BỘ NỘI VỤ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 746/QĐ-BNV
|
Hà Nội, ngày 21 tháng 07 năm 2014
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG LÃNH ĐẠO CẤP SỞ VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Căn cứ Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày
10/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Nội vụ;
Căn cứ Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày
05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức;
Căn cứ Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày
25/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
18/2010/NĐ-CP ;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo
cấp sở và tương đương.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Thủ trưởng các cơ quan liên quan, Chánh văn phòng - Bộ Nội vụ, Vụ trưởng
Vụ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
Nơi nhận:
-
Như điều 3;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng Quốc Hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- Học viện Hành chính Quốc gia;
- Cơ sở ĐT, BD CB,CC của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP, đoàn thể
Trung ương;
- Sở Nội vụ, Trường Chính trị các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Bộ Nội vụ: Bộ trưởng, các Thứ trưởng;
- Trang thông tin điện tử của Bộ Nội vụ;
- Lưu: VT, ĐT.
|
KT. BỘ
TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Tiến Dĩnh
|
TÀI
LIỆU
BỒI
DƯỠNG LÃNH ĐẠO CẤP SỞ VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 746/QĐ-BNV ngày 21 tháng 7 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ
Nội vụ)
MỤC
LỤC
Phần
I
KIẾN
THỨC CHUNG
Chuyên đề 1. Tổng quan về chính quyền
cấp tỉnh và phân cấp giữa Trung ương - chính quyền cấp tỉnh
Chuyên đề 2. Chức trách, nhiệm vụ của
Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở và tương đương
Chuyên đề 3. Xây dựng và phát triển
phong cách lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương
Chuyên đề 4 (Chuyên đề báo cáo). Tổng
quan tình hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Chuyên đề 5 (Chuyên đề báo cáo). Tổng
quan cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay
Phần
II
KỸ
NĂNG THAM MƯU VÀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH
Chuyên đề 6. Kỹ năng tham mưu hoạch định,
tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách công
Chuyên đề 7. Kỹ năng sử dụng hiệu quả
công cụ kế hoạch trong quản lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương
Chuyên đề 8. Kỹ năng quản lý và phát
triển nguồn nhân lực của ngành ở địa phương
Chuyên đề 9. Kỹ năng quản lý sự thay đổi
trong tổ chức
Chuyên đề 10. Kỹ năng tổ chức hoạt động
phối hợp hiệu quả trong cơ quan hành chính cấp sở và tương đương
Chuyên đề 11. Kỹ năng đối thoại, trả lời
chất vấn, tiếp dân và quan hệ với truyền thông
Phần
III
NGHIÊN
CỨU THỰC TẾ VÀ VIẾT ĐỀ ÁN
TÀI LIỆU
BỒI
DƯỠNG LÃNH ĐẠO CẤP SỞ VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 746/QĐ-BNV ngày 21 tháng 7 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ)
Phần I
KIẾN THỨC CHUNG
Chuyên đề 1
TỔNG
QUAN VỀ CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH VÀ PHÂN CẤP GIỮA TRUNG ƯƠNG - CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
1. Chính quyền cấp tỉnh
a) Chính quyền cấp tỉnh là cấp đầu
tiên trong bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta:
- Khái quát về chính quyền địa phương
Phân chia lãnh thổ quốc gia thành các
đơn vị hành chính - lãnh thổ là một trong những dấu hiệu đặc trưng của các nhà
nước, không phân biệt thể chế chính trị. Tuy nhiên sự phân chia này ở các nước
không giống nhau, không đồng nhất; mỗi nước theo cách riêng, tùy thuộc vào hình
thức tổ chức nhà nước, quan niệm của giai cấp cầm quyền trong việc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước.
Mục đích của việc phân chia đơn vị
hành chính - lãnh thổ là để thiết lập trên đó bộ máy chính quyền với các cơ
quan nhà nước tương ứng để tổ chức triển khai thực hiện thống nhất, có hiệu quả
quyền lực nhà nước và giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống của cá nhân,
cộng đồng dân cư trên địa bàn lãnh thổ. Nói cách khác, bộ máy đó thay mặt nhà
nước thống nhất quản lý, bảo đảm toàn diện các quá trình kinh tế - xã hội và tổ
chức đời sống dân cư thuộc địa bàn lãnh thổ của mình. Đó là bộ máy chính quyền
địa phương. Như vậy, chính quyền địa phương có thể hiểu là bộ máy, gồm một tập
hợp cơ quan nhà nước đặt trên một địa bàn lãnh thổ có địa giới hành chính xác định
với những đặc điểm dân cư, vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất định,
được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện các quyết
định của chính quyền Trung ương, đồng thời tự giải quyết các vấn đề của địa
phương phù hợp với pháp luật của Nhà nước và ý nguyện của cư dân địa phương.
Trên thế giới, chính quyền địa phương
tại đơn vị hành chính - lãnh thổ được tổ chức theo mô hình khác nhau ở các nước
khác nhau.
Chính quyền địa phương là cơ quan hành
chính do cấp trên bổ nhiệm kết hợp với một Hội đồng tự quản do nhân dân địa
phương bầu ra. Tại đơn vị hành chính này, vai trò chủ đạo thuộc về cơ quan hành
chính. Hội đồng tự quản đóng vai trò tư vấn, hoạt động dưới sự giám hộ của cơ
quan hành chính và chỉ được bàn định những vấn đề thuần túy có ý nghĩa địa
phương, không được tham gia vào những vấn đề chung của quốc gia, trừ các vấn đề
có tính chính trị. Cơ quan hành chính có thể khởi kiện tới cơ quan tài phán
hành chính về các quyết định của Hội đồng tự quản khi có lý do cho rằng các quyết
định đó trái pháp luật. Mô hình chính quyền địa phương này tồn tại phổ biến tại
các đơn vị hành chính trung gian ở các nước Châu Âu lục địa (đặc biệt là ở nước
Pháp trước cải cách hành chính tiến hành năm 1982).
Các mô hình tổ chức chính quyền địa
phương mặc dù có tên gọi khác nhau, cơ cấu tổ chức, địa vị pháp lý của các bộ
phận cấu thành không giống nhau, song tựu chung đều mang tính chất là cơ quan
chính quyền địa phương, được lập ra để thực hiện chức năng quản lý địa phương,
thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Nói cách khác, chúng được lập
ra để thực hiện pháp luật của nhà nước và giải quyết các vấn đề của địa phương.
Về nguyên tắc, chính quyền địa phương,
dù là một hay gồm nhiều cơ quan nhưng là một cơ cấu thống nhất, trong đó quyền
hạn thực sự thuộc về một cơ quan (Cơ quan quyết định) trong quản lý địa phương.
Cơ quan này có thể là một tập thể (Hội đồng hay Ủy ban) hoặc các cá nhân như Tỉnh
trưởng, Huyện trưởng. Các cơ quan khác còn lại - cơ quan chấp hành, thừa hành
hoặc tư vấn - giám sát, được lập ra để thực hiện phần việc được giao (phân
công) hoặc giám sát.
Như vậy, khi nói về chính quyền địa
phương chính là nói đến những thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực
nhân dân, cộng đồng trên một đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định của một quốc
gia.
Xét từ phương diện tính chất, chính
quyền địa phương vừa có tính nhà nước vừa có tính tự quản địa phương.
Tính nhà nước của chính quyền địa
phương thể hiện ở chỗ đây là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương:
Tức là trong quan hệ quyền lực nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương chỉ
là một cấu trúc quyền lực có tính bộ phận trong hệ thống cơ quan nhà nước thống
nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia, mà không phải cơ quan quyền lực độc lập của
địa phương. Các cơ quan chính quyền địa phương thay mặt Nhà nước giải quyết
công việc nhà nước phát sinh ở địa phương. Tính tự quản địa phương của chính
quyền địa phương thể hiện ở chỗ nó đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của
cộng đồng dân cư trên địa bàn lãnh thổ, giải quyết các công việc của địa
phương. Do vậy, chính quyền địa phương các cấp là hình thức tổ chức thực hiện
dân chủ của nhân dân, là tổ chức của dân, do dân, vì dân ở từng đơn vị hành
chính lãnh thổ cụ thể. Với nghĩa đó, chính quyền địa phương là cơ quan tự quản
của địa phương.
Trong thực tiễn, hoạt động của chính
quyền địa phương rất khó phân định rạch ròi, cụ thể khi nào nó đại diện cho quyền
lực nhà nước cấp trên, khi nào đại diện cho địa phương. Tuy nhiên, việc phân định
này đặt ra nhằm làm sáng tỏ nhận thức lý luận về vị trí, vai trò của chính quyền
địa phương, từ đó xác định mối quan hệ giữa Nhà nước với cộng đồng dân cư, giữa
tập trung và dân chủ trong đời sống nhà nước và xã hội, cũng như quan hệ giữa
các cộng đồng dân cư với nhau.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “chính quyền địa
phương” được dùng thông dụng kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công
khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, để chỉ các cơ quan được thành lập
tại các cấp đơn vị hành chính - lãnh thổ. Theo quan niệm chung nhất hiện nay,
cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương Việt Nam gồm hai loại cơ quan là Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Các cơ quan này hợp thành bộ máy chính quyền
địa phương. Chính quyền địa phương là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống
nhất từ Trung ương đến cơ sở, được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính
lãnh thổ. Trong tổ chức và hoạt động, cơ quan chính quyền địa phương các cấp có
mối quan hệ mật thiết với nhau và với cơ quan nhà nước ở Trung ương.
Về cơ cấu tổ chức, chính quyền địa
phương ở nước ta hiện nay gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, trong đó
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1 Điều 113 Hiến pháp 2013). Hội đồng nhân dân có các cơ
cấu làm việc như Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân với
những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định trong luật, “Ủy ban nhân dân ở cấp
chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên” (Khoản 1 Điều 114 Hiến pháp 2013).
Như vậy, xét về bản chất, cả Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân đều là những thiết chế thực hiện quyền hành pháp ở
địa phương.
- Chính quyền cấp tỉnh
Theo quy định của Hiến pháp hiện hành,
các đơn vị hành chính ở nước ta được phân định như sau:
+ Nước chia thành tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương;
+ Tỉnh chia thành huyện, thị xã và
thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện,
thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
+ Huyện chia thành xã, thị trấn; thị
xã và thành phố trực thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường;
+ Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt
do Quốc hội thành lập.
Điều 111, Hiến pháp 2013 cũng quy định:
“1. Chính quyền địa phương được tổ chức
ở các đơn vị hành chính của Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.”
Như vậy, chính quyền cấp tỉnh là cấp
chính quyền địa phương đầu tiên trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước
ta. Chính quyền cấp tỉnh là cấp chính quyền hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức, bao gồm
cả cơ quan quyết nghị (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính (Ủy ban nhân
dân) với đầy đủ tính chất của bộ máy chính quyền địa phương; có vị trí vai trò
quan trọng trong cơ cấu chính quyền địa phương, thể hiện:
+ Chính quyền cấp tỉnh nằm trong cơ cấu
quyền lực thống nhất của Nhà nước, là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước,
thay mặt Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trên địa bàn, tổ chức và
đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, các văn bản của các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương.
+ Chính quyền cấp tỉnh trực tiếp tiếp
nhận và truyền tải đường lối, chủ trương chính sách, quyết định của các cơ quan
trung ương xuống các cấp chính quyền ở địa phương, thể hiện vai trò cầu nối giữa
Trung ương với địa phương.
+ Chính quyền tỉnh trực tiếp tiếp nhận
sự phân định thẩm quyền quản lý từ Trung ương ở phạm vi rộng với những nội dung
quan trọng, đảm bảo xây dựng, phát triển địa phương và có tầm ảnh hưởng lớn đến
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
+ Chính quyền tỉnh đại diện quyền lực
của nhân dân tại địa phương trước Nhà nước; chịu trách nhiệm trong tổ chức, quản
lý điều hành bộ máy chính quyền cấp dưới, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của chính quyền cấp dưới;
+ Trên cơ sở pháp luật và sự phân định
thẩm quyền, chính quyền cấp tỉnh tổ chức đời sống xã hội trên địa bàn lãnh thổ
bằng những hoạt động trực tiếp, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân; tổ chức quản lý dịch vụ công, bảo đảm an sinh, an toàn; phát triển dân
sinh và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội nảy sinh ở tỉnh.
b) Cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp
tỉnh:
- Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh do Luật
bầu cử Hội đồng nhân dân quy định tùy thuộc số lượng dân cư của tỉnh và đặc điểm
vùng, miền. Kỳ họp thứ nhất của Khóa Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do Chủ tịch
HĐND khóa trước triệu tập và chủ trì cho đến khi bầu ra Chủ tịch HĐND khóa mới.
Chủ tịch HĐND được bầu trong số đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kỳ
họp. Phó Chủ tịch, Thường trực HĐND, Trưởng các ban và thành viên khác của các
Ban HĐND được bầu trong số đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch.
Về tổ chức gồm:
+ Thường trực HĐND cấp tỉnh
Thường trực HĐND cấp tỉnh gồm có Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực. Thành viên của Thường trực HĐND không thể đồng
thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Ủy viên thường trực HĐND phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Thường trực HĐND có nhiệm vụ, quyền hạn:
Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của
HĐND; phối hợp với UBND chuẩn bị kỳ họp của HĐND; đôn đốc; kiểm tra UBND cấp tỉnh
và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các Nghị quyết của HĐND;
giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; điều hòa, phối hợp hoạt động của
các Ban của HĐND...; tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra, xem xét tình hình giải quyết
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến nguyện vọng của nhân
dân để báo cáo tại Kỳ họp của HĐND, phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch,
Ủy viên thường trực HĐND cấp huyện; trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ chức vụ cho HĐND bầu theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND; phối hợp với
UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND
theo đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; báo
cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp mình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và
Chính phủ....
+ Các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thành lập
ba ban, gồm: Ban kinh tế và ngân sách, Ban văn hóa - xã hội, Ban pháp chế; nơi
nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.
Số lượng thành viên mỗi ban do HĐND
quyết định. Thành viên của các ban của HĐND không thể đồng thời là thành viên
UBND cùng cấp. Trưởng ban của HĐND không thể đồng thời là Thủ trưởng cơ quan
chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân
dân cùng cấp.
Các Ban HĐND có những nhiệm vụ, quyền
hạn sau:
Tham gia, chuẩn bị kỳ họp của HĐND; thẩm
tra các báo cáo, đề án do HĐND hoặc thường trực HĐND phân công; giúp HĐND giám
sát hoạt động của UBND & các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của
Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp, hoạt động của các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc thi
hành Hiến pháp, luật văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
HĐND cùng cấp...; báo cáo kết quả giám sát với thường trực HĐND khi cần thiết.
+ Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
là bộ máy giúp việc có chức năng tổ chức phục vụ hoạt động của HĐND, Thường trực,
các Ban HĐND, đại biểu HĐND. Văn phòng có Chánh văn phòng, 2 Phó Chánh văn
phòng, phòng Hành chính, phòng Tổng hợp, quân sự với số lượng biên chế tùy thuộc
số đại biểu của HĐND cấp tỉnh. Thông thường ở các tỉnh, số biên chế từ 10 đến
13 người. Đối với tỉnh thành lập Ban dân tộc, văn phòng được thêm 1 biên chế.
- Cơ cấu tổ chức của UBND cấp tỉnh
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và
UBND hiện hành thì UBND tỉnh do HĐND tỉnh bầu ra, gồm có Chủ tịch, các Phó chủ
tịch và các ủy viên, Chủ tịch UBND được bầu từ trong số đại biểu HĐND, các
thành viên khác của Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu HĐND. Kết
quả bầu cử phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Cách thức thành lập UBND được tiến
hành như sau: Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND, Chủ tịch HĐND giới thiệu để
HĐND bầu Chủ tịch UBND từ trong số đại biểu HĐND. Phó Chủ tịch và các thành
viên khác của UBND do Chủ tịch Ủy ban nhân dân giới thiệu để HĐND bầu theo chức
danh từng người.
+ Số lượng thành viên của UBND cấp tỉnh
Hiện tại, số lượng thành viên UBND cấp
tỉnh được bầu là từ 9 đến 11 người (riêng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh không
quá 13 người). Tùy theo dân số của tỉnh, gồm 1 Chủ tịch; 3 đến 4 Phó Chủ tịch
(riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có thể có 5 Phó Chủ tịch). Các Phó Chủ tịch
được Chủ tịch phân công phụ trách nhóm các lĩnh vực khác nhau; các thành viên
được phân công phụ trách từng lĩnh vực cụ thể như Nội vụ, Văn phòng, Tài chính,
Kế hoạch, Quân sự, Công an....
+ Chủ tịch UBND cấp tỉnh
Chủ tịch UBND là người lãnh đạo và điều
hành công việc của UBND, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình do pháp luật quy định, đồng thời cùng với tập thể UBND chịu
trách nhiệm về hoạt động của UBND trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Phó Chủ tịch và thành viên UBND cấp
tỉnh
Các Phó Chủ tịch và thành viên UBND thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn do Chủ tịch phân công và phải chịu trách nhiệm trước Chủ
tịch về kết quả công việc được phân giao.
Mỗi thành viên UBND chịu trách nhiệm
cá nhân về phần công tác của mình trước HĐND, UBND và cùng các thành viên khác
chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của UBND trước HĐND cấp mình và trước
Chính phủ.
+ Các cơ quan chuyên môn của UBND cấp
tỉnh
Để giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức
năng quản lý nhà nước ở địa phương, các cơ quan chuyên môn được thành lập. Các
cơ quan được thành lập với tư cách là cơ quan tham mưu của UBND ở từng lĩnh vực,
đồng thời được giao thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo ủy quyền của UBND
cùng cấp và quy định của pháp luật. Mặt khác, hoạt động của các cơ quan chuyên
môn góp phần đảm bảo sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ
Trung ương đến cơ sở.
Việc thành lập các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh do bản thân UBND xây dựng đề án trình HĐND quyết định, dựa
trên quy định khung chung do Chính phủ ban hành, đồng thời căn cứ vào đặc điểm
riêng của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do vậy, các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương không có sự đồng nhất với số lượng ấn định cụ thể các
cơ quan chuyên môn.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND chịu
sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp mình đồng thời
chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của bộ chuyên ngành, Thủ trưởng của các
cơ quan này phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBND, trước bộ
chuyên ngành và báo cáo trước HĐND cấp tỉnh khi được yêu cầu.
c) Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
cấp tỉnh:
Thuật ngữ “chính quyền cấp tỉnh” trong
pháp luật Việt Nam dùng để chỉ các cơ quan trong bộ máy chính quyền được tổ chức
tại các đơn vị hành chính là tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Trong cơ
cấu tổ chức của chính quyền cấp tỉnh gồm có 2 loại cơ quan: Hội đồng nhân dân -
cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh và Ủy ban nhân dân - cơ quan hành chính nhà
nước ở tỉnh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương, chính quyền tỉnh
có chức năng, nhiệm vụ chung, cơ bản sau:
Bảo đảm tính thống nhất của quyền lực
nhà nước bằng các hoạt động chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên; chịu sự giám sát, hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ.
Thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân
dân trong tỉnh thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân, quyết định những vấn
đề quan trọng của tỉnh, đề ra các chủ trương, biện pháp lớn xây dựng, phát triển
địa phương.
Tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, các
văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, đảm bảo hiệu quả tác động của các văn bản này trong đời sống thực tế tại
địa bàn tỉnh.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám
sát, Ủy ban nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật,
các hoạt động quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong tỉnh, tăng cường pháp chế, chủ động ngăn ngừa, chống các biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng lãng phí, vô trách nhiệm và các biểu hiện
tiêu cực khác của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp ở địa
phương.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh
Là cơ quan quyền lực nhà nước thuộc
chính quyền cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân thành phố trực
thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn
và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất đai, phát triển ngành
và quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị, nông thôn trong phạm vi quản lý; lĩnh
vực đầu tư và quy mô vốn đầu tư theo phân cấp của Chính phủ; quy hoạch, kế hoạch
phát triển mạng lưới khuyến lâm, nông, ngư, công ở địa phương, thông qua cơ chế
khuyến khích phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ... đảm bảo quyền tự
chủ sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật.
Quyết định dự toán thu ngân sách nhà
nước, dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh;
phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương, các chủ trương, biện pháp triển khai
thực hiện ngân sách địa phương; điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp
cần thiết và giám sát việc thực hiện ngân sách đã được quyết định; quyết định
việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương theo
Luật Ngân sách nhà nước; quyết định thu lệ phí và các khoản đóng góp của nhân
dân và mức huy động vốn theo quy định của pháp luật; các biện pháp thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại.
Quyết định phương án quản lý, phát triển
và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương.
+ Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội,
văn hóa, thông tin, thể dục thể thao:
Quyết định chủ trương, biện pháp phát
triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng
lưới giáo dục mầm non, phổ thông, nghề nghiệp; bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt
động giáo dục, đào tạo ở địa phương; quyết định chủ trương, biện pháp phát triển
sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao; biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất,
điều kiện cho các hoạt động văn hóa, thể thao ở địa phương; quyết định chủ
trương, biện pháp phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc
làm, cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động;
thực hiện phân bố dân cư, cải thiện đời sống nhân dân địa phương.
Quyết định biện pháp giáo dục, bảo vệ,
chăm sóc thanh thiếu niên, nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa; giáo dục truyền thống, đạo đức tốt đẹp, gìn giữ thuần phong mỹ tục của dân
tộc, biện pháp ngăn chặn phòng chống tệ nạn xã hội.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát
triển mạng lưới khám chữa bệnh, biện pháp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân,
người già, người tàn tật, mồ côi, không nơi nương tựa; bảo vệ chăm sóc bà mẹ,
trẻ em; thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, phòng chống dịch bệnh
và phát triển y tế ở địa phương; quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế
độ ưu đãi đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với
nước; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói, giảm
nghèo.
+ Trong lĩnh vực khoa học công nghệ,
tài nguyên, môi trường:
Quyết định chủ trương, biện pháp khuyến
khích việc nghiên cứu, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, ứng dụng tiến bộ
khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống
nhân dân địa phương.
Quyết định biện pháp quản lý sử dụng đất
đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng
biển địa phương; các biện pháp bảo vệ môi trường; phòng chống, khắc phục hậu quả
thiên tai, bão lụt, suy thoái môi trường, ô nhiễm, sự cố môi trường theo quy định
của pháp luật.
Quyết định biện pháp thực hiện các quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc
sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng tại địa phương.
+ Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
trật tự an toàn xã hội:
Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ
kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và thực
hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên ở địa phương.
Quyết định biện pháp đảm bảo an ninh,
trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật khác ở địa phương.
+ Trong thực hiện chính sách dân tộc,
chính sách tôn giáo:
Quyết định biện pháp thực hiện chính
sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất, nâng cao dân trí của đồng bào dân tộc
thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng, tăng cường đoàn kết, tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương; Quyết định biện pháp thực hiện
chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân ở địa phương theo quy định của
pháp luật.
+ Trong lĩnh vực thi hành pháp luật:
Quyết định biện pháp bảo đảm việc thi
hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tại địa phương; quyết định biện pháp bảo hộ tính mạng,
tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; quyết
định biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, bảo hộ tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương; các biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
+ Trong xây dựng chính quyền địa
phương và quản lý địa giới hành chính:
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch các
thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các
Ban Hội đồng nhân dân, Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm
đại biểu và chấp nhận việc xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu của đại biểu Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; quyết định việc sáp nhập, thành lập, giải thể một
số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ.
Quyết định tổng biên chế sự nghiệp ở địa
phương phù hợp yêu cầu phát triển và khả năng ngân sách của địa phương; thông
qua tổng biên chế hành chính của địa phương trình cấp có thẩm quyền quyết định;
Quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ,
công chức trên địa bàn phù hợp với ngân sách địa phương; quyết định số lượng, định
mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã trên cơ sở hướng dẫn của
Chính phủ.
Thông qua đề án thành lập mới, nhập,
chia và điều chỉnh địa giới hành chính để đề nghị cấp trên xem xét quyết định;
quyết định việc đặt tên, đổi tên đường, phố, quảng trường, công trình công cộng
ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định,
chỉ thị của UBND cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện khi những
văn bản đó trái pháp luật; giải tán HĐND cấp huyện trong trường hợp HĐND đó làm
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân sau khi đã được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội phê chuẩn; phê chuẩn nghị quyết của HĐND cấp huyện về việc giải tán
HĐND cấp xã.
Đối với Hội đồng nhân dân Thành phố trực
thuộc Trung ương, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn trên đây còn thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau:
Quyết định biện pháp phát huy vai trò
trung tâm kinh tế - xã hội của đô thị lớn trong mối liên hệ với các địa phương
trong vùng, khu vực và cả nước theo phân cấp của Chính phủ; thông qua kế hoạch
xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển đô
thị trình Chính phủ phê duyệt; quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng,
an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị;
quyết định biện pháp quản lý dân cư ở thành phố và tổ chức đời sống dân cư đô
thị.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước địa phương chịu trách nhiệm thi
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách
khác trên địa bàn. Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính
nhà nước từ Trung ương đến cơ sở (Điều 2 Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003). Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung nêu trên tại đơn vị
hành chính lãnh thổ cấp tỉnh, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003 quy định cho UBND cấp tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể,
được thể hiện ở các điều từ Điều 82 đến Điều 96, trong đó, từ Điều 82 đến Điều
95 là nhiệm vụ, quyền hạn chung của cả UBND tỉnh và UBND thành phố trực thuộc
Trung ương, còn Điều 96, quy định nhiệm vụ, quyền hạn riêng của UBND thành phố
trực thuộc Trung ương.
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh
thể hiện ở việc xây dựng các chương trình, dự án, đề án, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội trên địa
bàn quản lý. Mặt khác, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh thể hiện ở việc tổ
chức chỉ đạo thực hiện các chương trình, dự án, đề án; các nhiệm vụ, kế hoạch cụ
thể, thực hiện các biện pháp như quản lý đất đai, bảo vệ tài nguyên, sử dụng
lao động... đồng thời tiến hành kiểm tra, thanh tra các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc thực hiện các chương trình, dự án....
d) Hoạt động của chính quyền cấp tỉnh:
Hoạt động của chính quyền cấp tỉnh là
hoạt động của các cơ quan thuộc chính quyền tỉnh từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân.
- Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
hoạt động của HĐND được thực hiện thông qua các kỳ họp của HĐND, Thường trực
HĐND, các Ban HĐND và đại biểu HĐND, trong đó kỳ họp HĐND là hình thức hoạt động
quan trọng nhất.
Kỳ họp thứ nhất mỗi khóa HĐND được triệu
tập chậm nhất là 30 ngày, sau ngày bầu cử đại biểu HĐND. Căn cứ báo cáo kết quả
thẩm tra, HĐND ra nghị quyết xác nhận tư cách đại biểu HĐND hoặc tuyên bố việc
bầu đại biểu nào đó không có giá trị.
Tại kỳ họp thứ nhất mỗi khóa HĐND,
HĐND cấp tỉnh bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực, trưởng các
ban của HĐND, Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Thông qua hình thức
bỏ phiếu kín theo danh sách đề cử chức vụ từng người. Những người trúng cử được
thực hiện ngay nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên kỳ họp.
Kỳ họp thường lệ trong nhiệm kỳ của
HĐND cấp tỉnh do Thường trực HĐND triệu tập và chủ trì (thông báo triệu tập chậm
nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp; kỳ họp phải có ít nhất 2/3 tổng số
đại biểu HĐND tham dự, phải thông báo về ngày, nơi, chương trình kỳ họp cho
nhân dân biết trước khi khai mạc 5 ngày).
Tham dự kỳ họp, ngoài số đại biểu HĐND
còn có đại biểu Quốc hội tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương và các đại diện cử tri. Những
đại biểu này được phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết.
Hoạt động của Thường trực và các Ban
HĐND cấp tỉnh thực hiện giữa hai kỳ họp tập trung chủ yếu vào các hoạt động
hành chính nội bộ và hoạt động giám sát.
Thường trực HĐND giám sát hoạt động của
UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân cùng cấp; giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp; giám sát việc
thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tổ chức đoàn giám sát hoặc giao cho
các Ban của HĐND giám sát theo chương trình giám sát của mình hoặc theo yêu cầu
của HĐND, đề nghị của các ban, hoặc đại biểu HĐND.
Ngoài ra, Thường trực HĐND cùng UBND cấp
tỉnh và các ban HĐND chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND và các báo cáo của Thường
trực HĐND để trình bày trước HĐND và Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ban của
HĐND cấp tỉnh trong hoạt động giám sát có nhiệm vụ giúp HĐND giám sát hoạt động
của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát
nhân dân cùng cấp; các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành pháp luật, các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cấp huyện trong trường
hợp có dấu hiệu trái với pháp luật, văn bản cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị
quyết của HĐND cùng cấp; tổ chức đoàn giám sát, cử thành viên đến cơ quan, tổ
chức hữu quan để xem xét, xác minh vấn đề thuộc phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của
ban, tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân.
Hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh
bao gồm: tham gia đầy đủ, thảo luận, biểu quyết các vấn đề đưa ra tại kỳ họp;
thực hiện chất vấn Chủ tịch HĐND, UBND, các thành viên UBND, Thủ trưởng các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân cùng cấp; yêu cầu các tổ chức, cá nhân chấm dứt các hành vi vi phạm
pháp luật, kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành chính sách, pháp luật
của Nhà nước và những vấn đề thuộc lợi ích chung. Đề nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm
đối với người giữ các chức vụ do HĐND cùng cấp bầu khi cần thiết; liên hệ chặt
chẽ với các cử tri ở địa phương, thu thập ý kiến của cử tri để phản ánh với
HĐND, trả lời yêu cầu, kiến nghị của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri,
báo cáo cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, vận động và cùng cử tri thực
hiện Nghị quyết của HĐND. Nghiên cứu và kịp thời chuyển các khiếu nại, tố cáo của
nhân dân đến người có thẩm quyền giải quyết đồng thời báo cáo cho người khiếu nại,
tố cáo về kết quả giải quyết.
- Hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn lãnh thổ địa phương,
UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ, góp phần đảm bảo
sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến
cơ sở.
Hoạt động của UBND cấp tỉnh trong thực
hiện chức năng nhiệm vụ được tiến hành dưới hai hình thức: tập thể và cá nhân
(chế độ tập thể và chế độ thủ trưởng). Hoạt động tập thể của UBND được tiến
hành thông qua các kỳ họp; hoạt động cá nhân của Chủ tịch, các thành viên UBND.
+ Kỳ họp - hoạt động tập thể của UBND
cấp tỉnh
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và
UBND hiện hành, UBND mỗi tháng họp ít nhất một lần do Chủ tịch UBND triệu tập
và chủ trì. Các quyết định của UBND phải được quá nửa tổng số thành viên UBND
biểu quyết tán thành.
UBND thảo luận tập thể và quyết định
theo đa số vấn đề:
● Chương trình làm việc của UBND.
● Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
dự toán & ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa
phương trình HĐND cùng cấp quyết định.
● Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công
trình trọng điểm ở địa phương do HĐND cùng cấp quyết định.
● Kế hoạch huy động nhân lực, tài
chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương trình HĐND quyết định.
● Các biện pháp thực hiện Nghị quyết của
HĐND về kinh tế - xã hội; thông qua báo cáo của UBND trước khi trình HĐND cùng
cấp.
● Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải
thể các cơ quan chuyên môn thuộc UBND và việc thành lập mới, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới hành chính ở địa phương.
Ngoài ra, khi bàn bạc các vấn đề có
liên quan tới Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cũng như các đoàn thể cấp tỉnh thì những
người đứng đầu các tổ chức cũng được mời tham dự kỳ họp của UBND để giải quyết;
ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND.
+ Hoạt động của Chủ tịch UBND cấp tỉnh
Chủ tịch UBND là người lãnh đạo và điều
hành công việc của UBND, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn riêng được pháp luật quy định, đồng thời cùng tập thể UBND chịu trách
nhiệm tập thể về hoạt động của UBND trước HĐND cấp mình và trước cơ quan nhà nước
cấp trên.
Nhiệm vụ, quyền hạn riêng, giải quyết
với tư cách người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh: Lãnh đạo công
tác của UBND, các thành viên UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp mình:
● Đôn đốc, kiểm tra công tác chuyên
môn thuộc UBND cấp mình và UBND cấp huyện trong việc thực hiện Hiến pháp, Luật,
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết của HĐND và Quyết định,
Chỉ thị của UBND cùng cấp.
● Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của UBND cấp mình, trừ những vấn đề thuộc quyền quyết định tập thể của
UBND.
● Áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến
lề lối làm việc, quản lý, điều hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả;
ngăn ngừa và đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch,
cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công
chức và trong bộ máy chính quyền địa phương.
● Tổ chức tiếp dân, xét và giải quyết
kiến nghị, khiếu nại tố cáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
● Triệu tập và chủ tọa phiên họp của
UBND cùng cấp.
● Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên
của UBND cấp huyện; điều động, đình chỉ, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ
tịch UBND cấp huyện; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên UBND cấp
huyện; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,
công chức theo phân cấp quản lý.
● Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp mình và văn
bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện.
● Đình chỉ thi hành Nghị quyết trái
pháp luật của HĐND cấp huyện và đề nghị HĐND cấp mình bãi bỏ.
● Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để
giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng chống thiên tai, cháy nổ,
dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo UBND trong phiên họp gần nhất.
● Ra quyết định, chỉ thị để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2. Phân cấp quản lý giữa Trung ương và
chính quyền cấp tỉnh
a) Quan niệm về phân cấp và phân cấp
quản lý:
- Phân cấp
Thuật ngữ “phân cấp” khi được sử dụng
trong các lĩnh vực khác nhau có ý nghĩa khác nhau nhất định. Hiện tại, thuật ngữ
này chưa có định nghĩa chung, thống nhất. Trong lĩnh vực hành chính, thuật ngữ
phân cấp được sử dụng để chỉ sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm cho
các cấp chính quyền trong bộ máy hành chính nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm đảm bảo điều hành tập trung thống nhất của Chính phủ, đồng thời
phát huy tính tự chủ, năng động sáng tạo của chính quyền địa phương, bảo đảm
dân chủ.
Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước, thuật ngữ “phân cấp” được dùng để chỉ một loại hình tổ chức và
hoạt động quản lý được pháp luật quy định, tạo nên các cơ quan có thứ bậc khác
nhau trong một hệ thống, mỗi cấp được giao nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, với
trách nhiệm tương ứng để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giải quyết nhiệm
vụ đạt hiệu quả cao nhất.
Dù được sử dụng trong trường hợp nào
thì nghĩa chính của thuật ngữ “phân cấp” cũng được biểu thị bằng việc phân chia
một đối tượng nào đó theo loại, hạng cao, thấp có thứ bậc trong hệ thống tổ chức
sẵn có hoặc phân ra để tổ chức nên các bộ phận - cơ quan có thứ bậc cao, thấp
trong cùng một hệ thống với mục đích thực hiện có hiệu quả nhất một hoặc một số
việc nào đó.
Khoa học pháp lý nước ngoài khi đề cập
mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương thường sử dụng thuật ngữ “phân quyền”.
Trong một số trường hợp cũng dùng khái niệm tương đương “phân cấp”. Chẳng hạn ở
Pháp “phân quyền” được hiểu khi thẩm quyền được trao cho Hội đồng bầu cử địa
phương; còn “phân cấp” là khi một bộ nào đó chuyển giao nhiệm vụ quản lý tại một
địa phương nhất định cho các công chức địa phương. Phân cấp và phân quyền đều
thể hiện mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương được hình thành trong quá
trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “phân quyền”
chưa được sử dụng phổ biến, thay vào đó nội dung tương ứng của thuật ngữ trong
các văn kiện của Đảng và Nhà nước được thể hiện bằng thuật ngữ “phân cấp quản
lý”, “phân định thẩm quyền”.
- Phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý được nhìn nhận từ nhiều
góc độ khác nhau:
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao
trách nhiệm lập kế hoạch quản lý, đào tạo và phân bổ nguồn lực từ Chính phủ,
Trung ương cho các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác thuộc cơ cấu tổ chức
bộ máy Chính phủ, Trung ương, các đơn vị cấp dưới hay chính quyền địa phương
trong hệ thống hành chính thứ bậc cho các cơ quan tự quản (bán công) hoặc các
cơ quan chức năng (bán công) và cũng có thể cho các tổ chức phi chính phủ, cá
nhân. Theo cách này, chuyển giao trách nhiệm có thể chia thành 2 loại:
Chuyển giao giữa các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước trong hệ thống thực thi quyền hành pháp;
Chuyển giao một số công việc vốn do cơ
quan hành chính nhà nước mang tính chất truyền thống trước đây đảm nhận cho các
tổ chức không thuộc bộ máy hành chính nhà nước, phi chính phủ, tư nhân v.v....
Đây là sự chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước cho các tổ chức
không phải là Nhà nước - dạng phân cấp chức năng hay phân cấp cho thị trường.
Từ góc độ pháp luật, phân cấp là một
loại hình tổ chức và hoạt động quản lý được pháp luật quy định, trong đó có các
cơ quan có thứ bậc khác nhau trong một hệ thống, mỗi cấp được giao nhiệm vụ,
quyền hạn trách nhiệm nhất định để phát triển tính tự chủ năng động và sáng tạo
của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao với kết quả cao nhất.
● Trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước: Phân cấp được hiểu theo 2 nghĩa:
Phân cấp hoạt động thực thi quyền hành
pháp cho các tổ chức tạo nên bộ máy hành chính nhà nước. Đó là sự phân công thực
thi quyền lực nhà nước thuộc lĩnh vực quyền hành pháp. Sự phân công này gắn liền
với cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước với tính thứ bậc chặt chẽ.
Phân cấp quản lý là chuyển giao quyền
thực thi quyền hành pháp từ tổ chức nhà nước ở một cấp trong hệ thống thứ bậc
sang tổ chức khác ngoài hệ thống.
● Trong một tổ chức “phân cấp” được hiểu:
Tạo ra một cơ cấu tổ chức bao gồm nhiều
bộ phận chức năng với nhiệm vụ khác nhau. Mỗi bộ phận trong tổ chức lớn thực hiện
một chức năng, nhiệm vụ cụ thể;
Phân cấp gắn liền với việc chuyển giao
trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm cho từng bộ phận, đơn vị trong hệ thống
cơ cấu tổ chức của một tổ chức.
● Góc nhìn khác, tổng hợp phân cấp quản
lý là sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ với sự xác định bằng pháp
luật giữa các cơ quan Trung ương và cơ quan ở địa phương, quyền hạn đồng thời
là trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhất định.
+ Mục tiêu của phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa
phương nhằm phát huy tính năng động và sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước.
Bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất
và thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phục vụ tốt hơn nhu cầu, lợi ích của
nhân dân, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở
từng địa phương.
+ Nguyên tắc phân cấp quản lý
Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ
giữa quản lý theo lãnh thổ với quản lý theo ngành, phân định rõ nhiệm vụ quản
lý nhà nước của bộ, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh
đối với các hoạt động kinh tế - xã hội ở địa phương.
Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào,
cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của
tổ chức, nhân dân thì giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp rõ việc, địa chỉ,
trách nhiệm gắn liền với quyền hạn, nhiệm vụ.
Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội trong từng giai đoạn, đặc thù từng ngành, lĩnh vực, điều kiện và khả
năng phát triển của từng khu vực, vùng lãnh thổ, với xu thế hội nhập khu vực,
quốc tế.
Bảo đảm tương ứng với nhiệm vụ, thẩm
quyền trách nhiệm với nguồn lực tài chính, tổ chức nhân sự và các điều kiện cần
thiết khác, đảm bảo tính đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực liên quan.
Bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của HĐND, UBND và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong việc quyết định thực
hiện những nhiệm vụ được phân cấp, chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành
chính đồng thời phát huy dân chủ rộng rãi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Các cơ quan Trung ương có trách nhiệm
theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được giao cho cấp tỉnh,
có biện pháp xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Hình thức và nội dung của phân cấp
quản lý
+ Các hình thức phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như: phân cấp chức năng, phân cấp quản lý lãnh thổ....
Tuy nhiên, hình thức phân cấp theo lĩnh vực quản lý được coi là chủ đạo, bao gồm:
phân cấp về chính trị, phân cấp hành chính, phân cấp tài chính.
● Phân cấp quản lý về chính trị
Phân cấp quản lý về chính trị là việc
chuyển giao thẩm quyền quyết định cho chính quyền cấp dưới, mở rộng các quyền
dân chủ của công dân và các tổ chức đại diện của công dân tại địa phương trong
quá trình thành lập các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, xây dựng và thực
hiện các chính sách nhà nước.
Các cấp độ biểu hiện của phân cấp quản
lý về chính trị:
Việc thành lập cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp) do nhân dân trực tiếp tiến hành
là sự biểu hiện cao nhất của sự tham gia của nhân dân vào công việc địa phương,
của đất nước. Người dân, cơ quan đại diện của nhân dân có quyền trực tiếp đóng
góp ý kiến trong xây dựng, ban hành, thực hiện các quyết định công (trong quản
lý hành chính nhà nước, xây dựng chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội;
ngân sách địa phương...).
Phân cấp cho chính quyền tỉnh quyền
ban hành những quyết định và chính sách liên quan đến phát triển địa phương hoặc
tham gia vào việc ban hành quyết định, chính sách quốc gia.
Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý đối với
các quyết sách lớn.
● Phân cấp quản lý hành chính
Phân cấp quản lý hành chính là mô hình
phân cấp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nguồn lực từ chính trong
việc thực thi nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ công giữa
các cấp khác nhau của hệ thống cơ quan hành chính.
Phân cấp quản lý hành chính là trao
cho chính quyền địa phương các cấp những trách nhiệm mới gắn với việc sử dụng
quyền lực mới; những trách nhiệm trước đây vẫn thuộc Chính phủ, hay chính quyền
địa phương cấp trên được chuyển giao xuống cho cấp dưới nhằm tăng tính trách
nhiệm của địa phương và giúp giải quyết công việc sát thực tế.
● Phân cấp quản lý tài chính
Phân cấp quản lý tài chính là trao cho
chính quyền địa phương các cấp nhiệm vụ, quyền hạn nhất định về thu, chi ngân
sách địa phương, tạo cho chính quyền địa phương chủ động, hiệu quả hơn trong việc
tạo, sử dụng nguồn lực tài chính của địa phương. Các cấp chính quyền địa phương
được phân cấp quản lý tài chính được sử dụng, quản lý nguồn tài chính độc lập
theo quy định của pháp luật.
Phân cấp quản lý tài chính là yếu tố
quan trọng bảo đảm cho phân cấp về thẩm quyền được thực hiện triệt để trong thực
tế và là một trong những vấn đề cốt lõi bảo đảm cho phân cấp các hoạt động quản
lý hành chính nhà nước. Các cấp chính quyền địa phương được phân cấp, các tổ chức
tư nhân, tổ chức phi chính phủ sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả khi
họ có được nguồn thu phù hợp cho việc giải quyết nhiệm vụ được giao.
+ Nội dung phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung
ương và địa phương (chính quyền cấp tỉnh) bao gồm nhiều nội dung khác nhau được
phân định thành 2 nhóm chính:
Thứ nhất: Phân cấp các hoạt động
hay công việc quản lý nhà nước trong mối quan hệ với các lĩnh vực quản lý khác
nhau (phân định thẩm quyền)
Phân định theo thẩm quyền, về thực chất
là trả lời các câu hỏi: Ai? Cơ quan nào được quyền làm gì? làm tốt đến mức độ
nào? trách nhiệm khi thực hiện quyền hạn đó ra sao?
Nội dung cơ bản của phân định thẩm quyền
ở một số lĩnh vực cơ bản:
Thẩm quyền trong quy hoạch và lập kế
hoạch: quy hoạch là nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước của
các cấp chính quyền, cần có sự thống nhất và chỉ đạo tập trung từ trên xuống, lấy
quy hoạch cả nước làm nền tảng để xây dựng quy định của từng vùng, từng tỉnh, từng
huyện. Các cấp chính quyền địa phương căn cứ vào quy hoạch chung để xây dựng
quy hoạch của cấp mình, một mặt phù hợp quy định chung, đồng thời phù hợp đặc
thù địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đô thị - nông thôn, sử
dụng đất đai. Yêu cầu của phân định trong quy hoạch là xác định rõ thẩm quyền
các cấp trong xây dựng, phê duyệt các bản quy hoạch, kế hoạch.
Thẩm quyền trong quản lý kinh tế gồm
thẩm quyền trong quản lý các dự án đầu tư, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; quản
lý và phát triển các ngành nghề sản xuất, kinh doanh.
Thẩm quyền trong quản lý xã hội gồm
phân định thẩm quyền của từng cấp trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, chính
sách xã hội.
Thẩm quyền trong lĩnh vực tài nguyên,
môi trường gồm: xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các cấp trong quản lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên; trong quản lý đất đai như giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất, chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất; cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thẩm quyền quản lý môi trường.
Thẩm quyền quản lý thu, chi ngân sách
nhà nước như điều hành ngân sách Trung ương; lập dự toán, điều chỉnh, phân bổ,
quyết toán ngân sách địa phương; quyết định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
tiêu ngân sách; quyết định các loại, mức phí, lệ phí và các khoản đóng góp của
nhân dân; quản lý tài sản công.
Có thể nói thực chất của phân định thẩm
quyền là sự phân định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm cho các cấp
hành chính trong quản lý nhà nước.
Thứ hai: Phân cấp quản lý các
điều kiện bảo đảm thực hiện thẩm quyền bao gồm:
Phân cấp trong việc tổ chức bộ máy các
cơ quan nhà nước như: xác định thẩm quyền của các cấp chính quyền trong việc
thành lập mới, giải thể, sáp nhập các cơ quan nhà nước.
Phân cấp quản lý nhân sự của cơ quan
nhà nước như: xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong tuyển dụng, sử dụng,
bổ nhiệm, bãi nhiệm cán bộ, công chức, viên chức thuộc cơ quan; quyết định chế
độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Phân cấp về quản lý hoạt động chi tiêu
ngân sách được trao cho từng cơ quan, từng cấp chính quyền địa phương.
b) Các yếu tố ảnh hưởng đến phân cấp
quản lý
- Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và xã hội được Hiến pháp ghi nhận. Đây là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng nước ta trong đấu tranh giành, giữ, xây dựng, bảo vệ đất nước.
Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chủ
trương của Đảng trong xây dựng bộ máy tổ chức chính quyền địa phương; đào tạo,
bồi dưỡng những đảng viên ưu tú để giới thiệu bầu vào các vị trí khác nhau của
chính quyền địa phương; thông qua sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng đối với
hoạt động của HĐND và UBND trong việc tổ chức kiểm tra, giám sát các cơ quan
chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Như vậy, hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ được phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương một mặt phụ thuộc vào sự
đúng đắn của chủ trương, đường lối lãnh đạo chung của Đảng; mặt khác phụ thuộc
vào sự quan tâm sâu sắc, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng địa
phương.
- Các quy định của pháp luật
Các quy định của pháp luật về phân cấp
quản lý và tổ chức, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương là cơ sở
pháp lý cho phân cấp quản lý và khẳng định địa vị pháp lý của chính quyền địa
phương. Những quy định của pháp luật đầy đủ chuẩn xác, cụ thể, rõ ràng nội dung
phân cấp, vị trí, tính chất, trách nhiệm, quyền hạn của HĐND và UBND sẽ loại bỏ
được hình thức của phân cấp quản lý, cũng như khẳng định được vị trí, tính chất,
vai trò của HĐND và UBND trong quản lý các quá trình kinh tế - xã hội trên địa
bàn lãnh thổ. Những quy định này phải được thể hiện trong Hiến pháp và được cụ
thể hóa bằng luật về chính quyền địa phương.
- Năng lực, trách nhiệm thực hiện công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức là yếu tố cơ bản làm
nên sự thành bại của một tổ chức khi thực thi nhiệm vụ. Trong phân cấp quản lý
kể cả những người thực hiện phân cấp và người tiếp nhận nhiệm vụ được phân giao
cần có nhận thức đúng, đủ về ý nghĩa mục đích, vai trò của việc phân cấp, thực
hiện phân cấp đúng nguyên tắc, yêu cầu thực tế. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ
theo phân cấp, trong thực thi công vụ đòi hỏi cán bộ, công chức phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp xây dựng, phát triển địa
phương, vùng, đất nước; có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ phù hợp, sâu và năng
lực thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội; có đạo đức, lối sống lành mạnh, có
trách nhiệm trước nhân dân, Nhà nước và bản thân.
