lựa chọn đối tượng kiểm tra sau thông quan phù
hợp với yêu cầu quản lý.
2. Xây dựng đề án hệ
thống Công nghệ thông tin nhằm nâng cấp phần quản lý hồ sơ doanh nghiệp, bổ
sung thông tin quản lý đối với các doanh nghiệp đặc thù, nâng cấp cấu phần đánh
giá tuân thủ doanh nghiệp, đánh giá xếp hạng doanh nghiệp; xây dựng cấu phần quản
lý thông tin đối tác nước ngoài, tổ chức tín dụng, tổ chức doanh nghiệp nước
ngoài không có hiện diện tại Việt Nam, cấu phần
hỗ trợ ra quyết định kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu tại các khâu trước, trong
và sau thông quan, cấu phần quản lý tiêu chí kiểm tra điều kiện đăng ký tờ
khai, cấu phần hỗ trợ ghi nhận và khai thác thông tin phản hồi kết quả kiểm
tra, phần mềm hỗ trợ giả lập, khai thác, phân tích thông tin (data warehouse),
thống kê, báo cáo...
IV.
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN
Đơn vị thực hiện: Cục
Kiểm tra sau thông quan
- Triển khai xây dựng
đề án tăng cường năng lực kiểm tra sau thông quan, đẩy mạnh thực hiện chương
trình doanh nghiệp ưu tiên và công nhận lẫn nhau với Hải quan các nước.
Tập trung tổng
hợp các vướng mắc bất cập trong các quy định
pháp luật và các văn bản hướng dẫn liên quan đến
công tác KTSTQ để trình cấp
có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đảm bảo cơ sở pháp lý cho triển khai hoạt động
KTSTQ. Nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại
trong công tác KTSTQ.
V.
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Đơn vị chủ trì thực
hiện: Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị có liên quan
1. Xây dựng Bộ quy tắc
ứng xử của CBCC Hải quan.
Lý do như đã phân
tích ở phần quy tắc ứng xử. Từ năm 2007 đến nay, Tổng cục Hải quan đã ban hành
04 Quyết định về Quy tắc ứng xử (Quyết định số 2489/QĐ-TCHQ
ngày 24/12/2007; Quyết định số 557/QĐ-TCHQ
ngày 18/02/2013; Quyết định số 188/QĐ-TCHQ ngày 02/02/2017; Quyết định số
2799/QĐ-TCHQ ngày 26/9/2018). Tuy nhiên, mỗi Quyết định đưa ra một yêu cầu cho
một thời điểm chưa mang tính chất tổng hợp thành hệ thống, chưa kể Quyết định số
2799/QĐ-TCHQ còn bao gồm cả phần chế tài xử lý. Do vậy,
ngành Hải quan cần xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của CBCC Hải quan một cách thống
nhất để triển khai thực hiện mà không cần phải nêu phần chế tài.
2. Xây dựng đề án
phát triển nguồn nhân lực của ngành Hải quan nhằm thực hiện chỉ đạo của Bộ
Chính trị và Nghị quyết TW 7 khóa XII đã đề ra.
3. Tăng cường tuyên
truyền về thực hiện Quyết định 2799/QĐ-TCHQ ngày 26/9/2018 của Tổng cục trưởng
Tổng cục Hải quan về Quy chế kiểm tra công vụ và xử lý, kỷ luật đối với công chức,
viên chức, người lao động trong ngành Hải quan, nhất là tổ chức thực hiện ở các
đơn vị hải quan địa phương. Kịp thời tuyên truyền về các tổ chức,
cá nhân thực hiện tốt với những nội dung triển khai cụ thể; phê bình những tổ
chức, cá nhân triển khai chưa tốt.
4. Lãnh đạo Tổng cục
Hải quan có văn bản chỉ đạo các đơn vị thuộc, trực thuộc ít nhất trong 1 quý
mỗi đơn vị phải lựa chọn 1 gương tập thể, cá nhân điển
hình để tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt
trên Báo Hải quan và các cơ quan báo chí.
5. Tuyên truyền về
các biện pháp phòng, chống tham nhũng; các giải pháp về cải cách, hiện đại hóa
hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK; tuyên truyền kịp thời các thành tích
nổi bật về chống buôn lậu; thu ngân sách và các nội dung trọng tâm...
VI.