- Điều kiện vật chất
Để đảm bảo hoạt động của các cấp chính
quyền địa phương trong thực hiện nhiệm vụ được giao cần thiết phải cung cấp đầy
đủ các phương tiện, vật chất phù hợp phục vụ cho hoạt động của cán bộ, công chức,
hoạt động của cơ quan. Phương tiện phải phù hợp yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đảm
bảo tính hiện đại; kinh phí hoạt động đảm bảo tối ưu. Tuy nhiên, trong bảo đảm điều
kiện vật chất cho phân cấp quản lý cần chống lãng phí, thực hành tiết kiệm,
đúng chế độ, chính sách.
c) Vai trò phân cấp quản lý đối với hoạt
động quản lý của chính quyền địa phương:
- Thúc đẩy, bảo đảm hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước của chính quyền địa phương
Để quản lý các quá trình kinh tế - xã
hội, bất kỳ nhà nước nào cũng tổ chức ra một bộ máy đặc biệt gồm một hệ thống
các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến các cấp chính quyền địa phương. Các cơ
quan quản lý nhà nước ở Trung ương tập trung hoạch định những chính sách ở tầm
vĩ mô, bao quát diễn biến của các quan hệ kinh tế, xã hội trên quy mô toàn quốc.
Các cấp chính quyền địa phương, căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn được phân giao, tổ
chức triển khai thực hiện chính sách của Trung ương ở địa phương có tính tới những
đặc điểm riêng, mang tính đặc thù của địa phương. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ, chính quyền địa phương chủ động, sáng tạo đề ra những biện pháp, cách thức
phù hợp thực tế của địa phương để phát huy mọi tiềm năng sẵn có, riêng biệt, bảo
đảm cho hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Mặt khác, phân cấp quản lý tạo cho
chính quyền địa phương quyền độc lập tương đối, chủ động giải quyết các công việc
có tính chất nội bộ diễn ra trên địa bàn lãnh thổ ngoài chính sách chung của
Nhà nước. Như vậy phân cấp quản lý đảm bảo cho chính quyền địa phương thực hiện
tốt chính sách của Nhà nước. Đồng thời giải quyết thỏa đáng những vấn đề nảy
sinh tại địa phương.
- Góp phần mở rộng dân chủ
Phân cấp quản lý cho chính quyền địa
phương sẽ tạo ra quyền chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương trong thực
hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Trong phạm vi nhất
định, việc thực hiện nhiệm vụ được phân giao, chính quyền địa phương, một mặt,
chủ động đưa ra các biện pháp phù hợp đặc điểm tình hình địa phương; mặt khác,
chủ động gợi mở để tham khảo lấy ý kiến của đông đảo nhân dân địa phương. Đặc
biệt, những vấn đề của địa phương, với tinh thần làm chủ, dưới sự hướng dẫn của
chính quyền địa phương, sẽ được quyết định bởi chính dân cư địa phương, hoặc cơ
quan đại diện dân cư với sự đóng góp sáng kiến, sự giám sát trực tiếp của nhân
dân địa phương. Trong các trường hợp này, quyền dân chủ được mở rộng, thực hiện
thực tế, người dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội trực
tiếp, tự giác. Như vậy, phân cấp quản lý góp phần mở rộng dân chủ, là biện pháp
hiện thực hóa giá trị dân chủ trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước - một
nội dung của Nhà nước pháp quyền.
- Góp phần giải quyết tốt mối quan hệ
giữa chính quyền ở Trung ương và chính quyền ở địa phương
Phân cấp quản lý hay phân định thẩm
quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền, trong mọi trường
hợp đều không mang tính tuyệt đối. Việc thực hiện những thẩm quyền bởi mỗi cấp
chính quyền đều hướng tới mục đích hoàn thành chính sách chung của Nhà nước.
Trong thực tế quản lý nhà nước, không loại trừ sự đan xen thẩm quyền giữa các
chủ thể, thuộc các cấp, cũng như trong cùng cấp chính quyền. Trong quan hệ giữa
Trung ương và địa phương, sự phối hợp thể hiện ở một số điểm:
+ Sự phối hợp giữa Trung ương và địa
phương trong việc thực hiện thẩm quyền chung;
+ Sự tham gia của địa phương vào giải
quyết các vấn đề của Trung ương và ngược lại;
+ Sự hỗ trợ của Trung ương để bảo đảm
hiệu quả hoạt động của địa phương.
Các cấp chính quyền địa phương với những
nhiệm vụ, quyền hạn được phân giao, khi thực thi công vụ chung của Nhà nước, một
mặt để phát triển địa phương; mặt khác góp phần phát triển chung mọi lĩnh vực đời
sống xã hội của cả nước. Mối quan hệ giữa Trung ương và chính quyền địa phương
hòa quyện, gắn kết với nhau, tạo sự thống nhất.
d) Phân cấp quản lý trong một số lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và chính quyền cấp tỉnh:
- Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch
và đầu tư phát triển
Ở lĩnh vực này, nội dung phân cấp quản
lý gồm:
+ Thẩm định và quyết định đầu tư vào
các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước;
+ Cấp giấy phép đầu tư cho các doanh
nghiệp trong nước đầu tư vào khu công nghiệp và khu kinh tế;
+ Cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp
trong nước đầu tư ra nước ngoài;
+ Cấp giấy phép đầu tư và quản lý các
dự án nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; phê duyệt chương trình dự án ODA.
+ Trong phân cấp đã có quy định rõ thẩm
quyền của mỗi cấp, phạm vi, hạn mức, trách nhiệm của các cá nhân, mỗi cấp trong
thực hiện nhiệm vụ được phân giao.
- Phân cấp quản lý trong lĩnh vực đất
đai
Đối với chính quyền địa phương, pháp
luật đất đai cũng xác định thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp và từng cơ
quan, trong đó, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp
luật về đất đai tại địa phương và UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu toàn dân về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm
quyền.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được phân cấp
cho các cơ quan quản lý nhà nước được quy định theo hướng:
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về đất đai trong phạm vi cả nước, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của
cấp tỉnh. Chính quyền địa phương các cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể về quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn;
+ UBND cấp tỉnh lập quy hoạch, quyết định
kế hoạch sử dụng đất; quyết định hạn mức giao đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất của địa phương trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được
Chính phủ phê duyệt; quyết định giá đất cụ thể theo khung giá các loại đất theo
quy định của Chính phủ.
+ Phân định rõ quyền quản lý, sử dụng
tài sản các cấp, gắn với đất, theo đó có tài sản cấp quốc gia, tài sản cấp tỉnh,
tài sản cấp huyện, tài sản cấp xã. Tài sản cấp nào do cấp đó quyết định và chịu
trách nhiệm quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
- Phân cấp quản lý về ngân sách nhà nước
Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về
ngân sách gồm:
Thứ nhất: Giải quyết mối quan
hệ quyền hạn giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành chính sách, chế độ
thu, chi ngân sách nhà nước.
Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện
hành, việc ban hành chính sách, chế độ thu, chi ngân sách nhà nước được quy định
như sau:
+ Quốc hội làm Luật, sửa đổi Luật
trong lĩnh vực ngân sách, bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ... về lĩnh vực ngân sách trái với Hiến
pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội;
+ Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
văn bản pháp luật về lĩnh vực ngân sách được Quốc hội giao;
+ Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh vực ngân sách;
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực ngân sách theo thẩm quyền;
+ Bộ Tài chính chuẩn bị các dự án luật,
pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực ngân sách và xây dựng chiến lược, kế hoạch
vay nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ, ban hành các văn bản
pháp luật về lĩnh vực ngân sách theo thẩm quyền; chủ trì phối hợp với các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong việc xây dựng
các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn định mức chi ngân sách nhà nước,
chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo cáo, công khai tài chính ngân sách trình
Chính phủ quy định hoặc quy định theo phân cấp của Chính phủ để tiến hành thống
nhất trong cả nước;
+ HĐND cấp tỉnh ban hành văn bản dưới
luật quy định thu một số loại phí, lệ phí mang tính chất địa phương nằm trong
danh mục được Ủy ban thường vụ Quốc hội cho phép.
Thứ hai: Giải quyết mối quan
hệ quyền hạn giữa các cấp chính quyền nhà nước trong phân giao nguồn thu, nhiệm
vụ chi và cân đối ngân sách nhà nước.
Quốc hội quy định phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương (quy định trong
Luật Ngân sách nhà nước năm 2002) và giao cho HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp
nguồn thu giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội từng địa phương.
Thứ ba: Giải quyết mối quan
hệ quyền hạn giữa các cấp chính quyền nhà nước trong quá trình thực hiện chu
trình ngân sách.
Luật Ngân sách nhà nước quy định thẩm
quyền của các cơ quan dân cử trong dự toán, phân bổ, phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước:
+ Quốc hội: Trong dự toán ngân sách
nhà nước quyết định tổng số thu ngân sách (thu nội địa, từ xuất nhập khẩu, viện
trợ không hoàn lại); tổng số chi ngân sách (ngân sách Trung ương, ngân sách địa
phương) chi tiết cho từng lĩnh vực cụ thể; quyết định phân bổ ngân sách Trung
ương, tổng mức chi cho từng lĩnh vực; dự toán chi của các cơ quan nhà nước ở
Trung ương; mức bổ sung ngân sách nhà nước ở Trung ương cho ngân sách địa
phương.
+ HĐND cấp tỉnh căn cứ vào nhiệm vụ
thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình thực tế ở địa phương quyết định
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương; quyết định
tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với
phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách
Trung ương và ngân sách địa phương và các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân
sách ở địa phương.
- Phân cấp quản lý các hoạt động sự
nghiệp, dịch vụ công
Đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công
là những tổ chức do Nhà nước thành lập, thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước quản
lý, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước bảo đảm và một phần do những người
thụ hưởng đóng góp theo quy định của Nhà nước.
Nhà nước đã ban hành những văn bản quy
định cụ thể nội dung phân cấp cho các đơn vị sự nghiệp công. Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập (một số đơn vị sự nghiệp công cung ứng dịch vụ trong các
lĩnh vực giao thông, vận tải, nông nghiệp phát triển nông thôn, công thương).
Các đơn vị này là các đơn vị sự nghiệp công nhưng cũng thực hiện chức năng quản
lý nhà nước. Các sản phẩm dịch vụ do Nhà nước đặt hàng.
Đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ,
theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ đã có quy định cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học, công nghệ công lập, trong đó
khuyến khích các tổ chức này chủ động khai thác các hoạt động kinh doanh dịch vụ,
liên kết để ứng dụng vào sản xuất kết quả hoạt động khoa học, công nghệ, thu lợi
nhuận và đầu tư trở lại phát triển đơn vị và tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức.
Ở những lĩnh vực khác như giáo dục -
đào tạo; y tế; bảo hiểm xã hội... cũng có những quy định cụ thể phân cấp cho
các đơn vị sự nghiệp công trong việc đảm bảo nguồn thu, kế hoạch phân chia lợi
nhuận thu được từ hoạt động dịch vụ,....
- Phân cấp quản lý về tổ chức bộ máy
và cán bộ công chức
+ Về tổ chức bộ máy:
Quốc hội: thông qua việc ban hành Hiến
pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án và Viện
Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương quy định về cơ cấu tổ chức
của bộ máy nhà nước, gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương.
Trong hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước:
Chính phủ quy định về tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định thành
lập phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của từng địa phương.
HĐND cấp tỉnh phê chuẩn cơ cấu cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cùng cấp, cấp huyện, quyết định thành lập, sáp nhập, giải
thể một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp phù hợp với đặc điểm địa
phương.
UBND cấp tỉnh quyết định thành lập các
tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công của địa phương trên cơ sở quy hoạch và hướng dẫn
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của luật chuyên ngành (Luật
Giáo dục, Luật Báo chí,...).
+ Về nhân sự trong hệ thống hành chính
nhà nước
Phân cấp quản lý cán bộ, công chức ở
nước ta hiện nay được điều chỉnh bởi Luật Cán bộ, công chức (năm 2008) và các
văn bản của Chính phủ, các thông tư của cơ quan hữu quan.
Trong các văn bản pháp luật đó, có quy
định cụ thể chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước, từ Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
các cấp trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.
Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn kết quả
bầu cử thành viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm
các thành viên khác của UBND cấp tỉnh; điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch,
Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
ban hành hoặc phối hợp ban hành và thực hiện tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của
người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định
tổng biên chế sự nghiệp ở địa phương phù hợp yêu cầu, khả năng của địa phương,
thông qua tổng biên chế hành chính của địa phương trình cấp có thẩm quyền quyết
định.
UBND cấp tỉnh quyết định phân bổ chỉ
tiêu biên chế hành chính, sự nghiệp đối với đơn vị trực thuộc và UBND cấp huyện,
phê duyệt biên chế đối với đơn vị sự nghiệp có thu của tỉnh tự bảo đảm một phần
chi phí hoạt động thường xuyên, hướng dẫn định mức biên chế đối với đơn vị sự
nghiệp có thu của tỉnh tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên....
đ) Đánh giá thực trạng và quan điểm,
giải pháp tăng cường phân cấp Trung ương - địa phương
- Đánh giá thực trạng phân cấp Trung
ương - địa phương
+ Kết quả đạt được
Phân cấp quản lý là một biện pháp quan
trọng giải quyết mối quan hệ giữa Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ với chính quyền
địa phương (trước hết là cấp tỉnh) trong quá trình thực hiện chức năng quản lý
nhà nước.
Nhằm định hướng ưu tiên, đẩy mạnh phân
cấp quản lý giữa Chính phủ và chính quyền địa phương ở một số lĩnh vực, ngày
30/6/2004 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP trong đó quy định ưu
tiên phân cấp trong các lĩnh vực: quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát
triển; quản lý ngân sách nhà nước; quản lý đất đai, tài nguyên và tài sản nhà
nước; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các hoạt động sự nghiệp dịch vụ
công; quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức.
Trong quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu
tư phát triển, trên cơ sở Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định hướng dẫn thi
hành Luật Đầu tư, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và quản lý các dự án đầu tư
nước ngoài sau cấp phép đã được giao cho các địa phương. Việc thẩm định quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh cũng được Chính phủ phân cấp cho
các địa phương theo tinh thần Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của
Chính phủ.
Cũng tương tự, ở các lĩnh vực khác như
quản lý ngân sách nhà nước, quản lý đất đai, tài nguyên, quản lý tổ chức bộ máy
và công chức, đều được phân cấp khá mạnh cho chính quyền địa phương quản lý.
Kết quả đạt được của phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương trong thời gian qua đã đem lại hệ quả tích cực.
+ Hạn chế, bất cập
Bên cạnh kết quả tích cực, phân cấp quản
lý giữa Trung ương và địa phương trong thời gian qua cũng còn những hạn chế, bất
cập.
Thể chế về phân cấp quản lý chưa rõ
ràng, cụ thể thể hiện ở hệ thống chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, thiếu đồng bộ, chưa rõ; có nhiều việc đã phân cấp
cho chính quyền địa phương nhưng chưa quy định rõ ràng.
Việc thực hiện phân cấp quản lý còn chậm
và thiếu kiên quyết, nhiều bộ, ngành muốn ôm việc. Nhiều việc cần phân cấp cho
địa phương nhưng các bộ, ngành ở Trung ương vẫn giữ cho mình; nhiều việc cần
phân cấp cho huyện, xã nhưng cấp tỉnh vẫn quản lý đã gây khó khăn, trở ngại cho
sản xuất và đời sống của cá nhân, tổ chức. Mặt khác, có những công việc thuộc
ngành, lĩnh vực cần được quản lý tập trung, thống nhất nhưng lại phân cấp cho địa
phương quản lý.
Quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội trước hết là quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng
lượng, điện và các vùng, khu kinh tế trọng điểm chưa thật rõ ràng, công khai,
minh bạch. Phân bổ vốn đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng đầu tư từ nguồn
thu ngân sách nhà nước chưa tuân thủ đúng quy trình và thứ tự ưu tiên theo tiến
độ quy hoạch làm phân tán trong đầu tư kết cấu hạ tầng; tình trạng đầu tư tràn
lan, thiếu định hướng, không theo quy hoạch còn diễn ra.
Mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản
lý theo lãnh thổ chưa được quy định rành mạch, cụ thể, nội dung, cơ chế liên kết,
phối hợp giữa các địa phương với các bộ, ngành cũng như ở các địa phương chưa
rõ ràng; tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ
quan Trung ương với nhau cũng đang gây khó khăn cho địa phương trong thực hiện
phân cấp quản lý.
- Quan điểm và giải pháp
+ Quan điểm tăng cường phân cấp quản
lý giữa Trung ương và địa phương
Để đạt kết quả khả quan trong phân cấp
quản lý giữa Trung ương và địa phương ở nước ta hiện nay cần quán triệt một số
quan điểm:
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp
chính quyền về mục đích, ý nghĩa, vai trò của phân cấp quản lý đối với đảm bảo
hoạt động hiệu quả của quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và của cả nước. Từ nhận thức tạo nên ý thức và biến thành hành động cụ
thể của cá nhân các cấp lãnh đạo; từ đó nâng cao trách nhiệm trong hoạch định
chính sách, phù hợp, đảm bảo phân cấp hợp lý, chủ động sáng tạo tìm tòi những
biện pháp tối ưu để giải quyết công việc đạt hiệu quả công việc cao nhất.
Tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho chính quyền địa phương. Mục đích ở đây là nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo của chính quyền địa phương trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với quá trình kinh tế - xã hội diễn ra ở địa phương.
Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành
tập trung thống nhất, thông suốt của Trung ương; đồng thời phát huy tính năng động,
sáng tạo của địa phương. Mục đích là bảo đảm duy trì nghiêm việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt
trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Phân cấp quản lý phải phù hợp với điều
kiện, tiềm năng của mỗi địa phương, khu vực và lãnh thổ. Đây là một trong những
yêu cầu quan trọng trong phân cấp quản lý. Mỗi địa phương, vùng, miền có đặc
trưng riêng về điều kiện kinh tế - xã hội do vậy phải căn cứ vào đặc điểm đặc
thù để phân cấp, không phân cấp đồng loạt như nhau cho mọi cấp, mọi địa phương
khác nhau.
Có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quản lý của chính quyền địa phương. Tăng cường
nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương nhưng phải gắn liền với trách
nhiệm của chính quyền đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Công tác
kiểm tra, giám sát thường xuyên với nhiều hình thức, biện pháp, từ nhiều phía
là sự bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được phân giao của chính quyền địa
phương.
+ Giải pháp tăng cường phân cấp Trung
ương - địa phương
Hoàn thành cơ chế phân cấp theo hướng
tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương đồng thời đảm
bảo sự quản lý thống nhất của Trung ương (Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Khóa XI; Văn phòng Trung ương Đảng, H2013, Tr.118)
Mở rộng nội dung phân cấp cho chính
quyền địa phương. Hiện tại nước ta chưa có luật về phân cấp quản lý cho chính
quyền địa phương, do đó căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa
phương được quy định trong Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và những văn bản
pháp luật có liên quan hiện hành mở rộng phân cấp cho chính quyền địa phương ở
một số lĩnh vực chủ yếu như: Phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực
đất đai; lĩnh vực ngân sách; các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công và lĩnh vực tổ
chức bộ máy và quản lý cán bộ, công chức.
Khi nghiên cứu, xem xét để thực hiện
phân cấp quản lý cần đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
● Quán triệt quan điểm quyền lực nhà
nước là thống nhất, bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ về thể chế,
chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra; đồng thời phát huy quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các
nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ.
● Phân cấp phải thực hiện theo hướng:
việc gì địa phương làm được, làm tốt thì giao cho địa phương đảm nhận. Cấp nào
giải quyết nhiệm vụ sát thực tế hơn, có điều kiện thực hiện và thực hiện có hiệu
quả hơn thì giao nhiệm vụ cho cấp đó.
● Nhiệm vụ được giao cho cấp nào thì cấp
đó có thẩm quyền đầy đủ, tự quyết, tự quản, tự chịu trách nhiệm về nội dung và
kết quả thực hiện; tránh trùng lặp nhiệm vụ giữa Trung ương và địa phương;
không chồng chéo cản trở công việc của nhau; khắc phục tình trạng đùn đẩy trách
nhiệm.
● Hoàn thiện thể chế về phân cấp quản
lý cho chính quyền địa phương các cấp.
Sự đồng bộ, nhất quán của hệ thống thể
chế là cơ sở pháp lý vững chắc, đáng tin cậy phát huy mọi nguồn lực nội địa và
là động lực mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; bảo đảm sự ổn định
của hệ thống quản lý nhà nước.
Để hoàn thiện thể chế về phân cấp quản
lý cần chú ý tập trung vào một số nội dung mang tính giải pháp sau:
● Trong xây dựng hệ thống danh mục các
công việc cần phân cấp cho chính quyền địa phương cần quan tâm đến hai vấn đề bức
xúc hiện nay nhưng còn chưa được đề cập trong các văn bản pháp luật. Thứ nhất,
giải quyết dịch vụ hành chính công theo yêu cầu của dân và doanh nghiệp phải chủ
yếu do chính quyền cấp cơ sở thực hiện. Thứ hai, quyền tài sản của mỗi cấp
chính quyền địa phương.
● Phân biệt giữa đô thị và nông thôn để
thực hiện phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương thuộc các đơn vị hành
chính lãnh thổ những nhiệm vụ, quyền hạn, phù hợp tính chất, đặc điểm kinh tế -
xã hội địa phương.
● Tiếp tục điều chỉnh lại chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ và giữa các cấp
hành chính theo hướng chuyển giao dần những công việc do Chính phủ, các bộ,
ngành đang đảm nhiệm nhưng chính quyền cấp tỉnh cũng có thể thực hiện được cho
chính quyền cấp tỉnh giải quyết để tạo điều kiện cho Chính phủ, các bộ, ngành tập
trung giải quyết các công việc có tầm vĩ mô trong quản lý hành chính nhà nước.
● Xác định rõ mối quan hệ giữa Trung
ương và địa phương thông qua xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
● Nhóm các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm của Trung ương nhưng được tổ chức thực hiện thông qua cơ chế phối hợp
với các cấp chính quyền địa phương: Nhiệm vụ này do chính quyền địa phương là
người tổ chức thực hiện theo sự chỉ đạo, điều phối, hướng dẫn hỗ trợ cung cấp
các phương tiện vật chất và kiểm tra giám sát thường xuyên của Trung ương.
● Nhóm các nhiệm vụ, thẩm quyền gắn liền
với nhiệm vụ và yêu cầu quản lý của các địa phương, giải quyết các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi địa phương vốn do các cơ quan Trung
ương thực hiện, nay phân cấp cho chính quyền địa phương: Nhiệm vụ này do chính
quyền cấp tỉnh thực hiện độc lập, tự chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Trung ương cần
tăng cường kiểm tra giám sát và tạo điều kiện hỗ trợ để chính quyền địa phương
thực hiện có hiệu quả, đúng pháp luật những công việc được phân cấp. Mức độ, phạm
vi thẩm quyền được phân cấp ở trường hợp này có thể sẽ thay đổi phù hợp với
tình hình, khả năng thực hiện và tình trạng phát triển của địa phương.
● Nhóm các nhiệm vụ, thẩm quyền hoàn
toàn thuộc về chính quyền địa phương do chính các cấp chính quyền địa phương thực
hiện trong khuôn khổ của chế độ tự quản địa phương: Đây là nhóm các nhiệm vụ,
thẩm quyền mang tính địa phương, được xác định trên cơ sở các đặc điểm và nhu cầu
phát triển đặc thù của địa phương, chính quyền địa phương được độc lập thực hiện.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy cho biết tại sao phải
phân cấp trong quản lý hành chính nhà nước?
2. Làm thế nào để đạt hiệu quả trong
phân cấp quản lý giữa Trung ương và chính quyền địa phương?
3. Theo đồng chí, việc phân cấp quản
lý đối với hoạt động quản lý của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay có vấn
đề gì đặt ra?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Kết luận Hội nghị Trung ương 7
(khóa XI): Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở.
3. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
4. Luật Viên chức năm 2010.
5. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003.
6. Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày
04/04/2014 Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
7. Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày
30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa
Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
8. Bộ Nội vụ. Tài liệu bồi dưỡng Đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Nhiệm kỳ 2011 - 2016. NXB CT-HC, H 2011.
9. Đại học Quốc gia Hà Nội. Phân cấp
quản lý nhà nước. Đồng chủ biên GS.TS. Phạm Hồng Thái, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung,
TS. Nguyễn Ngọc Chí, NXB Công an Nhân dân, H 2011.
10. Học viện Hành chính Quốc gia. Hành
chính công. Dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học. NXB KHKT, H
2006.
11. Viện nghiên cứu Khoa học tổ chức
Nhà nước. Tình hình phân cấp giữa Trung ương và địa phương và những kiến nghị từ
phía địa phương. H 2002.
12. TS. Vũ Đức Đán. Đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền thành phố; Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính
quyền địa phương Việt Nam hiện nay. NXB chính trị Quốc gia H 2002.
13. Võ Kim Sơn. Phân cấp trong quản lý
nhà nước - Lý luận và thực tiễn. NXB chính trị Quốc gia, H 2004./.
Chuyên đề 2
CHỨC
TRÁCH, NHIỆM VỤ CỦA GIÁM ĐỐC SỞ, PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ VÀ TƯƠNG ĐƯƠNG
1. Cơ quan hành chính nhà nước cấp sở
và tương đương
a) Tổ chức bộ máy cơ quan hành chính cấp
sở và tương đương:
Cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở
địa phương bao gồm Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh chính trị trên một phạm vi
lãnh thổ nhất định, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, có nhiệm kỳ
theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân làm việc theo chế
độ tập thể, các vấn đề quan trọng của địa phương phải được quyết định bởi tập
thể Ủy ban nhân dân, trừ một số vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân.
Cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
là các sở, ban... được tổ chức theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc”, tức là
phụ thuộc hai chiều (vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan có thẩm quyền chung là Ủy
ban nhân dân, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan quản lý
chuyên ngành cấp trên. Ví dụ như Sở Tư pháp vừa chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp).
Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh gồm văn phòng Ủy ban nhân dân và các sở, ban, ngành - gọi chung là cấp sở,
chia thành các khối:
- Khối tổng hợp: Văn phòng Ủy ban nhân
dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nội vụ.
- Khối nội chính: Sở Tư pháp, Thanh
tra. Ngoài ra, các cơ quan sau đây chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực
thuộc Ủy ban nhân dân: Công an tỉnh, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh.
- Khối lưu thông phân phối: Sở Thương
mại, Sở Tài chính. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Cục thuế tỉnh,
thành chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc Ủy ban nhân dân.
- Khối nông lâm nghiệp: Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường.
- Khối công nghiệp: Sở Xây dựng, Sở Công
nghiệp, Sở Giao thông Vận tải, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Khoa học và
Công nghệ (trong đó có Cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng).
- Khối văn hóa xã hội: Sở Giáo dục và
Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội, Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
Theo quy định tại Nghị định số
24/2014/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 04/4/2014 thì số sở, ban thuộc UBND cấp
tỉnh là 20, trong đó cơ cấu cứng là 17 sở, ban, bao gồm các sở: Nội vụ, Tư
pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Lao động,
Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Khoa học và Công nghệ,
Giáo dục và Đào tạo, Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng UBND. Chỉ có 3 sở được tổ
chức theo đặc thù ở một số địa phương là các sở: Ngoại vụ, Ban Dân tộc, Sở Quy
hoạch - Kiến trúc (được thành lập ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh).
Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân các cấp nói chung, cấp tỉnh nói riêng (trong đó có các sở) không có thẩm
quyền ra các quyết định quy phạm mà chỉ được ban hành các quyết định hành chính
cá biệt.
b) Quy chế hoạt động của cấp sở và
tương đương:
- Các quy định pháp lý
Quy chế hoạt động của cơ quan nhà nước
cấp sở được xây dựng dựa trên những căn cứ pháp lý hiện hành quy định về mô
hình tổ chức và quy chế hoạt động của cấp sở, như:
+ Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003;
+ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004; Nghị định số
91/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân;
+ Quyết định số 53/2006/QĐ-TTg ngày
08/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Quyết định số 75/2006/QĐ-TTg ngày
12/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; v.v....
Ngoài ra, quy chế hoạt động của cấp sở
còn được xây dựng trên cơ sở các văn bản chủ yếu sau đây:
+ Căn cứ văn bản quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của sở;
+ Luật Cán bộ, công chức năm 2008;
+ Luật Viên chức năm 2010;
+ Bộ luật Lao động năm 2012;
+ Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005, được sửa đổi bổ sung các năm 2007, 2012.
+ Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí năm 2005;
+ Luật Khiếu nại năm 2011;
+ Luật Tố cáo năm 2011;
+ Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày
12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
+ Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày
10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động;
+ Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày
06/4/2012 của Chính phủ quy định về xử lý, kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi
thường, hoàn trả của viên chức;
+ Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày
17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức;
+ Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày
10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động về tranh chấp lao động; v.v....
+ Thông tư hướng dẫn thi hành các nghị
định nêu trên.
- Quy chế hoạt động
Quy chế hoạt động của sở được xây dựng
trên cơ sở hướng tới thực hiện các nguyên tắc làm việc cơ bản sau đây:
+ Sở làm việc theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hiện chế độ thủ trưởng, đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành thống
nhất của Giám đốc đối với các lĩnh vực công tác của sở, phát huy quyền làm chủ
của công chức, viên chức, người lao động gắn với đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong cơ quan.
Mọi hoạt động của sở đều phải tuân thủ quy định của pháp luật và Quy chế làm việc
nội bộ. Cán bộ, công chức, viên chức thuộc sở phải xử lý và giải quyết công việc
đúng phạm vi trách nhiệm, thẩm quyền.
+ Trong phân công công việc, mỗi việc
chỉ được giao một đơn vị, một người phụ trách và chịu trách nhiệm chính. Thủ
trưởng đơn vị được giao công việc phải chịu trách nhiệm về tiến độ và kết quả
công việc được phân công. Cấp trên không làm thay công việc của cấp dưới, tập
thể không làm thay công việc của cá nhân và ngược lại.
+ Bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục
và thời hạn giải quyết công việc theo đúng quy định của pháp luật, chương
trình, kế hoạch, lịch làm việc và Quy chế làm việc, trừ trường hợp đột xuất hoặc
có yêu cầu khác của cơ quan cấp trên.
+ Bảo đảm phát huy năng lực và sở trường
của cán bộ, công chức, viên chức, đề cao sự phối hợp công tác, trao đổi thông
tin trong giải quyết công việc và trong mọi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được pháp luật quy định.
+ Bảo đảm dân chủ, rõ ràng, minh bạch
và hiệu quả trong mọi hoạt động.
+ Giám đốc sở là công chức đứng đầu sở,
chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và
trước pháp luật về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở.
+ Phó Giám đốc sở là người giúp Giám đốc
sở, chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc sở và trước
pháp luật về nhiệm vụ được phân công; khi Giám đốc sở vắng mặt, một Phó Giám đốc
sở được Giám đốc sở ủy nhiệm điều hành các hoạt động của sở;
+ Văn phòng sở là đơn vị hành chính
nhà nước, tham mưu cho Giám đốc sở về công tác tổng hợp; tổ chức cán bộ; kế hoạch
tài chính; thi đua khen thưởng, kỷ luật; hành chính nội vụ. Văn phòng sở có nhiệm
vụ và quyền hạn như sau:
● Trình Giám đốc sở các văn bản về kiện
toàn tổ chức bộ máy; biên chế, tuyển dụng; quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều
động, đào tạo cán bộ và các văn bản khác về công tác cán bộ;
● Lưu trữ, quản lý hồ sơ cán bộ công
chức, viên chức; hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định;
● Trình Giám đốc sở chương trình, kế
hoạch công tác tháng, quý, năm và 5 năm; theo dõi, tổng hợp báo cáo kết quả
công tác định kỳ và đột xuất theo quy định;
● Quản lý tài chính, tài sản của cơ
quan;
● Trình Giám đốc sở các văn bản về
công tác thi đua, khen thưởng;
● Điều hành hành chính, nội vụ công sở,
bố trí xe phục vụ công tác của Lãnh đạo sở hoặc một số nhiệm vụ cần thiết khác
khi Giám đốc sở yêu cầu;
● Thực hiện công tác văn thư, trực tiếp
theo dõi, quản lý văn bản đi và đến của sở;
● Thực hiện công tác bảo vệ an ninh trật
tự và an toàn tài sản công sở;
● Quản lý bộ phận một cửa theo quy chế
tiếp nhận và giao trả kết quả giải quyết công việc của tổ chức, công dân theo
cơ chế một cửa;
● Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám
đốc sở giao.
+ Thanh tra sở là đơn vị hành chính
nhà nước, tham mưu Giám đốc sở về công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và công tác pháp chế trong lĩnh vực quản lý ngành. Thanh tra sở có
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
● Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh;
● Xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
● Thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở
giao;
● Thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
● Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu
tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật;
● Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trực
thuộc sở thực hiện các quy định của pháp luật về công tác thanh tra; hướng dẫn
về nghiệp vụ thanh tra cho Thanh tra viên;
● Tổng hợp, báo cáo kết quả về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của sở theo quy định;
● Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám
đốc sở giao.
+ Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ chủ
trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan để giải quyết các nhiệm vụ có liên
quan đến chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị mình.
+ Chi cục và các đơn vị sự nghiệp công
lập: Tuy nhiên không nhất thiết các sở đều có thanh tra; chi cục; đơn vị sự
nghiệp công lập. Riêng Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có cổng thông tin điện
tử.
c) Những cải cách trong tổ chức bộ máy
cơ quan hành chính nhà nước cấp sở và tương đương:
Khoản 2 Điều 111 Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Cấp chính
quyền địa phương... được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Tuy nhiên việc cải cách hành chính
trong cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng vẫn phải tiếp tục kiên
trì hướng tới:
- Nghiên cứu, rà soát bãi bỏ, sửa đổi,
ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng thủ tục hành chính,
góp phần hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, thể chế kinh tế phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Việc sửa đổi, bổ sung cũng như quy định
mới về thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với
nhân dân và doanh nghiệp nhằm tiếp tục loại bỏ nhiều khâu trung gian, những giấy
tờ không cần thiết những thủ tục phiền phức, rút ngắn thời gian giải quyết công
việc của công dân, tổ chức, thiết thực góp phần cải thiện môi trường đầu tư,
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, bảo đảm sinh hoạt của dân.
- Nỗ lực thúc đẩy quá trình đổi mới
quan hệ công tác, phương thức và lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp, đổi mới quy chế làm việc của cơ quan hành chính nhà nước các cấp
theo hướng tập trung năng lực và điều kiện hoạt động vào chức năng quản lý hành
chính nhà nước; phân biệt rõ các hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động sự
nghiệp; khắc phục cơ chế “xin - cho”; tăng cường công tác phối hợp, bảo đảm
thông tin thông suốt; hạn chế tình trạng đùn đẩy công việc. Trên cơ sở những kết
quả về cải cách thủ tục hành chính như là tiền đề, là điều kiện bảo đảm tiếp tục
triển khai thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của công
dân, tổ chức - bước đột phá trong đổi mới phương thức, lề lối làm việc của cơ
quan hành chính nhà nước các cấp.
- Thông qua rà soát thủ tục hành chính
tiếp tục phát hiện những bất hợp lý trong quy định về chức năng, nhiệm vụ và cơ
cấu tổ chức của các cơ quan trong bộ máy hành chính, lấy đó làm căn cứ quan trọng
để điều chỉnh nội dung chức năng, nhiệm vụ, điều chỉnh sự phân công phân cấp
cũng như sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối.
- Thông qua quá trình cải cách thủ tục
hành chính, đổi mới quy trình, lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà
nước, một mặt làm tăng nhu cầu, đòi hỏi, mặt khác cũng tạo điều kiện để nâng
cao năng lực, trình độ, kỹ năng chuyên môn, trước hết là kỹ năng hành chính và
trách nhiệm thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Cải cách thủ tục hành chính gắn liền
với việc mở rộng tính công khai, minh bạch của các quyết định hành chính tạo điều
kiện để nhân dân và các doanh nghiệp - các đối tượng quản lý kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan chuyên môn và cán bộ, công chức với tư cách là những
chủ thể quản lý. Chính yếu tố này góp phần hạn chế và ngăn ngừa những biểu hiện
tiêu cực, tham nhũng, thờ ơ, vô trách nhiệm trong việc thực thi công vụ.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính để tác
động trực tiếp đến việc đổi mới quy trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước,
trong đó có quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà trước hết là gắn mục
tiêu quy định với điều kiện bảo đảm tính khả thi, chú ý xử lý mối quan hệ giữa
nội dung và hình thức giữa đặc điểm đặc thù của pháp luật nước ta và những vấn
đề mang tính thông lệ chung....
- Làm sao để quá trình cải cách không
còn chỉ dừng lại ở những biện pháp tình thế, vướng đâu gỡ đó, cần đẩy mạnh
nghiên cứu đề xuất những giải pháp toàn diện, cơ bản để có thể giải quyết tận gốc
những nguyên nhân sâu xa làm phát sinh những bất hợp lý cả về nội dung và hình
thức của các quy trình, thủ tục. Khắc phục khuynh hướng cải cách để nhằm tạo
thuận lợi cho cơ quan quản lý, cho người thực thi công vụ hơn là tháo gỡ cho
dân, cho doanh nghiệp.
- Cũng như cải cách hành chính nói
chung, việc rà soát, sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính phải hướng tới bảo đảm
tính đồng bộ. Đặc biệt là giữa cải cách thủ tục hành chính với cải cách thể chế,
cơ chế chính sách, đổi mới tổ chức bộ máy, điều chỉnh sự phân công phân cấp, đổi
mới lề lối làm việc, nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức....
Những nội dung nêu trên cần được triển
khai thực hiện theo tinh thần Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị
Trung ương 7 Khóa XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống
chính trị từ Trung ương đến cơ sở” với quan điểm là: “1) Đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị phải bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương
lĩnh, Điều lệ, văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung sửa đổi Hiến
pháp 1992; bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị,
xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới; 2) Đổi mới,
hoàn thiện đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng bộ với đổi mới
thể chế kinh tế, phù hợp với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể
lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao
trách nhiệm của người đứng đầu; 3) Về tổ chức bộ máy, không nhất thiết ở Trung
ương có tổ chức nào thì ở địa phương cũng có tổ chức đó. Căn cứ điều kiện cụ thể,
tiêu chí và quy định khung của Trung ương, địa phương có thể lập (hoặc không lập)
tổ chức sau khi được sự đồng ý của cấp trên có thẩm quyền. Về biên chế, cần
tăng cường kiêm nhiệm một số chức danh trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công;
4) Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cần thực hiện mạnh mẽ với
quyết tâm chính trị cao. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi
thì kiên quyết thực hiện. Những vấn đề chưa đủ rõ thì khẩn trương nghiên cứu,
làm thí điểm và tổng kết thực tiễn để làm rõ, có bước đi thích hợp, không nóng
vội, chủ quan, duy ý chí. Những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực tiễn khẳng
định là không phù hợp thì điều chỉnh, sửa đổi ngay”.
Những đổi mới, hoàn thiện hệ thống
chính trị từ Trung ương đến cơ sở theo quan điểm nêu trên là nhằm mục tiêu:
“xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao,
đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu nhập bảo
đảm cuộc sống”.
Đối với chính quyền địa phương cần “sớm
hoàn thành quy hoạch để bảo đảm cơ bản giữ ổn định số lượng đơn vị hành chính cấp
tỉnh, huyện, xã. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện theo
hướng quy định khung các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Chính phủ, địa
phương có thể lập (hoặc không lập) cơ quan, tổ chức đặc thù sau khi được sự đồng
ý của cấp có thẩm quyền. Rà soát, điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo, không
rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện, giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện với các sở, ngành cấp tỉnh.
Nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền
đô thị và chính quyền nông thôn). Bộ Chính trị chỉ đạo thực hiện thí điểm mô
hình chính quyền đô thị; hướng dẫn tổ chức đảng và chính quyền phù hợp với các
địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo....
Sớm tổng kết việc thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường để có chủ trương thực hiện
trong thời gian tới. Thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Hội
đồng nhân dân các cấp; Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp
xã, cấp huyện đối với những nơi có đủ điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí một
số chức danh cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương.
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phù hợp với tình hình thực tiễn
và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Quy định dưới xã, phường, thị trấn là thôn, tổ dân phố
và tương đương (có quy mô phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi), chủ
yếu hoạt động theo hình thức tự quản của cộng đồng dân cư, hạn chế tối đa việc
sử dụng kinh phí từ ngân sách. Thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho các tổ chức
chính trị - xã hội ở cấp xã, thôn, tổ dân phố và tương đương bảo đảm phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương.
Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, Kết luận nêu rõ: “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng công tác; kết hợp
việc đào tạo, bồi dưỡng với thực hiện luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp
chiến lược ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước. Gắn chính sách tinh giản biên chế
với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia,
chính sách thu hút người tài vào làm việc trong cơ quan của hệ thống chính trị;
thu hút cán bộ trẻ, có trình độ đại học về công tác ở cơ sở; chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên ưu tú ở địa phương
bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Thực hiện thi tuyển các chức danh
quản lý ở Trung ương (đến cấp Vụ trưởng) và ở địa phương (đến cấp Giám đốc sở)
và tương đương. Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất
lượng thi tuyển công chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh; quan
tâm đào tạo cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc. Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn
bằng cấp đối với cán bộ, công chức theo hướng thiết thực, tránh hình thức và
phù hợp với thực tế”.
Nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả cải
cách hành chính các sở cần tiến hành đánh giá và chấm điểm để xác định chỉ số cải
cách hành chính các sở, ban, ngành hàng năm theo quy trình, thủ tục, nội dung tự
đánh giá, chấm điểm đã được hướng dẫn. Chỉ số cải cách hành chính là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của
các sở.
Việc đánh giá và tính điểm tập trung
vào các mặt hoạt động sau đây của sở:
- Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách
hành chính, bao gồm:
+ Kế hoạch cải cách hành chính năm.
+ Báo cáo cải cách hành chính.
+ Kiểm tra công tác cải cách hành
chính.
+ Công tác tuyên truyền về cải cách
hành chính.
+ Sự năng động trong chỉ đạo, điều
hành cải cách hành chính.
+ Kết quả chỉ đạo, điều hành cải cách
hành chính của cơ quan.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật của tỉnh
+ Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
của tỉnh.
+ Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản
quy phạm pháp luật theo kế hoạch của tỉnh.
+ Tổ chức triển khai thực hiện văn bản
do tỉnh, Trung ương ban hành.
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
chính sách, pháp luật thuộc phạm vi quản lý của sở, ngành.
- Cải cách thủ tục hành chính
+ Rà soát, đánh giá, cập nhật thủ tục
hành chính.
+ Công khai các thủ tục hành chính.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước
+ Tuân thủ và thực hiện các quy định của
Chính phủ, các bộ về tổ chức bộ máy.
+ Kiểm tra tình hình tổ chức và hoạt động
của các đơn vị trực thuộc.
+ Thực hiện phân cấp quản lý.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức
+ Xác định cơ cấu công chức, viên chức
theo vị trí việc làm.
+ Tuyển dụng và bố trí sử dụng công chức,
viên chức.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức.
+ Đổi mới công tác quản lý công chức,
viên chức.
+ Chất lượng công chức, viên chức.
- Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập
+ Thực hiện cơ chế khoán biên chế và
kinh phí hành chính tại sở, ngành.
+ Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc.
- Hiện đại hóa hành chính
+ Ứng dụng công nghệ thông tin.
+ Chất lượng cung cấp thông tin trên cổng
thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan.
+ Áp dụng ISO trong hoạt động của các
cơ quan hành chính.
- Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông
+ Việc giải quyết thủ tục hành chính tại
bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
+ Điều kiện đảm bảo cho hoạt động của
bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
+ Chất lượng phục vụ tại bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả.
2. Chức trách, nhiệm vụ của Giám đốc sở,
Phó Giám đốc sở và tương đương
a) Vị trí Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở
và tương đương:
Theo Nghị định của Chính phủ số
24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tại Điều 6 qui định:
“Người đứng đầu sở thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh (sau đây gọi chung là Giám đốc sở) chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và trước pháp luật về thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở”.
b) Chế độ làm việc của cơ quan chuyên
môn và trách nhiệm của Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở và tương đương:
- Sở thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
làm việc theo chế độ Thủ trưởng và theo quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Căn cứ các quy định của pháp luật và
phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở ban hành Quy chế làm việc của
sở và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy định đó.
- Giám đốc sở chịu trách nhiệm trước Ủy
ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và các
công việc được Ủy ban nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân công hoặc
ủy quyền. Không chuyển công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình lên Ủy ban
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đối với những vấn đề vượt quá thẩm
quyền hoặc đúng thẩm quyền nhưng không đủ khả năng và điều kiện để giải quyết
thì Giám đốc sở phải chủ động làm việc với Giám đốc sở có liên quan để hoàn chỉnh
hồ sơ, trình Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết
định. Thực hành tiết kiệm chống lãng phí và chịu trách nhiệm khi để xảy ra tham
nhũng, gây thiệt hại trong tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của mình.
- Giám đốc sở có trách nhiệm báo cáo
trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Bộ, Cơ quan ngang Bộ
về tổ chức, hoạt động của cơ quan mình; báo cáo công tác trước Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi có yêu cầu; cung cấp tài liệu cần thiết
theo yêu cầu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; trả lời kiến nghị của cử tri, chất
vấn của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh về những vấn đề trong phạm vi
ngành, lĩnh vực quản lý; phối hợp với các Giám đốc sở khác, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội, các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ
của sở.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm cấp trưởng và
phó của cấp trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc theo quy định.
c) Nhiệm vụ của Giám đốc sở, Phó Giám
đốc sở và tương đương:
- Trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
+ Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy hoạch,
kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản
lý nhà nước được giao;
+ Dự thảo văn bản quy định cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở;
+ Dự thảo văn bản quy định cụ thể điều
kiện, tiêu chuẩn, chức danh đối với Trưởng, Phó các đơn vị thuộc sở; Trưởng,
Phó trưởng phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) trong phạm vi
ngành, lĩnh vực quản lý.
- Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
+ Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập,
chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị của sở theo quy định của pháp luật;
+ Dự thảo quyết định, chỉ thị cá biệt
thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền,
hướng dẫn, phổ biến, giáo dục, theo dõi thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý nhà nước được giao.
- Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm
về giám định, đăng ký, cấp giấy phép, văn bằng, chứng chỉ thuộc phạm vi trách
nhiệm quản lý của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh theo quy định của pháp luật và
theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản
lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
các hội và các tổ chức phi chính phủ thuộc các lĩnh vực quản lý của cơ quan
chuyên môn theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về ngành,
lĩnh vực quản lý và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
ngành, lĩnh vực quản lý đối với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp
huyện và chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật và công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ
công tác quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ.
- Kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh
vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng
theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
- Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của văn phòng, phòng chuyên môn nghiệp vụ, chi cục và các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc sở, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở theo hướng
dẫn chung của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế
công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức
danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập; thực
hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật đối với công chức, viên chức và lao động thuộc phạm vi quản lý
theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
- Quản lý và chịu trách nhiệm về tài
chính được giao theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Thực hiện công tác thông tin, báo
cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao với Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
- Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban
nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao và theo quy định của pháp luật.
d) Tiêu chuẩn của Giám đốc sở, Phó
Giám đốc sở và tương đương:
Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014
của Chính phủ giao cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “Ban hành cụ thể
tiêu chuẩn chức danh Giám đốc, Phó giám đốc Sở theo ngành, lĩnh vực quản lý”. Trước
mắt, họ cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Theo quy định pháp lý
Tùy theo tính chất chuyên môn của sở,
tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của Giám đốc sở, Phó Giám đốc sở và tương đương
có thể khác nhau, tuy nhiên về tổng thể cần đạt những tiêu chuẩn sau đây:
+ Hiểu biết, năng lực:
● Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
đã ban hành về các lĩnh vực công tác của sở và các lĩnh vực khác có liên quan;
● Nắm vững tình hình và định hướng
phát triển trong các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý nhà nước của ngành tại địa
phương;
● Có năng lực tổ chức, quản lý, điều
hành các hoạt động của sở để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quản lý nhà nước
ngành được giao trên địa bàn tỉnh;
● Có khả năng xử lý, tổ chức thực hiện
và đề xuất các văn bản quy phạm pháp luật, các giải pháp kinh tế - kỹ thuật,
chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của ngành tại địa
phương.
+ Về chuyên môn, nghiệp vụ:
● Tốt nghiệp đại học trở lên một trong
các chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực quản lý của sở;
● Đạt tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch
chuyên viên chính trở lên.
+ Về chính trị: Có trình độ lý luận
chính trị cao cấp hoặc tương đương;
+ Về ngoại ngữ: Có khả năng sử dụng
thành thạo ít nhất một ngoại ngữ thông dụng ở trình độ C. Riêng đối với các tỉnh
miền núi có dân tộc thiểu số, phải biết ít nhất tiếng của một dân tộc thiểu số
tại địa phương (thay cho ngoại ngữ).
+ Về kinh nghiệm quản lý:
● Đã từng giữ ít nhất một trong các chức
vụ quản lý phù hợp ở cấp thấp hơn;
● Tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 55
tuổi đối với nam và không quá 50 tuổi đối với nữ.
Thông qua đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ
Giám đốc sở từng bước được nâng cao về cơ cấu, phẩm chất chính trị, trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức bổ trợ khác. Đặc biệt tỷ lệ cán
bộ nữ là Giám đốc sở cũng ngày càng tăng lên đáng kể. Hầu hết đó là các cán bộ,
công chức vững vàng về chính trị, giữ vững phẩm chất đạo đức, chủ động sáng tạo,
phát huy được vai trò trách nhiệm, đạt hiệu quả cao trong công tác. Tuy nhiên,
yêu cầu công việc và thực tế quản lý ngày càng đòi hỏi họ phải luôn luôn được
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ quản lý.
- Theo yêu cầu công việc
Rèn luyện các phẩm chất tâm lý cá nhân
của người lãnh đạo, quản lý như:
+ Nhóm phẩm chất đạo đức, tâm lý của
nhà quản lý:
● Có tâm, có nhân;
● Có chí tiến thủ;
● Tự tin: dám dùng quyền lực, chịu
trách nhiệm cá nhân, dám dùng người giỏi hơn mình trên một lĩnh vực nào đó và
biết bảo vệ họ;
● Biết khen, chê, thưởng, phạt đúng
lúc, đúng mức;
● Có uy tín.
+ Nhóm phẩm chất quan hệ của nhà quản
lý:
● Thiện chí, vị tha, cảm thông;
● Có khả năng tạo ra tính đồng đội, hợp
tác gắn bó trong cơ quan;
● Nghiêm khắc, đúng đắn, các hành vi đều
có căn cứ;
● Niềm nở, lịch sự, có khả năng hội nhập
và quan hệ với nước ngoài;
● Theo dõi, quan tâm đến người dưới
quyền;
● Tập hợp được những chuyên viên giỏi
và tích cực.
+ Nhóm nhiệm vụ của người quản lý:
● Định hướng công việc và vạch kế hoạch
triển khai có khoa học;
● Là người nhiệt tình nhất;
● Dũng cảm thừa nhận sai lầm và sửa chữa
sai lầm;
● Tính hiệu quả.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy cho biết năng lực và
phẩm chất của lãnh đạo cấp sở và tương đương trong quản lý hành chính.
2. Đồng chí hãy phân tích những yếu tố
tác động đến hiệu quả thực thi công vụ của lãnh đạo cấp sở và tương đương.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày
18/6/1997 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ
nay đến năm 2020.
3. Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NXB
Khoa học xã hội, H 2001.
4. Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Bùi Xuân Đức. Tổ chức chính quyền địa
phương giai đoạn các Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 và những bài học kinh
nghiệm, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam - Sự hình thành, phát triển
trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh nghiệm,
2011.
6. Nguyễn Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh (Chủ
biên): Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành chính. NXB Thống kê, Hà Nội, 1999.
7. PGS.TS. Trương Đắc Linh. Từ hai sắc
lệnh số 63/SL và số 77/SL năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đến các
bản Hiến pháp, pháp luật về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và vấn đề đổi
mới hiện nay, Hội thảo chính quyền địa phương Việt Nam - Sự hình thành, phát
triển trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật qua các thời kỳ và một số bài học kinh
nghiệm, 2011.
8. Mary Albright, Clay Carr. Cạm bẫy
trong quản lý. NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011.
9. Lorin Woolfe: Kinh thánh về nghệ
thuật lãnh đạo. NXB Tri thức, Hà Nội, 2006.
10. Trercasov. A. Quản lý địa phương -
Lý thuyết và thực tiễn. Mát-cơ-va, 1998./.
Chuyên đề 3
XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA LÃNH ĐẠO CẤP SỞ VÀ TƯƠNG
ĐƯƠNG
1. Lãnh đạo, quản lý trong hành chính
nhà nước
a) Khái niệm:
- Lãnh đạo
Có rất nhiều quan niệm về “lãnh đạo”
cũng như về “quản lý”, tùy thuộc vào mỗi tác giả nhìn chúng từ góc độ nào hoặc
căn cứ vào đối tượng nào. Ví dụ, định nghĩa truyền thống về “lãnh đạo” cho rằng
“Lãnh đạo là sự ảnh hưởng giữa mọi người để hướng tới thực hiện một hoặc nhiều mục
đích”; trong đó:
● Ảnh hưởng: là khả năng chi phối người
khác.
● Giữa mọi người: để là người lãnh đạo
phải có nhiều người (một nhóm) để lãnh đạo.
● Mục đích: là cái mà một người (một tổ
chức) cố gắng để đạt được.
Một số tác giả khác cho rằng:
“Lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng tới
những hoạt động của nhóm có tổ chức để đạt tới mục tiêu” (Rauch và Behling,
1984);
“Lãnh đạo là sự ảnh hưởng đến cá nhân
một cách trực tiếp nhằm đạt mục tiêu” (Marianne - Đan Mạch, 2004).
“Lãnh đạo là người có khả năng khiến
cho mọi người làm những việc mà họ không muốn và không thích làm” (Harrry
Truman, nguyên Tổng thống thứ 33 của Hoa kỳ, 1945 - 1953).
“Lãnh đạo là người, bạn có thể đi theo
tới một nơi mà bạn không thể tự mình đến nơi đó được” (Joel Barker - Nhà Hành
chính học Mỹ, 2009).
“Lãnh đạo là người đề ra mục tiêu và dẫn
dắt mọi người đi theo mục tiêu đó” (Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan,
2013);....
Những quan niệm về lãnh đạo luôn có điểm
chung là nó bao hàm sự tương tác giữa hai hay nhiều người, bao gồm quá trình ảnh
hưởng khi sự ảnh hưởng có mục đích được thực hiện bởi người lãnh đạo với người
dưới quyền. Sự khác nhau giữa các cá nhân với nhau trong lãnh đạo được xác định
bởi những đặc điểm của nhân cách và bởi nhiệm vụ cụ thể (hay chức năng lãnh đạo)
mà cá nhân thực hiện.
Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, có thể
thấy rằng: “Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và tác động tới con người và
tổ chức; là đưa ra những chủ trương, phương hướng phát triển tổ chức nhằm thực
hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn, phù hợp với yêu cầu
và điều kiện trong các giai đoạn đó”.
Các hoạt động cơ bản của lãnh đạo, gồm:
● Chỉ đạo: Cung cấp các chỉ dẫn và
giám sát việc hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức ở mức độ cao nhất.
● Gợi ý: Hướng dẫn, giải thích các quyết
định, vạch ra hướng tác nghiệp và giám sát cán bộ, công chức thực hiện.
● Hỗ trợ - động viên: Tạo điều kiện
thuận lợi về mọi mặt cho các cố gắng của cán bộ, công chức nhằm hoàn thành nhiệm
vụ và chia sẻ trách nhiệm với họ trong việc lựa chọn quyết định, tạo cho họ cơ
hội để thỏa mãn cao nhất trong công việc.
● Đôn đốc: Thúc đẩy cán bộ, công chức
hoàn thành công việc.
● Làm gương trong mọi sự thay đổi.
● Ủy quyền: Trao trách nhiệm, trao quyền
quyết định và giải quyết vấn đề ở một mức độ nhất định cho cán bộ, công chức.
Cùng với những hoạt động ở trên, tính
chất cơ bản của người lãnh đạo là gây ảnh hưởng (người lãnh đạo gây ảnh hưởng bởi
ba loại “quyền lực”: Địa vị, kiến thức và nhân cách, trong đó hai quyền lực sau
có sức hấp dẫn đích thực với những người khác hơn loại quyền lực thứ nhất và
truyền cảm hứng cho cấp dưới, tạo niềm tin cho người khác). Từ đó, nội dung
lãnh đạo thường được thể hiện bởi:
+ Tầm nhìn: khả năng nhìn bức
tranh tổng thể và xây dựng kế hoạch hành động để đạt được các mục tiêu. Bất kỳ
một nhà lãnh đạo giỏi nào cũng có định hướng tốt về mục tiêu và có khả năng đưa
ra mục tiêu đó. Một người có tầm nhìn là người có các ý tưởng và kế hoạch phù hợp
với sự vận động và phát triển của thực tiễn.
+ Chủ trương: Chủ trương là cái
liên kết mọi người với nhà lãnh đạo, là cái mà trong một nhà lãnh đạo hiệu quả
thì luôn đi cùng với tầm nhìn.
+ Sự trung thực và tin cậy: Đó
là điều kiện cần để trở thành người lãnh đạo.
+ Sự bình dị: Những nhà lãnh đạo
thành công nhất là những người xem bản thân như là người hỗ trợ cho nhân viên của
mình chứ không phải là người buộc nhân viên làm việc cho mình.
+ Bình tĩnh: Đó là một trong những
tố chất của người lãnh đạo.
+ Rõ ràng: Những lãnh đạo thực
sự biết cách làm sáng tỏ vấn đề. Họ không làm cho nó trở nên phức tạp.
+ Tự chủ: Những nhà lãnh đạo
thành công nhất biết họ là ai và sẽ không “cố gắng uốn mình” để trở thành những
người không phải là họ.
- Quản lý
Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt
quan trọng của con người. Quản lý chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng phức tạp
và luôn vận động, biến đổi, phát triển. Vì vậy, khi nhận thức về quản lý, có
nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau:
F.W. Taylor (1856 - 1915), là một trong
những người đầu tiên khai sinh ra khoa học quản lý và là “ông tổ” của trường
phái “quản lý theo khoa học”, tiếp cận quản lý dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật
đã cho rằng: Quản lý là hoàn thành công việc của mình thông qua người khác và
biết được một cách chính xác họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất.
“Quản lý là nghệ thuật hoàn thành công
việc thông qua những người khác” (Mary Parker Follett, 1936).
“Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức, sử dụng
các nguồn lực sẵn có để đạt được các mục tiêu của tổ chức” (Stoner, 1995).
Paul Hersey và Ken Blanc Harh tiếp cận quản
lý theo tình huống quan niệm rằng, không có một phương thức quản lý và lãnh đạo
tốt nhất cho mọi tình huống khác nhau. Người quản lý sẽ lựa chọn phương pháp quản
lý căn cứ vào tình huống cụ thể. Nhìn chung, quản lý có liên quan tới quá trình
hoạt động và đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Quản lý còn là tác động tương hỗ của
chủ thể và đối tượng quản lý để duy trì được năng suất của người lao động, các điều
kiện làm việc tối ưu, tận dụng tối đa các nguồn lực thông qua các quy trình,
phương pháp, công đoạn quản lý nhằm hướng tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức;
đồng thời quản lý cũng bao gồm việc dự đoán các vấn đề và giải quyết được các vấn
đề đó.
Sơ đồ 1: Quá
trình quản lý
Như vậy: “Quản lý là sự tác động có
ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức trong điều kiện
môi trường biến đổi”.
Từ định nghĩa này có thể thấy rằng:
● Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa
con người với con người, đó là quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản
lý;
● Quản lý là tác động có ý thức;
● Quản lý là tác động bằng quyền lực;
● Quản lý là tác động theo quy trình;
● Quản lý là phối hợp các nguồn lực;
● Quản lý nhằm thực hiện mục tiêu
chung;
● Quản lý tồn tại trong một môi trường
luôn biến đổi.
Quản lý là một hệ thống bao gồm những
nhân tố cơ bản: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ,
phương tiện quản lý, cách thức quản lý (có ý thức, bằng quyền lực, theo quy
trình) và môi trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau
để hình thành nên quy luật và tính quy luật quản lý.
- Phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý
Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm
đôi khi dễ gây nhầm lẫn. Khi chưa hiểu bản chất của mỗi khái niệm này có thể
cho rằng chúng gần nghĩa với nhau, đều muốn nói đến công việc, hay vai trò của
người đứng đầu. Giữa lãnh đạo và quản lý có những điểm chung nhưng cũng có những
nội dung khác nhau. Thông thường người ta phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý dựa
trên một số cơ sở sau:
+ Nếu xét về mặt đối tượng thì đối tượng
của quản lý có thể là đồ vật, con vật và con người. Song đối tượng của lãnh đạo
thì chỉ là con người;
+ Nếu xét về mặt chức năng quản lý là
sự gìn giữ và phát triển thông qua quá trình: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
huy, điều phối (định hướng) và kiểm soát; còn lãnh đạo là sự điều khiển hoạt
động chung và điều chỉnh các mối quan hệ trong tổ chức, liên quan đến sự
thay đổi, truyền cảm hứng, tạo động cơ và gây ảnh hưởng;
+ Xét về mặt phương pháp thì người quản
lý chủ yếu dùng phương pháp hành chính để điều hành, tuy nhiên họ vẫn dùng cả phương
pháp thuyết phục và giáo dục; còn người lãnh đạo chủ yếu dùng phương pháp thuyết
phục và giáo dục.
Từ những cơ sở trên ta thấy:
+ Quản lý:
● Giữ cho hệ thống tổ chức hoạt động
trơn tru;
● Dự báo và ra lệnh;
● Đạt kết quả công việc theo mục tiêu;
● Các mục tiêu: Lập kế hoạch và dự trù
ngân sách, kiểm soát và giải quyết vấn đề;
● Con người: Tổ chức và bố trí nhân sự;
● Văn hóa: sống cùng (củng cố, phát
triển nó).
+ Lãnh đạo:
● Phát triển tổ chức và xác định tương
lai cho tổ chức;
● Tạo ra sự thay đổi để phát triển tổ
chức theo mục tiêu;
● Các mục tiêu: Thiết lập phương hướng,
tạo động cơ và gây cảm hứng;
● Con người: liên kết con người;
● Văn hóa: tạo ra văn hóa.
Giữa lãnh đạo và quản lý có những điểm
phân biệt như trên, từ đó có thể tóm tắt một số đặc trưng so sánh giữa một nhà
lãnh đạo và một nhà quản lý như Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1: So sánh giữa người quản lý và
người lãnh đạo
Người quản
lý
|
Người lãnh
đạo
|
Làm việc theo đúng cách
|
Làm đúng công việc
|
Xác định được các mục tiêu rõ
|
Có tầm nhìn, xác định được viễn cảnh
|
Chỉ đạo và kiểm soát cấp dưới
|
Gây cảm hứng và tạo cam kết
|
Thực hiện quyền lực (từ trên xuống
dưới)
|
Thực hiện ảnh hưởng (chiều dọc và
chiều ngang)
|
Có tính phân tích
|
Có tính đổi mới
|
Tập trung vào việc duy trì, phát triển
|
Tập trung vào sự thay đổi
|
Hướng vào nhiệm vụ
|
Hướng vào con người
|
Thích ổn định
|
Thích thay đổi
|
Sử dụng vị thế
|
Sử dụng uy tín/sức lôi cuốn
|
Lập kế hoạch đi tới đích
|
Tạo tầm nhìn và mục tiêu
|
Một số quan niệm khác về sự khác nhau
giữa nhà lãnh đạo và nhà quản lý, ví dụ John Kotter (Mỹ) cho rằng giữa nhà lãnh
đạo và nhà quản lý được phân biệt bởi những nội dung sau:
+ Một nhà quản lý:
● Đối phó với tình huống phức tạp;
● Lập kế hoạch hoạt động và ngân sách;
● Tổ chức công việc cho nhân viên;
● Kiểm soát và giải quyết vấn đề.
+ Một nhà lãnh đạo:
● Đối phó với sự thay đổi;
● Đề ra hướng đi;
● Sắp xếp nhân sự phù hợp;
● Động viên, thúc đẩy mọi người.
Theo Joseph C. Rost (Mỹ, 2008), quản
lý là nói về quyền hạn, còn lãnh đạo là nói về ảnh hưởng. Các nhà quản lý có
quyền hạn để thực thi công việc. Họ có thể đạt được điều đó bằng sức mạnh (chế
độ thưởng - phạt), sử dụng cương vị của mình. Nhưng những nhà quản lý làm lãnh
đạo lại đạt được các mục tiêu của họ thông qua ảnh hưởng. Ảnh hưởng có được từ
niềm tin của những người khác - nhờ khả năng chuyên môn, tính toàn vẹn và hiểu
người. Ảnh hưởng tối đa thuộc về những người mạnh cả ba lĩnh vực này. Sử dụng
những người giỏi, tạo một môi trường làm việc hợp tác và tinh thần làm chủ,
quan tâm đến tình cảm của nhân viên, tất cả điều đó thực sự cần cái “tâm” của
người lãnh đạo.
Do quan niệm về lãnh đạo và quản lý
chưa thống nhất nên sự phân biệt về nhà lãnh đạo, nhà quản lý cũng không giống
nhau. Quản lý và lãnh đạo khác biệt nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau.
Lãnh đạo và quản lý thuộc hai tầng hoạt động khác nhau song chúng lại có quan hệ
mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo tập trung vào việc đưa ra quyết
sách, xác định tầm nhìn, mục tiêu, vạch ra chính sách tương ứng và động viên,
khuyến khích người dưới quyền,.... Còn quản lý tập trung giữ vững và tăng cường
hoạt động của tổ chức để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo đã xác định.
Họ được phân biệt bởi một số tiêu chí chính như: mục tiêu, đối tượng, phương
pháp, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, đặc điểm tổ chức và một số yếu tố khác.
Tuy còn nhiều quan điểm khác nhau về
lãnh đạo và quản lý; nhưng người lãnh đạo cần có các kỹ năng quản lý và người
quản lý cần có các kỹ năng lãnh đạo. Người lãnh đạo giỏi trước hết phải là nhà
quản lý giỏi; nhưng người quản lý giỏi không nhất thiết phải là nhà lãnh đạo giỏi.
Người lãnh đạo xây dựng tầm nhìn và truyền cảm hứng cho những người đi theo
mình; còn nhà quản lý chỉ đạo cấp dưới và ra các quyết định. Người lãnh đạo
giúp chúng ta biết đi đâu, còn người quản lý giúp chúng ta đi đến đích bằng
cách nào.
- Lãnh đạo, quản lý trong hành chính
nhà nước
Lãnh đạo cấp sở là trung tâm của toàn bộ
hệ thống quản lý hành chính nhà nước thẩm quyền riêng từ sở trở xuống; đồng thời
cũng là trung tâm chỉ huy sự vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy này. Các
thông tin và yêu cầu quản lý đều được tập hợp từ ngoài vào trong, từ dưới lên
trên, sau khi phân tích xử lý, hình thành quyết sách rồi được truyền đạt từ
trong ra ngoài, từ trên xuống dưới để bên dưới thực hiện (cá nhân và tổ chức trực
thuộc sở).
Đứng dưới góc độ hành chính học, người
lãnh đạo cấp sở và tương đương (sau đây gọi tắt là cấp sở) trong các cơ quan
hành chính nhà nước có một số đặc điểm sau:
● Là người đứng đầu cấp sở có những ưu
thế nổi trội so với các thành viên khác (về quyền lực, uy tín cá nhân, về năng
lực, đạo đức...);
● Người lãnh đạo cấp sở là người được
bổ nhiệm bởi cơ quan có thẩm quyền theo những thủ tục pháp lý nhất định;
● Chịu sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố
chính trị trong quan điểm, hành động;
● Là người định hướng, xác định chiến
lược, mục tiêu của tổ chức; chuyển những mục tiêu của tổ chức thành những mục
tiêu, động lực, hành động cụ thể của mỗi cán bộ, công chức;
● Được pháp luật trao cho những nhiệm
vụ, quyền hạn nhất định (thẩm quyền theo thứ bậc trong hệ thống hành chính);
● Có quyền tác động đến những người dưới
quyền;
● Là người đại diện cho tổ chức trong
quan hệ chính thức với các tổ chức khác;
● Chịu trách nhiệm trước luật pháp về
tình hình thực hiện nhiệm vụ của cấp sở (tuân thủ pháp luật, chịu sự ràng buộc
của pháp luật), đề ra các chuẩn mực, quy định, nguyên tắc bất thành văn... hướng
các thành viên thực thi đúng pháp luật.
Có tác giả ở phương Tây cho rằng “Người
lãnh đạo là người ảnh hưởng tới sự tích cực, nhiệt tình của người dưới quyền,
còn người quản lý là người chủ yếu thực hiện trách nhiệm vị trí của anh ta, là
người tổ chức thực thi công việc bằng các nguồn lực của tổ chức sao cho hiệu quả”.
Ở nước ta, trong điều kiện cụ thể có thể thấy: Lãnh đạo cấp sở là những người
giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong hệ thống hành chính nhà nước, họ vừa định
hướng, đặt mục tiêu (lãnh đạo), vừa là người thực hiện (quản lý); không có việc
nào là riêng của người lãnh đạo, việc nào là riêng của người quản lý; có nghĩa
là họ có cả hai vai, vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý.
Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý cấp
sở có thể được biểu diễn ở sơ đồ 2 dưới đây.
Sơ đồ 2: Mối
quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý
- Các yêu cầu về năng lực của người
lãnh đạo, quản lý:
+ Năng lực về chuyên môn;
+ Năng lực về quan hệ giữa con người với
con người;
+ Năng lực nhận thức, dự đoán (phát
triển tầm nhìn).
Những năng lực này sẽ thay đổi khi người
lãnh đạo, quản lý phát triển lên địa vị cao hơn. Càng ở vị trí cao, đòi hỏi
năng lực nhận thức, dự đoán của người lãnh đạo, quản lý càng phải cao; còn về
chuyên môn đã có các nhà tham mưu giúp.
b) Các chức năng quản lý:
- Chức năng lập kế hoạch
Lập kế hoạch là tổng thể các hoạt động
liên quan tới đánh giá, dự đoán dự báo và huy động các nguồn lực để xây dựng
chương trình hành động tương lai cho tổ chức; nó là chức năng đặc biệt quan trọng
của quy trình quản lý. Nó có ý nghĩa tiên quyết đối với hiệu quả của hoạt động
quản lý. Tất cả các nhà quản lý và tất cả các lĩnh vực quản lý đều phải thực hiện
việc lập kế hoạch. Do vậy, có thể cho rằng đây là một chức năng mang tính phổ
quát.
Lập kế hoạch là một quy trình gồm nhiều
bước (đánh giá, dự đoán - dự báo và huy động các nguồn lực); trọng tâm của lập
kế hoạch chính là hướng vào tương lai: Xác định những gì cần phải hoàn thành và
hoàn thành như thế nào. Về cơ bản, chức năng lập kế hoạch bao gồm các hoạt động
quản lý nhằm xác định mục tiêu trong tương lai những phương tiện thích hợp để đạt
tới những mục tiêu đó. Kết quả của lập kế hoạch chính là bản kế hoạch, một văn
bản hay thậm chí là những ý tưởng xác định phương hướng hành động mà tổ chức sẽ
thực hiện.
Quan hệ giữa lập kế hoạch và kế hoạch
là quan hệ nhân - quả: kế hoạch là sản phẩm của quá trình lập kế hoạch. Vì vậy,
để có một kế hoạch đúng đắn và phù hợp thì quá trình lập kế hoạch phải coi là một
quá trình cần phải quản lý.
+ Nội dung các bước lập kế hoạch:
Có thể tiếp cận quy trình lập kế hoạch
theo các bước sau:
Bước 1: Đánh giá thực trạng các nguồn
lực
Bước 2: Dự đoán - dự báo
Bước 3: Xác định mục tiêu
Bước 4: Xây dựng các phương án
Bước 5: Đánh giá các phương án
Bước 6: Lựa chọn phương án
Bước 7: Xây dựng các kế hoạch bổ trợ
Bước 8: Chương trình hóa tổng thể
- Chức năng tổ chức
Chức năng tổ chức là một trong những
chức năng quan trọng của quy trình quản lý. Mục đích của chức năng tổ chức là
nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ kịp thời số lượng và chất lượng nhân lực, phối hợp
các nỗ lực thông qua việc thiết kế một cơ cấu tổ chức hợp lý và các mối quan hệ
quyền lực. Nội dung cơ bản của chức năng tổ chức là thiết kế bộ máy, phân công
công việc và giao quyền.
Chức năng tổ chức hướng đến việc phân
chia những nhiệm vụ chung thành những công việc cụ thể cho từng bộ phận với những
quyền hạn tương ứng. Với hàm nghĩa này, chúng ta có thể hiểu chức năng tổ chức
là sự phân chia các nhiệm vụ thành những công việc, trao quyền hạn, xác định những
nguyên tắc thích hợp cho các bộ phận và quyết định quy mô thích hợp cho từng bộ
phận.
- Chức năng lãnh đạo
Chức năng lãnh đạo trong quản lý được
xác định như là một quá trình tác động đến con người, làm cho họ thực sự sẵn
sàng và nhiệt tình phấn đấu để hoàn thành những mục tiêu của tổ chức.
Các công việc quản lý sẽ không hoàn
thành tốt nếu các nhà quản lý không hiểu được yếu tố con người trong tổ chức và
không biết lãnh đạo động viên, khích lệ cán bộ công chức để đạt được mục tiêu
mong muốn.
- Chức năng kiểm soát
Kiểm tra, kiểm soát là một tiến trình
đo lường kết quả thực hiện so sánh với những điều đã được hoạch định, đồng thời
sửa chữa những sai lầm để đảm bảo việc đạt được mục tiêu theo như kế hoạch hoặc
các quyết định đã được đề ra.
Khi triển khai một kế hoạch, cần phải
kiểm tra, kiểm soát để dự đoán tiến độ, phát hiện sự chệch hướng khỏi kế hoạch
và đề ra biện pháp khắc phục. Trong nhiều trường hợp, kiểm tra, kiểm soát vừa tạo
điều kiện đề ra mục tiêu mới hình thành kế hoạch mới, cải thiện cơ cấu tổ chức
nhân sự và thay đổi kỹ thuật điều khiển.
Những công cụ kiểm tra, kiểm soát trong
quản lý là những tỷ lệ, tiêu chuẩn, con số thống kê và các sự kiện cơ bản khác,
có thể được biểu diễn bằng các loại hình đồ thị, biểu bảng nhằm làm nổi bật những
dữ kiện mà các nhà lãnh đạo, quản lý quan tâm.
Những biện pháp kiểm tra hiệu quả phải
đơn giản (càng ít đầu mối kiểm tra càng tốt) cần tạo sự tự do và cơ hội tối đa
cho người dưới quyền chủ động sử dụng kinh nghiệm, khả năng và tài quản lý của
mình để đạt kết quả cuối cùng mong muốn về những công việc được giao.
Sơ đồ 3: Tiến
trình kiểm tra
Nếu nhà lãnh đạo, quản lý biết xác định
tiêu chuẩn một cách thích hợp, đồng thời nắm vững kỹ thuật nhận định xem thực sự
cấp dưới đang làm gì, đang đứng ở chỗ nào thì sự việc đánh giá kết quả thực hiện
công việc tương đối dễ dàng.
Nếu các tiêu chuẩn được vạch ra một
cách thích hợp và nếu có các phương tiện để xác định một cách chính xác rằng cấp
dưới đang làm gì, các lãnh đạo, quản lý có thể đánh giá thành quả thực tế của
những nhân viên dưới quyền của họ. Tuy nhiên, sự đánh giá đó không phải bao giờ
cũng thực hiện được. Có nhiều hoạt động khó có thể nêu ra các tiêu chuẩn chính
xác và có nhiều hoạt động khó cho sự đo lường. Gặp trường hợp này, các nhà lãnh
đạo, quản lý thường dùng những tiêu chuẩn gián tiếp, ví dụ thái độ của báo chí
và công chúng đối với tổ chức, sự hài lòng của dân đối với lĩnh vực mà sở,
ngành phục vụ.
2. Phong cách lãnh đạo, quản lý
a) Đặc điểm, bản chất lao động của người
lãnh đạo, quản lý:
- Đặc điểm
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là một
hoạt động phức tạp và có tính chuyên biệt
Tính phức tạp của hoạt động quản lý được
quy định bởi đặc điểm của đối tượng quản lý, bởi tính tổng hợp của hoạt động quản
lý công quy định. Do vậy, người lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính
nhà nước ngoài kiến thức chuyên môn sâu cần có kiến thức toàn diện về: kinh tế,
tâm lý, xã hội....
Tính chất chuyên biệt thể hiện trong
yêu cầu về đào tạo người quản lý, lãnh đạo (phẩm chất, kiến thức, kỹ năng...),
với kiến thức sâu, rộng và đặc biệt quá trình tự đào tạo của mỗi nhà quản lý
đóng vai trò rất quan trọng để phát triển.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là hoạt
động gián tiếp
Hoạt động lãnh đạo, quản lý không trực
tiếp tạo ra của cải vật chất mà sản phẩm của hoạt động quản lý được đánh giá
qua sự phát triển của từng cá nhân, tập thể thông qua kết quả, hiệu quả hoạt động
của tập thể do người đó phụ trách. Tính chất đặc thù trong lao động của người
quản lý, lãnh đạo ở chỗ người quản lý, lãnh đạo giải quyết các nhiệm vụ về
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội chủ yếu thông qua các quyết định - là sản
phẩm hoạt động của các nhà lãnh đạo, quản lý; thông qua công tác tổ chức bằng
cách điều khiển, tác động tới con người và tổ chức.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là một dạng
hoạt động có tính sáng tạo cao
Thực tiễn các tình huống quản lý rất
đa dạng đòi hỏi chủ thể quản lý phải có năng lực sáng tạo, linh hoạt, không rập
khuôn. Đây là điều chủ yếu quyết định phương hướng tổ chức lao động và ra quyết
định của người lãnh đạo.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là hoạt
động căng thẳng hay thay đổi, tiêu phí nhiều năng lượng thần kinh và sức lực
Hoạt động quản lý đòi hỏi phải thường
xuyên nắm bắt, theo dõi công việc, giải quyết nhiều vấn đề trong những điều kiện
về thời gian, không gian về thông tin eo hẹp, có nhiều vấn đề phải giải quyết
trong cùng thời gian, đòi hỏi phải thay đổi tâm thế và tư duy. Có những công việc
phải suy nghĩ trong nhiều giờ, thậm chí nhiều tháng, nhiều năm.
- Bản chất
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là khoa
học
Hoạt động lãnh đạo, quản lý phải nhận
thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, nắm vững đối tượng, có thông tin đầy
đủ chính xác, có khả năng thực hiện. Hoạt động lãnh đạo, quản lý phải tuân theo
các quy luật khách quan, phải dựa trên những phương pháp quản lý khoa học và
trên những phương pháp quản lý cụ thể.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là nghệ
thuật
Nghệ thuật lãnh đạo là khả năng lãnh đạo
được xây dựng trên cơ sở tri thức và kinh nghiệm của người lãnh đạo. Đó là nghệ
thuật hoàn thành công việc thông qua người khác. Để thực hiện mục tiêu công
tác, người lãnh đạo khéo léo vận dụng quyền lực, ảnh hưởng đến người bị lãnh đạo
một cách có hiệu quả, điều chỉnh các mối quan hệ và mâu thuẫn; sử dụng các kỹ xảo,
thủ thuật và phương pháp để lãnh đạo.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý là một
nghề trong xã hội
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động
mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng
để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những
nhu cầu của xã hội.
Hoạt động quản lý là một nghề trong xã
hội được biểu hiện như sau:
● Có đối tượng cụ thể;
● Đòi hỏi có năng khiếu, say mê nghề
nghiệp;
● Có quá trình đào tạo, có tích lũy
kinh nghiệm;
● Sản phẩm của hoạt động lãnh đạo, quản
lý là các quyết định, nó có ảnh hưởng và tác động tích cực (nếu đúng đắn) và
tiêu cực (nếu sai) tới quá trình phát triển xã hội.
+ Hoạt động lãnh đạo, quản lý được tiến
hành chủ yếu thông qua hoạt động giao tiếp
Hoạt động giao tiếp có mặt ở tất cả
các khâu của hoạt động quản lý thông qua bằng lời nói hoặc không bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc thông qua người khác. Hoạt động giao tiếp quan trọng nhất là
bằng hình thức văn bản, ra các quyết định quản lý và chịu trách nhiệm về các
quyết định đó.
b) Phong cách lãnh đạo, quản lý
- Quan niệm về phong cách lãnh đạo, quản
lý
Phong cách lãnh đạo là một nhân tố
quan trọng của quản lý. Trong đó nó không chỉ thể hiện mặt khoa học và tổ chức
quản lý mà còn thể hiện tài năng và chí hướng của con người, nghệ thuật chỉ huy
của người quản lý, lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo là bộ mặt của tâm hồn, là
trang phục của tư duy, là sự thể hiện bản chất và tính cách của người lãnh đạo,
quản lý.
Bởi vậy, phong cách lãnh đạo là hệ thống
các phương pháp, cách thức hành động tương đối ổn định được người lãnh đạo, quản
lý sử dụng để tác động đến những người dưới quyền và ra quyết định xử lý các
tình huống nhằm đạt mục tiêu của tổ chức.
- Phân biệt phong cách, tác phong và
phương pháp lãnh đạo, quản lý
Khi nghiên cứu khái niệm phong cách quản
lý, lãnh đạo cần có sự phân biệt với một số khái niệm có liên quan.
+ Phong cách và tác phong
Tác phong là lối làm việc, sinh hoạt
hàng ngày của mỗi người, là thế giới quan và lời nói, biểu hiện thái độ thường
xuyên trong các hành vi học tập, công tác và sinh hoạt. Mỗi người đều có tác
phong riêng, đó là một hiện tượng hoàn toàn cụ thể, không thể lặp lại ở một người
nào khác một cách đầy đủ với mọi chi tiết; là sự thể hiện cụ thể của phong cách
trong công tác, trong hoạt động, trong sinh hoạt của người đó.
Sự khác biệt giữa phong cách và tác
phong thể hiện ở chỗ: tác phong là sự thể hiện của phong cách trong hoạt động
hàng ngày của mỗi cá thể, là một bộ phận của phong cách. Phong cách có tính xã
hội rộng hơn và tác phong mang tính cá nhân nhiều hơn.
+ Phong cách và phương pháp
Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng
của chủ thể để tiến hành một hành động nào đó. Phương pháp, một mặt mang tính
chủ quan, vì do con người tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng; nhưng mặt khác lại mang
tính khách quan vì nó gắn với đối tượng, khách thể mà con người muốn tác động bằng
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình; gắn với việc thực hiện
thông qua hoạt động cụ thể của những con người cụ thể với những phẩm chất,
trình độ khác nhau.
Phong cách lãnh đạo có mối quan hệ nhất
định và có sự tác động qua lại với phương pháp lãnh đạo, quản lý. Do vậy, cũng
không ít người không phân biệt được sự khác nhau giữa phong cách và phương
pháp.
Có hai phương pháp lãnh đạo hành
chính: phương pháp lãnh đạo cơ bản và phương pháp lãnh đạo hàng ngày.
● Phương pháp lãnh đạo cơ bản gồm:
Phương pháp xuất phát từ thực tế;
Phương pháp kết hợp lãnh đạo và quần
chúng;
Phương pháp điều tra nghiên cứu;
Phương pháp phân tích hệ thống.
● Phương pháp lãnh đạo hàng ngày gồm:
Phương pháp vận trù thời gian;
Phương pháp chủ trì hội nghị;
Phương pháp xử lý công văn.
+ Phong cách và cách thức
Cách thức là hình thức diễn ra một
hành động. Như vậy, cách thức là các biểu hiện ra bên ngoài của một hành động.
Phong cách có những nội dung bên trong và được thể hiện bằng các cách thức biểu
hiện ra bên ngoài.
+ Phong cách và tư cách
Tư cách là cách ăn ở, cư xử, biểu hiện
phẩm chất đạo đức của một người, là toàn bộ những điều mà xã hội yêu cầu đối với
một cá nhân cụ thể để cá nhân đó có thể được công nhận ở một vị trí, thực hiện
một chức năng xã hội nào đó.
- Bản chất, dấu hiệu phong cách lãnh đạo,
quản lý
Phong cách lãnh đạo, quản lý phản ánh
đặc điểm cá nhân người lãnh đạo, quản lý thông qua hệ thống các phương pháp
hành động tương đối ổn định và đặc trưng của họ khi xử lý các tình huống lãnh đạo.
Người lãnh đạo, quản lý hoạt động trong lĩnh vực nào sẽ có phong cách đặc trưng
cho lĩnh vực nghề nghiệp đó; ví dụ phong cách lãnh đạo hành chính khác với
phong cách lãnh đạo doanh nghiệp.
Phong cách lãnh đạo, quản lý không phải
là cái nhất thành bất biến mà luôn thay đổi, tùy thuộc vào tình huống lãnh đạo.
Thông thường, phong cách lãnh đạo, quản lý tồn tại ở dạng tiềm năng. Phong cách
lãnh đạo, quản lý không tự phát hình thành mà là một quá trình hình thành có định
hướng rõ rệt.
Phong cách lãnh đạo, quản lý có quan hệ
chặt chẽ với tình huống lãnh đạo, tình huống lãnh đạo được xem là những hoàn cảnh
có vấn đề nảy sinh trong quá trình lãnh đạo đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải
đưa ra các quyết định lựa chọn sử dụng các chiến lược gây ảnh hưởng phù hợp nhằm
thực hiện được mục tiêu đề ra.
Phong cách lãnh đạo, quản lý được biểu
hiện thông qua kiến thức và hành động trong công việc của người lãnh đạo, quản
lý. Đó là kiến thức chuyên môn, hiểu biết chính trị và khả năng sử dụng quyền lực
trong lãnh đạo, quản lý.
c) Phân loại phong cách lãnh đạo, quản
lý:
Có nhiều cách phân loại phong cách
lãnh đạo khác nhau, dưới đây là cách phân loại thường được sử dụng trong quản
lý hành chính nhà nước.
- Phong cách quyền uy
Là phong cách trong đó người lãnh đạo
trực tiếp ra các quyết định mà không cần tham khảo ý kiến của người dưới quyền.
Dấu hiệu của phong cách lãnh đạo quyền
uy: sử dụng nhiều quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đòi hỏi kết quả sớm.
- Phong cách dân chủ
Là phong cách trong đó người lãnh đạo
ra các quyết định trên cơ sở bàn bạc, trao đổi và tham khảo ý kiến cấp dưới.
Phong cách lãnh đạo này tạo cơ hội cho cấp dưới tham gia vào quá trình ra quyết
định quản lý bằng việc trưng cầu, tham khảo ý kiến cấp dưới.
Dấu hiệu của phong cách lãnh đạo dân
chủ: kết hợp sử dụng quyền lực của người lãnh đạo, quản lý với việc tôn trọng ý
kiến tập thể; cân nhắc ý kiến tập thể và thận trọng khi ra quyết định.
- Phong cách ủy quyền
Là phong cách trong đó người lãnh đạo
cung cấp thông tin và thu nhận kết quả; cho phép người dưới quyền ra các quyết
định riêng của mình. Người lãnh đạo theo phong cách này ít tham gia vào việc ra
các quyết định của tổ chức ở những loại việc đã ủy quyền.
Dấu hiệu của phong cách lãnh đạo: ít sử
dụng quyền lực, ít quan tâm đến quy trình công việc, ít kiểm tra, giám sát;
quan tâm đến kết quả đầu ra.
3. Xây dựng và phát triển phong cách
lãnh đạo, quản lý cấp sở và tương đương
a) Khái niệm và những thành tố cơ bản
tạo nên phong cách lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương:
- Khái niệm
Trên cơ sở lý luận đã đề cập ở hai mục
trên, có thể khái quát khái niệm phong cách lãnh đạo cấp sở và tương đương (sau
đây gọi tắt là cấp sở) như sau:
“Phong cách lãnh đạo, quản lý cấp sở
là hệ thống các phương pháp, cách thức hành động tương đối ổn định được người
lãnh đạo, quản lý cấp sở sử dụng để tác động đến những người dưới quyền và ra
quyết định xử lý các tình huống thuộc phạm vi thẩm quyền nhằm đạt mục tiêu phát
triển của sở”.
- Những thành tố cơ bản tạo nên phong
cách lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương:
+ Những thành tố chủ quan
● Phẩm chất tâm lý, nhân cách của người
lãnh đạo, quản lý cấp sở;
● Khả năng hiểu người, hiểu việc;
● Lấy người giao tiếp hiệu quả, nói đi
đôi với làm;
● Biết ủy quyền;
● Ảnh hưởng của nhân cách;
● Ra quyết định hiệu quả;
● Sự mong muốn phát triển chức nghiệp;
● Tuổi tác, kinh nghiệm lãnh đạo, quản
lý;
● Là người thuộc “lực lượng tích cực”.
+ Những thành tố khách quan
● Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước;
● Hệ thống pháp luật liên quan điều chỉnh
hành vi;
● Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của tổ
chức;
● Tình huống quản lý cụ thể;
● Giá trị đạo đức, phong tục, tập
quán, văn hóa của công sở, của vùng, miền, của đất nước;
● Phong cách lãnh đạo của cấp trên;
● Chất lượng của người dưới quyền.
b) Lựa chọn phong cách lãnh đạo, quản
lý thích hợp và xây dựng văn hóa công sở:
Có thể dựa vào một số yếu tố sau để lựa
chọn phong cách lãnh đạo tối ưu:
● Đặc điểm của người dưới quyền;
● Đặc điểm của tổ chức;
● Đặc điểm của tình huống quản lý;
● Đặc điểm văn hóa tổ chức;
● Đặc điểm của phong cách lãnh đạo cấp
trên;
● Đặc điểm của bản thân nhà lãnh đạo;
- Lựa chọn phong cách lãnh đạo, quản
lý phù hợp với đối tượng quản lý
Thông thường, cần cân nhắc tới những yếu
tố sau đây (Sơ đồ 4) để lựa chọn phong cách tối ưu cho tình huống cụ thể.
Sơ đồ 4: Các
yếu tố cần cân nhắc khi lựa chọn phong cách lãnh đạo
+ Người lãnh đạo, quản lý cấp sở lựa
chọn phong cách lãnh đạo quyền uy khi:
● Thuộc phạm vi thẩm quyền mà pháp luật
cho phép, được toàn quyền hành động và chịu trách nhiệm về quyết định của mình;
● Có đủ trình độ, kinh nghiệm giải quyết
vấn đề đó;
● Ban hành quyết định khi biết rằng những
đối tượng liên quan sẽ chấp nhận;
● Tình huống khẩn cấp và dám chịu
trách nhiệm với quyết định đó.
+ Người lãnh đạo, quản lý cấp sở lựa
chọn phong cách lãnh đạo dân chủ khi:
● Những vụ việc do pháp luật quy định;
● Thiếu thông tin để giải quyết vấn đề;
● Vấn đề không rõ ràng và sự giúp đỡ
là cần thiết để làm sáng tỏ tình hình;
● Vụ việc phức tạp, có đủ thời gian để
mọi người tham gia.
+ Người lãnh đạo, quản lý cấp sở lựa
chọn phong cách lãnh đạo ủy quyền khi:
● Đối tượng quản lý là người đáng tin
cậy, có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng tốt, có trách nhiệm với công việc;
● Nghề nghiệp mà quản lý đầu ra đặc
thù.
- Lựa chọn phong cách lãnh đạo, quản
lý phù hợp với môi trường, tình huống cụ thể
Để có kết quả, đạt mục tiêu, phong
cách lãnh đạo cần thay đổi, phù hợp với tình huống, môi trường quản lý. Những nội
dung lựa chọn phong cách lãnh đạo chủ yếu gồm:
+ Lựa chọn phong cách lãnh đạo quyền
uy khi:
● Thẩm quyền ra quyết định phù hợp với
quy định của pháp luật về quyền hạn, nhiệm vụ của mình.
● Người lãnh đạo có đủ trình độ chuyên
môn, kinh nghiệm giải quyết vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền;
● Có ít thời gian do tính chất công việc
khẩn cấp;
● Biết rằng cấp dưới sẽ chấp hành quyết
định mà mình đưa ra.
+ Lựa chọn phong cách lãnh đạo dân chủ
khi:
● Thẩm quyền ra quyết định phù hợp với
quy định của pháp luật về quyền hạn, nhiệm vụ của mình;
● Thiếu thông tin để giải quyết vấn đề;
● Vấn đề khó cần tập hợp trí tuệ tập
thể;
● Vấn đề không gấp, còn thời gian;
+ Lựa chọn phong cách lãnh đạo ủy quyền
khi:
● Đối tượng quản lý là người tin cậy,
có trách nhiệm, có năng lực chủ động giải quyết vấn đề;
● Đặc điểm nghề nghiệp của đối tượng
quản lý, có những loại việc lúc nào cũng quản lý chặt chẽ theo giờ hành chính
có khi kết quả cho ngược lại.
c) Phát triển phong cách lãnh đạo, quản
lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương
Vấn đề đổi mới phong cách làm việc được
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm từ trước tới nay. Trong các nghị
quyết của Đảng, yêu cầu đổi mới phương pháp làm việc ở các cấp, các ngành luôn
được đặt ở vị trí quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
chỉ rõ: “Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang chủ nghĩa quan liêu, lời
nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định.
Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán.
Vì vậy, phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo
và lề lối làm việc là một yêu cầu quan trọng và cấp bách”.
Để xây dựng phong cách lãnh đạo mới,
có hiệu quả cần loại bỏ phong cách lãnh đạo quan liêu. Phong cách lãnh đạo quan
liêu là con đẻ của cơ chế quan liêu, bao cấp; là nguyên nhân trực tiếp của các
bệnh gia trưởng, độc đoán, thiếu dân chủ, không đi sát thực tế, cục bộ địa
phương, vô kỷ luật, v.v... và dẫn đến hiệu quả quản lý, lãnh đạo kém.
- Tu dưỡng đạo đức cá nhân
Bám sát tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản
lý của Hệ thống chính trị được ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Kết luận Hội nghị Trung ương 9 Khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược
cán bộ từ nay đến năm 2020. Những vấn đề cấp bách, các nhóm giải pháp đã nêu tại
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay, gắn với trách nhiệm cá nhân, tích cực, tự giác học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện có hiệu quả Luật
Cán bộ, Công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí.... Liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu; thường
xuyên, tự giác rèn luyện, tu dưỡng lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải “xem tự phê bình và phê bình như mỗi ngày
soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể” làm gương cho cán bộ, công chức.
- Nâng cao trình độ, phát triển tầm
nhìn
Để có phong cách lãnh đạo, quản lý hiệu
quả, người lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng và tự
rèn luyện bản thân để có sức khỏe, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, họ phải
thực sự chủ động, linh hoạt, nhanh nhạy nắm bắt và xử lý được các tình huống xảy
ra trong công việc theo hướng hiệu quả nhất.
- Rèn luyện kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu
Để phát triển phong cách lãnh đạo, quản
lý của lãnh đạo cấp sở và tương đương, người lãnh đạo cần:
● Hiểu phong cách lãnh đạo của mình -
cả những mặt mạnh và những mặt yếu;
● Xác định trong những hoàn cảnh cụ thể
nào thì phong cách lãnh đạo của mình có hiệu quả và trong hoàn cảnh nào không
có hiệu quả để áp dụng hoặc rút kinh nghiệm cho tình huống tương tự;
● Tìm ra những thành tố nào của phong
cách lãnh đạo của mình đóng vai trò làm tăng hiệu quả và thành tố nào kìm hãm
hiệu quả quản lý;
● Tìm hiểu đúng bản chất tình huống
trước khi ra quyết định;
● Luôn rút kinh nghiệm, sửa đổi hành
vi, phong cách lãnh đạo của mình theo hướng luôn đạt hiệu quả cao;
● Không ngừng nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn, quản lý nhằm đổi mới tư duy, cách thức lãnh đạo, phát
triển tầm nhìn;
● Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
lời nói đi đôi với việc làm; suy nghĩ trước khi làm, trước khi nói;
● Làm việc luôn đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ, làm việc tập thể, dám quyết, dám chịu trách nhiệm;
● Thường xuyên nắm vững tình hình thực
tiễn; sát dân, dựa vào dân; phát huy tính sáng tạo của dân; hiểu và gần gũi
dân;
● Tăng cường công tác tự phê bình và
phê bình; làm việc cởi mở, tránh “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, chống chủ nghĩa
cá nhân;
● Giữ gìn và nâng cao những phẩm chất
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
● Mềm dẻo, sáng tạo, linh hoạt, đổi mới
trong công tác và trong giao tiếp, trong xử lý công việc. Rèn luyện kỹ năng lắng
nghe, thấu hiểu; khi xem xét, suy nghĩ phải có lý trí, song khi hành động phải
có tình cảm;
● Không ngừng tu dưỡng đạo đức cá
nhân, luôn là tấm gương cho cấp dưới và người dân.
Xây dựng phong cách làm việc vừa là mục
tiêu cấp bách vừa là mục đích lâu dài. Đổi mới phong cách lãnh đạo phải dựa
trên nguyên tắc của Đảng và những quy định của hệ thống quản lý xã hội thì mới
có thể đáp ứng được những yêu cầu cải cách hành chính nhà nước nhằm phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Dùng kỹ thuật SWOT, đồng chí hãy
phân tích thực trạng quản lý và lãnh đạo hiện nay tại cơ quan, đơn vị.
Ai là lãnh đạo? Người lãnh đạo làm gì
và họ cần có những phẩm chất cơ bản nào? Cách ứng xử quan trọng nhất trong lãnh
đạo là gì?
2. Hãy lập bản đồ tư duy về những yếu
tố cơ bản ảnh hưởng tới lãnh đạo, quản lý.