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH TRA- KIỂM TRA
Đơn vị thực hiện: Vụ
Thanh tra- Kiểm tra và các đơn vị có
liên quan.
1. Xây dựng Đề án đổi
mới công tác kiểm tra nội bộ trong ngành Hải quan đồng thời nghiên cứu sửa đổi
bổ sung Quyết định số 1086/QĐ-TCHQ ngày 04/4/2014 về Quy trình kiểm tra nội bộ
trong ngành Hải quan. (Đơn vị thực hiện: Vụ Thanh
tra- Kiểm tra).
2. Xây dựng Đề án phần
mềm công tác quản lý hệ thống thanh tra- kiểm tra trong ngành Hải quan (Đơn
vị thực hiện: Vụ Thanh tra- Kiểm tra- Cục Công nghệ thông tin- Cục Tài vụ quản
trị).
3. Xây dựng Quy chế
thu thập xử lý thông tin phục vụ công tác thanh tra kiểm tra trong ngành Hải
quan (Đơn vị thực hiện: Vụ Thanh
tra- Kiểm tra).
4. Tham mưu
đề xuất nội dung triển khai xây dựng Quy chế phối hợp đối với cấp ủy, chính quyền
địa phương trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của lực lượng hải
quan tại địa bàn (có phụ lục dự thảo kèm
theo).
Nội dung này liên
quan tới chính quyền địa phương, nếu được Lãnh đạo Tổng cục đồng ý cho thực hiện
thì cần xin chủ trương của Lãnh đạo Bộ tài chính
VII.
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Đơn vị chủ trì thực
hiện: Cục Công nghệ thông tin; Các đơn vị nghiệp vụ liên quan.
1. Tích hợp
các hệ thống CNTT hiện tại vào một hệ thống thống nhất được xây dựng theo kiến
trúc hướng dịch vụ; xử lý theo mô hình tập trung cấp Tổng cục; có chức năng quản
lý, giám sát việc truy cập hệ thống đối với tất cả đối tượng tham gia; Cung cấp
mọi loại giao diện (cho PC, cho thiết bị di động, cho kết nối hệ thống-hệ thống
và các thiết bị khác).
2. Tiếp tục phối hợp
với các Bộ, ngành đẩy mạnh triển khai Quyết định số 2185/QĐ-TTg ngày 14/11/2016
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch tổng thể triển khai Cơ chế một
cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016 - 2020.
3. Triển khai, áp dụng
16 phần mềm, chương trình tin học vào hoạt động nghiệp vụ hải quan có tác dụng
phòng, chống tham nhũng (VNACCS/VCIS, E-Custom, dịch vụ công trực tuyến,...) để
giảm thiểu sự tiếp xúc trực tiếp giữa Hải quan và Doanh nghiệp; Triển khai Dự
án lắp đặt máy soi ngầm tại Nhà ga sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Sân bay QT Nội
Bài để quản lý hàng hóa, hành lý của khách XNC và hàng hóa gửi qua đường hàng
không; xây dựng các địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung gắn với những thiết bị
hiện đại như máy soi container tại các cảng biển. Việc kiểm tra bằng máy soi
container đã giúp thông quan nhanh hàng hóa, giảm chi phí lưu kho bãi cho doanh
nghiệp, đồng thời cũng hỗ trợ hiệu quả cho cơ quan Hải quan.
4. Hoàn thành xây dựng
kiến trúc tổng thể hệ thống CNTT ngành hải quan, với hệ thống lõi xử lý dữ liệu
tập trung, chuẩn hóa theo khuyến nghị của Tổ chức Hải quan Thế giới.
5. Tiến hành rà soát
và đề xuất TCHQ trình Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Kế hoạch 5 năm về ứng dụng
CNTT của TCHQ giai đoạn 2019-2020 theo hướng xây dựng hệ thống CNTT thông minh,
tích hợp, tiếp tục tin học hóa, tự động hóa các
lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan.
6. Hoàn thành việc
triển khai mở rộng Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng, kho, bãi trên phạm
vi toàn quốc, đặc biệt với kho ngoại quan.
7. Triển khai đề án đầu
tư hệ thống seal định vị điện tử phục vụ công tác giám sát đối với hàng hóa chịu
sự giám sát hải quan vận chuyển bằng
container của TCHQ.