3. Đồng chí hãy cho biết những thành tố
chủ quan, khách quan nào tạo nên phong cách lãnh đạo, quản lý của lãnh đạo cấp
sở và tương đương?
4. Đồng chí đánh giá thực trạng sử dụng
phong cách lãnh đạo, quản lý hiện nay của lãnh đạo cấp sở và tương đương.
5. Nghĩ về một tình huống trước đây ở
cơ quan đồng chí khi phải ra một quyết định quan trọng.
Nhà lãnh đạo, quản lý đó đã quyết định
thế nào? Theo đồng chí, có nên quyết định như vậy không? Vì sao nên hay không
nên?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các kỳ Đại hội.
2. Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
3. Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc
của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Viện khoa học Tổ chức nhà nước
- Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ. NXB Chính trị Quốc gia, H 1998.
4. Hồ Chí Minh. Sửa đổi lối làm việc.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXBCTQG, H.2002.
5. Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương,
Phương Kỳ Sơn. Các học thuyết quản lý. NXB Chính trị Quốc gia, H 1996.
6. Hà Thế Truyền. Tổ chức lao động
khoa học của người cán bộ quản lý giáo dục. H 2011.
7. Auren Uris. Nhà quản lý giỏi - Nghệ
thuật lãnh đạo. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
8. Dominique Chalvin. Các
phong cách quản lý. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1993.
9. Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz
Weihrich. Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội,
1994.
10. Hồ Văn Vĩnh. Giáo trình Khoa học
quản lý, NXB CTQG, Hà Nội, 2002
Chuyên đề 4 (Chuyên đề
báo cáo)
TỔNG
QUAN
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam
a) Kết quả phát triển kinh tế - xã hội:
- Những kết quả đạt được
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã chứng kiến những chuyển biến mạnh mẽ hơn về
kinh tế - xã hội. Sau một khoảng thời gian dài tăng trưởng nhanh, liên tục đồng
thời duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, Việt Nam đã trở thành một điểm đầu tư hấp dẫn,
đồng thời với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 là
cơ hội tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nhiều năm kể từ khi thực hiện đổi
mới, Việt Nam đã tập trung các chính sách kinh tế - xã hội theo hướng ưu tiên mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời nhấn mạnh vai trò của ổn định kinh tế vĩ
mô. Kết quả phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đạt được những
thành tựu quan trọng sau đây:
+ Kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc
độ tăng tương đối khá, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
Bảng 2: Tốc độ
tăng GDP bình quân mỗi năm trong mười năm 1991 - 2000 và 2001 - 2010
Đơn vị: %
|
Toàn bộ nền
kinh tế
|
Chia ra
|
Nông, lâm
và thủy sản
|
Công nghiệp
và xây dựng
|
Dịch vụ
|
Tốc độ tăng bình
quân mỗi năm trong mười năm 1991 - 2000
|
7,56
|
4,20
|
11,30
|
7,20
|
Trong năm năm 1991-1995
|
8,18
|
4,09
|
12,00
|
8,60
|
Trong năm năm 1996 - 2000
|
6,94
|
4,30
|
10,60
|
5,75
|
Tốc độ tăng bình
quân mỗi năm trong mười năm 2001 - 2010
|
7,26
|
3,58
|
9,09
|
7,35
|
Trong năm năm 2001 - 2005
|
7,51
|
3,83
|
10,25
|
6,96
|
Trong năm năm 2006 - 2010
|
7,01
|
3,34
|
7,94
|
7,73
|
Nguồn: Tổng cục
Thống kê - 2011
+ Về tăng trưởng kinh tế theo ngành:
Bảng 3: Tăng
trưởng GDP theo ngành trong năm năm 2006 - 2010
Ngành
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Tốc độ tăng
trưởng (%)
|
GDP
|
8,23
|
8,48
|
6,29
|
5,32
|
6,78
|
Nông - Lâm - Thủy sản
|
3,69
|
3,40
|
5,04
|
1,82
|
2,78
|
Công nghiệp - Xây dựng
|
10,38
|
10,60
|
5,61
|
5,52
|
7,70
|
Dịch vụ
|
8,29
|
8,68
|
7,54
|
6,63
|
7,52
|
Tăng trưởng
GDP theo tỷ lệ phần trăm
|
GDP
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
Nông - Lâm - Thủy sản
|
8,77
|
7,52
|
14,31
|
6,05
|
6,99
|
Công nghiệp - Xây dựng
|
50,68
|
51,22
|
37,29
|
43,07
|
47,19
|
Dịch vụ
|
40,55
|
41,26
|
48,40
|
50,88
|
45,82
|
Nguồn: Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
+ Cơ cấu kinh tế theo ngành cũng có sự
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản tăng tỷ trọng
trong khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 4: Cơ cấu
GDP theo ngành giai đoạn 2006 - 2010
Ngành
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
GDP
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
Nông - Lâm - Thủy sản
|
20,40
|
20,34
|
22,21
|
20,91
|
20,58
|
Công nghiệp - Xây dựng
|
41,54
|
41,48
|
39,84
|
40,24
|
41,10
|
Công nghiệp chế biến
|
21,25
|
21,26
|
20,35
|
20,09
|
19,68
|
Dịch vụ
|
38,06
|
38,18
|
37,95
|
38,85
|
38,34
|
Nguồn: Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
+ Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển
toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực
và thế giới.
Phát huy kết quả và kinh nghiệm mở cửa
và hội nhập quốc tế thu được trong 15 năm đổi mới 1986 - 2000, những năm 2001 -
2010 chúng ta đã tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực: hợp tác song phương và đa phương; mở rộng quan hệ thương mại,
thu hút vốn đầu tư, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối và tăng cường nhiều
hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Bảng 5: Kết
quả thu hút vốn ODA mười năm 2001 - 2010
Đơn vị: Triệu
USD
|
Cam kết
|
Ký kết
|
Giải ngân
|
Tổng số mười
năm
|
46646
|
35521
|
23006
|
2001
|
2399
|
2433
|
1500
|
2002
|
2462
|
1814
|
15528
|
2003
|
2839
|
1786
|
1422
|
2004
|
3441
|
2595
|
1650
|
2005
|
3748
|
2610
|
1787
|
2006
|
4446
|
2989
|
1785
|
2007
|
5427
|
3832
|
2176
|
2008
|
5915
|
4331
|
2253
|
2009
|
8064
|
6131
|
4105
|
2010
|
7905
|
7000
|
4800
|
Nguồn: Tổng cục
Thống kê - 2011
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO,
các nhà đầu tư nước ngoài cũng có niềm tin lớn hơn vào triển vọng phát triển của
đất nước. Chính vì vậy, các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có quy
mô lớn hơn và đạt mức đỉnh vào năm 2008. Trong những năm gần đây, vốn đăng ký
đã giảm, song phần vốn thực hiện không giảm đáng kể. Điều này phản ánh hoạt động
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chú trọng hơn đến việc thực hiện các dự
án tại Việt Nam.
Theo chiều hướng ngược lại, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu cân nhắc đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng cơ hội
và tăng tiếp cận đối với nguồn tài nguyên (đặc biệt là khai khoáng) ở nước
ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chịu tác động
đáng kể của các cú sốc từ bên ngoài. Việc giá gạo và giá năng lượng tăng trên
thị trường thế giới đã gây áp lực đáng kể đối với giá cả trong nước. Những diễn
biến khó lường của các dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dòng vốn ngắn
hạn, cùng với việc neo tỷ giá có điều chỉnh dần cũng tạo thêm nhiều áp lực đối
với tình hình lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước. Trong khi đó, các nền
kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU - những đối tác thương mại và đầu tư chính của
Việt Nam - mới ra khỏi khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng phục hồi còn khá chậm.
+ Đời sống các lớp dân cư tiếp tục được
cải thiện; sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác có những
tiến bộ đáng kể.
Do kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc
độ khá; đồng thời, các ngành, các cấp, các địa phương thực hiện thành công
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xóa đói giảm nghèo và nhiều chương trình liên
quan khác nên đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt.
Bảng 6: Tỷ lệ
hộ nghèo giai đoạn 2004 - 2010
Đơn vị tính: %
|
2004
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Cả nước
|
18,1
|
15,5
|
14,8
|
13,4
|
12,3
|
10,7
|
Đồng bằng sông Hồng
|
12,7
|
10,0
|
9,5
|
8,6
|
7,7
|
6,4
|
Trung du & miền núi phía Bắc
|
29,4
|
27,5
|
26,5
|
25,1
|
23,5
|
22,5
|
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung
|
25,3
|
22,2
|
21,4
|
19,2
|
17,6
|
16,0
|
Tây Nguyên
|
29,2
|
24,0
|
23,0
|
21,0
|
19,5
|
17,1
|
Đông Nam Bộ
|
4,6
|
3,1
|
3,0
|
2,5
|
2,1
|
1,3
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
15,3
|
13,3
|
12,4
|
11,4
|
10,4
|
8,9
|
Nguồn: Tổng cục
Thống kê - 2011
+ Sự nghiệp giáo dục, đào tạo tiếp tục
thu được thành tựu mới. Theo kết quả Tổng điều tra dân số nhà ở năm 2009, tỷ lệ
biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 94%, tăng 4 phần trăm so với thời điểm
1/4/1999.
+ Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cộng
đồng cũng thu được kết quả tích cực. Năm 2010 cả nước có 1030 bệnh viện, tăng
194 bệnh viện so với năm 2001; có trên 246,3 nghìn giường bệnh, tăng 27,9% so với
năm 2001.
+ Các hoạt động văn hóa thông tin, thể
dục thể thao triển khai tương đối rộng khắp, đặc biệt các hoạt động thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2001 - 2005 và 2006 - 2010.
Theo kết quả khảo sát mức sống hộ gia
đình, đến năm 2008 đã có 90% số xã của cả nước có bưu điện văn hóa, 43% số xã
có nhà văn hóa xã, 74% gia đình đạt chuẩn văn hóa, 51% làng/thôn/xóm/ấp/bản/khu
phố được công nhận đạt chuẩn về văn hóa.
Một khía cạnh quan trọng khác trong bối
cảnh kinh tế từ năm 2011 là việc Việt Nam bắt đầu thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội cho giai đoạn 2011 - 2020, và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011 - 2015. Trong năm 2011, Việt Nam tiến hành bầu cử Quốc hội và
thành lập Chính phủ mới hoạt động trong 5 năm tới. Trong giai đoạn này Việt Nam
tập trung nỗ lực giải quyết các điểm nghẽn trong mô hình tăng trưởng, cụ thể là
những bất cập về thể chế và kết cấu hạ tầng và về chất lượng nguồn nhân lực. Đồng
thời, Việt Nam cũng xem xét các biện pháp tái cơ cấu nền kinh tế, trong khi
đang triển khai xây dựng Nghị quyết về đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020. Nếu được thực thi hiệu quả,
đây sẽ là những nền tảng quan trọng để Việt Nam có thể vươn tới mục tiêu phát
triển vào năm 2020.
Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội
trong kế hoạch 5 năm (2011 - 2015)
+ Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm
phát được kiểm soát
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành linh hoạt, hiệu quả các công cụ
chính sách tài khóa và tiền tệ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm từ 18,13% năm
2011 xuống còn 6,81% năm 2012.
Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ
tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Mặt bằng lãi suất huy động
và lãi suất cho vay giảm mạnh. Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng
nhanh. Tình trạng đô la hóa, vàng hóa giảm đáng kể. Niềm tin vào đồng tiền Việt
Nam tăng lên.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để đẩy
mạnh xuất khẩu.
Tăng cường quản lý ngân sách, chống thất
thu và tiết kiệm chi.
Thị trường trong nước tiếp tục phát
triển.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải
thiện.
+ Kinh tế có bước phục hồi
Đã tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, hàng tồn kho và hướng
tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên. Năm 2011 tăng trưởng GDP đạt 6,24%, năm 2012
chỉ đạt 5,25%; năm 2013 tăng trưởng cả năm khoảng 5,4%. Bình quân 3 năm, GDP
tăng khoảng 5,6%/năm.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng từng bước
được phục hồi; khu vực nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định; các ngành dịch
vụ tăng trưởng khá.
+ Tái cơ cấu kinh tế đạt nhiều kết quả
Về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu
tư công.
Về tái cơ cấu tài chính, tín dụng, trọng
tâm là các ngân hàng thương mại.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
+ Các đột phá chiến lược được triển
khai đồng bộ
Thể chế kinh tế thị trường và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của người dân.
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy các bộ, ngành, địa phương. Đổi mới chế độ công vụ, công chức, tăng
cường công khai minh bạch, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và trách nhiệm giải
trình.
Về phát triển nguồn nhân lực: Đã triển
khai thực hiện quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển
nguồn nhân lực.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Đã rà
soát, bổ sung thể chế và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với tầm nhìn tổng
thể, dài hạn. Tập trung khắc phục tình trạng đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả.
Tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước với nhiều hình thức
(BOT, BT, BOO, PPP) cho phát triển kết cấu hạ tầng.
+ Văn hóa, xã hội có tiến bộ; an sinh
xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân ổn định
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc
làm, nhất là đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng. Năm 2013 tạo việc làm cho khoảng
1,54 triệu người; 3 năm khoảng 4,6 triệu người, trong đó xuất khẩu lao động 253
nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị luôn ở mức dưới 4%, hiện khoảng
3,48%.
Chính sách tiền lương từng bước được đổi
mới theo nguyên tắc thị trường.
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người
có công và hỗ trợ các đối tượng chính sách.
Mạng lưới và cơ sở vật chất kỹ thuật y
tế tiếp tục phát triển. Chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh được
nâng lên. Y tế dự phòng được quan tâm, không để bùng phát dịch bệnh lớn. Đã triển
khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện.
Tốc độ tăng dân số được kiểm soát.
Công tác chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gia
đình, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ có nhiều thay đổi.
Văn hóa, thể thao được quan tâm phát
triển. Đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải
pháp tăng cường quản lý tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường và chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện nhiều giải pháp để quản lý,
sử dụng có hiệu quả đất trồng lúa. Tích cực thực hiện Chiến lược, Nghị quyết của
Chính phủ về bảo vệ môi trường và chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tăng
trưởng bền vững.
Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng. Thực hiện đề án bảo vệ môi trường một số lưu vực sông.
Triển khai các chương trình mục tiêu
quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; về khắc phục ô nhiễm và
cải thiện môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực phòng
tránh và giảm nhẹ thiên tai. Tăng cường giám sát, thanh tra việc thực thi và xử
lý vi phạm.
+ Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí
Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục
được thực hiện gắn với triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và việc học tập, làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Đã tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Luật Phòng chống
tham nhũng.
Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công
dân và giải quyết khiếu nại tố cáo. Tăng cường đối thoại, giải quyết khiếu nại
ngay từ cơ sở, hạn chế phát sinh mới các khiếu nại vượt cấp.
+ Quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc
gia
Tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc
phòng toàn dân được tăng cường.
An ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được bảo đảm. Thế trận an ninh nhân dân và lực lượng công an nhân dân được
tăng cường.
Công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn
xã hội được tập trung chỉ đạo. Tội phạm xâm phạm trật tự xã hội được kiềm chế.
Trật tự an toàn giao thông có nhiều chuyển biến tích cực.
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh toàn
diện; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại
nhân dân và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã chủ động, kiên định trong đấu
tranh khẳng định và bảo vệ chủ quyền, lợi ích chính đáng của đất nước và bảo hộ
công dân.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tăng cường
đối thoại chiến lược với nhiều đối tác quan trọng.
- Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, kinh tế -
xã hội vẫn còn những hạn chế, yếu kém chủ yếu sau:
+ Cơ cấu kinh tế chậm đổi mới.
+ Duy trì mô hình tăng trưởng chủ yếu
dựa vào yếu tố vốn trong thời gian dài, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp và sức ép lạm phát ngày càng lớn.
+ Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm
phát được kiểm soát nhưng chưa vững chắc. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi
cao hơn kế hoạch.
+ Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó
khăn. Nợ xấu còn cao. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn.
+ Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng còn chậm so với yêu cầu.
+ Triển khai thực hiện ba đột phá chiến
lược còn chậm. Cải cách thể chế chưa đồng bộ, chưa có cơ chế chính sách đột phá
thúc đẩy phát triển. Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp
luật, chính sách còn nhiều bất cập. Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu.
+ Đời sống của một bộ phận dân cư còn
khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được khắc phục
+ Lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn
chế, yếu kém. Giải quyết việc làm chưa đạt kế hoạch...
+ Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém. Kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, khai
thác và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn chưa nghiêm.
+ Công tác phòng chống tham nhũng,
lãng phí chưa đạt yêu cầu so với mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy
lùi. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Công tác giám sát, thanh tra,
kiểm tra hiệu quả chưa cao, ít phát hiện tham nhũng. Xử lý các vụ việc tham
nhũng còn chậm.
+ Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều
thách thức. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những
nhân tố có thể gây mất ổn định ở một số địa bàn. Công tác bảo đảm an toàn, an
ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập.
- Nguyên nhân và một số bài học
+ Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Bên cạnh những vấn đề mới phát sinh vẫn còn
những tồn tại của nhiều năm trước.
Tình hình thế giới biến động phức tạp,
khó lường. Khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc; cạnh tranh trên thị trường
thế giới hết sức gay gắt, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế ngày càng lớn. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng.
Nhận thức trên một số vấn đề về chủ
trương, quan điểm đã được đề ra vẫn còn khác nhau dẫn đến đổi mới thể chế,
chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là về vai trò của Nhà nước và
kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân,
sở hữu và quyền sử dụng đất đai, giá cả một số mặt hàng và dịch vụ công thiết yếu...
chưa tạo được đột phá để huy động mạnh mọi nguồn lực cho phát triển.
Quản lý nhà nước còn nhiều mặt chưa tốt.
Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã có nhiều cố gắng
nhưng còn chậm, hiệu quả chưa cao.
+ Một số bài học qua các năm thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Từ thực tiễn phát triển đất nước và kết
quả thực hiện Chiến lược 10 năm qua và những năm đầu thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 có thể rút ra các bài học chủ yếu:
Phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả
và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
Bảo đảm độc lập, tự chủ và chủ quyền
quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát
huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Trong bối cảnh mới, phải đột phá trong
đổi mới tư duy phát triển, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mục tiêu cao nhất
để có chủ trương, chính sách huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phải bám sát thực tiễn của đất nước, nắm
bắt nhanh những diễn biến mới và nâng cao năng lực phân tích dự báo để kịp thời
xác định mục tiêu, chính sách, giải pháp phù hợp với thực tế tình hình.
Trong quản lý điều hành phải tập trung
cao nhất cho mục tiêu ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; đồng
thời phải bảo đảm điều kiện cần thiết cho tăng trưởng hợp lý.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội có nhiều
khó khăn vẫn phải huy động phù hợp và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực
trong nước; đồng thời phải chủ động tăng cường hội nhập quốc tế để thu hút nhiều
nguồn lực từ bên ngoài và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho phát triển và bảo vệ
đất nước.
Cả hệ thống chính trị phải làm tốt
công tác thông tin, tuyên truyền; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo đồng thuận xã
hội trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.
b) Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội
- Mục tiêu
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 xác định như sau:
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững
chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát; phục hồi tăng trưởng và nâng cao chất lượng hiệu quả sức cạnh
tranh; đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện
đời sống nhân dân. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí; cải
thiện môi trường kinh doanh. Bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập
quốc tế.
+ Về kinh tế
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng
2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000
USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng
cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng
các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm
công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP.
Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất
công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động
xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào
tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 -
3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với
một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn
nông thôn mới khoảng 50%.
+ Về văn hóa, xã hội
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng
thuận, công bằng, văn minh. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt
nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%;
tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn
dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo
nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 -
2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo
đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng
cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xóa nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên
cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên một người
dân.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến
năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ
tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn
diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ
pháp luật.
+ Về môi trường
Cải thiện chất lượng môi trường. Đến
năm 2020, tỉ lệ che phủ rừng đạt 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được
sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập
phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất
thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường.
Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ
thống xử lý nước thải tập trung, 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải
nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi
môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động
ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
Các đột phá chiến lược:
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng
và cải cách hành chính.
+ Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ.
+ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng
đô thị lớn.
- Nhiệm vụ
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển
theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng
quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ
cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội
địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,
phát triển kinh tế xanh.
Các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2020 là:
● Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực;
● Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng
theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh;
● Phát triển nông nghiệp toàn diện
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững;
● Phát triển mạnh các ngành dịch vụ,
nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh;
● Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất
là hạ tầng giao thông;
● Phát triển hài hòa, bền vững các
vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới;
● Phát triển toàn diện các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế;
● Phát triển manh sự nghiệp y tế, nâng
cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân;
● Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo;
● Phát triển khoa học và công nghệ thực
sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững;
● Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi
trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên
tai;
● Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội;
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
- Các giải pháp chủ yếu
Thực hiện thắng lợi Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Cần tập
trung làm tốt các giải pháp sau:
+ Các cấp ủy đảng, các đảng đoàn, ban
cán sự đảng chỉ đạo quán triệt sâu sắc nội dung Chiến lược trong toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, các cấp, các ngành và tăng cường sự lãnh đạo, tạo sự thống
nhất cả về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả
Chiến lược;
+ Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc xây
dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và giám sát việc thực hiện Chiến lược;
+ Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo
xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hành động, các chiến lược, quy hoạch
phát triển ngành, sản phẩm, vùng lãnh thổ bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả
ba khâu đột phá chiến lược, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hằng năm, các
chương trình quốc gia;
+ Xây dựng cơ chế và đưa vào nền nếp
việc thường xuyên theo dõi, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược.
Trong quá trình tổ chức thực hiện Chiến lược, khi xuất hiện những vấn đề cần đổi
mới mà chưa có chủ trương, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định việc
thực hiện thí điểm;
+ Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường;
+ Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước
chuyển mạnh về cải cách hành chính;
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước;
+ Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội; xây dựng cơ chế để phát
huy vai trò của nhân dân trong việc thực hiện và giám sát thực hiện Chiến lược.
2) Kết quả phát triển và điều hành
kinh tế - xã hội ở địa phương
a) Kết quả đạt được
- Về kinh tế;
- Về văn hóa - xã hội;
- Về đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý
đô thị, xây dựng nông thôn mới; bảo vệ môi trường;
- Về quốc phòng an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội;
- Về cải cách hành chính;
- Về công tác kế hoạch ở các địa
phương:
+ Đổi mới tư duy, cách nhìn nhận về kế
hoạch
Trước kia, các địa phương luôn “nhận”
kế hoạch từ Trung ương giống như nhận nhiệm vụ và bắt buộc phải thực hiện. Tư
duy này đã được thay đổi rất rõ nét theo hướng các địa phương tăng cường tính
chủ động trong việc ban hành các cơ chế, chính sách theo thẩm quyền của mình.
Tính năng động này đã giúp một số địa phương đưa ra một số sáng kiến, bứt phá để
phát triển và trở thành điển hình sáng trong cả nước.
+ Đổi mới nội dung kế hoạch
Việc đổi mới kế hoạch ở các địa phương
phần lớn là do các dự án ODA hoặc NGO hỗ trợ. Tùy theo mục tiêu và tính chất của
dự án, những địa phương này đã tập trung vào một số trọng tâm đổi mới trong nội
dung kế hoạch.
Hầu hết các tỉnh thực hiện đổi mới
công tác kế hoạch cũng đều đã chú trọng đến việc giảm dần các chỉ tiêu liên
quan trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh và bổ sung thêm các chỉ tiêu xã hội và
môi trường. Một vài tỉnh đã thử nghiệm đưa cả một số chỉ tiêu liên quan đến cải
cách hành chính vào trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
+ Đổi mới phương pháp lập kế hoạch
Những tỉnh có hoạt động đổi mới công
tác kế hoạch đều quan tâm đến việc tổ chức các khóa tập huấn hướng dẫn phương
pháp, công cụ mới phục vụ cho quá trình lập kế hoạch. Công cụ Participatory
rural appraisal (PRA) đã được đưa vào Việt Nam từ giữa những năm 90 và hiện nay
đã được nhiều địa phương sử dụng. Tương tự như vậy, phương pháp lập kế hoạch
mang tính chiến lược, định hướng kết quả, phương pháp SWOT,... cũng được nhiều
tỉnh đưa vào trong chương trình huấn luyện. Bên cạnh đó, công cụ Khung khổ chi
tiêu trung hạn cũng được tham khảo, tạo điều kiện cho việc tăng cường sự kết nối
giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với kế hoạch ngân sách.
+ Đổi mới quy trình lập kế hoạch theo
hướng tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình lập kế hoạch
Sự tham gia của người dân trong lập kế
hoạch là một trong những nhân tố quan trọng nhất của quá trình đổi mới kế hoạch
trong hơn 10 năm qua. Cách thức đổi mới kế hoạch ở các địa phương không hoàn
toàn giống nhau, song tất cả các địa phương này đều khuyến khích sự tham gia của
người dân vào trong quá trình lập kế hoạch.
+ Đổi mới phương thức tổ chức thực hiện
lập kế hoạch
Trên cơ sở đổi mới tư duy về công tác
kế hoạch, các địa phương đều nhận thấy rõ rằng công tác kế hoạch không phải là
công việc của riêng các tổ chức ngành kế hoạch mà là một công việc chung của tất
cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức đại diện của người
dân.
b) Những hạn chế
- Một số vấn đề nổi cộm ở địa phương
- Chính sách phát triển vùng kinh tế ở
Việt Nam
Trên thực tế, tại Việt Nam đã có sự
liên kết để phát triển giữa các địa phương, giữa các vùng trong cả nước nhằm
khai thác lợi thế, tiềm năng của mỗi địa phương một cách hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế cũ nên chính sách liên kết vùng vẫn còn mang nặng
dấu ấn của tư duy kế hoạch hóa tập trung, nội dung chủ yếu theo hướng phân bố lực
lượng sản xuất, chưa phù hợp với cơ chế thị trường và lại càng không đáp ứng được
những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Mặc dù chính sách liên kết phát triển
vùng đã được đề cập và được triển khai tương đối đầy đủ, một nội dung quan trọng
của chính sách vùng là liên kết phát triển liên vùng lại chưa được quan tâm
thích đáng. Do tính bức thiết của nhu cầu liên kết - hợp tác kinh tế giữa các địa
phương thuộc nội vùng và liên vùng đã nhận được sự đồng thuận rộng rãi cả về lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay, tiến trình liên kết - hợp tác nội
vùng và liên kết cơ bản vẫn chưa có những bước tiến bộ thực chất và những thay
đổi có tính đột phá. Bằng chứng rõ rệt nhất là lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng:
các địa phương vẫn tiếp tục triển khai những dự án cảng biển, sân bay... mà vẫn
chưa hề có những động thái phối hợp để xem xét lại hiệu quả của quy hoạch, mặc
dù đã có rất nhiều cảnh báo từ những nghiên cứu độc lập.
Sự liên kết, phối hợp nội vùng chưa được
triển khai thực hiện, điều này thể hiện ở việc xây dựng quy hoạch và định hướng
phát triển chung cũng như riêng từng địa phương và thể hiện rõ nhất ở việc quy
hoạch các cảng biển, sân bay... ở rất gần nhau.
- Các vấn đề trong liên kết phát
triển kinh tế giữa các địa phương
Thực tế phát triển kinh tế - xã hội địa
phương và thực trạng liên kết vùng đã xuất hiện một số vấn đề cần giải quyết:
Tình trạng manh mún, rời rạc, nhỏ lẻ
trong phát triển kinh tế địa phương. Đặc biệt là ở các khu vực trọng điểm, tiềm
năng lớn. Thực tế cho thấy, do giới hạn mức độ địa giới hành chính mà nhiều tỉnh
đã trở nên kém hấp dẫn dưới mắt nhà đầu tư trong những dự án quy mô.
Do chưa có sự liên kết, phối hợp, chưa
có quy hoạch chung dẫn đến tình trạng: địa phương bên cạnh có gì, mình phải có
cái ấy; tỉnh bạn có cảng, tỉnh mình cũng phải có, dẫn đến đầu tư không hiệu quả.
Ngoài vấn đề đặt ra về kinh tế, còn có
vấn đề về mặt xã hội mà khi liên kết với nhau các địa phương có thể giải quyết
tốt hơn, như: việc liên kết giữa các địa phương về giáo dục, y tế là một giải
pháp có lợi cho cả hai phía. Địa phương phát triển có thể liên kết đầu tư trường
học, bệnh viện... tại các địa phương hoặc vùng kém phát triển để kéo giãn áp lực
cho mình, đồng thời tạo điều kiện để địa phương bạn phát triển nhờ sự hỗ trợ của
mình.
Nếu mỗi địa phương đồng loạt đầu tư tạo
một chuỗi giá trị riêng cho mình, trong khi khả năng chỉ có thể tối ưu hóa từ một
đến hai giá trị, thì nguy cơ lãng phí sẽ rất cao. Hoặc giả như chuỗi giá trị vẫn
hình thành, nhưng bị bó hẹp trong một khuôn giới hạn nhất định, thì năng lực cạnh
tranh với các vùng khác sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Từ đó, có thể thấy liên kết địa
phương, liên kết vùng trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết, nó giúp các địa
phương sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực, tránh lãng phí, nâng cao năng lực cạnh
tranh....
- Công tác kế hoạch của các địa phương
+ Về nội dung kế hoạch
Bản chất của nội dung kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội là những nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Mặc dù nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã có
nhiều đổi mới so với trước kia, song những đổi mới này vẫn chưa đáp ứng được những
đòi hỏi của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vấn đề này thể hiện rất rõ ở những
điểm sau:
● Nội dung kế hoạch chưa bao quát
và phản ánh được các nhiệm vụ của Nhà nước trong phát triển kinh tế và xã hội
Kế hoạch ở tất cả các cấp đều có tên
là Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội song thực tế, hiện tượng quá tập trung
vào các nội dung kinh tế và coi nhẹ các nội dung xã hội, môi trường, các dịch vụ
công xuất hiện tương đối phổ biến ở các cấp.
Từ những năm đầu của thập kỷ qua,
Chính phủ đã xác định rõ 3 trụ cột của phát triển là: kinh tế, xã hội và môi
trường. Tuy vậy, chủ trương đó vẫn còn thể hiện rất yếu ở kế hoạch các cấp địa
phương, đặc biệt là kế hoạch cấp huyện và cấp xã chỉ hầu như tập trung vào các
chỉ tiêu sản xuất, phần nội dung liên quan đến xã hội còn nghèo nàn và gần như
thiếu vắng những nội dung liên quan đến môi trường.
● Sự liên hệ, kết dính giữa các phần
trong nội dung kế hoạch còn yếu.
Chu trình kế hoạch là một chu trình
khép kín, bao gồm: từ đánh giá - lập - thực hiện - đánh giá - lập.... Vì thế, kết
cấu nội dung thông thường của bản kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội bao gồm
các phần: đánh giá - dự báo - mục tiêu - chỉ tiêu - giải pháp. Kết cấu này đã
được tuân thủ ở hầu hết các bản kế hoạch ở mọi cấp. Tuy vậy, sự “kết dính” giữa
các phần còn quá kém (không chỉ quan hệ giữa mục tiêu và giải pháp mà thậm chí
quan hệ giữa mục tiêu và chỉ tiêu cũng còn mờ nhạt, đặc biệt ở kế hoạch cấp địa
phương).
● Công cụ sử dụng để điều chỉnh phát
triển kinh tế - xã hội trong nội dung kế hoạch còn chưa phù hợp
Ảnh hưởng của quá trình chuyển dịch cơ
cấu thành phần kinh tế đến nội dung kế hoạch: quá trình chuyển đổi nền kinh tế
sang đa thành phần đòi hỏi Nhà nước phải thay đổi các công cụ can thiệp vào nền
kinh tế.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đã có
khả năng nắm giữ một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế. Tuy vậy, sự chuyển đổi này vẫn diễn ra một cách quá chậm
chạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của quá trình phát triển.
● Chưa xác định được thứ tự ưu tiên
trong hệ thống mục tiêu kế hoạch
Hệ thống mục tiêu và sắp xếp ưu tiên
thứ tự: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một bài toán tối ưu đa mục
tiêu. Không có sự sắp xếp ưu tiên các mục tiêu thì chắc chắn không giải được
bài toán này. Do nhiều lý do khác nhau, việc sắp xếp thứ tự ưu tiên các mục
tiêu không được thực hiện trong quá trình lập kế hoạch, tồn tại trong cùng một
thời gian qua nhiều “mũi nhọn”, quá nhiều trọng tâm, trọng điểm. Chính điều này
dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan, làm phân tán nguồn lực đầu tư, kéo dài thời
gian thực hiện dự án và giảm hiệu quả đầu tư.
● Nội dung kế hoạch các cấp chưa phản
ánh được quá trình phân cấp nhiệm vụ giữa các cấp
Ảnh hưởng của quá trình phân cấp đến nội
dung kế hoạch: Phân cấp là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam. Phân cấp, trước hết là phân cấp kinh tế là việc loại bỏ những
nhiệm vụ không cần thiết của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó đương nhiên sẽ làm thay đổi hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu trong nội
dung kế hoạch, thay đổi các công cụ can thiệp của Nhà nước.
● Hệ thống chỉ số, chỉ tiêu kế hoạch
còn nhiều bất hợp lý
Việc xác định chỉ số và chỉ tiêu kế hoạch
là những khâu của chuỗi logic: xác định nhiệm vụ ® xác định mục tiêu ® xác định chỉ số ® xác định chỉ tiêu ® xác định giải pháp.
Thực trạng nhiều bản kế hoạch không thể hiện được mối quan hệ này.
Nhiều chỉ tiêu mặc dù liên tục được
đưa vào kế hoạch và có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển
của địa phương, song khó có độ tin cậy cao, ví dụ: GDP hoặc giá trị gia tăng của
các địa phương, giá trị xuất nhập khẩu của địa phương, thu nhập bình quân đầu
người....
Mặc dù một số chỉ
tiêu chắc chắn khó xác định được, song vẫn thường xuyên xuất hiện trong các
bản kế hoạch ở các địa phương, ví dụ: số người thường xuyên tham gia tập thể dục,
số cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai.
● Quan hệ giữa kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và kế hoạch ngân sách còn yếu.
Sự tương ứng giữa kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và kế hoạch ngân sách còn yếu. Hiện tượng này xuất hiện phổ biến
ở cấp địa phương, đặc biệt là các địa phương phải trông chờ vào ngân sách trợ cấp
từ cấp trên.
Lý do chủ yếu của hiện tượng này là do
phải lập kế hoạch trong tình huống chưa nắm được nguồn lực có thể nhận được, do
vậy những dự thảo kế hoạch ban đầu chỉ mang tính hình thức, đòi hỏi các địa
phương luôn phải cập nhật những thông tin từ cấp trên.
+ Về quy trình và phương pháp lập kế
hoạch
● Thời gian lập kế hoạch còn bất hợp
lý
Các cấp huyện và xã không đủ thời gian
để lập kế hoạch một cách nghiêm túc bởi tính xoay vòng kế hoạch gấp gáp. Chính điều
này đã buộc huyện phải lập kế hoạch mà không chờ kế hoạch xã, tỉnh lập kế hoạch
mà không chờ kế hoạch của huyện và dự thảo kế hoạch của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chưa có những nội dung tổng hợp được từ các tỉnh.
Việc giải quyết vấn đề này không đơn
giản vì quy trình lập kế hoạch hàng năm khó có thể bắt đầu trước tháng 6, vì thế
về lý thuyết cho phép ước thực hiện khi chưa thực hiện được 1/2 giai đoạn. Và
chu trình cũng không được kết thúc muộn hơn do phải trình Quốc hội vào kỳ họp
thứ 2 trong năm (bắt đầu từ tháng 10).
● Phương pháp tính toán các chỉ
tiêu chưa rõ ràng và thống nhất
Hầu như không có phương pháp nào được
áp dụng thống nhất để tính toán các chỉ tiêu trong kế hoạch. Hầu hết những chỉ
tiêu quan trọng và phức tạp như tăng trưởng đều không có những phương pháp tính
một cách rõ ràng và thống nhất. Cách “ước” các chỉ tiêu còn mang tính chất chủ
quan, tùy tiện. Có thể nói rằng, hiện nay chúng ta chưa có phương pháp tính các
chỉ tiêu kế hoạch trong nội dung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp.
● Tính dân chủ (sự tham gia), công
khai
Lập kế hoạch có sự tham gia là một xu
hướng đã diễn ra hơn một thập kỷ qua và được nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ. Tuy
vậy, phương pháp này cũng được thực hiện chủ yếu theo hướng tự phát, chưa có sự
chỉ đạo thống nhất từ Trung ương.
Tính công khai của nội dung kế hoạch
chưa được quan tâm, một phần do chính quyền, một phần do người dân chưa quan
tâm, vì nội dung kế hoạch cũng chưa thực sự có ý nghĩa thiết thực với người
dân.
● Sự phối hợp giữa các cấp cũng như
giữa các cơ quan đồng cấp còn yếu
Sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá
trình lập kế hoạch còn yếu. Thời gian eo hẹp như đã trình bày ở trên không cho
phép hình thành sự phối hợp giữa các cấp trong quá trình lập kế hoạch.
Ngay bản thân các cơ quan đồng cấp, việc
phối hợp cũng còn mang tính hình thức. Công việc lập kế hoạch ở nhiều nơi hầu
như chỉ do cơ quan kế hoạch và đầu tư thực hiện.
- Lồng ghép kế hoạch giữa các ngành
cũng như kế hoạch ngành với kế hoạch vùng, kế hoạch địa phương yếu
Lồng ghép kế hoạch là vấn đề đã được
nêu ra từ tương đối lâu với hình thức “lồng ghép kế hoạch”, “lồng ghép chương
trình, dự án”. Tuy vậy, cho đến nay, việc lồng ghép còn chưa phát huy được hiệu
quả.
Mặc dù đã có sự phối hợp giữa các
ngành trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc
nhưng sự phối kết hợp này còn chưa đủ chặt chẽ, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng
cao tính cạnh tranh của toàn nền kinh tế. Thiếu sự quyết đoán trong chỉ đạo
phát triển, tư duy phát triển theo hướng “dàn hàng ngang cùng tiến” cho tất cả
các ngành nên không giải quyết được tranh chấp lợi ích giữa các ngành.
● Liên kết, phối hợp giữa các địa
phương trong vùng còn yếu
Mặc dù trong kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm không gian kinh tế Việt Nam đã được chia thành các vùng kinh
tế, song sự phối hợp giữa các vùng cũng như phối hợp giữa các địa phương trong
nội vùng còn quá yếu trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Hầu như không có địa phương nào tham
khảo hoặc thảo luận cùng địa phương láng giềng về kế hoạch phát triển của mình
hoặc phối hợp với địa phương kia để cùng đầu tư, khai thác một dự án, một công
trình nào đó. Chính sự yếu kém trong phối hợp này là một trong những nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng chồng chéo, đầu tư kém hiệu quả.
c) Nguyên nhân.
Cũng có một số nguyên nhân dẫn tới những
tồn tại này song chủ yếu vẫn là do tư duy của đội ngũ lãnh đạo địa phương:
+ Tư duy về một nhà nước “ôm đồm”
Tư duy, quan niệm về vai trò, nhiệm vụ
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa rõ ràng. Tư duy
Nhà nước “ôm đồm” (hệ lụy từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung) vẫn còn tồn tại
tương đối phổ biến ở các cấp, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa nhiệm vụ của
Nhà nước, của thị trường và của các tổ chức xã hội. Điều này dẫn đến việc sử dụng
tiềm lực của Nhà nước bị phân tán, thậm chí vào cả những mục tiêu không phù hợp
với cơ chế thị trường.
+ Tư duy mệnh lệnh, chỉ huy
Tư duy Nhà nước chỉ đạo theo hướng ra
lệnh trực tiếp vẫn còn tồn tại, quan niệm giao kế hoạch vẫn còn được sử dụng một
cách thường xuyên. Mặc dù hầu hết các chỉ tiêu trong kế hoạch đều không còn
mang tính pháp lệnh như trước kia, song trên thực tiễn, với việc giao kế hoạch
đã làm cho các tổ chức cấp dưới luôn hiểu rằng đó là mệnh lệnh của cấp trên và
phải phấn đấu thực hiện bằng được.
● Tư duy cho việc điều tiết chưa
phù hợp với kinh tế nhiều thành phần
Nền kinh tế đã phát triển theo hướng
đa thành phần, trong đó tỷ trọng kinh tế nhà nước ở một số lĩnh vực có xu hướng
ngày càng nhỏ đi, trong khi đó Nhà nước vẫn còn sử dụng nhiều công cụ can thiệp
trực tiếp, không phù hợp với cơ chế thị trường.
Cách nhìn nhận chưa phù hợp về vai trò
kinh tế nhà nước cũng như sự phân biệt đối xử giữa thành phần kinh tế đã trở
thành một tác nhân tiêu cực cho quá trình phân bổ nguồn lực trong quá trình lập
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
● Tư duy phát triển còn mang tính
thành tích, hình thức
Tư duy phát triển còn mang nặng tính
hình thức, chạy theo quy mô, thể hiện rõ ở những chỉ tiêu, một số chương trình
đầu tư. Những hiện tượng như chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ở tất cả các địa
phương đều cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước, những chỉ tiêu đứng đầu khu
vực hay thế giới nhưng lại có hiệu quả kinh tế không cao là những minh chứng rõ
nét cho nhận định này.
Chính tư duy này mang tính thành tích
chủ nghĩa, bệnh hình thức trên là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm
tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực của đất nước.
d) Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương:
- Mục tiêu
Mỗi địa phương đều có những mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội riêng phù hợp với từng giai đoạn và phù hợp với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nhiệm vụ
Huy động mọi nguồn lực, áp dụng các giải
pháp để đạt mục tiêu đề ra, nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, an sinh
xã hội; đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội.
- Giải pháp
+ Liên kết giữa các địa phương để
phát triển bền vững
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010, cả nước được phân chia thành 6 vùng lớn như sau:
1. Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ.
2. Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam.
3. Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và
vùng KTTĐ miền Trung.
4. Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc
và Đông Bắc).
5. Tây Nguyên.
6. Đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày 28/9/2004, Thủ tướng Chính phủ có
Quyết định số 1022/QĐ-TTg về thành lập Ban chỉ đạo tổ chức điều phối các vùng
kinh tế trọng điểm để chỉ đạo tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm nói trên.
Chính phủ cũng đã ban hành Quy chế phối
hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm (Quyết định
số 159/2007/QĐ-TTg , ngày 10/10/2007), quy định sự phối hợp giữa các bộ, ngành
và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với các vùng
kinh tế trọng điểm (viết tắt là vùng KTTĐ) nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ để
đạt được hiệu quả cao trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và bảo
đảm quốc phòng, an ninh của các vùng KTTĐ, thực hiện thành công định hướng phát
triển của các vùng KTTĐ được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội; chủ trương, chính sách, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước về phát triển các vùng KTTĐ ở nước ta.
Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định
số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội (năm 2008 ban hành Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày
11/01/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP). Trong
đó, tại Mục 2 có nêu rõ về việc phải lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội 6 vùng kinh tế - xã hội trong cả nước và 3 vùng kinh tế trọng điểm.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể về phát
triển kinh tế - xã hội các vùng, các địa phương trên cả nước và trên cơ sở các
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội được cấp có thẩm quyền phê duyệt
đó, các chính sách về phát triển các vùng kinh tế cụ thể sẽ được ban hành.
Liên kết giữa các địa phương để cùng
phát triển, hình thành vùng kinh tế để tận dụng lợi thế địa lý, tài nguyên, lợi
thế kinh tế về quy mô và tạo ưu thế trong thu hút đầu tư đã diễn ra ở nhiều nước.
Trên thực tế, chính sách phát triển vùng kinh tế tạo mối liên kết chặt chẽ giữa
các tỉnh đóng vai trò quan trọng trong phát triển của cả quốc gia. Đối với những
nước đang trong quá trình chuyển đổi, trình độ phát triển còn thấp, nguồn lực hạn
chế, chính sách phát triển vùng càng cần phải được hoạch định hợp lý sao cho
đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng đất nước nhưng vẫn đảm bảo không gây ra các vấn
đề xã hội và môi trường.
Liên kết kinh tế được cho là sẽ mang lại
lợi ích cho các thành viên, ví dụ như:
Tiết kiệm được nguồn lực nhờ giảm được
chi phí cạnh tranh;
Tiết kiệm được nguồn lực nhờ sử dụng
chung cơ sở hạ tầng;
Tăng khả năng linh hoạt của mỗi bên
trong việc phát huy thế mạnh;
Tăng quy mô hoạt động nhờ có phân công
lao động xã hội;
Tăng sức mạnh cạnh tranh chung nhờ sử
dụng được những ưu thế riêng biệt của các bên v.v....
+ Làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch
Cần phải có sự phối hợp giữa quy hoạch
ngành và quy hoạch vùng để tránh tình trạng hai hệ thống quy hoạch này đá chéo
nhau gây nên phá vỡ hệ thống quy hoạch chung cả nước.
Việc xây dựng quy hoạch ngành, vùng và
quốc gia phải được thực hiện bởi đơn vị tư vấn độc lập có uy tín trong và ngoài
nước để tránh tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch trên giấy và không khả thi
như hiện nay.
Việc quản lý thực hiện quy hoạch cũng
phải được thực hiện triệt để bằng pháp luật hay các công cụ tài chính mạnh để
tránh tình trạng các vùng, các địa phương thực hiện không theo quy hoạch như hiện
nay.
Thông qua quy hoạch chung của cả nước,
Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ đối với những nhà đầu tư mà họ đầu tư theo đúng
quy hoạch của Nhà nước.
Cần có tiêu chí về liên kết kinh tế rõ
ràng để đưa ra những quyết định về vùng một cách hợp lý nhằm phát huy được thế
mạnh chung của toàn vùng thông qua liên kết và hỗ trợ giữa các vùng.
Đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT)
● Đầu tư đồng bộ CSHT cho vùng kém
phát triển.
● Hệ thống CSHT phải liên kết được giữa
các vùng.
● Trong trường hợp có Tổ chức điều phối
vùng thì Nhà nước hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thông qua tổ chức này chứ
không qua từng địa phương cụ thể.
Các vấn đề xã hội
● Chất lượng giáo dục phổ thông.
● Đầu tư cho y tế cả về số lượng và chất
lượng.
● Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực.
Vấn đề môi trường
● Phối hợp các vùng đưa ra giải pháp về
bảo vệ rừng.
● Cần đẩy mạnh và thường xuyên kiểm
tra về mức độ ô nhiễm môi trường một cách toàn diện.
Tổ chức điều phối phát triển
● Hình thành tổ chức điều phối phát
triển vùng có thẩm quyền.
● Quy định rõ những lĩnh vực chung, những
lĩnh vực bắt buộc phải phối hợp.
● Nguồn lực tài chính phục vụ cho lĩnh
vực chung.
+ Đổi mới công tác kế hoạch ở địa
phương
Trên cơ sở những phân tích nêu ở phần
trên, việc xây dựng một Mô hình kế hoạch mới cần phải hướng đến một số
yêu cầu sau:
Đa số các chỉ tiêu phải mang tính định
hướng, dự báo, tránh xu hướng quay trở lại kế hoạch hóa hiện vật thông qua
các chương trình, dự án cụ thể.
Quyết định kế hoạch là việc lựa chọn
các phương án phù hợp với mục tiêu đã định.
Quá trình xác định các mục tiêu và chỉ
tiêu kế hoạch được gắn liền với việc xây dựng pháp luật và chính sách.
Có sự liên kết chặt chẽ hơn giữa
nội dung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm.
Quá trình xây dựng kế hoạch, pháp luật
và chính sách cần có sự tham gia của nhiều tầng lớp trong xã hội.
Việc xây dựng và điều hành thực hiện kế
hoạch cần dựa trên cơ sở mô hình phân tích và dự báo, phù hợp với điều kiện
khách quan, tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí thông qua việc đánh giá quá
cao nguồn lực khả năng của nền kinh tế hoặc tư tưởng “năm sau phải tốt hơn năm
trước”.
Chất lượng của công tác kế hoạch hóa
phụ thuộc rất mạnh vào việc nâng cao chất lượng hệ thống thông tin và năng lực
cán bộ, bộ máy.
Tạo điều kiện cho nhân dân được tham
gia ý kiến vào các bản kế hoạch và tăng cường sự tham gia phản biện của các tổ
chức trong các bản kế hoạch.
+ Những vấn đề chú ý trong điều
hành kinh tế - xã hội ở địa phương:
● Thay đổi quan điểm về phát triển
vùng.
● Chính quyền địa phương phải phối hợp
với nhau.
● Dồn nguồn lực cho vùng phát triển.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy phân tích những tồn tại,
hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
2. Đồng chí hãy cho biết những giải
pháp để tháo gỡ những khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
2. Báo cáo của Chính phủ về tình hình
kinh tế - xã hội các năm, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015)
và nhiệm vụ 2014 - 2015.
3. Nghị quyết của Quốc hội về tình
hình kinh tế - xã hội các năm.
4. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020.
5. Học viện Hành chính Quốc gia. Hành
chính công. Dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học. NXB KHKT, H
2006.
6. Viện NCQLKTTW (2011). Kinh tế Việt
Nam 2010. Dự thảo tháng 5/2011.
7. Bùi Tất Thắng (2010). Các khu kinh
tế ven biển trong tiến trình đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển.
8. Hoài Ngân (2010). Toàn cảnh khu
kinh tế - khu công nghiệp Việt Nam: Nhìn lại chặng đường 20 năm. Đầu tư vào khu
kinh tế và khu công nghiệp Việt Nam. NXB Hà Nội, 2010.
9. Tổng Cục thống kê. Tình hình kinh tế
- xã hội Việt Nam mười năm 2001 - 2020. NXB Thống kê. 2011.
10. Bộ Nội vụ. Tài liệu bồi dưỡng Hội
đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016. NXB Chính trị - hành chính. 2011.
11. World Bank (1996), World Development
Report 1996: From Plan to Market, Oxford University Press, Washington D.C.
12. Trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư. Truy cập tại: www.mpi.gov.vn
13. Trang web của Tổng cục Thống kê.
Truy cập tại: www.gso.gov.vn
Chuyên đề 5 (Chuyên đề
báo cáo)
TỔNG
QUAN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Chủ trương cải cách hành chính nhà
nước của Đảng và Nhà nước ta
a) Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng
đến cải cách hành chính nhà nước:
- Sự cần thiết phải cải cách hành
chính
Cải cách hành chính (Public
administration reform) là thuật ngữ chỉ những hoạt động trong các cơ quan hành
chính nhà nước nhằm làm cho tổ chức quản lý của các cơ quan đó tốt hơn, phù hợp
hơn với môi trường trong đó các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đang tồn tại,
hoạt động.
Cải cách hành chính là một vấn đề được
quan tâm phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới nhằm làm đòn bẩy để nâng cao
hiệu quả của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, phát huy dân chủ và tiếng
nói của người dân trong hoạt động của bộ máy công quyền, củng cố và tăng cường
tiềm lực về mọi mặt cho đất nước.
Ở Việt Nam, song song với công cuộc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính cũng được Đảng và Nhà nước quan
tâm kịp thời. Trong Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã xác
định rõ: “Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn
về tổ chức bộ máy của các cơ quan”. Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa VII tháng 1/1995 cũng đã khẳng định lại một lần nữa tầm
quan trọng của cải cách hành chính: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”.
Cải cách hành chính nhà nước do đó
cũng có thể tiếp cận theo nhiều giác độ khác nhau:
+ Cải cách tổng thể của cả hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước;
+ Cải cách hành chính trên từng lĩnh vực
hoạt động quản lý hành chính nhà nước;
+ Cải cách hành chính nhà nước trong từng
tổ chức.
Theo nghĩa rộng:
Cải cách hành chính có thể hiểu là một
quá trình thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành
pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp
tác giữa các bộ phận và các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp
các nguồn lực để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm (dịch vụ hoặc
hàng hóa) phục vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền
lực. Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành chính là những thay đổi được thiết kế
có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của
bộ máy nhà nước: lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức; công tác cán bộ; tài
chính; chỉ huy; phối hợp; kiểm tra; thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp:
Cải cách hành chính có thể hiểu như là
một quá trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến
tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức
hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.
Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc (1971)
thì cải cách hành chính là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ
bản vào hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống hoặc
các phương thức để cải tiến ít nhất một trong bốn yếu tố cấu thành của nền hành
chính công: thể chế; cơ cấu tổ chức; nhân sự và tài chính công.
Theo các tài liệu hiện có ở nước ta và
căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa
VII, có thể định nghĩa cải cách hành chính ở nước ta là “trọng tâm của công
cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn nhà nước CHXHCN Việt Nam”, bao gồm những
thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện: thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức
và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp và đội ngũ công chức hành
chính để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính
công phục vụ dân.
Vậy, cải cách hành chính là quá trình
cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội
dung của nền hành chính nhà nước (như thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành,
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức...) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng
yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại. (Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia HCM. Thuật ngữ Hành chính - H. 2009).
- Những yếu tố ảnh hưởng đến cải
cách hành chính nhà nước
Các quốc gia có lịch sử, trình độ phát
triển khác nhau. Bởi vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến cải cách nền hành chính nhà
nước tùy theo từng thời kỳ cũng không giống nhau. Về cơ bản những yếu tố ảnh hưởng
đến cải cách hành chính nhà nước ở nước ta bao gồm:
+ Cải cách hành chính là cải cách quản
lý nhà nước của một bộ phận thực thi quyền lực nhà nước và phải gắn liền với đổi
mới, cải cách của các hệ thống thực thi quyền lực nhà nước khác.
+ Cải cách hành chính nhà nước chịu ảnh
hưởng trực tiếp của nhiều yếu tố của môi trường trong đó hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước tồn tại và hoạt động. Đó chính là các yếu tố bên trong và
bên ngoài của hành chính.
+ Cải cách hành chính là hoạt động của
Nhà nước nhằm đổi mới nền hành chính nhà nước từ hoạt động theo cơ chế tập
trung bao cấp sang một nền hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức, hoạt động phù
hợp đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
+ Cải cách hành chính là yêu cầu bức
xúc và là trọng tâm của việc xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
b) Quan điểm chỉ đạo đối với công cuộc
cải cách hành chính nhà nước:
- Ở nước ta đã và đang trải qua 2
chương trình cải cách hành chính nhà nước lớn là:
Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 và Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Từ thực tiễn của nền hành chính nhà nước,
bốn nội dung chủ yếu được đề cập như sau:
+ Cải cách thể chế nền hành chính;
+ Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế
hoạt động của hệ thống hành chính;
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
làm trong sạch một bước bộ máy hành chính nhà nước;
+ Cải cách tài chính công.
- Các quan điểm cơ bản về cải cách
hành chính ở nước ta là:
Thứ nhất: cải cách hành chính
phải đặt trong khuôn khổ các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ
thống chính trị và cải cách bộ máy nhà nước.
Thứ hai: cải cách hành chính
phải hướng đến mục tiêu phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự,
kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, xây dựng nền hành chính trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba: cải cách hành chính
phải tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng với đổi mới kinh tế, tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư: cải cách hành chính
là một chương trình lâu dài, liên tục, được tiến hành từng bước, vững chắc, có
trọng tâm, trọng điểm.
2. Đánh giá chung về cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010
a) Những kết quả chủ yếu đạt được:
- Về cải cách thể chế
Cải cách thể chế được xác định là nhiệm
vụ quan trọng và được quan tâm chỉ đạo thực hiện trong suốt thời gian qua. Quy
trình xây dựng và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật có nhiều đổi mới nhằm
làm rõ trách nhiệm giữa cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp và lấy ý kiến
người dân, xã hội đóng góp cho các văn bản dự kiến sẽ ban hành. Thực hiện kết hợp
giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo
xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động của hệ thống
hành chính.
Một loạt các luật được ban hành như:
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Phá
sản, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Hải quan, Luật Thương mại, Luật Điện lực...
đã kịp thời khắc phục tình trạng thiếu luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, dân
sự và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Chính quyền địa phương các cấp cũng đã
chú trọng ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm
quyền để cụ thể hóa các văn bản của Trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của địa phương. Trong đó đặc biệt quan tâm tới văn bản, thể chế để thu hút đầu
tư, xây dựng khu công nghiệp, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ các thành phần kinh tế
phát triển, phân cấp, ủy quyền cho các sở và cấp huyện trên nhiều lĩnh vực.
Thể chế về tổ chức bộ máy của hệ thống
hành chính tiếp tục được hoàn thiện, đổi mới thông qua việc ban hành Luật Tổ chức
Chính phủ (năm 2001), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm
2003), Luật Cán bộ, công chức (năm 2008) và trên 30 nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ cùng các văn bản về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân
dân và cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
- Cải cách thủ tục hành chính và thực
hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
Cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành
chính là một trong những lĩnh vực được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm
chỉ đạo, trọng tâm là thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính
trong giai đoạn 2007 - 2010.
Kết quả sau 10 năm triển khai cải cách
thủ tục hành chính đó thu được một số kết quả tích cực: Thủ tục hành chính về
đăng ký kết hôn, khai sinh, hộ khẩu, đăng ký doanh nghiệp đã đơn giản hóa và được
người dân, doanh nghiệp đánh giá cao.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã quan tâm và tích cực chỉ đạo thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2007 của
Thủ tướng Chính phủ.
Việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông đã góp phần tăng cường năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức
và cơ quan nhà nước; đã hình thành kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh
thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành
chính
+ Điều chỉnh một bước quan trọng về chức
năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và chính quyền địa phương các cấp để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp
trong hoạt động của bộ máy nhà nước;
+ Thực hiện phân cấp quản lý giữa
Trung ương với địa phương;
+ Sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức của
Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương các cấp.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức
+ Đổi mới công tác quản lý cán bộ,
công chức;
+ Cải cách tiền lương và các chế độ,
chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức.
- Cải cách tài chính công
+ Thực hiện Luật Ngân sách nhà nước;
+ Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP
ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ;
+ Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập;
+ Thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP
ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ
chức khoa học và công nghệ công lập.
+ Thực hiện Nghị định số 96/2010/NĐ-CP
ngày 20/10/2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập và Nghị định số
80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học công nghệ.
+ Thực hiện Nghị định số
117/2003/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về quy định chế độ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối
với các cơ quan nhà nước.
+ Thực hiện Quyết định số 592/QĐ-TTg
ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và tổ chức khoa học và công nghệ công
lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Hiện đại hóa nền hành chính nhà
nước
Những kết quả chủ yếu đạt được trong
thực hiện nhiệm vụ hiện đại hóa nền hành chính nhà nước là:
+ Đổi mới lề lối và phương thức làm việc;
+ Kỷ luật, kỷ cương hành chính;
+ Hội họp và giấy tờ hành chính;
+ Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng;
+ Tin học hóa quản lý hành chính;
+ Hiện đại hóa công sở.
- Công tác chỉ đạo, điều hành cải
cách hành chính
Hoạt động cải cách hành chính đã được
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân đa số các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quan tâm chỉ đạo. Các hoạt động của cơ quan hành chính được gắn
kết thường xuyên với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình tổng
thể.
Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đều
đã xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Chương trình tổng thể cải cách
hành chính, trong đó xác định những nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp thực hiện.
Công tác chỉ đạo thí điểm, làm thử, sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm đã được chú ý thực hiện. Chính phủ đã chỉ đạo sơ
kết 3 năm thực hiện Chương trình tổng thể; tổng kết công tác thí điểm cơ chế “một
cửa”, cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu; cơ chế khoán biên chế, cải
cách thủ tục thuế, thí điểm hải quan điện tử; tổng kết bước 1 thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường sau hơn một năm triển khai thực hiện
thí điểm ở 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các địa phương đã tổ chức
sơ kết rút kinh nghiệm, tổng kết đánh giá thực hiện các chủ trương, văn bản của
Chính phủ về cải cách hành chính.
Tóm lại, những kết quả chủ yếu trong cải
cách hành chính 10 năm được tập trung trên các mặt:
Thể chế của nền hành chính được cải
cách và hoàn thiện một bước cơ bản phù hợp với yêu cầu phát huy dân chủ với thiết
lập chế độ công khai, minh bạch và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thủ tục hành chính, nhất là thủ tục
trong giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và
doanh nghiệp có bước chuyển biến rõ rệt, theo hướng công khai, minh bạch tạo
thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả
hơn so với 10 năm trước đây: bớt trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đầu
mối các cơ quan Chính phủ được thu gọn hơn; cơ cấu bên trong có sự phân định rõ
hơn giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các
cơ quan hành chính nhà nước có bước điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quản lý nhà
nước và phục vụ xã hội.
Công tác xây dựng, quản lý đội ngũ cán
bộ, công chức có bước tiến mới, đã từng bước rà soát, điều chỉnh và ban hành đồng
bộ hệ thống tiêu chuẩn, chức danh công chức; tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch
công chức, viên chức.
Cải cách tài chính công đã đạt được kết
quả bước đầu; công tác quản lý tài chính, ngân sách có chuyển biến rõ nét. Việc
giám sát chi tiêu bằng quy chế chi tiêu nội bộ đã có chuyển biến tích cực.
Trụ sở làm việc từng bước được đầu tư
khang trang hơn, nhất là bộ phận một cửa cấp huyện. Việc áp dụng tiêu chuẩn
ISO, ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp quản lý khoa học trong hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước ngày càng được mở rộng và có kết quả rõ rệt.
b) Những hạn chế, yếu kém:
- Cải cách thể chế trong những năm
qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế và bất cập, cụ thể là:
+ Số lượng văn bản được ban hành nhiều
nhưng chất lượng chưa cao, chưa thể hiện nhất quán và thấu suốt tinh thần cải
cách hành chính. Hệ thống văn bản thiếu tính toàn diện, đồng bộ, chồng chéo,
trùng lắp.
+ Một số thể chế cơ bản cũng chậm được
xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện. Thể chế hoạt động công vụ, về trách nhiệm thực
thi công vụ của từng cơ quan hành chính, chức trách của từng vị trí cán bộ,
công chức chưa rõ và cụ thể, chưa đảm bảo tính minh bạch. Tình trạng Luật chờ
Nghị định, Nghị định chờ Thông tư vẫn là phổ biến.
+ Tổ chức thực hiện thể chế vẫn còn
nhiều yếu kém, chậm được khắc phục. Nhiều thể chế không được tổng kết, sửa đổi,
bổ sung kịp thời trong quá trình kiểm tra thực hiện.
+ Cải cách thủ tục hành chính tuy đã
được thực hiện từ nhiều năm nay, nhưng nhìn chung vẫn chưa xóa bỏ về cơ bản các
thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp
và nhân dân như mục tiêu đã đề ra.
+ Triển khai thực hiện cơ chế một cửa,
một cửa liên thông vẫn còn thiếu đồng bộ, thủ tục giải quyết một số loại hồ sơ
hành chính cũng bị cắt khúc theo cấp hành chính, chưa tạo thành quy trình giải
quyết thống nhất từ Trung ương đến địa phương nên vẫn còn gây phiền hà cho tổ
chức, công dân khi thực hiện các giao dịch hành chính.
+ Ý thức trách nhiệm thi hành công vụ,
thái độ phục vụ nhân dân của đa số cán bộ, công chức tuy đã có chuyển biến
nhưng còn chậm.
+ Tại một số địa phương cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của bộ phận một cửa chưa được quan tâm đầu
tư đầy đủ. Việc thực hiện công khai thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa chưa
được tốt, như: không đầy đủ, thiếu thông tin, không cập nhật kịp thời các quy định
mới. Thậm chí có nơi công khai thủ tục nhưng lại thiếu mẫu đơn, mẫu tờ khai.
- Về tổ chức bộ máy
+ Tổ chức bộ máy vẫn còn sự chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan về một số lĩnh vực nên khó xác định rõ
trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và kết quả công tác quản lý nhà nước
trong các lĩnh vực cũng chồng chéo.
+ Phân cấp Trung ương - địa phương khá
mạnh và toàn diện, nhưng điều kiện để thực hiện về tài chính, con người, cơ sở
vật chất chưa được chú trọng đầu tư đồng bộ nên làm hạn chế tác dụng của sự
phân cấp.
- Về xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức
+ Những giải pháp đổi mới theo hướng
hiện đại hóa công tác quản lý cán bộ, công chức, chậm được triển khai dẫn đến
các cơ quan hành chính vẫn ôm đồm nhiều việc, cản trở và can thiệp sâu vào hoạt
động của các đơn vị cơ sở.
+ Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng,
thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm
thay đổi. Công tác đánh giá cán bộ, công chức còn chung chung, hình thức, chưa
có tiêu chí phân loại cụ thể, rõ ràng, cho nên chưa đánh giá chính xác được chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
+ Tiền lương thấp dẫn đến đời sống của
cán bộ, công chức còn nhiều khó khăn, chưa đạt mục tiêu đề ra “đến năm 2005, tiền
lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền
công vụ, bảo đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình”.
+ Nội dung và phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có một số đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn chưa có
những cải cách cơ bản như Chương trình tổng thể đã đặt ra. Tính quy hoạch trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chưa cao.
+ Một bộ phận cán bộ, công chức suy
thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và
tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội.
- Về cải cách tài chính công
Việc thực hiện Nghị định 130/2005/NĐ-CP
ngày 17/10/2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sử dụng
biên chế và kinh phí chi hành chính vẫn còn một số cơ quan chưa thật sự quan
tâm, chỉ đạo thực hiện sát sao.
Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP nhiều
Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp chỉ quan tâm đến quyền lợi được hưởng mà chưa thấy
hết trách nhiệm, nghĩa vụ khi thực hiện quyền tự chủ.
- Về hiện đại hóa công sở hành
chính
+ Chưa có sự chuyển biến, thay đổi cơ
bản trong phương thức và lề lối làm việc của các cơ quan hành chính. Hoạt động
của các cơ quan hành chính vẫn chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Vẫn còn tình trạng hội họp nhiều, giấy
tờ hành chính gia tăng. Chế độ họp chậm được đổi mới; thiếu quy định cụ thể để
nâng cao chất lượng các cuộc họp. Nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo
sự đồng thuận trong nhiều vấn đề còn máy móc làm triệt tiêu tính chủ động và
trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
+ Trụ sở làm việc, nhất là diện tích
dành cho bộ phận một cửa cấp xã, phường còn nhiều hạn chế, khó khăn. Sau 65 năm
xây dựng và củng cố chính quyền, đến nay vẫn còn 10 - 15% trụ sở xã là nhà cấp
4, không bảo đảm điều kiện làm việc.
- Những hạn chế, yếu kém trong công
tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính
+ Cải cách hành chính là khâu đột phá,
có tác động mạnh mẽ đến toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
nhưng công tác chỉ đạo thực hiện chưa ngang tầm, chưa kiên quyết và đồng bộ giữa
các nội dung cải cách hành chính, chưa ráo riết, thường xuyên cũng như bám sát
các mục tiêu cải cách để thực hiện có kết quả cao hơn.
+ Chưa có sự đồng bộ, gắn kết giữa cải
cách hành chính với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, với cải cách về lập pháp và
tư pháp.
+ Ban Chỉ đạo cải cách hành chính các
cấp hoạt động vẫn còn hình thức, chưa hoạt động thường xuyên, hiệu quả hoạt động
chưa cao, đến giai đoạn 2006 - 2010 không còn ban chỉ đạo cải cách hành chính của
các bộ, ngành, địa phương.
* Tóm lại, những hạn chế, yếu kém
trong cải cách hành chính nhà nước 2001 - 2010 là:
Nhiều cấp, nhiều ngành chưa đặt đúng cải
cách hành chính là một trong ba giải pháp cơ bản thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010.
Hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ, thống
nhất, còn chồng chéo, nhiều về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế.
Có sự giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ,
nhưng bộ máy trong các bộ còn chưa giảm, công tác kiểm tra sau phân cấp còn
buông lỏng.
Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức
trong các cơ quan hành chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ
nhiệm.
Cải cách tài chính công thực hiện mới
chỉ là bước đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài
chính cũng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế.
Việc hiện đại hóa công sở chưa đồng bộ,
dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở xã vẫn chưa thực hiện
được như Chương trình tổng thể đề ra. Ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục
tiêu của Chương trình tổng thể.
c) Nguyên nhân của các hạn chế, yếu
kém:
- Cải cách hành chính là công việc khó
khăn, phức tạp, nhiều lực cản. Tuy được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên
nhưng khâu tổ chức triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa phương chưa ngang
tầm nhiệm vụ.
- Cải cách hành chính có mối quan hệ hữu
cơ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, nhưng do đặc điểm cấu trúc hệ thống
chính trị nước ta nên thực chất, đó là ba bộ phận cấu thành cải cách nhà nước
không tách rời nhau.
Vì vậy, hiện tại vẫn thiếu một giải
pháp cần thiết đủ tầm về mặt chỉ đạo để bảo đảm sự kết nối có hiệu quả.
- Một số mục tiêu xây dựng còn định
tính nên rất khó đánh giá đúng hiệu quả, khó làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tập
thể, cá nhân có liên quan trong tổ chức thực hiện.
- Nhiều vấn đề quan trọng, cốt lõi
nhưng chưa được làm rõ về mặt cơ sở lý luận nên khi triển khai còn lúng túng,
khó tạo ra sự thống nhất cao trong chủ trương, nhận thức và cách làm.
- Nhiệm vụ đề ra nhiều nhưng chưa gắn
với biện pháp bảo đảm cần thiết nên làm không đến nơi, đến chốn.
- Hệ thống chỉ đạo, triển khai công
tác cải cách hành chính thiếu đồng bộ, thống nhất. Một số cơ cấu bị giải thể
nhưng không có hướng dẫn thay thế phù hợp.
- Nhiều nội dung hoạt động cải cách
hành chính do các Bộ chủ trì (ISO, một cửa, Đề án 30, ứng dụng công nghệ thông
tin...) chưa có sự thống nhất về cách tổ chức chỉ đạo, điều hành, khác nhau về
định mức chi, các cơ chế đãi ngộ... thiếu điều phối chung. Nguồn lực và những điều
kiện bảo đảm cần thiết cho cải cách hành chính chưa ngang tầm, kể cả nguồn lực
con người và tài chính.
- Tính chuyên nghiệp và chuyên sâu, kỹ
năng hành chính của cán bộ, công chức còn thấp.
d) Những bài học kinh nghiệm:
Quá trình triển khai thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính mười năm qua, từ những thành công cũng như
những hạn chế, yếu kém đã cho phép rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
- Nhận thức của các cấp, các ngành về mục
tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cải cách hành chính đối với công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước có ý nghĩa, tác dụng quyết định chi phối tới hành động cụ
thể trực tiếp trong cải cách hành chính.
- Bảo đảm sự nhất quán, kiên trì, liên
tục trong triển khai cải cách hành chính từ xây dựng chương trình, kế hoạch cải
cách hành chính hàng năm của Chính phủ, các bộ, ngành, Trung ương và các tỉnh cần
xác định rõ các mục tiêu, các nhiệm vụ và giải pháp đến tổ chức và kiểm tra thực
hiện; đánh giá, kiểm điểm kết quả cải cách hành chính phải dựa vào đánh giá những
mục tiêu đã đề ra cũng như tác động tới xã hội của cải cách hành chính.
- Nâng cao vai trò của cơ quan chủ trì
tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong hoạt động điều phối chung, tổng
hợp đôn đốc và theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính. Vai
trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu cơ quan hành chính
các cấp là điều kiện quan trọng bảo đảm sự thành công của cải cách hành chính.
- Coi trọng công tác thí điểm trong
triển khai cải cách hành chính. Thông qua thí điểm đánh giá, sơ kết, tổng kết,
rút ra những vấn đề cần xử lý tiếp và nhân rộng nếu thấy phù hợp.
3. Thực hiện cải cách hành chính nhà
nước trong giai đoạn 2011 - 2020
Ngày 8/11/2011 Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương tình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020; gồm những nội dung cơ bản sau:
a) Quan điểm:
- Cải cách hành chính phải được tiến
hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, cải cách lập pháp và cải cách tư pháp.
- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu
cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển, đổi mới và hội nhập quốc tế, bảo đảm tạo thuận
lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống
tham nhũng.
- Nền hành chính phải được tổ chức
thành một hệ thống thống nhất, thông suốt, bảo đảm tính công khai minh bạch, chế
độ trách nhiệm rành mạch, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức chịu sự giám
sát chặt chẽ của nhân dân.
- Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ
và đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện
phân công, phân cấp rõ ràng và phù hợp, phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp
chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và
người đứng đầu cơ quan hành chính.
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính
và phát triển của đất nước.
- Cải cách phải hướng tới xây dựng một
nền hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học
- công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
b) Mục tiêu của Chương trình:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất,
huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng,
thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh
phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục
hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện
đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều
hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền
dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và
lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân
dân và sự phát triển của đất nước.
Trọng tâm cải cách hành chính trong
giai đoạn mười năm tới là: Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm
tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất
lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch
vụ công.
c) Nhiệm vụ của Chương trình:
- Cải cách thể chế
Cải cách thể chế có 8 nội dung cơ bản:
+ Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung và Hiến pháp sửa đổi,
bổ sung năm 2013;
+ Đổi mới và nâng cao chất lượng công
tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh,
nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa
phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của
các văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong
đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước
hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể
chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng
đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;
+ Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh
nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định rõ vai trò quản lý của nhà nước với
vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản,
vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước;
hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong
việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp;
+ Xây dựng, hoàn thiện quy định của
pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định
các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
- Cải cách thủ tục hành chính
Chương trình tổng thể cải cách hành
chính giai đoạn 2000 - 2010 xác định nhiệm vụ trọng tâm là cải cách thủ tục
hành chính, đến Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2010 - 2020
cải cách thủ tục hành chính có 7 nội dung sau:
+ Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ
tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành
chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;
+ Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện
cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải
phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm
điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững. Cần tập
trung một số lĩnh vực: đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở... theo yêu cầu
cải cách trong từng giai đoạn;
+ Cải cách thủ tục hành chính giữa các
cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan
hành chính nhà nước;
+ Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới
các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật;
+ Công khai, minh bạch tất cả các thủ
tục hành chính bằng các hình thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất
cách tính chi phí;
+ Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành
chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ,
phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng
thể chế; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát
việc thực hiện;
+ Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị
của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng
các quy định hành chính và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước bao gồm 4 nội dung:
+ Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác
thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương;
+ Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức
và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức
phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu
lực, hiệu quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù
hợp. Hoàn thiện cơ chế phân cấp;
+ Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc
của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực
hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức
đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm
2020;
+ Cải cách và triển khai trên diện rộng
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất
lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối
với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế
đạt mức trên 80% vào năm 2020.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức gồm 9 nội dung sau:
+ Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành
công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính
chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
+ Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công
chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý;
+ Trên cơ sở xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức
hợp lý gắn với vị trí việc làm;
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về
tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường
của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo
nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo,
quản lý từ cấp Vụ trưởng, Giám đốc sở và tương đương;
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về
đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được
giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ,
vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân;
+ Đổi mới nội dung và chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng
theo các hình thức khác nhau;
+ Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải
cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến
năm 2020 tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo
đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung
bình khá trong xã hội. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài
lương. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ,
công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
+ Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ
cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
- Cải cách tài chính công
Nhiệm vụ cải cách tài chính công có 4
nội dung:
+ Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện
chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công;
thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư
phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách chính sách tiền
lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
+ Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính
đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty;
quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc
gia và nợ công trong giới hạn an toàn;
+ Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh
phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ
theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các
đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và
quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;
+ Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho
cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng
biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt
động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của
các cơ quan hành chính nhà nước;
+ Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, thể dục, thể
thao. Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp
dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp
công phù hợp. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất
lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm
y tế, khám, chữa bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Hiện đại hóa hành chính
Hiện đại hóa nền hành chính có 5 nhiệm
vụ cơ bản:
+ Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của
mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ
quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức,
viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ
liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao
dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử,
mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết
các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện - tử hành
chính của Chính phủ;
+ Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa
các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá
nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn
vị sự nghiệp công;
+ Công bố danh mục các dịch vụ hành
chính công trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet.
Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan
hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách
thủ tục hành chính;
+ Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản
lý chất lượng trong các cơ quan hành chính nhà nước;
+ Thực hiện Quyết định số 1441/QĐ-TTg
ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đầu
tư trụ sở cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước;
+ Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương hiện đại, tập trung ở những nơi có điều kiện.
- Các giai đoạn thực hiện Chương
trình
Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước 10 năm được chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: 2011 -
2015
Gồm 10 mục tiêu sau đây:
+ Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn
vị ở Trung ương và địa phương để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan hành chính nhà nước; trách
nhiệm, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được phân định hợp lý;
+ Quy trình xây dựng và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật được đổi mới cơ bản;
+ Thể chế về sở hữu đất đai, doanh
nghiệp nhà nước được xây dựng và ban hành ngày càng phù hợp với cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Thủ tục hành chính liên quan đến cá
nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản; mỗi năm đều có
tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành
chính tại cơ quan hành chính nhà nước;
+ Cơ chế một cửa, một cửa liên thông
được triển khai 100% vào năm 2013 tại tất cả các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ
quan hành chính nhà nước đạt mức trên 60%;
+ Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ
sự nghiệp công, bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự
nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm
2015;
+ 50% các cơ quan hành chính nhà nước
có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; trên 80% công chức cấp xã ở
vùng đồng bằng, đô thị và trên 60% ở vùng miền núi, dân tộc đạt tiêu chuẩn theo
chức danh;
+ Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối
với cán bộ, công chức, viên chức. Tập trung nguồn lực ưu tiên cho điều chỉnh mức
lương tối thiểu chung; xây dựng và ban hành cơ chế tiền lương riêng đối với từng
khu vực: Khu vực hành chính do ngân sách nhà nước bảo đảm và tính trong chi quản
lý hành chính nhà nước; khu vực lực lượng vũ trang do ngân sách nhà nước bảo đảm
và tính trong chi ngân sách nhà nước cho quốc phòng, an ninh; khu vực sự nghiệp
công do quỹ lương của đơn vị sự nghiệp bảo đảm và được tính trong chi ngân sách
nhà nước cho ngành;
+ 60% các văn bản, tài liệu chính thức
trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên mạng điện tử;
100% cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên có cổng thông tin điện tử
hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định; cung cấp
tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản
trực tuyến mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp;
+ Các trang tin, cổng thông tin điện tử
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc kết nối với Cổng thông tin điện
tử Chính phủ, hình thành đầy đủ Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ
trên Internet.
Giai đoạn 2: 2016 -
2020
Gồm 7 mục tiêu sau đây:
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa;
+ Hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước từ Trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu
quả;
+ Thủ tục hành chính được cải cách cơ
bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức
trên 80% vào năm 2020;
+ Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành
công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100%
các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc
làm;
+ Chính sách tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức được cải cách cơ bản; thực hiện thang, bảng lương và các
chế độ phụ cấp mới; đến năm 2020 đạt được mục tiêu quy định tại Điểm h, Khoản
4, Điều 3 Nghị quyết này;
+ Sự hài lòng của cá nhân đối với dịch
vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trên các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức
trên 80% vào năm 2020; sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với sự phục
vụ của các cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;
+ Đến năm 2020, việc ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đạt
được mục tiêu quy định tại Điểm a Khoản 6 Điều 3 Nghị quyết này.
d) Giải pháp thực hiện Chương trình cải
cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020:
- Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của
Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đề
xuất 7 giải pháp tổ chức thực hiện sau:
+ Tăng cường công tác chỉ đạo việc thực
hiện cải cách hành chính từ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
+ Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả.
+ Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính ở các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp.
+ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện cải cách hành chính để có những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh cải
cách hành chính.
+ Phát triển đồng bộ và song hành,
tương hỗ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông với cải cách hành chính.
+ Đảm bảo kinh phí cho việc thực hiện
Chương trình.
+ Cải cách chính sách tiền lương nhằm
tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công vụ có chất
lượng và hiệu quả cao.
* Cải cách hành chính nhà nước ở địa
phương
- Phương hướng chung:
+ Nghiên cứu tổ chức lại các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng tách quản trị
hành chính nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp, cơ quan chuyên môn hoạt động
mang tính tác nghiệp hoặc cung ứng dịch vụ hành chính công trong từng ngành,
lĩnh vực; theo đó, hình thành loại hình tổ chức phù hợp với chức năng và nội
dung hoạt động mới thông qua hình thức đấu thầu, đặt hàng, đồng thời nghiên cứu
mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã theo quy định của pháp luật;
+ Cùng với việc thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, tiếp tục nghiên cứu điều
chỉnh và phân biệt rõ cơ cấu chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Yêu cầu cụ thể
+ Chuyển dần từ cơ chế phân cấp quản
lý Trung ương - địa phương sang cơ chế trao quyền tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đủ điều kiện, năng lực
giải quyết những vấn đề phát triển bền vững kinh tế - xã hội và môi trường ở địa
phương, đặc biệt là đối với những địa phương tự cân đối được ngân sách. Luật
hóa quan hệ giữa Trung ương với chính quyền địa phương trên từng lĩnh vực cụ thể,
thay cho cơ chế giao nhiệm vụ và chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ, chấp hành sau
phân cấp;
+ Đối với những địa phương không đủ khả
năng cân đối ngân sách, hoặc nằm trên địa bàn chiến lược về an ninh - quốc
phòng cần sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương thì nên có cơ chế phân cấp quản
lý phù hợp, theo nguyên tắc phân định rõ chức năng, thẩm quyền và tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quyết định những vấn đề đã được
phân cấp.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy cho biết những yếu tố
tác động đến công tác cải cách hành chính nhà nước ở nước ta?
2. Đồng chí hãy cho biết tại sao cải
cách hành chính phải tiến hành đồng thời với cải cách tư pháp và cải cách kinh
tế?
3. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất những giải pháp để thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính ở địa
phương?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các kỳ Đại hội.
2. Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010.
3. Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
4. Học viện Hành chính. Hành chính
công. Dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học. KHKT, H 2006.
5. Học viện Hành chính Quốc gia. Tài
liệu bồi dưỡng QLHCNN. Hà Nội, 2013.
6. Đoàn Trọng Truyến (Chủ biên). Một số
vấn đề về xây dựng và cải cách nền hành chính nhà nước ta. NXB Chính trị quốc
gia. H 1996.
7. Học viện Hành chính. Cải cách hành
chính nhà nước ở Việt Nam từ góc nhìn của các nhà khoa học. Kỷ yếu hội thảo.
NXB Lao động. 2011./.
Phần II
KỸ NĂNG THAM MƯU VÀ QUẢN LÝ ĐIỀU
HÀNH
Chuyên đề 6
KỸ
NĂNG THAM MƯU HOẠCH ĐỊNH, TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH CÔNG
1. Nhận thức chung về chính sách công
a) Khái quát về chính sách công:
- Khái niệm
Chính sách công là công cụ để Nhà nước
giải quyết những vấn đề công liên quan đến lợi ích của các nhóm người khác nhau
trong xã hội. Theo tiến trình lịch sử, thì những quan tâm đầu tiên về chính
sách công đã xuất hiện từ chế độ dân chủ ở Hy Lạp.
Ở Việt Nam, để thực hiện vai trò của một
nhà nước dân chủ nhân dân, ngay từ khi mới thành lập Đảng và Chính phủ đã xác định
mục tiêu của chính sách kinh tế là thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất
và văn hóa ngày càng tăng của cả xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa và nền khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Từ thực tế tồn tại của chính sách công
trong đời sống xã hội có thể tiếp cận chính sách công dưới nhiều góc độ khác
nhau. Nếu như chính sách được hiểu là: những hành động ứng xử của chủ thể với
các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động, phát triển nhằm đạt mục tiêu
nhất định thì khái niệm chính sách công là: những hành động ứng xử của Nhà nước
với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
- Cấu trúc chính sách công
Cấu trúc của chính sách công bao gồm
hai bộ phận cơ bản hợp thành và thống nhất với nhau là: mục tiêu chính sách và
biện pháp chính sách. Mục tiêu và biện pháp chính sách công luôn có mối quan hệ
chặt chẽ và mang tính định hướng rõ rệt cho sự lựa chọn hành động của các chủ
thể trong điều kiện không gian và thời gian.
Mục tiêu chính sách công là những giá
trị hướng tới phù hợp với yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Biện
pháp của chính sách công là cách thức mà Nhà nước sử dụng trong quá trình hành
động để tối đa hóa kết quả về lượng và chất của mục tiêu chính sách, hay còn gọi
là những biện pháp của chính sách.
- Phân loại chính sách công
Trong lãnh đạo, điều hành hoạt động thực
tế, Nhà nước phải sử dụng nhiều loại công cụ quản lý mới đạt được kết quả mong
muốn. Mỗi loại công cụ đều có những tính năng, tác dụng nhất định phù hợp với mục
đích, yêu cầu sử dụng của Nhà nước. Nhà nước không những phải ban hành các
chính sách đối nội để định hướng, tạo động lực, phối hợp, điều chỉnh các hoạt động
kinh tế - xã hội; mà còn phải tạo lập môi trường và ban hành các chính sách đối
ngoại để ứng phó với những biến cố xảy ra từ phía bên ngoài.
Hoạt động kinh tế - xã hội, môi trường
lại đan kết vào nhau hết sức phức tạp, do vậy các chính sách tồn tại trong điều
kiện trên vừa thúc đẩy nhau, lại vừa kìm hãm lẫn nhau. Nếu không nắm chắc các
loại chính sách trong hệ thống nhà nước có thể bỏ sót những lĩnh vực cần điều
chỉnh bằng chính sách hoặc gây ra sự chồng chéo giữa các chính sách làm hạn chế
tác dụng của chúng, vì thế phải tiến hành phân loại chính sách trong một hệ thống.
Hiện nay nhiều quốc gia thực hiện phân
loại chính sách công theo mục tiêu tác động nên chỉ bao gồm ba loại cơ bản là:
chính sách phát triển con người, chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
b) Vai trò của chính sách công trong
quản lý nhà nước:
- Định hướng cho các hoạt động kinh
tế - xã hội
Khác với các công cụ định hướng như
chiến lược, kế hoạch; mục tiêu chính sách định hướng cho các quá trình vận động
phù hợp những giá trị tương lai mà Nhà nước hướng tới. Giá trị đó phản ánh ý
chí của Nhà nước trong mối quan hệ với những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội.
Cùng với mục tiêu, các biện pháp chính sách cũng có vai trò định hướng cho các
biện pháp phát triển kinh tế - xã hội khác. Vì biện pháp chính sách chứa đựng
tính cơ chế cao, nên nó có tác động thúc đẩy, cân bằng hay kìm hãm rất lớn đến
tính chất vận hành của hệ thống quản lý. Các biện pháp tác động của Nhà nước
tuân theo cơ chế tác động của chính sách công vừa nhanh chóng đạt được mục tiêu
quản lý vừa tạo ra tính đồng bộ trong hệ thống quản lý nhà nước.
- Công cụ trong quản lý nhà nước
Tạo lập các cân đối trong phát triển
cũng là một vai trò quan trọng của chính sách công. Cách thức tạo lập được thực
hiện từ nhiều vai trò khác của chính sách như khuyến khích các tiềm năng trong
tương lai của những ngành, lĩnh vực và vùng kém phát triển để nhanh chóng cân bằng
với các ngành hay vùng khác.
Dẫn dắt, hỗ trợ các bộ phận cấu thành
nền kinh tế - xã hội vận động, phát triển theo định hướng. Theo mục tiêu lựa chọn,
các chủ thể mong muốn đối tượng cũng vận động hướng tới mục tiêu trên bằng cách
ban hành chính sách phát triển chung. Trong quá trình vận động phát triển, có bộ
phận vận động nhanh, bộ phận vận động chậm nên chủ thể cần ban hành chính sách
để khuyến khích kịp thời các bộ phận này.
- Hỗ trợ các chủ thể tham gia phát
triển xã hội
Chính sách công hỗ trợ các hoạt động
kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng. Thái độ ứng xử của chủ thể biểu lộ
rõ những xu thế tác động đến các đối tượng để chúng vận động theo hướng nào
(tăng cường, ổn định hay giảm thiểu). Sự tác động theo xu thế như vậy sẽ không
bao gồm các định mức cụ thể mà chỉ mang tính khuyến khích, nghĩa là nó có thể
thúc đẩy hay kìm hãm sự vận động theo quy luật của đối tượng nhằm đạt mục tiêu
dự kiến.
Chính sách công phát huy những mặt tốt
của nền kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Kinh tế
thị trường mang nhiều đặc trưng của một xã hội văn minh, có trình độ phát triển
cao. Trong nền kinh tế thị trường quy luật cạnh tranh cùng tồn tại với các quy
luật thị trường khác làm cho các nhà đầu tư hay sản xuất kinh doanh không ngừng
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ nhằm tăng năng suất lao động. Tuy nhiên,
cùng với sự vận động của thị trường, quy luật cạnh tranh cũng diễn ra khốc liệt
trong từng ngành, từng lĩnh vực từ đó dẫn đến độc quyền làm tổn hại đến cả nền
kinh tế, đến các nhà đầu tư và người tiêu dùng trong xã hội. Trước thực tế đó,
Nhà nước không chỉ dùng chính sách để khuyến khích cạnh tranh mà còn dùng chính
sách để hạn chế những biểu hiện không lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh như
các chính sách thuế, chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách ưu đãi đặc
biệt v.v....
- Kiểm soát và phân bổ các nguồn lực
trong xã hội
Các chủ thể, nhất là Nhà nước luôn
luôn quan tâm đến việc quản lý, sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Với mục
tiêu phát triển bền vững, bao gồm cả lượng và chất trong hiện tại và tương lai,
nên tài nguyên tự nhiên và xã hội của một quốc gia trở thành vấn đề trung tâm
trong quản lý của các nhà nước.
Chính sách công góp phần tạo lập môi
trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp cho các thực thể vận
động phát triển theo đúng quy luật. Nếu môi trường có những yêu cầu khắt khe
ngược quy luật nó sẽ làm cho thực thể khó tồn tại hoặc bị diệt vong. Như vậy,
chính sách phải làm cho môi trường trở nên thuần khiết hơn bằng sự thống nhất
cao độ trong mục tiêu thực hiện và sự phong phú đa dạng của các giải pháp thực
hiện. Thống nhất thái độ ứng xử của chủ thể với các vấn đề kinh tế - xã hội
chính là đã tạo ra một môi trường ổn định, giúp cho các thực thể xác định được mục
tiêu vận động của mình. Còn sự phong phú về các giải pháp thực hiện sẽ làm cho
các thực thể năng động tìm cách ứng phó hiệu quả nhất với môi trường để tồn tại.
Điều này sẽ mang lại động lực mạnh cho các thực thể chiến thắng trong môi trường
cạnh tranh.
- Tăng cường sự phối hợp hoạt động
giữa các cấp hành chính
Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các
cấp độ, các bộ phận trong xã hội để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ. Kết quả đạt
được của Nhà nước do nhiều loại hoạt động tạo thành theo một trình tự nhất định,
nếu bị đảo lộn sẽ làm biến dạng kết quả hoặc chuyển thành những kết quả không
mong muốn. Bởi vậy, Nhà nước phải đề ra mục tiêu chính sách thống nhất để mọi
thành phần đều hướng tới mục tiêu chung trên cơ sở thực hiện tốt những mục tiêu
bộ phận của mình.
c) Chu trình chính sách:
- Khái niệm
Một trong những cách thức phổ biến nhất
để đơn giản hóa việc ban hành chính sách công là chia tách quá trình chính sách
thành các công đoạn riêng biệt hay các tiểu giai đoạn. Các tiểu giai đoạn có
liên quan với nhau hợp thành một chuỗi kế tiếp nhau nhằm duy trì hoạt động của
một chính sách được gọi là chu trình chính sách công.
Chu trình chính sách công là các bước
(giai đoạn, hoạt động) của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hình thành chính
sách công trong xã hội.
- Các bước trong chu trình chính
sách công
Các bước trong chu trình chính sách
công gồm:
+ Tìm kiếm lựa chọn đề xuất vấn đề
chính sách;
+ Hoạch định chính sách;
+ Phê duyệt chính sách;
+ Thực thi chính sách;
+ Đánh giá chính sách;
+ Điều chỉnh chính sách.
2. Tham mưu hoạch định chính sách công
a) Khái niệm:
- Tham mưu
Cuộc sống của bất cứ người dân nào
trong xã hội, cho dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các chính sách công.
Nói một cách đơn giản, chính sách công là sự lựa chọn cách thức hành động của
nhà nước để giải quyết một vấn đề nào đó trong xã hội thông qua việc ban hành
các luật lệ, quy định, quyết định. Trong hoạt động của đời sống xã hội, chúng
ta thường gặp những khái niệm:
+ Đề xuất: là nêu ra, góp thêm ý kiến
để giải quyết cho đúng, cho hợp lý;
+ Giúp việc: là làm những việc trợ
giúp cho công việc chính;
+ Tham gia: là dự vào, góp phần vào.
Bởi vậy, khái niệm tham mưu được hiểu là:
góp ý kiến về chủ trương, kế hoạch và biện pháp cho một người hay một tổ chức
trong thực thi công vụ. Trong hoạt động quân sự, tham mưu là: góp ý kiến, giúp
người chỉ huy trong việc đặt ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch quân sự.
Trong thực tế có những chức danh gắn
liền với hoạt động tham mưu, như: Tham mưu trưởng; cơ quan tham mưu, tổ chức
tham mưu; cán bộ tham mưu....
- Tham mưu hoạch định chính sách
công
Tham mưu hoạch định chính sách công là
khi một tổ chức hoặc một cá nhân tham gia vào việc đề xuất, thiết kế một chính
sách, kế hoạch, một chương trình và tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch,
chương trình của một chủ thể quyền lực lãnh đạo, quản lý nhất định. Ví dụ: Tổ
chức cán bộ là cơ quan tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan cùng cấp về chủ trương
và các chính sách lớn thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của cơ
quan. Bởi vậy, cơ quan lãnh đạo, quản lý cấp nào, ngành nào thì có tổ chức và
cán bộ tham mưu cấp ấy, ngành ấy.
Tham mưu trong hoạch định chính sách
công đối với lãnh đạo cấp sở là: Giám đốc sở chịu trách nhiệm toàn bộ về quá
trình nghiên cứu, xây dựng, ban hành, tổ chức và đánh giá chính sách thuộc phạm
vi chức năng, nhiệm vụ của sở theo quy định của pháp luật.
b) Ý nghĩa, nguyên tắc trong tham mưu
hoạch định chính sách công của lãnh đạo cấp sở và tương đương:
- Ý nghĩa
+ Tham mưu hoạch định chính sách công
được coi là một loại hoạt động quản lý đặc biệt cho cả một giai đoạn tồn tại,
phát triển của thực thể nhằm đạt mục tiêu quản lý. Nếu tham mưu đúng đắn, khoa
học sẽ giúp cho thực thể quyết định đúng, có nhiều thuận lợi trong quá trình vận
động đến mục tiêu, còn tham mưu đó sai sẽ làm cho thực thể quyết định sai,
không những mất phương hướng trong quá trình vận động, mà còn gây ra những hậu
quả không mong muốn cho mục tiêu quản lý.
+ Tham mưu hoạch định chính sách công
mở đường cho cả tiến trình chính sách. Chu trình chính sách là một hệ thống
khép kín theo hướng ngày càng hoàn thiện, trong đó hoạch định chính sách được
xem là bước chuyển lên bậc cao hơn trong chu trình. Những vấn đề được đúc kết
trong suốt tiến trình chính sách sẽ được coi là nền tảng để củng cố xây dựng
chính sách cho kỳ sau. Như vậy, tham mưu hoạch định chính sách là điểm khởi đầu
cho một tiến trình chính sách trong cả chu trình chính sách.
+ Hoạch định chính sách công mở ra những
vấn đề mà Nhà nước cần giải quyết những tồn tại. Vấn đề tồn tại trong đời sống
xã hội rất phong phú, đa dạng và vận động không ngừng theo các quy luật khách
quan. Mỗi loại vấn đề có liên quan đến một hay nhiều quá trình kinh tế - xã hội
và được giải quyết bằng các công cụ và cách thức khác nhau. Có những vấn đề nảy
sinh và tồn tại theo quy luật, nó tác động có kỳ hạn đến mục tiêu phát triển cần
phải được giải quyết bằng chính sách. Điều này có thể nhận biết được qua nội
dung chính sách như lý do ban hành chính sách hay lựa chọn vấn đề chính sách.
Đây là ý nghĩa quan trọng đầu tiên của hoạch định chính sách.
+ Tham mưu hoạch định chính sách công
giúp củng cố niềm tin của người dân vào nhà nước. Tham mưu hoạch định chính
sách khởi xướng những vấn đề chính sách, đó là những vấn đề bức xúc cần được giải
quyết để duy trì hoạt động xã hội theo định hướng. Nếu những vấn đề chính sách
đưa ra phù hợp với yêu cầu của người dân, làm cho họ yên tâm làm theo nhà nước,
củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, điều hành của Nhà nước.
+ Tham mưu hoạch định chính sách đúng
sẽ thu hút được các bộ phận chức năng của toàn hệ thống quản lý vào những hoạt
động theo mục tiêu. Các quá trình kinh tế - xã hội diễn ra rộng khắp trên địa
bàn cả nước, đồng thời còn diễn ra theo ngành, theo cấp độ quản lý, bởi vậy nếu
không điều tiết được các hoạt động đó một cách hợp lý, khoa học thì rất khó đạt
được mục tiêu phát triển chung. Nhưng khi có chính sách, các hoạt động cụ thể
đã định hướng được cho mình về cả mục tiêu và biện pháp. Mặc dù mỗi cơ quan quản
lý nhà nước đều phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao một cách độc lập,
song nếu có chính sách các cơ quan này sẽ phải liên hệ phối hợp với nhau để thực
hiện mục tiêu quản lý.