8. Tiếp tục tăng cường
cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp, trong đó tập
trung triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 cho 08 thủ tục hành chính đã
đăng ký với Bộ Tài chính và sẵn sàng cung cấp
dịch vụ công trực tuyến tối thiểu mức độ 3 trong trường hợp có các thủ tục hành
chính được bổ sung hoặc sửa đổi.
9. Từng bước nghiên cứu
và ứng dụng công nghệ của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về hải quan như: kết nối Internet vạn vật (IoT),
Phân tích thông minh (BI), Chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ
liệu lớn (Big Data), Điện toán đám mây
(Cloud)...
10. Thực hiện tích hợp
các hệ thống CNTT của ngành Hải quan thành một hệ thống CNTT thống nhất nhằm tạo
thuận lợi tối đa cho cán bộ, công chức hải quan trong thực hiện nhiệm vụ, đồng
thời nâng cao hiệu quả xử lý các khâu nghiệp vụ hải quan.
11. Tiếp tục thực hiện
tốt vai trò đơn vị đầu mối của Cơ quan thường trực trong việc
triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN và tạo
thuận lợi thương mại, trong đó tập trung làm tốt công tác điều
phối, theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành trong việc triển khai các
thủ tục hành chính qua Cơ chế một cửa quốc gia, đồng thời thực hiện tốt các nhiệm
vụ do Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) chủ trì và phát triển hệ thống CNTT, hạ
tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một
cửa ASEAN.
VIII.
ĐỐI VỚI QUAN HỆ HẢI QUAN- DOANH NGHIỆP
Đơn vị chủ trì thực
hiện: ban Cải cách hiện đại hóa Hải quan; các đơn vị nghiệp vụ liên quan
1. Xây dựng đề án Bộ
chỉ số theo dõi, đánh giá hoạt động phát triển quan hệ đối tác, thiết lập cơ sở
dữ liệu chung về hoạt động phát triển quan hệ đối tác trên Cổng thông tin điện
tử Hải quan.
2. Xây dựng quy chế
phối hợp trao đổi và xác minh thông tin, về hàng hóa, giá cả, doanh nghiệp trên
cơ sở vận động các Hiệp hội doanh nghiệp sẵn sàng và có khả năng hợp tác với cơ
quan hải quan ký kết văn bản thỏa thuận/Quy
chế phối hợp trao đổi và xác minh thông tin, vận hành cơ chế
trao đổi thông tin định kỳ, đột xuất.
3. Phối hợp trao đổi,
xác minh thông tin về hàng hóa, giá cả, doanh nghiệp trên cơ sở vận động các Hiệp
hội doanh nghiệp sẵn sàng và có khả năng hợp tác với cơ quan hải quan ký kết
văn bản thỏa thuận/Quy chế phối hợp trao đổi và xác
minh thông tin, vận hành cơ chế trao đổi thông tin định kỳ, đột xuất.
KẾT
LUẬN
Liêm chính hải quan
là vấn đề quan trọng luôn được các cơ quan Hải quan của các nước trên thế giới
dù ở trình độ phát triển nào đều đặc biệt quan tâm. Duy trì và nâng cao liêm
chính là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động hải
quan. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, lưu lượng
hàng hóa, hành khách xuất nhập cảnh... ngày càng tăng lên, trang thiết bị làm
việc, công nghệ áp dụng vào hoạt động hải quan ngày càng hiện đại, song cũng
không thể thay thế hoàn toàn con người, mà chỉ hỗ trợ con người
trong công việc: Việc thực hiện liêm chính hải quan, trên cơ
sở phân tích thực trạng của Hải quan Việt Nam,
tìm hiểu kinh nghiệm của tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan một số nước khác
trong việc thực thi liêm chính hải quan, đề án đã đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị thực hiện, trong đó điều hết sức quan trọng là phải tiến hành đồng bộ các
giải pháp, đặc biệt lưu ý các giải pháp có tác động tới nhận thức, hành vi ứng
xử của cán bộ công chức hải quan. Bên cạnh đó, cần thấy rõ nâng cao liêm chính
hải quan là một quá trình liên tục, lâu dài để có kế hoạch tổ chức triển khai
và bố trí nguồn lực thực hiện phù hợp trong ngành Hải quan, cũng như phối hợp đồng
bộ, tích cực từ các bộ ngành, cơ quan có liên quan và cộng đồng doanh nghiệp./.