+ Tham mưu hoạch định chính sách sẽ thể
hiện được cơ chế quản lý của nhà nước trong từng thời kỳ. Để quản lý có kết quả
nền kinh tế - xã hội, nhà nước phải chủ động tạo lập cơ chế vận động thích hợp
với từng điều kiện về không gian và thời gian. Cơ chế vận động bao gồm cơ chế vận
hành của nền kinh tế tồn tại theo các quy luật và cơ chế quản lý do nhà nước lựa
chọn. Nếu cơ chế quản lý tương thích với cơ chế vận hành của nền kinh tế hay
trình độ phát triển của xã hội sẽ thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, còn ngược
lại nó sẽ kìm hãm các quá trình vận động.
Nhận thức đầy đủ về vai trò của tham
mưu trong hoạch định chính sách như trên giúp chúng ta có ý thức hơn khi nghiên
cứu xây dựng chính sách công để các chính sách được hoạch định ngày càng gần với
tiêu chuẩn của một chính sách tốt.
- Nguyên tắc tham mưu hoạch định
chính sách công
Nguyên tắc tham mưu trong hoạch định
chính sách công là những quy định bắt buộc mà các cơ quan, cán bộ tham mưu phải
tuân theo trong quá trình làm chính sách. Tùy theo định hướng chính trị và các điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi địa phương để lựa chọn hệ thống nguyên tắc
thích hợp, song có một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Tham mưu hoạch định chính sách công
là một nghề chuyên sâu, có tính chuyên nghiệp cao. Tham mưu không chỉ là cơ
quan, cá nhân tham dự, đề xuất chủ trương, chính sách cho cơ quan lãnh đạo, quản
lý cấp mình mà còn là cơ quan hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện về lĩnh vực mình đảm
trách cho cấp lãnh đạo, quản lý và cơ quan tham mưu cấp dưới. Xét cả về chức
năng tham dự lẫn chức năng hướng dẫn tổ chức thực hiện thì cơ quan và cán bộ
tham mưu đều có thuộc tính lãnh đạo, quản lý và đồng thời phải cùng chịu trách
nhiệm với cơ quan lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực mình tham mưu;
+ Cấp sở có trách nhiệm tham mưu hoạch
định chính sách công thì đồng thời cũng phải có quyền hạn, cần có quy định rõ về
quyền và trách nhiệm của cơ quan và cá nhân người làm công tác tham mưu hoạch định
chính sách công để nếu họ đề xuất sai hoặc bỏ sót thì phải chịu trách nhiệm.
Trong trường hợp họ đúng mà lãnh đạo không nghe thì cá nhân hoặc cơ quan lãnh đạo
phải chịu trách nhiệm. Tham mưu phải có quyền bảo lưu ý kiến và được trình bày,
bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể cơ quan lãnh đạo, quản lý có thẩm quyền và
trách nhiệm ra quyết định chính sách;
+ Tham mưu hoạch định chính sách công
phải vì lợi ích quốc gia, địa phương và cộng đồng;
+ Bảo đảm nguyên tắc hệ thống. Có tính
hệ thống thì mới đảm bảo cho mục tiêu, biện pháp của chính sách được phát huy,
vì nó không gây ra mâu thuẫn trong hệ thống;
+ Nguyên tắc phù hợp với thực tiễn đảm
bảo cho chính sách được ban hành phù hợp với các điều kiện hiện có, làm cho
chính sách có tính khả thi cao và đảm bảo được tính kế thừa, liên tục trong hệ
thống;
+ Nguyên tắc quyết định đa số đảm bảo
chính sách được làm cho mọi người và được xây dựng bởi nhiều người.
c) Nội dung tham mưu hoạch định chính
sách công:
- Đề xuất chính sách
Đề xuất lý do hoạch định chính sách được
coi là phần mở đầu của một văn bản chính sách nhằm cho thấy đích thực đối tượng
hướng tới của chính sách là thuộc kinh tế, xã hội hay môi trường để người tiếp
cận chính sách có thể cảm nhận được sự cần thiết khách quan và tầm quan trọng của
việc giải quyết vấn đề của chính sách.
Lý do hoạch định chính sách cần tập
trung mạnh vào vấn đề chính sách. Vấn đề chính sách được hiểu là những mâu thuẫn
nảy sinh trong các lĩnh vực hoạt động cần được giải quyết bằng chính sách để thỏa
mãn những nhu cầu nhất định của xã hội. Như vậy có thể thấy vấn đề chính sách
là hạt nhân của chính sách, nó hướng các mục tiêu, giải pháp cần có của Nhà nước
vào giải quyết vấn đề xã hội.
Đề xuất lý do hoạch định chính sách cần
phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, có sức thuyết phục cao. Tránh tình trạng lan
man, làm sai lệch vấn đề hoặc làm cho người tiếp nhận hiểu không đúng, không đầy
đủ về tầm quan trọng của chính sách, từ đó mà không tự giác thực thi chính
sách.
- Xác định căn cứ hoạch định chính
sách
Cần phải trình bày rõ những căn cứ
khoa học để hoạch định chính sách. Căn cứ hoạch định chính sách được đề xuất là
những cơ sở về chính trị, pháp lý, quản lý và thực tiễn của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để xác định và ban hành chính sách. Việc xác định các căn cứ đó là
khẳng định về tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách, giúp cho việc củng cố
lòng tin của nhân dân vào chính sách của Nhà nước.
Những căn cứ cần được nêu ngắn gọn,
xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất nước, địa phương, nhất là những vấn đề
đang bức xúc mà thực tiễn ở địa phương đang yêu cầu thuộc chức năng quản lý của
sở.
- Đề xuất nội dung của chính sách
+ Xác định mục tiêu chính sách:
Mục tiêu chính sách được coi là linh hồn
của chính sách, nó hướng mọi nội dung vào việc thực hiện ý chí của chủ thể hoạch
định chính sách. Từ lý do đến căn cứ hoạch định chính sách cũng chỉ nhằm làm
cho chính sách được thực thi theo mong muốn của Nhà nước.
Tùy theo loại chính sách, mục tiêu
chính sách có thể có mục tiêu lâu dài và mục tiêu trước mắt; mục tiêu định tính
và mục tiêu định lượng; mục tiêu chung và mục tiêu riêng.... Một chính sách có
thể hướng đến nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu trọng tâm và các mục tiêu bộ
phận. Tuy nhiên một chính sách không nên hướng tới quá nhiều mục tiêu, vì như vậy
sẽ làm giảm tính khả thi của chính sách. Các nhà hoạch định cần phải thật cẩn
trọng trong việc trình bày mục tiêu chính sách. Trong thực tế, có những mục
tiêu chính sách khó diễn đạt, nếu không chú ý rất có thể làm sai lệch cả chính
sách.
+ Xác định biện pháp của chính sách
Mục tiêu và biện pháp chính sách có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế, các biện pháp được trình bày trong nội dung
chính sách cần phải hướng vào mục tiêu.
Biện pháp chính sách bao gồm:
● Cơ chế tác động của Nhà nước đến các
đối tượng thực thi chính sách, giúp cho họ hoạt động theo mục tiêu quản lý.
● Các biện pháp cụ thể phải mang tính
giáo dục, thuyết phục, tính kinh tế hay hành chính tùy theo mục tiêu của chính
sách. Đối với mục tiêu phát triển kinh tế thì biện pháp thường mang tính kinh tế
như trong chính sách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ở Việt Nam thường
áp dụng các biện pháp như thuê đất giá rẻ, miễn hay giảm thuế, được vay vốn ưu
đãi....
● Các biện pháp tổ chức thực thi chính
sách. Biện pháp tổ chức thực thi chính sách thuộc về cơ quan quản lý nhà nước
các cấp để triển khai, phối hợp thực hiện chính sách. Thông thường các biện
pháp tổ chức thực thi chính sách mang tính quy định, hành chính, giao nhiệm vụ
cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện.
● Các biện pháp chính sách cũng cần được
trình bày ngắn gọn, cô đọng phản ánh bản chất của biện pháp chính sách để người
thực hiện dễ dàng vận dụng.
● Biện pháp chính sách được xây dựng
phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Phải luôn hướng tới mục tiêu, coi mục
tiêu là động lực của biện pháp.
Phải phù hợp với mục tiêu trong suốt
quá trình tồn tại của chính sách.
Phải phù hợp với điều kiện thực tế để
có thể vận dụng được.
Phải linh động, thích ứng với cơ chế vận
hành trong từng thời kỳ, tránh gò bó cấp thừa hành bằng những biện pháp quá cụ
thể.
+ Xác định thời hạn duy trì chính
sách
Xác định thời hạn duy trì chính sách
có ý nghĩa đối với chủ thể ban hành và đối tượng thực thi chính sách. Có ấn định
thời hạn mới làm cho cơ quan nhà nước các cấp nỗ lực tìm kiếm các biện pháp tổ
chức thực hiện chính sách tối ưu để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời giúp Nhà nước
chủ động tìm kiếm các nguồn lực cho thực thi chính sách. Ngoài ra, việc xác định
thời hạn duy trì chính sách còn củng cố được lòng tin của người thực thi chính
sách vào Nhà nước và còn giúp họ chủ động tham gia thực hiện chính sách vì lợi
ích của chính mình và của xã hội.
Thời hạn duy trì chính sách phụ thuộc
rất lớn vào việc thực hiện mục tiêu chính sách, nếu mục tiêu chính sách là trước
mắt, có thể định lượng được thì thời hạn duy trì chính sách sẽ ngắn như: chính
sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chính sách trợ giá nông sản hàng hóa....
Tuy việc dự tính thời hạn duy trì chính sách là khó chính xác, nhưng cũng cần đề
cập trong nội dung chính sách. Trường hợp thật khó khăn, có thể xác định qua
các chương trình, dự án cụ thể.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạch định chính sách
Lãnh đạo sở khi tham mưu đề xuất hoạch
định chính sách cần quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng,
thực thi chính sách. Trong thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động đến
xây dựng và thực thi chính sách công. Cụ thể là:
+ Những yếu tố chủ quan;
+ Những yếu tố khách quan.
Nếu căn cứ vào chủ thể và đối tượng của
chính sách thì có:
+ Những yếu tố thuộc chủ thể quản lý;
+ Những yếu tố thuộc khách thể quản
lý....
Hoặc:
+ Những yếu tố bên trong;
+ Những yếu tố bên ngoài.
- Xác định phương pháp hoạch định
chính sách
+ Phương pháp hoạch định chính sách
độc lập
Phương pháp hoạch định chính sách độc
lập cho ra đời những chính sách mới chưa có trong thực tế. Phương pháp hoạch định
này thường tinh tế hơn chính sách đang tồn tại cả về mục tiêu và biện pháp, vì
các nhà hoạch định không bị lệ thuộc vào những chính sách hiện có, họ độc lập
nghiên cứu mô hình mới trên cơ sở nguyên lý, khoa học, thực tiễn và sáng tạo.
Trong quá trình nghiên cứu xây dựng mô
hình mới, các nhà hoạch định thường tôn chỉ các quy luật vận động khách quan
trong mối quan hệ biện chứng giữa các bước trong tiến trình hoạch định chính
sách và giữa chính sách với môi trường tồn tại.
+ Hoạch định chính sách theo phương
pháp phụ thuộc
Trong hoạch định chính sách, phụ thuộc
được xem là quá trình hoàn thiện thường xuyên, liên tục các chính sách hiện có
để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống xã hội.
Hoạch định chính sách theo phương pháp
phụ thuộc, thực chất là xây dựng một chính sách mới trên cơ sở của những chính
sách đã tồn tại trong thực tế. Những chính sách đã tồn tại và phát huy tác dụng
với các đối tượng chính sách cho đến khi đối tượng đã thay đổi và cần được đối
xử bằng một chính sách khác cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn.
+ Hoạch định chính sách theo phương
pháp hỗn hợp
Hai phương pháp trên đều có những ưu,
nhược điểm khác nhau, vì thế các nhà hoạch định chính sách nên nghiên cứu, kết
hợp chúng lại để phát huy tốt nhất những ưu điểm, hạn chế những nhược điểm khi
xây dựng mô hình chính sách. Đó là phương pháp hỗn hợp.
Khi thực hiện phương pháp hỗn hợp các
nhà hoạch định chính sách cần phân tích các chính sách hiện có để tìm được những
ưu điểm nhất, kết hợp với thực tiễn để xây dựng được phương pháp hoạch định
chính sách công đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ thể.
- Xây dựng bộ tiêu chuẩn của chính
sách công
Bộ tiêu chuẩn của chính sách công bao
gồm:
+ Tiêu chuẩn về mục tiêu chính sách;
+ Tiêu chuẩn về biện pháp tác động của
chính sách;
+ Tiêu chuẩn về tính khả thi của chính
sách;
+ Tiêu chuẩn về hiệu quả của chính
sách.
3. Tổ chức thực hiện chính sách công
a) Yêu cầu tổ chức thực hiện chính
sách công:
- Thực hiện đúng, đủ, kịp thời mục
tiêu của chính sách
Thực hiện mục tiêu chính sách cụ thể,
rõ ràng, chính xác là yêu cầu quan trọng đầu tiên để thu hút mọi hoạt động
trong tổ chức thực hiện chính sách theo một định hướng. Tổ chức thực thi chính
sách là những hoạt động cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng
chính sách nhằm đạt những mục tiêu trực tiếp, ứng với mỗi mục tiêu trực tiếp
này là những chương trình, dự án cụ thể. Kết quả tổ chức thực hiện chính sách
theo quá trình hoạt động trong từng thời kỳ được lượng hóa bằng những thước đo
cụ thể. Tổng hợp kết quả thực hiện mục tiêu của các chương trình, dự án và các
hoạt động thực thi khác thành mục tiêu chung của chính sách. Theo nguyên lý vận
động đó, muốn thực hiện thành công các chính sách, nhà nước phải xác định mục
tiêu của từng chính sách thật cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác. Đồng thời các cơ
quan chuyên trách phải triển khai được mục tiêu chính sách thành những kế hoạch
và chương trình cụ thể.
- Đảm bảo tính hệ thống trong thực
thi chính sách
Tổ chức thực thi chính sách là một bộ
phận cấu thành trong chu trình chính sách. Nó kết hợp chặt chẽ với các bộ phận
khác trong chu trình tạo nên một hệ thống thống nhất. Ngay quá trình tổ chức thực
thi cũng bao gồm nhiều bước hợp thành một hệ thống, vì thế khi tiến hành tổ chức
thực thi chính sách cần thiết phải đảm bảo tính hệ thống trong mỗi quá trình.
Nội dung của tính hệ thống bao gồm: hệ
thống mục tiêu và biện pháp của chính sách; hệ thống trong tổ chức bộ máy tổ chức
thực thi chính sách; hệ thống trong điều hành, phối hợp thực hiện; hệ thống
trong sử dụng công cụ chính sách với các công cụ quản lý khác của Nhà nước. Điều
này có thể thấy được trong thực tế: nhiều địa phương đã không coi trọng bước phổ
biến, tuyên truyền chính sách nên nhiều đối tượng chính sách và cả cán bộ, công
chức duy trì trực tiếp không hiểu rõ về mục tiêu chính sách. Họ suy diễn, cải
biến cả mục tiêu và biện pháp chính sách, làm cho chính sách rất khó đi vào cuộc
sống.
- Đảm bảo tính khoa học, hợp lý
trong thực thi chính sách
Yêu cầu này đòi hỏi hệ thống bộ máy quản
lý nhà nước phải gọn, nhẹ đủ năng lực tổ chức thực hiện chính sách theo quy
trình khoa học. Tính khoa học thể hiện trong quá trình tổ chức thực hiện chính
sách là việc phối hợp khoa học giữa các cơ quan quản lý chính sách, thu hút các
nguồn lực hướng mạnh vào thực hiện mục tiêu chính sách, hình thành các chương
trình, dự án để thực hiện có hiệu quả một chính sách....
Quy trình thực thi chính sách chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khi nó được triển khai vào đời sống xã hội. Bởi vậy, bảo
đảm tính khoa học của quá trình tổ chức thực hiện chính sách phải thể hiện được
sức sống để tồn tại trong thực tế.
Tùy vào tình hình thực tế mà lựa chọn
cách thức tổ chức thực hiện chính sách cho phù hợp. Tuy vậy, quá trình vận dụng
vẫn phải tuân theo các nguyên tắc pháp lý để đảm bảo tính tập trung, thống nhất
trong chấp hành chính sách. Tính pháp lý được thể hiện trong tổ chức thực hiện
chính sách là việc chấp hành các chế định như: trách nhiệm, quyền hạn của các tổ
chức, cá nhân được giao tổ chức thực hiện chính sách, thủ tục giải quyết các mối
quan hệ trong thực thi chính sách, cưỡng chế thực hiện chính sách trong những
trường hợp cần thiết.
- Thu hút được nhiều nguồn lực, biện
pháp phù hợp với điều kiện hiện tại
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được chủ thể
quản lý giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách cần phải xây dựng cơ chế, giải
pháp tổ chức chức thực hiện cho hiệu quả. Một tiêu chí đánh giá hiệu quả của tổ
chức thực hiện chính sách là thu hút được nhiều nguồn lực, biện pháp phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phương.
Mỗi địa phương có những lợi thế khác
nhau về các nguồn lực, các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; bởi vậy,
trong công tác tổ chức thực hiện chính sách cần phát huy được sức mạnh tối đa
các nguồn lực, điều kiện đó.
- Đảm bảo lợi ích cho người thụ hưởng
Trong xã hội thường tồn tại nhiều nhóm
lợi ích, các nhóm lợi ích lại biến động theo không gian và thời gian. Tùy theo
tính chất của mỗi chế độ xã hội, mà các nhóm lợi ích sẽ được thụ hưởng khác
nhau.
Nhà nước thường bảo vệ và chuyển lợi
ích đến các đối tượng thụ hưởng trong xã hội bằng chính sách. Để công cụ này
phát huy tác dụng, cần phải có sự hưởng ứng thực hiện một cách tự giác trên cơ
sở lòng tin của dân chúng vào chính sách của nhà nước. Kết quả trên có được chỉ
khi chính sách thật sự mang lại lợi ích cho mỗi đối tượng thực hiện và toàn xã
hội.
Kết hợp các tính chất trên, trong yêu
cầu tổ chức thực hiện chính sách sẽ giúp nâng cao hiệu lực tổ chức thực hiện
chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố niềm tin của
các đối tượng chính sách vào Nhà nước.
b) Các bước tổ chức thực hiện chính
sách:
- Xây dựng kế hoạch và triển khai
thực hiện chính sách
Kế hoạch triển khai thực thi chính
sách được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển
khai thực thi chính sách của địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương
trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách bao gồm những nội dung
cơ bản sau:
+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành;
+ Kế hoạch cung cấp các nguồn lực;
+ Kế hoạch thời gian triển khai thực
hiện;
+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi
chính sách;
+ Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ
chức, điều hành; về trách nhiệm, nhiệm vụ, và quyền hạn của cán bộ, công chức
và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp
khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách....
Dự kiến kế hoạch thực thi ở cấp nào do
lãnh đạo cấp đó xem xét thông qua. Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch
thực thi chính sách mang giá trị pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện.
Việc điều chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch quyết định.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Sau khi bản kế hoạch tổ chức thực thi
được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành tổ chức triển khai thực hiện
theo kế hoạch. Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền vận
động nhân dân tham gia thực hiện chính sách. Đây là một hoạt động quan trọng,
có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt
giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện
hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện
theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức
có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy
mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải
pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có
hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Tuyên truyền, vận động thực thi chính
sách được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi
hành, để mọi đối tượng cần tuyên truyền luôn được củng cố lòng tin vào chính
sách và tích cực thực thi chính sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách bằng
nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận;
gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng....
Tùy theo yêu cầu của các cơ quan quản
lý, tính chất của từng loại chính sách và điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn
hình thức tuyên truyền, vận động thích hợp.
- Phân công, phối hợp thực hiện
chính sách
Bước tiếp theo là phân công, phối hợp
các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách theo kế hoạch được phê duyệt.
Chính sách được thực thi trên phạm vi rộng lớn của địa phương. Vì thế, số lượng
cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia
bao gồm các đối tượng tác động của chính sách và bộ máy tổ chức thực thi của
Nhà nước.
Các hoạt động thực hiện mục tiêu chính
sách diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian.
Chúng đan xen nhau, thúc đẩy hay kìm hãm nhau. Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi
chính sách có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản
lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính
sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra
theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy
trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
- Duy trì thực hiện chính sách
Duy trì chính sách là làm cho chính
sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn cho chính
sách được duy trì, đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hợp lực của cả người tổ chức,
người thực thi và môi trường tồn tại.
Đối với các cơ quan nhà nước, chủ thể
chủ động tổ chức thực hiện chính sách, phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền,
vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực hiện
chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do môi trường
thực tế biến động, thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý
tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Đồng
thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Đối với người chấp hành chính sách, có
trách nhiệm tham gia thực hiện theo yêu cầu của nhà nước và vận động lẫn nhau
tích cực chấp hành chính sách nhà nước. Phải làm cho các đối tượng này nhận thức
rõ vai trò của mình trong xã hội để họ phát huy quyền làm chủ xã hội trong việc
chấp hành chính sách.
Tăng cường thực hiện dân chủ để người
dân mạnh dạn tham gia quản lý xã hội, trong đó tự giác chấp hành chính sách và
tham gia tìm kiếm, đề xuất các biện pháp thực hiện mục tiêu với các cơ quan nhà
nước để điều chỉnh bổ sung cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh. Đồng thời, đối
tượng thực thi chính sách cũng là chủ thể tồn tại trong môi trường sống, vì thế
họ có thể tác động làm cho môi trường thuận lợi hơn với việc thực thi chính
sách.
- Điều chỉnh chính sách
Điều chỉnh chính sách là một hoạt động
cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách. Điều
chỉnh chính sách được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính
sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế.
Theo quy định, cơ quan nào ban hành
chính sách thì được quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc
điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt,
vì thế cơ quan nhà nước cấp sở chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách
để thực hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính
sách. Nếu cần hoàn thiện mục tiêu chính sách, các cơ quan nhà nước của ngành ở
địa phương chủ động đề xuất với cơ quan ban hành thực hiện.
- Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện chính sách
Tổ chức thực hiện chính sách diễn ra
trên địa bàn rộng và do nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia. Các điều kiện
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương
không giống nhau, cũng như trình độ, năng lực tổ chức điều hành của cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, do vậy các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính
sách.
Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu và
biện pháp chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ,
công chức, mỗi đối tượng thực thi chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu
tiên trong quá trình thực thi chính sách. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã
được phê duyệt các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra
có hiệu quả.
Kiểm tra thường xuyên giúp cho nhà quản
lý nắm chắc được tình hình thực thi chính sách, từ đó đánh giá được khách quan
về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực thi chính sách; giúp
phát hiện những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ chức thực thi để điều
chỉnh; tạo ra sự tập trung thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu chính sách.
Kiểm tra, đôn đốc còn giúp cho các đối
tượng thực thi chính sách biết được những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ
sung, hoàn thiện.
- Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm
Đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành
thực thi chính sách là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến
cơ sở. Đánh giá tổng kết, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính
sách. Cơ sở để đánh giá tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính
sách trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế
được xây dựng khi tổ chức thực hiện chính sách. Đồng thời còn để xem xét tình
hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị
- xã hội với Nhà nước.
Tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều
hành của các cơ quan nhà nước còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng
tham gia thực hiện chính sách, bao gồm: các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp
và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách
là công dân.
c) Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện
chính sách công:
- Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố xuất
hiện và tác động đến tổ chức thực hiện chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý
muốn của chủ thể quản lý. Các yếu tố này tồn tại và vận động theo quy luật
khách quan ít tạo ra những biến đổi bất thường, do đó ít gây sự chú ý của các
nhà quản lý. Nhưng tác động của chúng đến quá trình thực hiện chính sách lại rất
lớn, vì cơ chế tác động giữa chúng với các vấn đề chính sách được hình thành
trên cơ sở của quy luật.
Những yếu tố khách quan chủ yếu có thể
kể ra ở đây là:
+ Tính chất của vấn đề chính sách;
+ Môi trường thực thi chính sách;
+ Mối quan hệ giữa các đối tượng tác động
của chính sách;
+ Tiềm lực của các nhóm đối tượng
chính sách;
+ Đặc tính của đối tượng chính sách.
- Yếu tố chủ quan
Các yếu tố khách quan trên đây có tác
động rất lớn đến quá trình tổ chức thực thi chính sách công, nên các nhà nước
luôn quan tâm nghiên cứu cách ứng phó với tác động của các yếu tố này. Đối với
các yếu tố này chúng ta không thể cải biến tính khách quan của nó, mà chỉ tìm
cách điều chỉnh các hoạt động quản lý điều hành cho phù hợp với quy luật vận động
trong mỗi điều kiện không gian và thời gian.
Những hoạt động điều chỉnh như vậy
hoàn toàn mang tính chủ ý của người tổ chức thực thi chính sách. Các yếu tố thuộc
về cơ quan công quyền, do cán bộ, công chức chủ động chi phối đến quá trình thực
thi chính sách được coi là những yếu tố chủ quan.
Dưới đây là một số yếu tố chủ quan có ảnh
hưởng lớn đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách:
+ Thực hiện đúng, đầy đủ các bước
trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách;
+ Năng lực thực hiện chính sách của cơ
quan, tổ chức nhà nước;
+ Năng lực thực hiện chính sách của
cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý nhà nước;
+ Điều kiện vật chất cần cho quá trình
thực thi chính sách.
d) Các hình thức triển khai thực hiện
chính sách công:
- Hình thức thực hiện chính sách từ
trên xuống
Chính sách công do Nhà nước hoạch định
và tổ chức thực thi, nên hình thức tổ chức triển khai thực hiện chính sách từ
trên xuống nói chung là thuận lợi. Trước khi tiến hành triển khai, Nhà nước chủ
động xây dựng kế hoạch, chuẩn bị các điều kiện về vật chất, kỹ thuật và nhân sự
để thực thi chính sách. Trong quá trình thực thi chính sách, Nhà nước chủ động
kiểm tra, đôn đốc bằng các phương tiện kỹ thuật hiện có hay bằng đội ngũ cán bộ,
công chức của mình. Khi phát hiện những sai lệch về nội dung chính sách, kế hoạch
tổ chức thực thi và công tác triển khai thực hiện, Nhà nước kịp thời điều chỉnh,
bổ sung làm cho hoạt động thực thi chính sách diễn ra đúng như định hướng. Cách
này tạo ra sự tập trung, thống nhất cao độ trong quá trình thực thi chính sách.
Hình thức này cũng có những hạn chế nhất
định mà chúng ta cần chú ý khắc phục để phát huy được tính tập trung trong thực
thi chính sách. Mặc dù các cơ quan nhà nước thường xuyên theo dõi việc triển
khai thực thi chính sách, nhưng vẫn có những khoảng cách nhất định với các đối
tượng chính sách và môi trường thực tế chính sách đang diễn ra.
Cán bộ, công chức tham gia tổ chức thực
hiện chính sách không hoàn toàn đồng cảm với các đối tượng chính sách. Họ ở các
vị trí thực hiện khác nhau, nên yêu cầu nhiệm vụ và cách thức hoạt động không
giống nhau, vì thế giữa họ có khoảng cách.
Cách thức triển khai này chỉ thiên về
ý chí của cấp điều hành, mà ít quan tâm đến nguyện vọng của đối tượng chính
sách, nên thường có hiện tượng dồn ép bằng mệnh lệnh trong thực thi chính sách,
làm cho quá trình thực hiện chính sách ít thiết thực, mang nặng tính phong
trào.
- Hình thức thực hiện chính sách từ
dưới lên
Để khắc phục những nhược điểm của hình
thức triển khai thực thi chính sách từ trên xuống, người ta tiến hành nghiên cứu
hình thức triển khai từ dưới lên. Hình thức này dường như ngược lại với hình thức
từ trên xuống. Tiến hành theo hình thức này, chính quyền địa phương các cấp chủ
động triển khai đưa chính sách vào cuộc sống theo yêu cầu phát triển của địa
phương mình. Các bước tổ chức thực thi cũng được tiến hành theo nguyên lý
chung, khoa học từ xây dựng kế hoạch thực thi đến đánh giá tổng kết thực hiện
chính sách.
Bên cạnh những kết quả được coi là ưu điểm,
hình thức triển khai từ dưới lên cũng còn một số hạn chế sau:
+ Dễ dẫn đến tình trạng phân tán, thiếu
tập trung trong việc triển khai chính sách vào cuộc sống;
+ Vì mục tiêu phát triển trước mắt,
các địa phương có thể làm cải biến mục tiêu chung của chính sách nhà nước;
+ Thường hay bị động trong việc điều
chỉnh, bổ sung chính sách và cung cấp nguồn lực cho thực thi chính sách;
+ Dễ xảy ra tình trạng cục bộ, căn cứ
theo địa phương làm giảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước, nhất là đối với
các nền kinh tế có định hướng XHCN như nước ta.
- Hình thức hỗn hợp
Từ những ưu, nhược điểm của hai hình
thức trên, các nhà nghiên cứu chính sách đã tìm cách phát huy ưu điểm, hạn chế
nhược điểm của chúng bằng cách kết hợp hai hình thức đó thành hình thức hỗn hợp
triển khai tổ chức thực thi chính sách.
Khi sử dụng hình thức hỗn hợp cần chú
ý những nội dung kết nối giữa cấp hoạch định và cấp thực thi để tạo ra sự đồng
bộ trong tổ chức thực thi chính sách. Trên thực tế phần kết nối đáng quan tâm
nhất là kiểm tra đôn đốc của cấp hoạch định với việc triển khai thực hiện và
duy trì chính sách của cấp thực thi; hoạt động điều chỉnh, bổ sung và đáp ứng
các yêu cầu của cấp thực thi.
Những nội dung kết nối trên được đảm bảo
tốt sẽ tạo thành một hệ thống thông suốt về các mối quan hệ hoạch định - tổ chức
- thực thi chính sách công giữa các cơ quan nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả
hình thức triển khai này cần có nhiều điều kiện, trong đó có điều kiện tiên quyết
là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia hoạch định và tổ
chức thực thi đều phải đáp ứng những yêu cầu nhất định.
đ) Các phương thức thực hiện chính
sách
- Thực hiện chính sách theo phương
thức động
Tổ chức thực thi chính sách theo
phương thức động là phương thức được thiết kế và thi công theo các nguyên lý vận
động và phát triển của các yếu tố hợp thành quá trình thực thi chính sách công.
Theo cách tiếp cận này, các nhà nghiên
cứu chính sách chỉ cần dựa vào kết quả vận động theo quy luật của các quá trình
kinh tế - xã hội một cách khách quan là có thể tạo dựng và thực thi một chính
sách thích hợp.
- Thực hiện chính sách theo phương
thức tĩnh
Tổ chức thực thi chính sách theo
phương thức tĩnh là phương thức tạo dựng và duy trì theo thực tiễn tồn tại của
các yếu tố hợp thành quá trình thực thi chính sách. Theo cách tiếp cận này,
phương thức tĩnh hoàn toàn dựa trên cơ sở thực tiễn để tìm kiếm và lựa chọn
cách thức tổ chức.
- Phương thức hỗn hợp
Từ hai phương thức trên, nội dung của
phương thức tổ chức thực thi chính sách theo phương thức hỗn hợp là lựa chọn những
ưu điểm của mỗi mô hình để kết hợp triển khai thực thi chính sách công cho phù
hợp.
Kết hợp các phương thức phụ thuộc vào
nhiều điều kiện cụ thể. Căn cứ vào tình hình thực tế, các chủ thể quản lý
nghiên cứu lựa chọn cách kết hợp sao cho tốt nhất.
4. Đánh giá chính sách công
a) Quan niệm và vai trò của đánh giá
chính sách công:
- Quan niệm về đánh giá chính sách
công
Một chính sách công được ban hành và
triển khai thực hiện trong thực tế trong một thời gian nhất định cần phải tiến
hành đánh giá xem chính sách công đó đang được thực hiện như thế nào.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đánh
giá chính sách công. Quan niệm của những người theo chủ nghĩa duy lý cho rằng
đánh giá chính sách bao gồm việc đánh giá xem liệu một chính sách công có đang
đạt được mục tiêu hay không, nếu không đạt thì cần phải làm gì để loại bỏ những
rào cản trong quá trình thực thi chính sách. Đánh giá chính sách công, cũng như
các giai đoạn khác của quá trình chính sách là một hoạt động mang tính chính trị.
Bởi vậy, đánh giá chính sách công là
việc xem xét thực tế, có hệ thống những tác động do quá trình thực hiện các giải
pháp chính sách mang lại so với mục tiêu ban đầu để xác định mức độ đạt mục
tiêu mong muốn của Nhà nước.
- Sự cần thiết đánh giá chính sách
công
Thông qua đánh giá chính sách công
giúp nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách. Lợi ích của đánh giá
chính sách không chỉ là bản kết quả trực tiếp hoạt động đánh giá tạo ra, mà còn
là các chủ thể học được gì thông qua đánh giá chính sách.
Đánh giá chính sách công để đo lường
tác động của chính sách. Lý do cơ bản cho đánh giá chính sách là xem xét sự tác
động của nó lên các mặt của đời sống xã hội, tạo nên những thay đổi trong xã hội.
Đánh giá chính sách công để hoàn thiện
các chính sách của Chính phủ. Xét cho cùng, mục đích sâu xa của đánh giá chính
sách công là để thay đổi một chính sách theo hướng hoàn thiện hơn.
Thông qua đánh giá chính sách công,
các chủ thể hoạch định chính sách còn có khả năng giải thích vấn đề hoặc mục
đích của chính sách được thiết kế để giải quyết những vấn đề đặt ra của xã hội
mà Nhà nước có trách nhiệm quản lý.
b) Cách tiếp cận đánh giá chính sách
công:
Có nhiều quan niệm khác nhau về tiếp cận
đánh giá chính sách công, cụ thể là:
- Tiếp cận theo mục tiêu đánh giá
Đánh giá chính sách công theo mục tiêu
bao gồm một số góc độ tiếp cận như:
+ Đánh giá chính trị;
+ Đánh giá hành chính;
+ Đánh giá tư pháp.
Cách tiếp cận đánh giá này khác nhau về
chủ thể tham gia, về cách thức thực hiện và những tác động của các đánh giá.
- Tiếp cận theo tiến trình vận động
của chính sách
Đánh giá chính sách theo cách tiếp cận
này gồm có:
+ Đánh giá tác động trước khi có chính
sách;
+ Đánh giá tác động sau khi có chính
sách.
- Nội dung đánh giá chính sách
+ Đánh giá đầu vào
Đánh giá đầu vào hay còn gọi là đánh
giá nỗ lực nhằm đo lường số lượng của các đầu vào các chương trình thực thi
chính sách công, nghĩa là số lượng các nỗ lực mà các cơ quan trong bộ máy nhà
nước đưa vào để hoàn thành các mục tiêu của mình. Các yếu tố đầu vào có thể là
nhân sự, công sở, trang thiết bị làm việc, văn phòng phẩm, công cụ lao động,
thông tin, sự đi lại, chi phí cho sự vận hành.... Tất cả các yếu tố này được
tính toán thành chi phí bằng tiền.
Mục đích của đánh giá đầu vào là thiết
lập cơ sở dữ liệu phục vụ cho các đánh giá về tính hiệu quả hoặc chất lượng của
cung cấp dịch vụ. Khi tiến hành phân tích đánh giá các yếu tố đầu vào để thực
thi một chính sách công, nhà phân tích cần phải áp dụng các phương pháp tính
toán các chi phí đầu vào về nguyên, nhiên vật liệu, về thông tin, nhân sự, chi
phí vận hành, chi phí đi lại... theo các định mức tài chính hiện hành của Nhà
nước hoặc theo giá thị trường của các yếu tố đầu vào.
+ Đánh giá đầu ra
Đánh giá đầu ra của một chính sách
công là xem xét các đầu ra của các chương trình, dự án cụ thể của một chính
sách. Việc xác định đầu ra phụ thuộc vào từng chương trình hoặc dự án cụ thể.
Mục đích của đánh giá đầu ra là để xác
định chính sách đang tạo ra cái gì, có thể không liên quan đến các mục tiêu của
chính sách đã tuyên bố. Loại đánh giá này cung cấp các dữ liệu cho các đánh giá
hiệu lực và hiệu quả.
Khi tiến hành phân tích đánh giá này,
nhà phân tích cần phải tiến hành thu thập các dữ liệu để định lượng các kết quả
do các chương trình, dự án tạo ra theo những đơn vị đo lường nhất định.
+ Đánh giá hiệu lực
So với các loại đánh giá trên thì đánh
giá hiệu lực phức tạp hơn. Loại đánh giá này không đơn giản chỉ để xác định các
đầu vào hoặc đầu ra chương trình, dự án thực hiện chính sách, mà còn có mục
đích xác định liệu các chương trình, dự án đang thực hiện này có tạo ra các kết
quả phù hợp với mục tiêu của chính sách hay không?
Trong loại đánh giá này, kết quả thực
thi của một chương trình nhất định được so sánh với những mục tiêu mong muốn để
xác định hiệu lực của chính sách. Trên cơ sở những phát hiện đó nhà phân tích
có thể đưa ra những khuyến nghị, sửa đổi hoặc thay đổi các chương trình hoặc
các chính sách. Đây là loại đánh giá rất có ích cho các nhà hoạch định chính
sách, nhưng nó cũng là loại đánh giá khó thực hiện nhất. Thông tin cần thiết
cho loại đánh giá này là rất lớn và mức độ phức tạp của quá trình thực hiện là
rất cao.
+ Đánh giá hiệu quả
Đánh giá hiệu quả là đánh giá các chi
phí của một chương trình, dự án cụ thể của chính sách. Các đánh giá đầu vào và
đầu ra là cơ sở cho loại đánh giá này. Loại đánh giá này đặc biệt có ý nghĩa to
lớn trong điều kiện ngân sách hạn chế hiện nay. Khi thực hiện loại đánh giá
này, nhà phân tích cần thực hiện tốt các đánh giá đầu vào và đánh giá đầu ra dưới
hình thức tiền tệ, sau đó tiến hành so sánh kết quả giữa chúng.
Những khó khăn liên quan đến đánh giá
hiệu quả là làm thế nào để lượng hóa các kết quả dưới hình thức tiền tệ.
+ Đánh giá quá trình
Loại đánh giá cuối cùng là đánh giá
quá trình, tức là xem xét các phương pháp tổ chức, bao gồm các quy định và các
thủ tục hoạt động, được sử dụng để thực hiện các chương trình. Mục tiêu của
đánh giá này là nhằm xác định xem liệu quá trình có thể được tổ chức hợp lý và
được thực hiện hiệu quả hơn hay không?
Hướng tới mục tiêu này, việc thực thi
một chính sách luôn được chia thành các nhiệm vụ riêng biệt, như hoạch định chiến
lược, quản lý tài chính, và sau đó đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ theo
tính hiệu quả, hiệu lực, hoặc trách nhiệm giải trình.
Để mở rộng việc phân tích đánh giá
chính sách, nhiều chính phủ đã và đang tăng cường sự tham gia của nhiều cơ
quan, tổ chức vào quá trình đánh giá. Tuy nhiên, sự hữu ích hoặc tính hợp pháp
của những kết quả đánh giá chính sách công đang gặp phải những thách thức về khả
năng chi trả cho những chi phí của việc tổ chức các đánh giá này.
c) Phương pháp đánh giá chính sách
công:
- Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Phân bổ một chương trình hay can thiệp
ngẫu nhiên trên một mẫu quan sát là một giải pháp tránh tình trạng sai số lựa
chọn, với điều kiện các tác động của chương trình được khảo sát ở mức độ ngẫu
nhiên. Việc lựa chọn kỹ lưỡng khu vực đối chứng (hay tình huống phản thực) cũng
là yếu tố quan trọng bảo đảm khả năng so sánh được với các khu vực tham gia
chương trình và cuối cùng là tính toán tác động can thiệp (hay sai biệt trong kết
quả) giữa hai nhóm.
Hiệu quả can thiệp có thể được phân biệt
thành hiệu quả can thiệp bình quân giữa các đơn vị tham gia và đối chứng, hay
hiệu quả can thiệp trên các đối tượng được can thiệp là một chỉ số hẹp hơn cho
phép so sánh giữa các đơn vị tham gia và đối chứng, với điều kiện đối tượng
tham gia ở khu vực có can thiệp. Chọn mẫu ngẫu nhiên trải qua các bước:
+ Xác định tình huống phản thực;
+ Thiết kế thống kê chọn mẫu ngẫu
nhiên;
+ Tính toán hiệu quả can thiệp;
+ Hiệu quả can thiệp trong chọn mẫu ngẫu
nhiên thuần túy;
+ Chọn mẫu ngẫu nhiên trong thiết kế
đánh giá.
- Phương pháp so sánh điểm xu hướng
+ Phương pháp so sánh điểm xu hướng
(PSM) là phương pháp xây dựng nhóm so sánh thống kê dựa trên mô hình xác suất
tham gia can thiệp bằng các số liệu thống kê được quan sát. Đối tượng tham gia
sau đó được so sánh dựa trên xác suất này, hay còn gọi là điểm xu hướng, với đối
tượng không tham gia.
+ Hiệu quả can thiệp bình quân của
nhóm chương trình sau đó được tính toán bằng sai biệt trung vị trong kết quả giữa
hai nhóm. Tính hợp lý của PMS phụ thuộc vào hai điều kiện:
● Tính độc lập có điều kiện (tức là
các yếu tố không được quan sát không ảnh hưởng đến tình trạng tham gia).
● Hỗ trợ chung lớn hay sự trùng khớp
trong điểm xu hướng giữa các mẫu đối tượng tham gia và không tham gia.
- Phương pháp sai biệt kép
Khác với phương pháp so sánh điểm xu
hướng, phương pháp sai biệt kép (DD) giả định có tồn tại sự không đồng nhất
không được quan sát trong tình trạng tham gia, nhưng yếu tố này không đổi theo
thời gian. Với dữ liệu về quan sát đối chứng trước và sau can thiệp chương
trình, ta có thể tính toán sai biệt trong các thành phần cố định này.
Các phương pháp sai biệt kép gồm có:
+ Xử lý sai số lựa chọn trên góc độ
sai biệt;
+ Phương pháp DD: Lý thuyết và ứng dụng;
+ Mô hình Hiệu quả ấn định tổng
quát....
- Phương pháp tính toán biến công cụ
Phương pháp biến công cụ cho phép tính
toán nội sinh về tình trạng tham gia của cá thể và lựa chọn địa điểm hoặc cả
hai.
+ Phương pháp tính toán biến công cụ
theo bình phương 2 giai đoạn nhỏ nhất;
+ Hiệu quả can thiệp bình quân địa
phương;
+ Phương hiệu quả can thiệp cận biên.
- Phương pháp gián đoạn hồi quy và
tuần tự
Trong điều kiện phi thực nghiệm, các
quy định về tiêu chuẩn tham gia chương trình đôi khi có thể được sử dụng làm
công cụ xác định ngoại sinh đối tượng tham gia và không tham gia. Để thiết lập
khả năng so sánh, có thể sử dụng đối tượng tham gia và không tham gia trong phạm
vi ngưỡng tiêu chuẩn nhất định làm mẫu thích hợp để tính toán tác động can thiệp.
Với tên gọi là gián đoạn hồi quy (RD),
phương pháp này cho phép tính toán những tính không đồng nhất có quan sát cũng
như không có quan sát. Tuy có thể xác định điểm giới hạn hay ngưỡng tiêu chuẩn
tham gia dưới dạng phi tham số nhưng trên thực tế, điểm giới hạn thường được
xác định thông qua biến công cụ.
- Xác định hiệu quả phân bổ chương
trình
Ngoài việc khảo sát các nhân tố can
thiệp vào chương trình, các cấp hoạch định chính sách còn cần phải hiểu các
chương trình có tác động như thế nào đối với các cá nhân trong phân bổ kết quả.
Có một số phương pháp để xác định tác
động phân bổ của một chương trình như các phương pháp tuyến tính và phi tuyến
tính....
- Sử dụng mô hình kinh tế trong
đánh giá chính sách
Các mô hình kinh tế giúp tìm hiểu sự
tương tác có thể có, cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau của một chương trình với
các chính sách hiện hành và hành vi của cá nhân. Khác với những tính toán dạng
giản lược chỉ tập trung vào một chiều, mối quan hệ trực tiếp giữa can thiệp
chương trình và các kết quả cuối cùng trên nhóm dân cư mục tiêu, các phương
pháp tính toán có cấu trúc xác định cụ thể sự tương quan giữa các biến nội sinh
(như thu nhập hộ gia đình) và các biến hay nhân tố ngoại sinh. Các phương pháp
có cấu trúc giúp xây dựng cơ chế diễn giải tác động của chính sách từ các hồi
quy, nhất là khi có nhiều yếu tố tham gia.
Những đánh giá này có thể giúp giảm
chi phí bằng cách tập trung sự chú ý của các cấp hoạch định chính sách vào những
khu vực có khả năng tác động lớn hơn. Các đánh giá cũng tạo cơ chế để tìm hiểu
xem chương trình hay chính sách vận hành như thế nào trong một môi trường kinh
tế khác nếu một số tham số (như tỉ lệ lợi suất trên vốn vay hay các mức giá)
thay đổi.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất các vấn đề chính sách trong thực tiễn ngành, địa phương mình công tác.
2. Đồng chí hãy cho biết cách thức sử
dụng kỹ năng phối hợp, điều hành tổ chức thực thi chính sách thuộc lĩnh vực
mình lãnh đạo, quản lý.
3. Làm việc nhóm về xây dựng các
phương án giải quyết vấn đề chính sách làm nền tảng cho hoạch định chính sách.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. TS. Lê Vinh Danh. Chính sách công của
Hoa Kỳ. NXB Thống kê, 2001.
2. Lê Thị Vinh Thi. Chính sách xã hội
đối với phụ nữ nông thôn: quy trình xây dựng và thực hiện. NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội 1998.
3. Học viện Hành chính. PGS.TS. Nguyễn
Hữu Hải (Chủ biên). Hoạch định và phân tích chính sách công. NXB KH và KT. 2013.
4. Học viện Hành chính Quốc gia. Hành
chính công. Dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học. KHKT, H 2006.
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Tìm hiểu về khoa học chính sách công. Viện Khoa học Chính trị. NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
6. TS. Lê Chi Mai. Chính sách và quá
trình chính sách. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
7. Fran Ellic. Chính sách nông nghiệp
trong các nước đang phát triển. NXB Nông nghiệp 1995./.
Chuyên đề 7
KỸ
NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG CỤ KẾ HOẠCH TRONG QUẢN LÝ CỦA LÃNH ĐẠO CẤP SỞ VÀ
TƯƠNG ĐƯƠNG
1. Kế hoạch hóa công tác cấp sở và
tương đương
a) Tầm nhìn:
- Khái niệm tầm nhìn
Tầm nhìn của một tổ chức là một thông
điệp ngắn gọn và xuyên suốt định hướng hoạt động đường dài cho tổ chức đó. Tầm
nhìn tạo tiền đề cho việc xây dựng mục tiêu và chỉ tiêu trong cùng một định hướng.
Tầm nhìn của tổ chức là trọng tâm của một chiến lược phát triển tổ chức.
- Tầm nhìn của lãnh đạo cấp sở và
tương đương
Lãnh đạo cấp sở cần có tầm nhìn của một
tổ chức nhằm đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
+ Thống nhất mục tiêu phát triển của sở,
ngành;
+ Tạo sự nhất quán trong việc lãnh đạo;
+ Động viên tinh thần cán bộ, công chức;
+ Định hướng sử dụng nguồn lực (nhân lực
và vật chất).
b) Kế hoạch - một trong các chức năng
thiết yếu và nền tảng của quản trị hiện đại:
- Khái niệm kế hoạch
Kế hoạch là phương án tổ chức các công
việc trong quá trình hoạt động của tổ chức và do đó lập kế hoạch là xác định
các mục tiêu, nội dung và khối lượng công việc cụ thể cần đạt được, phương
pháp, những bước đi cần thiết và thời hạn thực hiện để đạt được các mục tiêu
đó. Như vậy, mỗi tổ chức và cá nhân có kế hoạch công tác của mình nhằm định
hình, dự báo mục tiêu, định hướng và phương thức thực hiện các mục tiêu định hướng
đó trong một khoảng thời gian nhất định.
- Kế hoạch cấp sở và tương đương
Tập hợp những hoạt động được sắp xếp
theo lịch trình, có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định
biện pháp tốt nhất để thực thi những chức năng và nhiệm vụ của sở.
c) Quy hoạch và xây dựng chiến lược:
- Quy hoạch
Quy trình kế hoạch hóa bắt đầu từ xây
dựng chiến lược - quy hoạch đến kế hoạch triển khai công việc. Quy hoạch là bước
cụ thể hóa của chiến lược, còn kế hoạch là bước cụ thể hóa của quy hoạch.
+ Yêu cầu
Công tác quy hoạch đóng vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước; là cơ sở ban
đầu để đưa ra những quyết định đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của một
vùng, ngành và một dự án. Các quy hoạch bao gồm: quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển đô thị và
nông thôn, sau đó là quy hoạch chi tiết về xây dựng, đất đai, khu công nghiệp,
khu đô thị....
Theo từ điển tiếng Việt, quy hoạch là:
(1) Bố trí, sắp xếp kế hoạch dài hạn, như quy hoạch đô thị, quy hoạch đào tạo
cán bộ; (2) Kế hoạch tổng thể trong thời gian dài.
Mục tiêu cụ thể của quy hoạch là khai
thác, phát huy tối đa các tiềm lực, lợi thế để phát triển kinh tế nhanh, bền vững,
có hiệu quả và có sức cạnh tranh. Trong một môi trường kinh doanh có tính cạnh
tranh cao đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như cộng đồng những người dân phải thực hiện tốt những hoạt động
của mình theo định hướng chung nhằm duy trì và làm tăng hiệu quả của ngành phát
huy những lợi thế so sánh cần thiết để cạnh tranh có hiệu quả trên các thị trường
khu vực và thế giới. Như vậy, mục đích chính của quy hoạch tổng thể là kiến tạo
những mục tiêu và đưa ra một tổng thể những hành động, những giải pháp nhằm định
hướng cho những hoạt động nhằm hướng tới mục tiêu chung.
+ Nội dung
Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
bao gồm:
● Đánh giá quá trình phát triển;
● Phân tích, dự báo các điều kiện phát
triển;
● Quan điểm, mục tiêu và các chiến lược
cơ bản;
● Quy hoạch phân bố lực lượng sản xuất
theo các lĩnh vực, không gian và thời gian;
● Các giải pháp thực hiện.
- Xây dựng chiến lược: tư duy ở cấp sở
và tương đương.
Các chiến lược thể hiện định hướng dài
hạn, là các hướng dẫn giá trị cho một tổ chức. Chiến lược được đặt ra nhằm khai
thác được những điểm mạnh cơ bản của tổ chức (các nguồn lực và năng lực), đồng
thời cũng phải tính đến những cơ hội, thách thức của môi trường. Dựa vào những
phân tích chu đáo về môi trường, các chiến lược này có tính đến các rủi ro, sự
phụ thuộc vào các nguồn lực, cũng như các khả năng và yêu cầu kỹ thuật. Chúng
cũng giúp điều phối và truyền đạt các mục tiêu, mục đích của các nhà quản lý.
Chiến lược hướng tới xây dựng một quá trình hành động trên diện rộng cho tổ chức.
Nó xác định điểm đích và phương hướng chung để đạt được đích đó, tuy nhiên, nó
không cung cấp quá nhiều chi tiết.
Chiến lược có thể coi là tập hợp những
quyết định và hành động hướng mục tiêu để các nguồn lực và năng lực của tổ chức
đáp ứng được những cơ hội và thách thức từ bên ngoài. Như vậy, trước tiên, chiến
lược gắn liền với các mục tiêu của tổ chức; tiếp theo, chiến lược bao gồm không
chỉ những gì tổ chức dự định thực hiện, mà còn là cách thức tiến hành công việc.
Tóm lại, chiến lược sẽ bao gồm một loạt các hành động và quyết định có liên quan
chặt chẽ với nhau và sự lựa chọn phương pháp phối hợp những hành động và quyết
định đó. Chiến lược chính là một quá trình được xây dựng một cách có khoa học
và ăn sâu vào cơ cấu, hoạt động của tổ chức.
Như mọi tổ chức tương đương, cơ quan cấp
sở có thể có các cấp độ chiến lược sau đây:
Chiến lược mục tiêu: đề ra mục
tiêu tổng thể và quy mô của tổ chức để đáp ứng được những kỳ vọng xuất phát từ
các nguồn lực. Chiến lược mục tiêu thường được trình bày rõ ràng trong “tuyên bố
sứ mệnh” (cũng có thể là trong bản điều lệ). Đây chính là “Tầm nhìn chiến lược”.
Chiến lược hành động: chỉ ra những
lĩnh vực, phương diện hoạt động mà tổ chức cần chú trọng nhằm đạt được những mục
tiêu chiến lược, chẳng hạn, đối với một doanh nghiệp, đó có thể là các quyết định
chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, giành lợi thế
cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra được các cơ hội mới.... Chiến
lược hành động còn được coi là “Lộ trình đã được chọn để hướng tới tầm nhìn”
hay “chủ điểm” của chiến lược.
Chiến lược tác nghiệp: định hướng
công việc cho từng đơn vị, bộ phận trong tổ chức nhằm thực hiện trên thực tế
chiến lược hành động chung (ở cấp độ tổ chức và từng đơn vị, bộ phận trong tổ
chức). Như vậy, chiến lược tác nghiệp tập trung vào các vấn đề về nguồn lực,
quá trình xử lý và con người.... Đây chính là các kế hoạch chi tiết để thực hiện
chiến lược.
Một chiến lược cho tổ chức cần phải
bao gồm:
Một “tầm nhìn” chiến lược - tức là một
tầm nhìn dài hạn xem tổ chức tự đặt mình vào trong mối quan hệ tới môi trường
như thế nào.
Các công việc cần làm cho sự thay đổi
- những khu vực thay đổi quan trọng mà tổ chức tham gia nhằm ứng phó với những
khó khăn và cơ hội mà nó phải đối mặt; những điều này sẽ là “chủ điểm” trong
chiến lược, trong đó nó đưa ra một số chủ đề như cơ cấu và tổ chức, chức năng
và hoạt động, cung cấp sản phẩm và dịch vụ, các vấn đề về quản lý và nhân viên;
công nghệ hay các mối quan hệ bên ngoài; một chủ điểm được thực hiện trong khoảng
thời gian dài hoặc trung hạn.
Các chính sách hướng dẫn quá trình ra
quyết định và đưa ra một khuôn khổ chung cho các quyết định - những chính sách
này sẽ ảnh hưởng tới những đặc điểm hành vi dẫn dắt tổ chức hướng tới một tương
lai như mong muốn.
Trong quá trình xây dựng chiến lược, cần
lưu ý một số nội dung sau:
+ Đánh giá quá trình phát triển;
+ Phân tích, dự báo các điều kiện phát
triển;
+ Quan điểm, mục tiêu và các chiến lược
cơ bản;
+ Quy hoạch phân bổ nhân lực theo các
lĩnh vực, không gian và thời gian;
+ Các giải pháp thực hiện.
2. Kỹ năng lập kế hoạch
theo thời gian
a) Khung thời gian kế hoạch:
- Khung thời gian
Khoảng thời gian thực hiện kế hoạch
chính là khung thời gian kế hoạch.
Các khung thời gian kế hoạch của mỗi
loại kế hoạch gộp lại với nhau tạo thành khung thời gian kế hoạch mở rộng.
Khung thời gian kế hoạch ngắn hạn điển hình là khung thời gian kế hoạch tháng,
còn khung thời gian kế hoạch dài hạn thông thường kéo dài hàng năm.
- Khung thời gian công
tác của cấp sở:
Các loại kế hoạch phải tạo nên một bức
tranh thống nhất về các hành động tương lai của sở, bao gồm các thời kỳ khác
nhau và các khối lượng chi tiết khác nhau trong hoạt động của sở.
b) Kế hoạch chiến lược:
- Yêu cầu
Vấn đề chiến lược mà tổ chức đang phải
đối mặt và những ứng phó trước các vấn đề này sẽ yêu cầu những kỹ năng trong quản
trị chiến lược - đó là khả năng nhận thức và giải quyết thành công những vấn đề
chiến lược của tổ chức. Trong lĩnh vực công những vấn đề này bao gồm:
+ Giải quyết nhu cầu của tổ chức, cá
nhân chứ không phải lợi ích của chính quyền;
+ Sử dụng ngân sách có hiệu quả và giá
trị lớn hơn;
+ Cung cấp các dịch vụ đã được cải thiện
và đổi mới cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân;
+ Quá trình xây dựng chính sách do nhiều
người cùng thực hiện;
+ Gia tăng đối thoại với tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân;
+ Phối hợp tốt hơn giữa chính quyền từ
Trung ương đến địa phương;
+ Tình hình thực hiện thỏa thuận cung
cấp dịch vụ công cộng được cải thiện rõ rệt;
+ Thực hiện chiến lược xây dựng chính
phủ điện tử (một khuôn khổ chung về những nguyên tắc chủ yếu như khả năng hoạt
động tương hỗ và các tiêu chuẩn kỹ thuật hỗ trợ).
- Nội dung
Kế hoạch chiến lược là thể hiện sự lựa
chọn và phản ánh các chủ trương lớn, tổng thể, toàn cục về sự phát triển cho thời
kỳ dài hạn; phản ánh mục tiêu, cách thức phương thức và lực lượng (phù hợp với
nguồn lực) để đạt được mục tiêu của tổ chức. Thể hiện việc thực hiện các tư duy
chiến lược dài hạn, gồm các chi tiết cụ thể để đạt được nhiệm vụ và đáp ứng được
các mục tiêu và mục đích dài hạn và là cơ sở cho các kế hoạch hoạt động và kế
hoạch ngắn hạn. Chiến lược sẽ được chuyển thành kế hoạch thông qua việc lập kế
hoạch chiến lược với việc sử dụng các thông tin trong diễn giải chiến lược, bổ
sung thêm các hành động chi tiết và phân bổ các nguồn lực cần thiết để đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
- Chiến lược công tác của cấp sở
Việc lập kế hoạch chiến lược ở cấp sở
để tạo ra các kế hoạch hành động nhằm đạt được các mục tiêu, mục đích đề ra
trên cơ sở các nguồn lực, bao gồm: con người, tài chính, cơ sở vật chất, khả
năng kỹ thuật.
Kế hoạch chiến lược đó cần hướng tới:
+ Nhất quán và thể hiện việc thực hiện
các tư duy chiến lược dài hạn, kế hoạch chiến lược thường kéo dài từ 2 đến 5
năm, gồm các chi tiết cụ thể để đạt được nhiệm vụ và đáp ứng được các mục tiêu
và mục đích dài hạn và là cơ sở cho các kế hoạch hoạt động và kế hoạch ngắn hạn.
+ Kế hoạch chiến lược phân bổ mọi nguồn
lực bằng cách sắp xếp chúng thành một lịch chi tiết theo từng năm. Kế hoạch chiến
lược phải giải quyết các giả thiết, rủi ro, và sự phụ thuộc trong chiến lược.
Nó cũng chuyển các giả thiết trong chiến lược thành hiện thực. Kế hoạch chiến
lược cần phải đủ chi tiết để có thể theo dõi theo thời gian thông qua việc so
sánh kết quả thực tế với kế hoạch.
+ Việc lập kế hoạch chiến lược phải tạo
ra các kế hoạch hành động để đạt được các mục tiêu, mục đích đề ra. Bởi lẽ kế
hoạch chiến lược chuyển các mục tiêu và mục đích chiến lược thành các hành động
chiến lược tương lai khoảng từ 2 đến 5 năm (hoặc hơn), nên nó tạo nền tảng để
xây dựng kế hoạch trung hạn. Khi kế hoạch chiến lược được chuyển thành các kế
hoạch chiến thuật và tác nghiệp thì công việc theo dõi nó được diễn ra trong những
khoảng thời gian ngắn.
c) Kế hoạch chiến thuật:
- Yêu cầu
Nhằm chi tiết hóa các hành động để thực
hiện các kế hoạch chiến lược, kế hoạch chiến thuật (hay kế hoạch trung hạn) thường
kéo dài từ 3 tháng đến 2 năm, đề cập chi tiết năm hiện tại và ít chi tiết hơn ở
năm sau, được sử dụng để đo kết quả hoạt động của tổ chức (là cơ sở để đánh giá
kết quả, cung cấp các thông tin khách quan để đánh giá sự tiến bộ của tổ chức
nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn). Cũng vì thế mà kế hoạch chiến thuật đôi
khi được gọi là các kế hoạch đo lường.
- Nội dung
Khác với kế hoạch chiến lược là kế hoạch
nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược và được coi là các mục tiêu định hướng,
các hoạt động ở mức thấp hơn nhằm thực hiện các kế hoạch chiến thuật được gọi
là kế hoạch nhằm thực hiện tốt các mục tiêu chiến thuật.
Một nhiệm vụ chiến thuật được xác định
trong những khu vực hoạt động nhất định nhằm mục đích hoàn thành các mục tiêu của
nhiệm vụ được giao, cụ thể là giành được “kiểm soát chiến thuật” và do đó, một
chiến thắng chiến thuật sẽ được coi là bước hoàn tất của một nhiệm vụ thành
công. Thắng lợi chiến thuật sẽ đóng góp vào sự thành công của toàn bộ một kế hoạch
chiến lược. Chiến thuật bao gồm việc điều phối các nguồn lực. Chiến thuật cũng
có thể chỉ đơn giản như các hoạt động thực thi nhiệm vụ của một cá nhân.
- Chiến thuật công tác của cấp sở
Kế hoạch chiến thuật của cấp sở bao gồm
nhiều hoạt động cụ thể, trực tiếp và chi tiết hơn kế hoạch chiến lược. Do vậy,
nó hướng dẫn nhiều hoạt động ngắn hạn và gắn kết các hành động ngắn hạn với các
mục tiêu dài hạn.
d) Kế hoạch tác nghiệp:
- Yêu cầu
Kế hoạch tác nghiệp tạo ý nghĩa ngắn hạn,
hàng ngày cho kế hoạch chiến thuật và do đó thường chỉ kéo dài khoảng 3 tháng.
Kế hoạch tác nghiệp bổ sung các chi tiết và định hướng cho các hoạt động ngắn hạn
(kể cả các hoạt động kiểm tra) của tổ chức trên cơ sở hàng tuần, hàng ngày.
- Nội dung
Bao gồm nhiều hoạt động cụ thể, trực
tiếp và chi tiết nhằm thực hiện kế hoạch chiến thuật. Để thực hiện việc kiểm
tra và giữ cho các hoạt động đúng lịch trình, đảm bảo tiến độ cần phân tích sự
khác nhau giữa các kết quả thực tế và kế hoạch.
- Kế hoạch tác nghiệp công tác của cấp
sở
Hướng dẫn nhiều hoạt động ngắn hạn và
gắn kết các hành động ngắn hạn với các mục tiêu dài hạn trong công tác của sở,
có thể bao gồm:
+ Kế hoạch hoạt động của sở;
+ Kế hoạch công tác của lãnh đạo sở;
+ Kế hoạch hoạt động của đơn vị, bộ phận;
+ Kế hoạch công tác cá nhân.
đ) Chương trình công tác:
- Yêu cầu
Hàng tháng, hàng quý, sáu tháng và
hàng năm, Thủ trưởng các đơn vị rà soát, thống kê đánh giá việc thực hiện
chương trình công tác của đơn vị, gửi văn phòng để tổng hợp, báo cáo lãnh đạo về
kết quả xử lý các công việc được giao, những công việc còn tồn đọng, hướng xử
lý tiếp theo, kiến nghị việc điều chỉnh, bổ sung chương trình công tác thời
gian tới. Văn phòng có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc
chuẩn bị các đề án của các đơn vị; hàng tháng, hàng quý, 6 tháng và cuối năm có
báo cáo kết quả thực hiện chương trình công tác. Kết quả thực hiện chương trình
công tác phải được coi là một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá việc
hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đơn vị.
- Nội dung
Về tổng thể một chương trình công tác
cần có những nội dung sau đây:
+ Mục tiêu tổng quát
+ Một số nhiệm vụ trọng tâm
● Tập trung mọi nguồn lực triển khai
thực hiện hoàn thành mục tiêu đề ra;
● Tập trung chỉ đạo thực hiện hoàn
thành công tác;
● Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời
tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các hoạt động....
+ Một số mục tiêu chủ yếu của năm....
+ Những nội dung nhiệm vụ chủ yếu. (Có
thể trình bày bằng các biểu chi tiết kèm theo)
+ Một số giải pháp chủ yếu
● Lãnh đạo các sở, Thủ trưởng các đơn
vị trực thuộc phải đặc biệt bám sát các nhiệm vụ trọng tâm để chủ động xây dựng
kế hoạch và chỉ đạo điều hành thực hiện các nhiệm vụ một cách linh hoạt, quyết
liệt, có hiệu quả nhất; tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chưa hoàn thành trong
Chương trình công tác năm. Đặc biệt là việc đôn đốc, kiểm tra, thường xuyên chỉ
đạo thật cụ thể đối với từng công việc ở đơn vị.
● Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, kịp thời điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế, chính sách cùng với triển
khai thực hiện chính sách của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị
thực hiện nhiệm vụ chính trị, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh....
+ Tổ chức thực hiện
● Chương trình công tác năm xác định
những nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm của sở. Hàng tháng, sở bố trí lịch làm việc cụ
thể để thực hiện các nội dung chủ yếu trong chương trình công tác và giải quyết
các công việc thường xuyên, đột xuất phát sinh.
● Trưởng các đơn vị chủ động xây dựng
kế hoạch, chương trình công tác của đơn vị nhằm cụ thể hóa chương trình công
tác của sở theo chức năng, nhiệm vụ được giao; tăng cường sự phối hợp, kết hợp
giữa các cơ quan hữu quan để thực hiện hoàn thành chương trình công tác năm của
sở; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và xử lý những phát sinh từ cơ sở để đảm bảo
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; những vấn đề vượt quá thẩm quyền kịp thời
báo cáo lãnh đạo sở để xem xét cho ý kiến; nêu cao vai trò trách nhiệm của người
đứng đầu trong việc đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao....
● Văn phòng sở có trách nhiệm theo
dõi, đôn đốc các đơn vị thực hiện Chương trình công tác năm của sở đảm bảo theo
đúng quy định.
● Trong quá trình tổ chức thực hiện,
căn cứ tình hình thực tế, sở sẽ xem xét điều chỉnh, bổ sung Chương trình công
tác năm cho phù hợp.
- Chương trình công tác của cấp sở
+ Chương trình công tác năm
Chương trình công tác năm cần đảm bảo
những đề án, công việc đăng ký trong chương trình phải thể hiện kết hợp giữa
các nhiệm vụ nêu trong các văn bản, ý kiến chỉ đạo của cấp trên với sự chủ động
đề xuất của đơn vị. Mỗi đề án, công việc cần xác định rõ nội dung chính; đơn vị
chủ trì, đơn vị phối hợp, người phụ trách, cấp trình và thời hạn trình từng cấp.
Các đơn vị phải chịu trách nhiệm về tiến độ chuẩn bị và nội dung thực hiện công
việc mà mình kiến nghị đưa vào chương trình công tác của tổ chức.
Văn phòng chủ trì phối hợp với các đơn
vị liên quan xây dựng Chương trình công tác năm của tổ chức. Thông thường
Chương trình công tác năm cần được chuẩn bị trong tháng 11 năm trước, các đơn vị
gửi văn phòng danh mục công việc cần trình các cấp trong năm sau. Văn phòng có
trách nhiệm tổng hợp trình lãnh đạo ký gửi tổ chức cấp trên để đăng ký những
công việc của tổ chức vào chương trình công tác trình cấp trên cũng trong tháng
11 hàng năm. Sau khi nhận được phê duyệt của cấp trên, văn phòng phải nhanh
chóng cụ thể hóa thành dự thảo Chương trình công tác năm gửi các đơn vị liên
quan để tham gia ý kiến. Các đơn vị phải có ý kiến chính thức bằng văn bản gửi
văn phòng để tổng hợp xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo. Sau khi tổng hợp xong,
văn phòng trình lãnh đạo ký ban hành và gửi các đơn vị để thực hiện.
+ Chương trình công tác quý
Những đề án, công việc ghi trong
Chương trình công tác quý phải xác định rõ nội dung chính, đơn vị chủ trì, đơn
vị phối hợp, người phụ trách, địa chỉ trình (cấp có thẩm quyền) để quyết định
và thời hạn trình.
Chậm nhất vào giữa tháng cuối quý, các
đơn vị phải gửi dự kiến Chương trình công tác quý sau cho văn phòng. Những công
việc bổ sung hoặc có sự điều chỉnh về thời gian thì phải có văn bản báo cáo
lãnh đạo. Quá thời hạn trên, đơn vị nào không gửi coi như đơn vị đó không có
nhu cầu điều chỉnh.
Chậm nhất là đầu tuần cuối cùng của
tháng cuối quý, văn phòng tổng hợp Chương trình công tác quý sau trình lãnh đạo
xem xét, quyết định. Những vấn đề trình cấp trên, nếu có sự thay đổi về thời
gian, văn phòng phải có văn bản trình lãnh đạo ký đề nghị cấp trên cho điều chỉnh.
Chỉ sau khi được chấp nhận, các đơn vị mới được thực hiện theo tiến độ mới.
Chương trình công tác quý I được thể
hiện trong báo cáo và Chương trình công tác năm. Chương trình công tác quý II
được thể hiện trong báo cáo và Chương trình công tác 6 tháng.
+ Chương trình công tác tháng
Hàng tháng, các đơn vị căn cứ chương
trình công tác quý để xây dựng và triển khai thực hiện chương trình công tác
tháng. Nếu tiến độ thực hiện chương trình công tác tháng bị chậm phải báo cáo
lãnh đạo trước ngày cuối tuần thứ ba hàng tháng.
Chậm nhất là vào giữa tuần cuối cùng
hàng tháng, văn phòng tổng hợp chương trình công tác tháng sau trình lãnh đạo
xem xét, quyết định và thông báo cho các đơn vị.
Chương trình công tác tháng đầu quý được
thể hiện cụ thể trong chương trình công tác quý.
+ Chương trình công tác tuần của lãnh
đạo
Căn cứ chương trình công tác tháng và
sự chỉ đạo của lãnh đạo, văn phòng phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng
chương trình công tác tuần, trình lãnh đạo duyệt và gửi các đơn vị vào chiều thứ
sáu hàng tuần;
Khi có sự thay đổi chương trình công
tác tuần của lãnh đạo, thư ký của lãnh đạo và các chuyên viên giúp việc kịp thời
thông báo cho văn phòng cập nhật thông tin trên mạng máy tính (nếu có) và thông
báo cho các đối tượng liên quan biết.
+ Chương trình công tác của các đơn vị
Căn cứ chương trình công tác của tổ chức
và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các đơn vị xây dựng chương trình,
kế hoạch công tác của đơn vị và tổ chức thực hiện. Chương trình này phải xác định
rõ trách nhiệm đến từng cá nhân mỗi thành viên của đơn vị; đồng thời thể hiện
rõ lịch trình thực hiện công việc, bảo đảm tiến độ trình lãnh đạo cấp trên xem
xét theo chương trình công tác của tổ chức;
Thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm theo
dõi, đôn đốc, tạo điều kiện để đơn vị hoàn thành chương trình, kế hoạch công
tác. Trường hợp do những khó khăn chủ quan, khách quan không hoàn thành được
công việc theo tiến độ, kế hoạch đã định, phải kịp thời báo cáo lãnh đạo phụ
trách lĩnh vực và thông báo cho văn phòng biết để điều chỉnh chương trình chung
và tìm giải pháp khắc phục.
e) Yêu cầu đối với kế hoạch:
- Tính mục tiêu
Xác định mục tiêu là giai đoạn rất
quan trọng của quá trình lập kế hoạch.
Mỗi một kế hoạch đều phải được xác định
mục tiêu và nhiệm vụ cần phải thực hiện.
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch
hoạt động của toàn cơ quan, tổ chức, cũng như tại mỗi đơn vị, bộ phận cần đảm bảo
tính khách quan. Kế hoạch phải căn cứ vào hiện thực, phân tích các quan hệ và
khả năng cũng như các điều kiện tác động từ bên ngoài để xác định mục tiêu. Việc
xác định các mục tiêu phải đi kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục
tiêu, nghĩa là có khi phải hạ thấp yêu cầu mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu
khác cao hơn.
Một khi có sự đổi mới về xác định mục
tiêu và công cụ, thì quá trình xây dựng nội dung kế hoạch cần đổi mới theo hướng
xác định các mục tiêu phải được làm cùng với xác định biện pháp tương ứng, công
cụ chính sách đầu tư ngày càng giảm và công cụ chính sách khuyến khích ngày
càng tăng nhằm phát huy hết tiềm năng để phát triển tổ chức.
Việc xác định mục tiêu cũng là cơ sở để
xem xét các vấn đề như: trang thiết bị, tri thức, kỹ năng, quan điểm công việc.
Phải thận trọng cân nhắc các khả năng để đưa ra ý tưởng mới, phân tích, đánh
giá và rút ra kết luận đối với từng lựa chọn.
Các mục tiêu được xác lập cần đảm bảo
nguyên tắc SMART.
+ Specific - cụ thể, dễ hiểu.
Chỉ tiêu phải cụ thể vì nó định hướng cho các hoạt động trong tương lai.
+ Measurable - đo lường được.
+ Achievable - vừa sức. Chỉ tiêu phải
có tính thách thức để cố gắng, nhưng cũng đừng đặt chỉ tiêu loại không thể đạt
nổi.
+ Realistics - thực tế. Đây là tiêu
chí đo lường sự cân bằng giữa khả năng thực hiện so với nguồn lực của đơn vị
(thời gian, nhân lực, tài chính...).
+ Timebound - có thời hạn.
Khi các mục tiêu đã rõ ràng và được chấp
nhận, hãy xác định những nhiệm vụ cần hoàn tất để đáp ứng tất cả các mục tiêu
đó. Cần trả lời những câu hỏi sau:
Mục tiêu là gì? Tại sao phải hoàn tất mục
tiêu này?
Tất cả những nhiệm vụ phải thực hiện để
đạt được các mục tiêu này là gì?
Đối tượng nhắm đến cuối cùng là ai, ai
là những đối tượng trung gian trong quá trình đi đến đối tượng cuối cùng?
Đâu là trình tự tối ưu để thực hiện
các nhiệm vụ này? Nhiệm vụ nào có thể thực hiện một cách độc lập, còn nhiệm vụ
nào phải được giải quyết nối tiếp nhau?
Từng nhiệm vụ phải được hoàn tất với kế
hoạch thời gian như thế nào?
Hiện trạng (các yếu tố chủ quan về
nhân lực, tài lực, vật lực,...)?
Bằng cách liên tục đặt câu hỏi và tìm
câu trả lời là giải pháp cho câu hỏi qua tranh luận phản biện tích cực giữa các
bộ phận và thành viên liên quan... ta có phương pháp xác định nhiệm vụ trọng
tâm và với sự điều phối của lãnh đạo, các nhiệm vụ chính và phụ liên quan cùng
việc bố trí thời gian, nguồn lực... cho các nhiệm vụ đó một cách phù hợp sẽ được
hình thành.
- Tính pháp lý
Một kế hoạch được lập phải đảm bảo các
căn cứ pháp lý và thực tế.
+ Pháp lý
Chức năng và nhiệm vụ của tổ chức.
Các chính sách, chế độ, chỉ tiêu pháp
lệnh, định mức chi tiêu hiện hành của Nhà nước quy định; chủ trương, quyết định
của cấp trên.
Biên chế và tiền lương được cấp trên
duyệt (biên chế nhà nước, biên chế hợp đồng, tiền lương theo cấp bậc, chức vụ
và các khoản phụ cấp, trợ cấp... theo chế độ quy định).
+ Thực tế
Tương ứng và phù hợp với kế hoạch cao
hơn, dài hơn, thí dụ: các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
khi xây dựng quy hoạch phát triển của ngành, tỉnh, thành phố phải căn cứ vào
chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Tình hình thực tế (môi trường bên
trong và bên ngoài tổ chức; thực trạng phát triển ngành, lĩnh vực; đặc điểm,
tình hình khối lượng công việc, nhân sự thực tế của tổ chức; nhu cầu của tổ chức
về mua sắm, sửa chữa, đổi mới trang thiết bị, nhà xưởng và các nhu cầu khác như
điện, nước, xăng dầu, tiền thuê nhà... cũng như các thông tin khác nắm được tại
thời điểm lập kế hoạch).
- Được lãnh đạo phê duyệt
Kế hoạch được trình lên lãnh đạo tổ chức
phê duyệt theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời gian quy định.
Thực hiện đúng nguyên tắc giải quyết
công việc theo thẩm quyền, nhanh chóng, coi trọng công tác phối hợp liên ngành,
không đùn đẩy công việc cho cơ quan khác hoặc cho cấp trên.
Mọi kế hoạch phải chắc chắn có người đứng
ra chỉ đạo, bảo đảm cho kế hoạch tiến triển đúng thời hạn.
Các kế hoạch lớn (chiến lược phát triển;
chương trình hành động,....) cần kèm theo tờ trình và các tài liệu có liên quan
(nếu có).
- Tính thông tin
Kế hoạch công tác phải thể hiện rõ các
mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp và tiến độ cụ thể đối với từng việc do cấp mình xử
lý các việc phải xử lý liên ngành hoặc phải trình cấp trên giải quyết. Kế hoạch
phải có nội dung thông tin đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn. Các tài liệu cần
được nghiên cứu kỹ, nguồn thông tin phải được kiểm tra toàn diện.
Nội dung của kế hoạch cần chỉ rõ danh mục
những công việc dự kiến, nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) thời hạn hoàn
thành. Đồng thời, cũng cần xác định một số công tác trọng tâm và phân công từng
đơn vị, cá nhân tập trung thực hiện. Như vậy, trong hàng loạt những nội dung của
kế hoạch cần tìm ra được các nhiệm vụ trọng tâm, các hoạt động mang tính quyết
định tới sự thành bại của tổ chức, các nhiệm vụ cần thực hiện trước để ưu tiên
tập trung giải quyết, những nhiệm vụ công việc, ưu tiên để bố trí sự chỉ đạo trực
tiếp của lãnh đạo hoặc ưu tiên các điều kiện về cơ sở vật chất, thời gian thích
hợp phù hợp với những nhu cầu ưu tiên. Đó là nguyên tắc về tính ưu tiên trong
xác định các nội dung công tác đề ra trong kế hoạch.
- Tính hệ thống và đồng bộ
Công việc hàng ngày cần được tổ chức sắp
xếp có hệ thống, đồng bộ, cân đối và ăn khớp với nhau.
Nguyên tắc tính hệ thống đòi hỏi kế hoạch
phải đảm bảo hệ thống theo chiều dọc là tính thống nhất giữa kế hoạch cấp trên
và cấp dưới, giữa ngắn hạn và dài hạn, đảm bảo các giai đoạn của kế hoạch không
bị chồng chéo trùng lắp hoặc đứt đoạn, mà trước hết là tuân thủ tính trật tự về
thời gian, trình tự tiến hành các công việc của kế hoạch.
Kế hoạch cần đảm bảo sự nhất quán về
các mối quan hệ ngang trong sự phối kết hợp nhiều chiều trong quá trình xây dựng
và thực hiện kế hoạch. Như vậy, các kế hoạch phải phù hợp và thống nhất với
nhau về nội dung, trình tự, thời gian, việc phân phối các nguồn lực và phân cấp
thực hiện nhiệm vụ. Việc lập kế hoạch theo nguyên tắc hệ thống cho phép hợp nhất
nhiều kế hoạch riêng lẻ thành một kế hoạch tổng hợp của tổ chức.
- Tính khoa học và hợp lý
Một bản kế hoạch được coi là hợp lý cần
đảm bảo chỉ hướng tới dành thời gian vào những việc thật sự có chất lượng.
Việc lên thời gian biểu cho các kế hoạch
chiến lược phụ thuộc vào đặc điểm, nhu cầu của tổ chức cũng như các đòi hỏi cấp
thiết của môi trường bên ngoài.
Công việc hàng ngày cần được tổ chức
thành các nhóm có liên quan với nhau để hợp lý hóa thời gian giải quyết, tránh
chồng chéo, trùng lặp
- Tính kịp thời
Kế hoạch cần được thông báo kịp thời
và chính xác đến các đơn vị, bộ phận, cá nhân liên quan.
Thời gian biểu thực hiện kế hoạch được
xác định càng sớm thì càng ít vấn đề xảy ra và chi phí được tối ưu hóa theo
cách hiệu quả hơn.
Công việc cần được bàn giao cho các
nhân viên và việc kiểm tra kết quả làm việc cần được quan tâm đúng mức và thường
xuyên.
- Tính đồng thuận giữa các thành viên
Việc lập kế hoạch công tác của tổ chức
nhất thiết phải phát huy dân chủ để phát huy nội lực, giải quyết các khó khăn.
Kế hoạch càng được nhiều thành viên của tổ chức tham gia vào nhiệm vụ và các mục
tiêu tổ chức càng tốt. Nhà quản lý cần chú ý tới các ý kiến phản hồi từ phía những
người tham gia kế hoạch và cả tập thể lãnh đạo. Đây là quá trình rất quan trọng,
kể cả ở giai đoạn sau khi kế hoạch đã được hoàn thành. Phải làm sao để người dưới
quyền cảm thấy rằng họ thật sự được tham gia vào quy trình, ý kiến của họ được
lắng nghe, được gắn với kế hoạch và việc thực thi kế hoạch.
- Tính hiệu quả và khả thi
Mục tiêu chung của kế hoạch là hoàn
thành tốt những nội dung công việc đề ra. Vì vậy, nội dung kế hoạch phải đảm bảo
tính khả thi, tránh ôm đồm nếu quá nhiều công việc mà khả năng thực hiện không
được bao nhiêu; phải phân bố quỹ thời gian cho hợp lý. Hãy tiến hành lập kế hoạch
từ những việc đơn giản nhất.
Đảm bảo cho kế hoạch mang tính thiết
thực. Thường xuyên đưa ra những câu hỏi cho những người tham gia kiểu như: “Kế
hoạch này có thiết thực không?”, “Anh hay Chị có thể làm được không?”.
Để thực hiện kế hoạch cần phải xác định
rõ ràng các phương pháp tiến hành và trách nhiệm. Vừa tiến hành công việc vừa
kiểm tra lại và điều chỉnh kịp thời cách thức kiểm tra để nắm rõ tình hình thực
thi công việc và có những điều chỉnh kịp thời.
- Tính linh hoạt
Hoạt động lập kế hoạch được định hướng
không đơn thuần bởi tính “lịch trình” của bản thân hoạt động (công tác) mà chủ
yếu bởi các điều kiện và môi trường hoạt động. Do đó các kế hoạch phải có tính
linh hoạt, có thể và cần được sửa đổi trong suốt thời gian thực hiện kế hoạch để
thích ứng với những điều kiện thay đổi. Đặc biệt, các kế hoạch hành động nên được
đổi mới liên tục. Nói cách khác, việc lập kế hoạch phải luôn theo kịp mục tiêu
hoạt động chứ không phải theo lịch.
- Tính dự báo và dự phòng
Mọi dự tính thông thường không thể
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cuộc sống phức tạp xảy ra, do đó kế hoạch công
tác cần được xây dựng với những phương án dự phòng có thể. Nguyên tắc dự phòng
là đảm bảo có sự cân nhắc, lường trước những bất trắc có thể xảy ra và được
tính như là một hệ số an toàn, hạn chế rủi ro, duy trì một giới hạn có thể điều
chỉnh của kế hoạch.
Như vậy, có thể nói tới kế hoạch chính
thức và kế hoạch dự phòng, hay nói cách khác có các phương án kế hoạch khác
nhau để tránh bị bất ngờ trong tình huống khó khăn. Tính dự phòng sẽ liên quan
đến các yếu tố về thời gian, nhân lực, vật lực.
3. Tổ chức thực hiện kế hoạch
a) Những nguyên tắc chỉ đạo:
- Các kỹ năng chỉ đạo
+ Kỹ năng tạo điều kiện cho những người
chịu trách nhiệm tiến hành kế hoạch. Thành lập các tổ đa chức năng (đại diện của
mỗi ngành, đơn vị trong tổ chức) đảm bảo tiến hành kế hoạch thiết thực và hiệu
quả.
+ Kỹ năng xây dựng kế hoạch hành động,
thường bao gồm kế hoạch hành động (kế hoạch tiến hành) cho các tiểu đơn vị, bộ
phận, cá nhân trong tổ chức.
- Các kỹ năng thúc đẩy thực hiện
Để thực hiện kế hoạch cần phải xác định
rõ ràng các phương pháp tiến hành và trách nhiệm. Vừa tiến hành công việc vừa
kiểm tra lại và điều chỉnh kịp thời.
Trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch
cần lưu ý: Mỗi kế hoạch công việc đều liên quan đến hai phương diện: 1) Mặt
công việc; và 2) Mặt nhân sự.
Để trả lời câu hỏi về mặt công việc, một
kế hoạch phải được xuất phát từ việc phân tích chuỗi hoạt động thực hiện công
việc. Từ kết quả các phân tích này, nhà quản lý tổng hợp và đúc rút ra những điểm
mấu chốt quyết định điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và đe dọa đối với tổ chức
(SWOT). Lật ngược trở lại với những điểm mạnh có được và những điểm yếu đang tồn
tại, tổ chức sẽ phải làm gì để khai thác tận dụng các cơ hội, khắc phục các điểm
yếu và hạn chế các đe dọa sẽ có thể xảy ra. Từ những phân tích này, nhà quản lý
xác định cho mình mục tiêu cần hướng tới và nỗ lực để đi tới mục tiêu của mình
bằng cách chia nhỏ thành các mục tiêu nhỏ trong từng giai đoạn cụ thể. Xây dựng
các chiến lược, cách thức để đạt được các mục tiêu đó và cụ thể hóa thành các kế
hoạch hành động với các nguồn lực và chi phí phù hợp.
Cần tiến hành những bước như sau:
+ Bắt đầu bằng cách xác định thời gian
dự kiến cho từng công việc. Điều này sẽ phụ thuộc vào cách thiết kế công việc
và những mục tiêu cơ quan theo đuổi.
+ Xác định rõ những hành động buộc phải
làm để hoàn thành tốt công việc.
+ Xem xét lại danh sách những việc cần
làm và lên kế hoạch cho những hoạt động cần ưu tiên và khẩn cấp, cũng như những
nhiệm vụ cần thiết phải duy trì mà không thể tránh hoặc giao phó cho ai khác.
+ Vạch ra quỹ thời gian đối phó với những
điều xảy ra bất ngờ một cách thích hợp. Hãy để những khoảng trống trong thời
gian biểu để đối phó một cách hiệu quả với những vấn đề cấp bách xảy ra.
+ Xem lại danh sách những việc ưu tiên
cần làm và những mục tiêu lâu dài, ước định thời gian thực hiện cần thiết và
đưa chúng vào thời gian biểu.
Một trong những cách quan trọng nhất để
đạt được thành công là tối đa hóa hiệu quả công việc có thể đạt được với quỹ thời
gian của mình. Sự gia tăng khối lượng công việc hoàn thành có thể bằng cách
giao việc cho người khác, sử dụng công nghệ để tự động hóa càng nhiều việc càng
tốt.
b) Điều hành thực hiện kế hoạch lấy hiệu
quả làm thước đo:
- Những yêu cầu
+ Chia kế hoạch chiến lược tổng thể ra
thành các kế hoạch hành động cụ thể.
+ Trong tài liệu kế hoạch tổng thể chỉ
rõ người tiến hành và thời gian thực hiện (các kế hoạch hành động thường được đề
cập tới trong phần thực hiện của kế hoạch chiến lược tổng thể).
+ Trong khâu thực hiện kế hoạch cần phải
xác định rõ ràng các phương pháp tiến hành và trách nhiệm của từng người, nhóm,
đơn vị. Vừa tiến hành công việc vừa kiểm tra lại.
+ Bàn giao công việc cho cán bộ, công
chức thực thi công vụ và kiểm tra kết quả làm việc.
+ Nghiên cứu kỹ tài liệu và phân công
công việc, kiểm tra kỹ mọi nguồn thông tin.
+ Nêu cao vai trò của người lãnh đạo
chỉ đạo, điều hành bảo đảm cho kế hoạch tiến triển đúng thời hạn.
+ Sắp đặt người tham gia làm nhiệm vụ
để giúp nhau hoàn thành công việc đúng thời hạn.
+ Xác định lộ trình cần thực hiện:
Xây dựng một danh sách bao gồm các nhiệm
vụ cụ thể.
Nêu rõ kết quả cần đạt được cho từng
hoạt động.
Dùng những kết quả đó làm cơ sở lập lịch
trình kế hoạch với các điểm mốc và ngày đến hạn thực tế.
Nhận biết những khâu đình trệ có thể
làm đảo lộn lịch trình.
Xác định các biện pháp loại trừ những
nguyên nhân gây đình trệ. Các rủi ro có thể gặp phải trên quá trình đi đến mục
tiêu.
Thiết lập hệ thống kiểm soát và truyền
thông để cập nhật và điều chỉnh lịch trình.
Các giải pháp dự phòng và phương thức
chuẩn bị áp dụng khi cần thiết.
+ Xác định phương pháp kiểm tra
Phương pháp kiểm tra liên quan đến các
nội dung sau:
Cơ quan nào tiến hành kiểm tra?
Những điểm kiểm tra nào là trọng yếu?
Không thể có đầy đủ các nguồn lực để
tiến hành kiểm tra hết tất cả các công đoạn, do vậy chúng ta chỉ tiến hành kiểm
tra những điểm trọng yếu (quan trọng nhất).
Điểm kiểm tra trọng yếu tuân theo
nguyên tắc Pareto (20/80), tức là những điểm kiểm tra này chỉ chiếm 20% số lượng
nhưng chiếm đến 80% khối lượng sai sót.
- Quy trình tổ chức thực hiện
Căn cứ Chương trình công tác trọng tâm
năm, hàng quý, hàng tháng được duyệt và lịch công tác tuần, các đơn vị tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ được giao theo tiến độ quy định.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trọng
tâm, nếu không bảo đảm tiến độ, chất lượng công tác, Giám đốc sở tổ chức họp
giao ban giữa Lãnh đạo sở và Thủ trưởng các đơn vị nhằm đôn đốc điều chỉnh kịp
thời và giải quyết vướng mắc.
Chậm nhất trong vòng 5 ngày làm việc kể
từ ngày ban hành chương trình công tác trọng tâm hàng tháng hoặc hàng quý, Thủ
trưởng các đơn vị có trách nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ công chức
trong đơn vị mình, đề ra các biện pháp thực hiện cụ thể để đảm bảo hoàn thành
công tác được giao và báo cáo Lãnh đạo sở phụ trách.
Báo cáo kết quả thực hiện: tháng; quý;
6 tháng; năm. Ngoài báo cáo năm, còn có báo cáo dự kiến hoàn thành công tác năm
để xây dựng kế hoạch năm sau.
Văn phòng sở tổng hợp, dự thảo báo cáo
tháng, quý, 6 tháng hoặc năm trình Giám đốc sở xem xét, phê duyệt để báo cáo bộ,
ngành hữu quan, UBND tỉnh theo thời gian quy định. Trường hợp theo thời điểm
báo cáo các cơ quan cấp trên thì Văn phòng sở tổng hợp số liệu theo chu kỳ thời
gian quy định của cấp trên. Các đơn vị có nhiệm vụ cung cấp số liệu cập nhật tại
thời điểm báo cáo cấp trên theo yêu cầu của văn phòng.
Giám đốc sở có trách nhiệm phê duyệt
báo cáo do Văn phòng trình khi đã đạt yêu cầu, Văn thư phát hành theo quy định.
c) Sơ kết và tổng kết chương trình
công tác:
Việc sơ kết chương trình công tác 6
tháng được tổ chức hội nghị (hoặc họp) vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 nhằm
đánh giá kết quả đạt được, bàn giải pháp thực hiện tốt chương trình 6 tháng cuối
năm.
Việc tổng kết chương trình công tác
năm được tổ chức vào cuối tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau nhằm đánh giá kết quả đạt
được, bàn biện pháp khắc phục những hạn chế và triển khai công tác năm sau.
Văn phòng sở có nhiệm vụ tổng hợp báo
cáo phục vụ sơ kết và tổng kết chương trình công tác.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất những yêu cầu cần thiết đối với hoạt động lập kế hoạch hiệu quả.
2. Đồng chí hãy cho biết sự cần thiết
hoàn thiện và tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo cấp sở và tương đương trong
chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác.
3. Đồng chí hãy cho biết những yếu tố
tác động đến hiệu quả thực hiện kế hoạch công tác của cấp sở và tương đương.
4. Đồng chí hãy cho biết năng lực và
phẩm chất cần thiết của lãnh đạo cấp sở và tương đương trong xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch công tác.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Nguyễn Văn Điềm và Nguyễn Ngọc
Quân. Quản trị nguồn nhân lực Giáo trình Đại học Kinh tế quốc dân. NXB Đại học
Kinh tế quốc dân, 2007.
2. Nguyễn Tấn Phước. Quản trị chiến lược
- cần chính sách kinh doanh. NXB Đồng Nai, 1999.
3. Nguyễn Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh (Chủ
biên). Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành chính. NXB Thống kê, Hà Nội, 1999.
4. Lưu Kiếm Thanh. Nghiệp vụ hành
chính văn phòng. H. Thống kê, 2010.
5. Tài liệu hướng dẫn lập kế hoạch
phát triển địa phương 5 năm và hàng năm theo phương pháp mới. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư - UNICEF. Hà Nội, 2013.
6. Vũ Văn Mỹ. Lập kế hoạch kinh doanh.
NXB Trẻ, 2002./.
Chuyên đề 8
KỸ
NĂNG QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NGÀNH Ở ĐỊA PHƯƠNG
1. Đặc trưng nguồn nhân lực trong cơ
quan hành chính nhà nước
a) Việc làm trong cơ quan hành chính
nhà nước:
- Khái niệm việc làm
Lao động và việc làm gắn với nhau vì lực
lượng lao động là người có việc làm và người không có việc làm. Trong những năm
qua, do đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi
và nhân tố mới để các ngành, các cấp, các đơn vị, các tổ chức xã hội và toàn
dân chủ động tạo chỗ làm việc mới, để giải quyết một bước yêu cầu về việc làm
và đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, do dân số nước ta tăng nhanh, lực lượng lao động tăng nhanh nên sức
ép về việc làm ngày càng lớn.
Để quản lý lao động, việc làm, cần có
nhận thức thống nhất về việc làm. Theo Bộ luật Lao động quy định: “mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm” (Khoản 1, Điều 9 Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13).
“Người lao động có quyền làm việc cho
bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm.
Trực tiếp liên hệ với người lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, để
tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khỏe của
mình” (Khoản 1, Khoản 2, Điều 10 Bộ luật Lao động số
10/2012/QH13).
Ngày 22/4/2013 Chính phủ ban hành Nghị
định số 36/NĐ-CP về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức. Theo đó, “Vị
trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức
để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị” (Điều 2, Nghị định 36/NĐ-CP).
“Vị trí việc làm là công việc hoặc nhiệm
vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng; là căn cứ xác
định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện tuyển dụng, sử dụng
và quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập ” Điều
2, Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ về quy định vị
trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Như vậy, việc làm không chỉ trong biên
chế, mà còn ngoài biên chế, không chỉ ở phạm vi xã hội mà còn tại gia đình. Với
quan niệm nói trên, tất cả những ai làm việc trong các cơ quan nhà nước, trong
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, trường học
hoặc tại gia đình (kể cả người nội trợ) đều được coi là có việc làm. Giải quyết
việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm
là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.
- Việc làm trong cơ quan nhà nước
Muốn quản lý và phát triển nguồn nhân
lực trong các cơ quan hành chính nhà nước có hiệu quả cần phải hiểu rõ về việc
làm và các chế độ việc làm gắn liền với nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính
nhà nước bởi suy cho cùng mục tiêu của quản lý và phát triển nguồn nhân lực là
nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của con người trong cơ quan, từ đó giúp cơ quan
đạt được mục tiêu đã đề ra.
Do tính chất công việc khác nhau của
nhóm người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước so với các cơ quan, tổ chức
khác nên việc quản lý họ cũng có những điểm khác biệt nhất định. Việc làm trong
khu vực nhà nước nói chung và trong hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành
pháp nói riêng (hành chính nhà nước) mang tính đặc trưng riêng.
Các cơ quan hành chính nhà nước được
thành lập để thực hiện các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đó là hoạt động
nhằm thực thi quyền hành pháp của Nhà nước. Hành pháp là một trong ba quyền lực
cơ bản của Nhà nước bên cạnh quyền lập pháp và quyền tư pháp, là hoạt động dùng
pháp luật để quản lý các tiến trình xã hội và hành vi của công dân để đạt được
các mục tiêu chính trị của quốc gia và phù hợp với quy luật khách quan.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước
là liên tục, thường xuyên và ổn định. Vì vậy, một trong những đặc thù quan trọng
của bộ máy hành pháp là tính chuyên nghiệp và độc lập tương đối với chính trị.
Hai chức năng cơ bản của hành pháp là thực hiện quyền hành pháp và cung cấp các
dịch vụ thiết yếu hoặc hỗ trợ việc thực hiện các chức năng hành chính nhà nước
nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội. Vì vậy, bên cạnh tổ chức bộ máy thực hiện quyền
lực nhà nước, ngành hành pháp của nhiều nước còn thành lập ra hoặc tài trợ cho
các tổ chức thực hiện chức năng cung cấp các dịch vụ công ích như giáo dục, y tế,
vệ sinh môi trường, vui chơi giải trí.... Hoạt động của hai loại tổ chức này
khác nhau: một bên là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước (lập quy và hành
chính), một bên là các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thuần túy, không liên
quan đến quyền lực nhà nước. Do tính chất của các hoạt động khác nhau dẫn đến
yêu cầu về quản lý đối với nguồn nhân lực thực hiện hai loại hoạt động này cũng
khác nhau.
Như vậy, về nguyên tắc, hệ thống việc
làm trong khu vực nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng chia thành hai nhóm tương ứng với hai chức năng cơ bản của các tổ chức
nhà nước là:
+ Công việc liên quan đến hoạt động quản
lý;
+ Các công việc gắn liền với các hoạt
động cung cấp dịch vụ (dịch vụ công).
Nhóm công việc thứ nhất, là những loại
công việc thực thi liên quan đến việc sử dụng quyền lực nhà nước và các nguồn lực
khác của nhà nước do đó đòi hỏi rất đặc biệt về nguồn nhân lực. Bên cạnh tính
chuyên môn, nghề nghiệp, thì tính chính trị trong việc quản lý và phát triển
nguồn nhân lực cũng rất đặc biệt và đây cũng chính là điểm khác nhau về công việc
giữa các cơ quan, tổ chức thuộc khu vực nhà nước so với các tổ chức khu vực tư.
Nhóm công việc thứ hai, mang tính
chất hoạt động cung cấp nhiều loại dịch vụ (dịch vụ công) khác nhau. Các loại dịch
vụ công này được chia thành một số nhóm:
+ Những loại dịch vụ mang tính chất độc
quyền của Nhà nước không có ai có thể đảm nhận được.
+ Loại dịch vụ khu vực bên ngoài có thể
cung cấp, được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoặc điều chỉnh bằng chế độ
chính sách. Hiện nay loại dịch vụ này cũng do Nhà nước đảm nhận nhưng chịu tác
động cạnh tranh, do đó việc làm và nguồn nhân lực trong lĩnh vực này cũng bắt đầu
xuất hiện tính cạnh tranh.
+ Loại dịch vụ thứ ba là loại dịch vụ
mà cả nhà nước và khu vực tư đều có thể cùng cung cấp.
Công việc trong khu vực nhà nước thường
mang tính cứng nhắc thông qua những quy định mang tính pháp lý rất cao. Các quy
trình, thủ tục để thực thi công việc do các cơ quan nhà nước đảm nhận ít mang
tính linh hoạt.
b) Đặc trưng nguồn nhân lực trong cơ
quan hành chính nhà nước:
- Thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy
định
Do việc làm của người làm việc trong
cơ quan nhà nước nói chung và hành chính nhà nước nói riêng có những đặc trưng
riêng biệt như đã trình bày ở phần trên nên nguồn nhân lực thực hiện những công
việc đó cũng mang những nét đặc trưng tương ứng.
Người lao động làm việc trong bộ máy
nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn do pháp luật nhà nước quy định. Mọi hoạt động của họ đều
dựa vào nguồn lực của Nhà nước và nhằm hướng đến mục tiêu do nhà nước đề ra. Họ
là một lực lượng lao động đặc biệt, khác với lực lượng lao động làm việc trong
các tổ chức khác như tổ chức công.
Để thực thi công vụ, những người làm
việc trong cơ quan hành chính nhà nước có quyền hạn hay thẩm quyền nhất định.
Đó là quyền lực pháp lý của nhà nước trao cho họ để giúp họ thực hiện tốt nhất
nhiệm vụ được nhà nước trao cho. Người làm việc trong các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội hay công dân không có quyền lực pháp lý này.
- Chịu sự ràng buộc chặt chẽ của luật
pháp
Người làm việc cho cơ quan hành chính
nhà nước chịu sự ràng buộc chặt chẽ của luật pháp. Do công việc trong các cơ
quan này đòi hỏi phải tuân thủ đúng các quy trình, thủ tục nên nguồn nhân lực
cũng phải tuân thủ theo những quy định máy móc đó. Tính linh hoạt kém hơn so với
khu vực tư và khi cần có một sự thay đổi, đòi hỏi một quy trình thay đổi phức tạp.
Những người làm việc trong các cơ quan
nhà nước có những nghĩa vụ riêng do chính hệ thống pháp luật liên quan đến nhóm
các cơ quan nhà nước quy định. Trong hệ thống pháp luật dành cho đội ngũ những
người là cán bộ, công chức, nghĩa vụ được xác định cụ thể trong các luật như Luật
Cán bộ, công chức hoặc các luật khác.
Nghĩa vụ của người làm việc trong các
cơ quan nhà nước là những gì nhà nước bắt buộc người lao động làm việc cho mình
phải tuân thủ và đó cũng chính là những gì người lao động làm việc cho nhà nước
cam kết phải thực hiện khi họ trở thành thành viên của các cơ quan nhà nước. Đó
là những nghĩa vụ mang tính đơn phương, do nhà nước quy định và người lao động
phải cam kết tuân theo. Những nghĩa vụ đó mang tính pháp lý và không phải là một
sự thỏa thuận giữa nhà nước và người làm việc cho Nhà nước. Nếu như với các tổ
chức, bên cạnh những quy định mang tính chất chung của pháp luật, người sử dụng
lao động và người lao động có thể đi đến thỏa thuận một số nội dung mang tính
quy chế lao động, trong khi đó đối với cơ quan nhà nước những quy chế đó đã
hình thành từ trước và người lao động muốn tham gia làm việc phải cam kết thực
hiện.
- Phục vụ nhu cầu của công dân
Hoạt động của các tổ chức nhà nước
mang tính phục vụ hơn là cơ chế thị trường, cạnh tranh, lợi ích. Tất cả các hoạt
động đó đều dựa trên nguồn ngân sách nhà nước.
Chính vì vậy, tính nhân đạo, tính phi
lợi nhuận của các hoạt động của các cơ quan nhà nước làm cho việc quy định các
vấn đề liên quan đến việc làm, nguồn nhân lực đều dựa vào nguyên tắc “không có
lợi ích”, lấy phục vụ làm mục đích trung tâm.
2. Quản lý và phát triển nguồn nhân lực
của ngành ở địa phương
a) Khái niệm:
- Quản lý nguồn nhân lực
Trong nhiều tài liệu viết về quản lý
và phát triển con người, khái niệm quản lý nguồn nhân lực (Human Resource
Management) và phát triển nguồn nhân lực (Human Resource Development) là hai
khái niệm khác nhau, nhưng có mối tương quan chặt chẽ với nhau.
Trong hoạt động quản lý nguồn nhân lực,
có hai thuật ngữ cùng chỉ một hoạt động quản lý con người nhưng cần phân biệt,
đó là “quản lý nhân sự” và “quản lý nguồn nhân lực”. Trước những năm 1980, người
ta dùng thuật ngữ quản lý nhân sự thay vì dùng quản lý nguồn nhân lực. Khi đó,
quản lý nhân sự được hiểu là quản lý người lao động trong tổ chức. Cụ thể hơn,
đó là quản lý các yếu tố hành chính liên quan đến con người trong tổ chức và
các vấn đề phát sinh liên quan đến họ. Nói cách khác, quản lý nhân sự là quản
lý con người trong phạm vi nội bộ một tổ chức. Theo đó, nguồn lực tiềm năng ít
được quan tâm, họ chỉ quan tâm đến con người với sức lao động như một yếu tố đầu
vào bình thường khác của sản xuất và quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề
hành chính nảy sinh trong việc sử dụng con người trong sản xuất.
Từ những năm 1980, quản lý nguồn nhân
lực là thuật ngữ được sử dụng thay thế dần cho “quản lý nhân sự” khi người ta
muốn nhìn nhận lại vai trò của con người trong tổ chức và thay đổi bản chất của
hoạt động quản lý con người. Không chỉ trong các tổ chức tư nhân mà trong cả
các cơ quan hành chính nhà nước, thuật ngữ quản lý nguồn nhân lực cũng được sử
dụng và dần thay thế thuật ngữ quản lý nhân sự. Nhiều quốc gia trên thế giới
coi sự chuyển đổi từ “quản lý nhân sự” sang “quản lý nguồn nhân lực” như một
chiến lược quan trọng trong tiến trình cải cách hành chính nhà nước.
Với việc chuyển từ quan niệm “quản lý
nhân sự” sang quản lý nguồn nhân lực, con người không còn được coi là một yếu tố
đầu vào, độc lập với các yếu tố khác của quá trình quản lý mà con người được
coi là yếu tố chính, yếu tố quan trọng nhất của mọi tổ chức. Theo đó, quản lý
nguồn nhân lực trở thành một phần chính, phần cơ bản trong quản lý tổ chức.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản
lý nguồn nhân lực do ảnh hưởng cách tiếp cận và nhận thức khác nhau. Nhưng cho
dù hiểu theo cách nào thì quản lý nguồn nhân lực đều có những điểm chung là:
+ Quản lý nguồn nhân lực được thực hiện
thông qua nhiều hoạt động khác nhau như thu hút, đào tạo, phát triển, sử dụng,
đánh giá con người trong tổ chức …;
+ Quản lý nguồn nhân lực nhằm giúp cho
tổ chức có được nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu về cả số lượng và chất lượng;
+ Quản lý nguồn nhân lực nhằm đạt được
kết quả tối ưu cho tổ chức và cho người lao động.
Từ các điểm chung đó, quản lý nguồn
nhân lực có thể hiểu là tất cả các hoạt động của tổ chức để thu hút, phát
triển, sử dụng, đánh giá, bảo toàn và duy trì một nguồn nhân lực phù hợp với
yêu cầu công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng. Thông qua các
hoạt động của quản lý nguồn nhân lực đó, tổ chức sẽ đạt được mục tiêu.
- Phát triển nguồn nhân lực
Có nhiều cách tiếp cận đến khái niệm
phát triển nguồn nhân lực của tổ chức nói chung và tổ chức hành chính nhà nước
nói riêng. Trong các tài liệu về quản lý nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân
lực, hai cách tiếp cận sau thường được quan tâm, đó là từ góc độ đào tạo phát
triển năng lực và từ góc độ phát triển nghề nghiệp của người lao động.
+ Cách tiếp cận thứ nhất, phát
triển nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được
tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định nhằm tạo ra sự thay đổi hành
vi nghề nghiệp theo hướng tích cực của người lao động. Phát triển nguồn nhân lực
từ góc độ này gồm ba hoạt động cơ bản là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
+ Cách tiếp cận thứ hai, phát
triển nguồn nhân lực quan tâm đến phát triển nghề nghiệp cho người làm việc trong
cơ quan, tổ chức thông qua việc tạo cơ hội cho các cá nhân phát huy được năng lực
và sở trường của mình, quan tâm đến các cơ hội thăng tiến cũng như những biện
pháp để khai thác hết những tiềm năng của các cá nhân trong tổ chức.
Như vậy, quản lý và phát triển nguồn
nhân lực đều quan tâm đến các cách thức quản lý con người trong tổ chức một
cách hiệu quả, đều có chung mục đích là đảm bảo cho tổ chức có được nguồn nhân
lực đáp ứng được nhu cầu của tổ chức về cả số lượng và chất lượng ở thời điểm
hiện tại cũng như trong tương lai. Từ khái niệm về quản lý nguồn nhân lực như
đã phân tích ở trên có thể thấy rằng quản lý và phát triển nguồn nhân lực có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển nguồn nhân lực là một nội dung của quản
lý nguồn nhân lực. Nói tới quản lý nguồn nhân lực là nói tới phát triển nguồn
nhân lực và ngược lại chỉ có thể phát triển được nguồn nhân lực nếu nguồn nhân
lực đó được quản lý tốt.
Quản lý và phát triển nguồn nhân lực
trong tổ chức hành chính nhà nước một mặt cũng có những điểm chung giống như quản
lý và phát triển nguồn nhân lực của các tổ chức khác. Đối tượng chung của quản
lý và phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước và trong các
tổ chức khác đều là con người. Vì vậy, nhiều kỹ thuật trong quản lý và phát triển
con người đều có thể áp dụng chung cho các loại hình tổ chức khác nhau này. Mặt
khác, nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước gồm những người lao động
đặc biệt với những đặc trưng cơ bản như đã trình bày ở phần trên, do đó quản lý
nguồn nhân lực của tổ chức hành chính nhà nước đòi hỏi có những điểm khác biệt
so với quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong các tổ chức thông thường
khác.
Sự khác biệt đó xuất phát từ sự khác
nhau về công việc (việc làm) của tổ chức hành chính nhà nước so với các tổ chức
thông thường khác. Vì thế, đòi hỏi nguồn nhân lực của các cơ quan hành chính
nhà nước cũng có những tính chất khác so với hoạt động của các tổ chức khác. Hoạt
động trong cơ quan hành chính nhà nước luôn gắn liền với quyền lực nhà nước.
Cán bộ, công chức được sử dụng các nguồn lực của nhà nước để thực thi công vụ,
họ hoạt động vì các mục tiêu chung của Nhà nước, không mang tính lợi ích. Các
cơ quan nhà nước hoạt động trên những nguyên tắc khác với hoạt động của các tổ
chức khác.
Do đó, quản lý nguồn nhân lực trong cơ
quan hành chính nhà nước đòi hỏi phải có sự khác biệt để đảm bảo cho nguồn nhân
lực thích ứng được với những đặc trưng đó của các cơ quan hành chính nhà nước.
Người làm việc trong các cơ quan nhà nước, ngoài việc chịu sự điều tiết chung của
Bộ Luật Lao động giống như những người lao động khác, còn chịu sự ràng buộc của
luật riêng biệt. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có những luật riêng để
quản lý nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó cũng thể hiện
sự khác biệt của quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính
nhà nước với quản lý và phát triển nguồn nhân lực của các tổ chức khác.
Ở Việt Nam, Bộ luật Lao động quy định:
“Chế độ lao động đối với công chức, viên chức Nhà nước, người thuộc lực lượng
quân đội nhân dân, công an nhân dân, tổ chức xã hội khác và xã viên hợp tác xã
do các văn bản pháp luật khác quy định nhưng tùy từng đối tượng mà được áp dụng
một số quy định trong Bộ luật này” (Khoản 3, Điều 240 Bộ
luật Lao động số 10/2012/QH13). Đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan
hành chính nhà nước ở nước ta chủ yếu được điều chỉnh bằng Luật Cán bộ, công chức
và các văn bản có liên quan.
b) Nội dung quản lý và phát triển nguồn
nhân lực của ngành ở địa phương:
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của ngành
Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành tại địa phương
là nội dung quan trọng đầu tiên trong quản lý phát triển nguồn nhân lực của
ngành.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương và các chỉ tiêu, định hướng phát triển khác lãnh đạo
sở xây dựng chiến lược phát triển của ngành theo định hướng 5 năm, 10 năm và tầm
nhìn cho nhiều năm. Từ đó xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của
ngành. Tiến hành công tác quy hoạch nguồn nhân lực theo các chức danh vị trí việc
làm trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.
- Tổ chức thực hiện và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật về phát triển cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
thuộc ngành
Để quản lý và phát triển nguồn nhân lực
của ngành được tốt, lãnh đạo sở cần có kế hoạch tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý phát triển nguồn nhân lực, như: Luật Cán bộ, công
chức; Luật Viên chức; Luật Lao động... và các văn bản khác liên quan đến quản
lý nguồn nhân lực, quản lý cán bộ, công chức viên chức.
Bên cạnh việc tổ chức thực hiện các
quy định về quản lý, phát triển nguồn nhân lực của ngành ở địa phương; lãnh đạo
sở còn cần có những đề xuất và xây dựng những văn bản, chế độ, chính sách liên
quan đến quản lý, phát triển nguồn nhân lực của ngành từ thực tế của địa
phương.
- Xác định số lượng biên chế
Xác định tổ chức bộ máy và biên chế đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành là công việc có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý phát triển nguồn nhân lực của ngành. Quy trình chung để xác định
biên chế của ngành bao gồm:
+ Làm rõ chức năng, nhiệm vụ của
ngành. Đây là nền tảng quan trọng của xác định biên chế. Điều này đã được ghi
trong văn bản pháp luật có liên quan đến việc ra đời tổ chức hành chính nhà nước.
Nhưng trong thực tế, nhiều vấn đề mới chỉ mang tính định hướng, chưa cụ thể.
Các nhà lãnh đạo phải nghiên cứu, hiểu rõ chi tiết, nội dung, chức năng, nhiệm
vụ để xác định biên chế.
+ Trên cơ sở cơ cấu tổ chức, phân
tích, mô tả công việc của từng vị trí trong ngành đã có. Phân tích, mô tả công
việc nhằm trả lời cho câu hỏi: công việc (nhóm công việc) đó cần bao nhiêu người
(số lượng); những loại người nào (cơ cấu).
+ Phân tích nguồn nhân lực hiện có của
ngành theo từng nhóm công việc để tìm ra thừa, thiếu: đưa ra các chính sách
thuyên chuyển, tuyển dụng.
+ Xác định biên chế chung cho tổ chức
và định biên chế cho từng nhóm công việc.
+ Xác định các chính sách cần thiết để
đáp ứng biên chế cho ngành.
+ Xác định biên chế tương lai của
ngành trên cơ sở phát triển của ngành.
- Các hoạt động khác
Các hoạt động khác như: tuyển dụng; bổ
nhiệm; đào tạo, tái đào tạo, huấn luyện và phát triển nguồn nhân lực; thuyên
chuyển; tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức; đánh giá thực thi công việc;
khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.
Đây là những hoạt động, kỹ năng của
lãnh đạo cấp sở. Những hoạt động này cần tuân theo quy định của pháp luật và
tình hình thực tế ở địa phương.
- Quy trình quản lý và phát triển nguồn
nhân lực của ngành ở địa phương
Quy trình quản lý nguồn nhân lực trong
tổ chức bao gồm nhiều bước khác nhau được mô tả ở sơ đồ 5. Tuy nhiên, quy trình
này chỉ mang tính tương đối và hoạt động quản lý nguồn nhân lực không tồn tại độc
lập ở một khâu hay một giai đoạn nào đó, mà nó tồn tại suốt từ khi người lao động
tham gia vào ngành đến khi người lao động ra khỏi ngành (bị sa thải, nghỉ mất sức,
chuyển sang cơ quan khác, nghỉ hưu).
Sơ đồ 5: Quy
trình quản lý nguồn nhân lực trong một ngành ở địa phương
Vì vậy, cần phải quan tâm đến những hoạt
động nằm ngoài quy trình, ví dụ như: chế độ, chính sách của Nhà nước đối với
cán bộ, công chức khi nghỉ hưu, nghỉ mất sức, chính sách tiền lương,.... Ngoài
ra, công việc đánh giá nhân sự phải mang tính thường xuyên thì mới khuyến khích
được người lao động phát huy hết năng lực của họ để phục vụ cho tổ chức.
c) Kỹ năng quản lý và phát triển nguồn
nhân lực của ngành ở địa phương:
- Kỹ năng tạo động lực làm việc:
+ Động lực làm việc
Động lực được hiểu là sự khao khát và
tự nguyện của con người để nâng cao mọi nỗ lực của mình nhằm đạt được mục tiêu
hay kết quả cụ thể nào đó. Động lực là những nhân tố bên trong kích thích con
người nỗ lực làm việc trong điều kiện cho phép, tạo ra năng suất, hiệu quả cao.
Động lực làm việc là sự thúc đẩy con
người làm việc hăng say, giúp cho họ phát huy được sức mạnh tiềm tàng bên trong
và do vậy họ có thể vượt qua được những thách thức, khó khăn để hoàn thành công
việc một cách tốt nhất. Một người có động lực là khi người đó bắt tay vào làm
việc mà không cần có một sự cưỡng bức, khi đó, họ có thể làm được nhiều hơn điều
mà cấp trên mong chờ ở họ. Động lực làm việc thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác
nhau như sự nhiệt tình, sự chăm chỉ, sự bền bỉ,....
Như vậy, động lực xuất phát từ bản thân
của mỗi con người. Khi con người ở những vị trí khác nhau, với những đặc điểm
tâm lý khác nhau sẽ có những mục tiêu mong muốn khác nhau. Chính vì động lực của
mỗi con người là khác nhau vì vậy nhà quản lý cần có những cách tác động khác
nhau đến mỗi người lao động để đạt được mục tiêu trong quản lý.
Mỗi người, tùy từng hoàn cảnh mà có những
động lực khác nhau trong công việc nhưng nhìn chung, động lực khiến họ làm việc
hăng say là mong muốn tạo dựng một cuộc sống có ý nghĩa cho bản thân và những
người xung quanh, là khao khát cháy bỏng được làm việc vì niềm đam mê, là ước
muốn thay đổi tích cực cho cuộc đời dù chỉ là rất nhỏ.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng năng suất
lao động biến động theo hai biến số năng lực và động lực làm việc trong đó,
năng lực là tổng hợp của các yếu tố bao gồm giáo dục, đào tạo và kinh nghiệm. Để
cải thiện năng lực cần thời gian dài, nhưng ngược lại, động lực làm việc của
nhân viên có thể được nâng cao nhanh chóng thông qua các chính sách quản lý và
chính sách đãi ngộ. Điều này cũng hoàn toàn đúng khi áp dụng vào nền hành chính
nhà nước.
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu,
các bài viết về lý thuyết nhu cầu của con người - vấn đề liên quan tới bản chất
của hành vi con người. Trong đó có các công trình và lý thuyết nổi bật là: Lý
thuyết X và Y của Douglas McGregor1; thuyết hai yếu tố của Frederick
Herzberg; thuyết hệ thống nhu cầu của Abraham Maslow; thử nghiệm của Hawthorne
của Elton Mayo,.... Từ những thuyết trên có thể rút ra những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến động lực làm việc của người lao động nói chung và cán bộ, công chức
nói riêng. Chúng được chia thành ba loại yếu tố cơ bản đó là:
Các yếu tố thuộc về cá nhân bao gồm:
● Lợi ích của cá nhân
● Mục tiêu cá nhân
● Tính cách của cá nhân
● Khả năng, năng lực của cá nhân
● Thâm niên, kinh nghiệm công tác
Các yếu tố thuộc về công việc bao gồm:
● Tính hấp dẫn của công việc
● Tính ổn định và mức độ tự chủ của
công việc
● Mức độ rõ ràng về nhiệm vụ, trách
nhiệm
● Sự phức tạp của công việc
Các yếu tố thuộc về tổ chức như:
● Môi trường làm việc của tổ chức
● Phong cách lãnh đạo
● Hệ thống thông tin nội bộ
● Cơ cấu lao động của tổ chức .
Các yếu tố thuộc về Nhà nước bao gồm:
● Chính sách tiền lương
● Các chính sách về nhân sự như chính
sách thuyên chuyển, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật...
+ Tạo động lực làm việc trong cơ quan
hành chính của ngành ở địa phương
Tạo động lực cho người lao động được
hiểu là tất cả các biện pháp của nhà quản lý áp dụng đối với các cá nhân trong
tổ chức nhằm tạo ra động lực làm việc cho họ. Với cách hiểu đã trình bày ở trên
về động lực, thì tạo động lực là tổng hợp các biện pháp và cách ứng xử của tổ
chức, của các nhà quản lý nhằm tạo ra sự khao khát và tự nguyện của người lao động
trong thực thi công việc để đạt được các mục tiêu của tổ chức đề ra.
Mục đích quan trọng nhất của tạo động
lực là sử dụng một cách hợp lý nguồn lao động, khai thác một cách hiệu quả nguồn
lực con người nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động của tổ chức. Bên cạnh
đó, tạo động lực còn nhằm mục đích thu hút và gắn bó các cá nhân với tổ chức bởi
vì khi người lao động có động lực làm việc thì họ sẽ hăng say với công việc, với
tổ chức. Tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính
nhà nước vì thế có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà
ngày càng nhiều người rời khỏi cơ quan nhà nước ra làm cho các tổ chức tư nhân
hoặc tổ chức nước ngoài.
Nước ta đang tiến hành cải cách hành
chính ở tất cả các cấp, các ngành và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Công cuộc cải cách hành chính sẽ không thể thành công nếu không có đội ngũ cán
bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ và động lực làm việc. Đội ngũ cán bộ,
công chức là chủ thể của các hành động trong quá trình thực hiện cải cách hành
chính. Họ là người thể chế hóa các quy định của pháp luật để đưa vào cuộc sống,
xây dựng nên bộ máy quản lý và các quy định về sử dụng các nguồn lực trong quá
trình quản lý, hay nói cách khác công chức chính là người đề ra các quy định và
họ cũng chính là người thực thi các quy định đó.
Vì vậy, trình độ, năng lực của cán bộ,
công chức có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
hành chính nhà nước. Tuy nhiên, nếu có đội ngũ công chức có năng lực, trình độ
thì chưa hẳn là đã làm cho hiệu quả quản lý hành chính được nâng lên, nếu bản
thân người công chức thiếu động lực làm việc.
Do đó, để nâng cao chất lượng và hiệu
quả làm việc của cán bộ, công chức, lãnh đạo sở cần phải quan tâm trước hết đến
tạo động lực làm việc cho họ.
+ Một số biện pháp tạo động lực cho
cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước của ngành ở địa phương:
● Cải cách tiền lương
Hiện nay, tiền lương trong khu vực nhà
nước thấp hơn nhiều so với khu vực tư nhân đặc biệt là đối với khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài và việc tăng lương đối với khu vực nhà nước rất khó khăn bởi nó phụ
thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội.
Cải cách tiền lương trong giai đoạn hiện
nay để nó thực sự trở thành yếu tố thúc đẩy cán bộ, công chức làm việc tốt hơn
là một vấn đề khó khăn. Chính vì vậy, muốn tạo động lực làm việc có hiệu quả
cho cán bộ, công chức cần tập trung vào các biện pháp khuyến khích bên trong. Một
số biện pháp cơ bản gồm:
● Xác định rõ ràng mục tiêu cần đạt
được của từng cá nhân
Xác định mục tiêu cho cán bộ, công chức
là việc vô cùng quan trọng bởi họ hiểu được mục tiêu mới có động lực và đích phấn
đấu. Khi mục tiêu đã rõ ràng, bản thân từng cán bộ, công chức sẽ chủ động để
tìm cách đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên, nếu mục tiêu quá cao hoặc mục tiêu chỉ
mang tính hình thức không thể thực hiện được sẽ gây cho cán bộ, công chức tâm lý
chán nản và mất đi động cơ làm việc.
Vì vậy, cần căn cứ vào mục tiêu của tổ
chức và của đơn vị để cụ thể hóa thành mục tiêu cho từng cá nhân. Cán bộ, công
chức cấp dưới là những người hiểu rõ nhất những mục tiêu cụ thể nào có thể đem
lại hiệu quả chung cho công việc. Họ cũng chính là người hiểu được mình có khả
năng đạt được mục tiêu đó hay không. Vì vậy trong quá trình xây dựng mục tiêu
cho cấp dưới, lãnh đạo sở cần phải trao đổi, tham khảo ý kiến của họ. Có như vậy,
họ mới sẵn sàng thực hiện mục tiêu đã được đề ra, không cảm thấy bị áp đặt, làm
việc có hiệu quả nhất.
Người lao động nói chung và cán bộ,
công chức nói riêng chỉ có thể có động lực làm việc thông qua mục tiêu khi họ
nhận thấy mình có thể đạt được mục tiêu đó và thực hiện được mục tiêu sẽ có những
đóng góp như thế nào cho tổ chức. Do đó, lãnh đạo sở phải thường xuyên kiểm
soát quá trình thực hiện mục tiêu trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức
cấp dưới và có thể điều chỉnh khi cần thiết.
Cán bộ, công chức cần phải được hỗ trợ
về điều kiện, phương tiện trang thiết bị, bổ sung thêm những năng lực, kỹ năng
cần thiết để thực hiện mục tiêu. Đồng thời, lãnh đạo sở phải cho cán bộ, công
chức thấy những đóng góp của họ có ý nghĩa như thế nào với sự phát triển của cơ
quan, tổ chức.
● Phân công công việc phù hợp với
khả năng, năng lực và sở trường của cán bộ, công chức
Khi cán bộ, công chức nhận được công
việc phù hợp với khả năng, sở trường của họ thì họ sẽ phát huy năng lực làm việc
của họ một cách tối đa dù những điều kiện dù bình thường nhất. Lãnh đạo sở cần
dựa vào những đặc điểm tâm lý cá nhân, tính cách của các cán bộ, công chức để sắp
xếp công việc cho phù hợp với họ.
● Làm phong phú thêm nội dung công
việc
Với cách tiếp cận này, có thể phát triển
thêm chiều sâu trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức, nhưng không phải bằng
cách tăng số lượng nhiệm vụ, mà bằng cách tăng tính đa dạng của nhiệm vụ đó.
Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều
nhà khoa học hành vi quan tâm đến vấn đề mở rộng công việc hay đa dạng hóa công
việc. Làm phong phú công việc nghĩa là đã dần dần nâng cao trách nhiệm, phạm vi
và yêu cầu công việc. Mục đích của việc đa dạng hóa này làm cho cán bộ, công chức
đa năng, đa dạng hơn để khi cần thiết họ có thể làm những công việc khác nhau.
● Tạo cơ hội thăng tiến cho cán bộ,
công chức
Thăng tiến là quá trình một người làm
việc trong tổ chức nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng được chuyển
lên một vị trí cao hơn trong tổ chức, việc này thường được đi kèm với việc lợi
ích vật chất của cá nhân người được thăng tiến sẽ được tăng lên đồng thời đây
cũng là cơ hội để họ phát huy được năng lực của mình, được khẳng định và thể hiện
mình.
Bất cứ cá nhân nào cũng mong muốn có
những bước tiến trong sự nghiệp. Thăng tiến là một nhu cầu thiết thực của người
làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước vì sự thăng tiến tạo cơ hội cho sự
phát triển cá nhân, tăng địa vị, uy tín cũng như quyền lực của họ. Chính sách về
sự thăng tiến có ý nghĩa trong việc hoàn thiện cá nhân, tăng động lực làm việc
cho cá nhân cán bộ, công chức. Đồng thời là cơ sở để thu hút, giữ chân người giỏi
đến và làm việc với tổ chức.
Việc tạo những cơ hội thăng tiến cho
cán bộ, công chức có thể giúp họ nhận ra những cơ hội mới để phát triển nghề
nghiệp và gắn bó hơn với tổ chức, có ý thức phấn đấu và nỗ lực nhiều hơn trong
thực thi công vụ. Cụ thể hóa con đường thăng tiến cho mọi người và thiết lập hướng
thăng tiến rõ ràng cho tất cả cá nhân là yêu cầu của bất cứ tổ chức nào.
Ngoài ra, cần chú ý khơi dậy năng lực
của những cá nhân yếu kém trong tổ chức để tạo ra một niềm tin tưởng và sự ủng
hộ không chỉ từ chính những cá nhân đó, mà từ cả những cá nhân khác trong tập
thể. Điều này còn tạo ra một bầu không khí làm việc hiệu quả.
Trong chính sách thăng tiến, cần phải
lưu ý một số vấn đề như sau: Có quy định rõ ràng về thăng tiến; thăng tiến phải
dựa trên năng lực và hiệu quả công việc; công bằng, bình đẳng trong việc tiếp cận
đến cơ hội thăng tiến.
● Xây dựng môi trường làm việc hiệu
quả
Một môi trường làm việc có hiệu quả là
môi trường ở đó mọi người có ý thức trách nhiệm, tự do và bình đẳng; minh bạch
và lắng nghe; tin cậy và tham gia; phát triển cá nhân; trao đổi thông tin; hiệu
quả làm việc cao.
Môi trường làm việc trong bất cứ tổ chức
nào luôn được các cá nhân quan tâm và coi trọng vì môi trường làm việc là yếu tố
chủ yếu liên quan đến sự thuận tiện cá nhân và nó cũng là nhân tố giúp người
làm việc trong tổ chức hoàn thiện tốt nhiệm vụ của họ.
Môi trường làm việc bao gồm các điều
kiện vật chất kỹ thuật và những người lao động xung quanh môi trường đó. Chỉ
khi các cán bộ, công chức có chuyên môn và có những điều kiện vật chất thì họ mới
có đủ khả năng thực hiện tốt công việc được giao. Đó có thể là các công cụ vật
chất, các thiết bị văn phòng, các kỹ năng phục vụ cho công việc....
Ngoài các điều kiện vật chất để giúp
thực hiện tốt công việc, người làm việc trong tổ chức luôn muốn có được mối
quan hệ tốt với mọi người trong cùng một tổ chức. Nếu nhà quản lý chủ động hoặc
khuyến khích cho cán bộ, công chức tạo được bầu không khí làm việc thân thiện
trong tổ chức cũng có thể đem lại hiệu quả nhất định.
Lãnh đạo cấp sở phải hiểu được quan điểm
của các cá nhân, chia sẻ suy nghĩ và mục tiêu của họ thông qua quan sát, thông
qua các cuộc điều tra hoặc thông qua những cuộc đàm thoại trực tiếp với họ.
Lãnh đạo cấp sở phải nhận biết được môi trường làm việc để điều chỉnh theo hướng
tích cực làm cơ sở tạo động lực làm việc của các cá nhân trong tổ chức.
Một số biện pháp để nhận biết đó là:
Điều tra để lượng hóa các ý kiến thông
qua bảng câu hỏi với câu hỏi đóng về thái độ hoặc điều tra định tính dưới hình
thức phỏng vấn với câu hỏi hỏi mở;
Theo dõi các chỉ số truyền thống: tỉ lệ
vắng mặt, chuyển việc, tham gia các hoạt động xã hội trong tổ chức;
Tin đồn, đơn thư nặc danh có thường
xuyên xuất hiện không? Nội dung và quy mô của tin đồn;
Tính phức tạp trong giao tiếp: trong
giao tiếp chính thức giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các mối quan hệ theo chiều
ngang có khó khăn gì hay có rõ ràng không;
Quan hệ bạn bè trong công việc: (trong
giao tiếp phi chính thức) mọi người có nói chuyện với nhau không? cấp trên và cấp
dưới có cởi mở và thân thiện không;
Không khí trong tổ chức: trong tổ chức
có “cảm thấy” sự nặng nề không;
Loại hình và số lượng ý kiến phàn nàn:
những lời phàn nàn thường là chỉ báo về sự chán nản nên cần được chú ý;
Một số biện pháp để tạo được bầu không
khí tích cực, thân thiện như: tổ chức sinh nhật cho các cá nhân hoặc tham quan,
dã ngoại.
● Công nhận những đóng góp của cấp
dưới
Người làm việc trong tổ chức thường cảm
thấy chán nản nếu mọi nỗ lực làm việc của họ không được cấp trên chú ý và đánh
giá đúng mức. Ngược lại, khi cán bộ, công chức được đánh giá đúng mức và được
trân trọng vì những gì họ đã đóng góp, họ cống hiến không ngừng. Thể hiện niềm
tin của lãnh đạo cũng là một cách thể hiện sự trân trọng và góp phần nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp dưới.
Khi cán bộ, công chức cấp dưới làm việc
tốt, những đóng góp của họ cần được tổ chức và cấp trên công nhận bằng nhiều
hình thức khác nhau như: khen thưởng, giao công việc thử thách hơn, hoặc giao
quyền nhiều hơn. Khen thưởng và công nhận thành tích của người làm việc xuất sắc
không chỉ là có tính chất động viên, đánh giá cá nhân về vật chất và tinh thần
của họ, mà còn qua đó khuyến khích các cá nhân khác cố gắng noi theo tấm gương
của những cá nhân thành công để phát triển bản thân hơn nữa.
Để thực hiện biện pháp này tốt cần phải
xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá phản ánh được sự gia tăng hiệu quả hoạt động.
Đó cũng là cơ sở để đảm bảo công bằng giữa các cá nhân trong tổ chức, tránh tâm
lý chán nản, mất động cơ làm việc của cá nhân làm việc tốt và tâm lý ỷ lại của
các cá nhân có hiệu quả làm việc thấp.
● Khuyến khích sáng tạo trong tổ chức.
Mọi người sẽ cảm thấy có động lực hơn
nếu họ làm việc trong một môi trường được thử thách và có cơ hội để đổi mới. Cần
khuyến khích để những người làm việc trong cơ quan có nhiều ý tưởng hơn cho
cách làm việc, môi trường làm việc để chính bản thân họ vừa lòng với những suy
nghĩ của mình, khiến tinh thần làm việc phấn chấn và hứng khởi hơn. Đồng thời,
cũng tạo cơ hội và hỗ trợ mọi điều kiện để họ có thể vận dụng những sáng tạo
vào thực tiễn công việc.
- Phát triển năng lực cho cán bộ, công
chức trong cơ quan hành chính của ngành ở địa phương
+ Năng lực và cơ sở hình thành năng lực
cho cán bộ, công chức
Có nhiều cách hiểu về thuật ngữ “năng
lực” nhưng một cách hiểu chung được nhiều tác giả đồng ý là: năng lực là “tổng
hợp những kiến thức, kỹ năng, thái độ cho phép một cá nhân thực hiện các hoạt động
gắn với nhiệm vụ của mình ở một cấp độ hiệu suất nhất định”.
Năng lực có điểm khác biệt với trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ đề cập đến những kiến thức
chuyên môn và kỹ thuật cơ bản cần có để đảm nhiệm một vị trí hoặc một tập hợp
các vị trí làm việc không liên quan trực tiếp đến hoàn cảnh lao động thực tế. Năng
lực không phải là tổng số giản đơn của kiến thức, kỹ năng và thái độ mà là sự tập
hợp đồng thời các nguồn lực, hoạt động và kết quả cần đạt. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ thường được đánh giá thông qua bằng cấp, trình độ đào tạo còn năng lực
phải được thể hiện trong thực tiễn hành động.
Năng lực của công chức luôn gắn liền với
thực tiễn thực thi công vụ của công chức. Thực tế đã chứng minh không phải những
người có bằng cấp cao đều có năng lực trong thực thi công vụ. Trong những năm cải
cách hành chính vừa qua ở Việt Nam cho thấy, số lượng công chức qua các lớp đào
tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng lên, bằng cấp, chứng chỉ cũng theo đó tăng lên,
nhưng nhìn chung năng lực của công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính vì
năng lực đòi hỏi phải đáp ứng với yêu cầu thực tiễn công việc nên xác định năng
lực đòi hỏi phải gắn liền với các vị trí công việc cụ thể, với các tình huống cụ
thể. Yêu cầu về năng lực của mỗi cá nhân thay đổi theo thời gian. Vì vậy, nếu lấy
những thành tích trong quá khứ để chứng minh năng lực của một người trong hiện
tại và tương lai là chưa chính xác.
Năng lực chịu ảnh hưởng của bối cảnh
công việc hay vị trí việc làm. Mỗi một công việc hay vị trí việc làm có những
yêu cầu đặc thù gắn với công việc và buộc người đảm nhiệm công việc phải đáp ứng
yêu cầu đó. Do đó, với các vị trí công việc khác nhau sẽ đòi hỏi những năng lực
khác nhau. Năng lực được xác định trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của
một vị trí việc làm. Đó là những năng lực thiết yếu để đạt mục tiêu, hiệu quả
công việc. Tuy nhiên, năng lực của cán bộ, công chức chỉ hình thành khi họ biết
hành động; mong muốn hành động; và có thể hành động (xem sơ đồ sau).
Sơ đồ 6: Cơ sở hình
thành năng lực
Khả năng “biết hành động”
có thể được hình thành thông qua: đào tạo; kèm cặp, huấn luyện; sử dụng các
tình huống nghiệp vụ; học hỏi kinh nghiệm... để trang bị thêm các kiến thức và
kỹ năng cần thiết.
Cá nhân nói chung và công chức nói
riêng có khả năng “muốn hành động” khi họ thấy được ý nghĩa của các hành động
mà họ thực hiện, thấy được những tác động tích cực của các hoạt động nào đó đến
bản thân, có sự thừa nhận và tin tưởng lẫn nhau hoặc có sự khích lệ, khuyến
khích mọi người xung quanh.
Khả năng “có thể hành động” phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố thuộc về tổ chức như: môi trường và hoàn cảnh tổ chức
cho phép sử dụng không chỉ kỹ năng mà năng lực thật sự; sự phân công công việc
hợp lý; các nguồn lực/ trang thiết bị phụ trợ để thực thi nhiệm vụ....
Muốn gia tăng khả năng hình thành năng
lực cho công chức cần phải can thiệp vào cả ba yếu tố này.
+ Quy trình phát triển năng lực cho
cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính của ngành ở địa phương
Năng lực của cán bộ, công chức ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả công vụ, quyết định đến chất lượng của các chính sách,
quyết định trong quản lý hành chính nhà nước được ban hành và tác động đến việc
thực thi các quyết định và chính sách đó trong thực tiễn. Một văn bản pháp luật,
một chính sách hay quyết định có thể rất hoàn hảo nhưng muốn đi vào thực tiễn đời
sống phải cần đến các cán bộ, công chức có năng lực. Không có năng lực, cán bộ,
công chức không dám đương đầu với những thay đổi, không dám chủ động tạo ra
thay đổi và không có khả năng làm chủ được thay đổi để ứng phó với những điều
kiện phức tạp và luôn biến động của môi trường trong đó các tổ chức hành chính
nhà nước tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, phát triển năng lực cho cán bộ,
công chức là một nhiệm vụ quan trọng của tổ chức và của các nhà quản lý.
Phát triển năng lực cho cán bộ, công
chức là một quá trình liên tục và bao gồm nhiều biện pháp can thiệp trong quản
lý, qua đó đảm bảo cho cán bộ, công chức lĩnh hội, duy trì hoặc cải thiện kiến
thức, kỹ năng và thái độ cần có trong thực thi nhiệm vụ hiện tại hoặc tương
lai. Mục đích của hoạt động phát triển năng lực cho cán bộ, công chức là nhằm
giúp họ có đủ những năng lực cần thiết để thực thi công việc tốt hơn, qua đó
giúp tổ chức hoàn thành được mục tiêu của mình.
Quá trình phát triển năng lực cho cán
bộ, công chức bao gồm nhiều bước khác nhau. Một số bước cơ bản được trình bày ở
sơ đồ 3. Cần phải làm tốt tất cả các khâu này để phát triển năng lực cho cán bộ,
công chức có hiệu quả.
Sơ đồ 7: Quy
trình phát
triển
năng lực
Muốn phát triển được năng lực của cán
bộ, công chức trước hết cần phải xác định được những năng lực đã có (năng lực
hiện tại), xác định được năng lực cần có, thông qua đó xác định được những năng
lực cần phải được lĩnh hội, phát triển.
Để xác định được năng lực đã có, có thể
dựa vào: đánh giá hiệu suất lao động; kết quả đạt được trong công việc hay những
trải nghiệm hàng ngày.... Có thể căn cứ vào chiến lược, mục tiêu của tổ chức;
những thay đổi tổ chức; các hoạt động hoạch định kế hoạch chức nghiệp... để xác
định năng lực cần có của công chức. Khoảng thiếu hụt giữa năng lực cần có và
năng lực đã có là năng lực cần phải bổ sung, phát triển.
Ngoài ra, để xác định được các năng lực
đã có, cần có hay năng lực cần phải bổ sung, có thể phỏng vấn trực tiếp, hoặc
phát phiếu điều tra tình hình thực tế năng lực và nhu cầu phát triển năng lực của
từng cá nhân công chức.
Hàng năm, các ngành cần phân tích và
xây dựng bản nhu cầu đào tạo cho từng công chức ở các vị trí khác nhau. Bản nhu
cầu đào tạo này xác định rõ các năng lực (bao gồm cả kiến thức, kỹ năng và thái
độ) còn thiếu hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu và cần phải bổ sung trong từng khoảng
thời gian nhất định. Bản nhu cầu đào tạo phải được thảo luận và trao đổi thống
nhất giữa cá nhân công chức và các nhà quản lý trực tiếp của mình.
Sau khi đã xác định được các năng lực
còn thiếu cần phải bổ sung cần phải lựa chọn các biện pháp can thiệp phù hợp để
gia tăng năng lực cho cán bộ, công chức. Năng lực có thể lĩnh hội được thông
qua nhiều biện pháp (được trình bày ở phần sau).
Lập kế hoạch phát triển năng lực cho
cán bộ, công chức phải căn cứ vào kết quả của các bước đã thực hiện trước đó tức
là căn cứ vào năng lực cần bổ sung, phát triển của cán bộ, công chức. Điều này
làm cho kế hoạch có tính thực tiễn chứ không phải chỉ là hình thức. Kế hoạch phải
chỉ rõ được: phát triển năng lực cho ai? đó là những năng lực gì? bằng cách
nào? bao giờ thực hiện? ai thực hiện? thực hiện ở đâu? các điều kiện cần thiết
để thực hiện kế hoạch đó là gì? tổ chức có đáp ứng được các điều kiện đó không?
Trong triển khai thực hiện kế hoạch phải
có kiểm tra, kiểm soát tiến độ cũng như những khó khăn trong thực hiện để kịp
thời điều chỉnh.
Đánh giá sau khi thực hiện các hoạt động
phát triển năng lực cho cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu của
các hoạt động này là nhằm giúp cho cán bộ, công chức có được những năng lực cần
thiết để họ thực thi công việc tốt hơn. Mục tiêu có thể là bổ sung thêm kiến thức
về một chuyên môn cụ thể nào đó hoặc bổ sung các kiến thức quản lý nhà nước hoặc
các kỹ năng cụ thể nào đó gắn liền với công việc của cán bộ, công chức. Ngoài
kiến thức kỹ năng ra, phát triển năng lực của cán bộ, công chức còn quan tâm đến
mục tiêu thay đổi thái độ của cán bộ, công chức theo hướng tích cực để họ chủ động
thực thi công vụ tốt hơn. Đánh giá sau khi thực hiện các hoạt động phát triển
năng lực cho cán bộ công chức là quá trình xem xét xem các mục tiêu này có đạt
được hay không. Việc này có thể thực hiện thông qua quan sát, trao đổi trực tiếp
với cán bộ, công chức, phỏng vấn đồng nghiệp, hoặc những người có liên quan (ví
dụ: có thể đánh giá thông qua ý kiến của người dân về thái độ, khả năng giải
quyết công việc của cán bộ, công chức trong việc thực hiện các thủ tục hành
chính đối với họ).
Phát triển năng lực của cán bộ, công
chức là một quá trình nỗ lực liên tục và cần có sự kết hợp của nhà lãnh đạo, quản
lý trong tổ chức; sự nỗ lực, ý thức phát triển chức nghiệp của bản thân cá nhân
trong tổ chức; các quy định của pháp luật về các vấn đề có liên quan chặt chẽ đến
năng lực của cán bộ, công chức như tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng, chế
độ đãi ngộ đối với công chức.... Vì vậy phát triển năng lực của cán bộ, công chức
phải cần đến những giải pháp đồng bộ.
+ Một số biện pháp nhằm phát triển
năng lực cho cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính của ngành ở địa phương
● Luân chuyển công việc
Luân chuyển công việc là phương pháp
chuyển cán bộ, công chức hoặc cấp quản lý từ vị trí công việc này sang công việc
khác nhằm mục đích đào tạo, rèn luyện và cung cấp cho họ những kinh nghiệm rộng
hơn. Khi cán bộ, công chức được chuyển đến vị trí công việc mới, người cán bộ,
công chức sẽ phải thực hiện những công việc mới với thách thức cao. Họ sẽ phải
nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp, hướng đi và cách thức tiếp cận công việc mới
đồng thời họ sẽ phải vượt lên trên những khó khăn để giải quyết những tình huống
mới nảy sinh trong quá trình đảm đương công việc. Qua thực tiễn giải quyết công
việc, những năng lực mới của cán bộ, công chức sẽ hình thành và hoàn thiện.
Luân chuyển công việc trong cơ quan
hành chính nhà nước trong thực tế thực hiện còn có nhiều khó khăn do chịu quy định
chặt chẽ của pháp luật, do tâm lý cán bộ, công chức ngại thay đổi, ngại đương đầu
với những thách thức mới. Muốn luân chuyển công việc có hiệu quả cần phải làm
cho cán bộ, công chức thật sự chủ động tham gia vào hoạt động luân chuyển, coi
đó là cơ hội, là phần thưởng cho sự phấn đấu nỗ lực của bản thân, đó là cơ hội
được khám phá, chinh phục thách thức, thăng tiến, phát triển nghề nghiệp.
● Trao quyền ra quyết định cho cấp
dưới
Các nhà quản lý cần phải trao quyền
cho cấp dưới để nâng cao năng lực làm việc của họ. Khi cấp dưới được tự chủ và
tự chịu trách nhiệm về một vấn đề nào đó, thông thường họ sẽ phải cố gắng để đạt
được kết quả tốt nhất.
Tuy nhiên, để cấp dưới có thể ra được
những quyết định tốt và chịu trách nhiệm về các quyết định đó cần phải có thời
gian và các nhà quản lý, lãnh đạo cũng phải phát huy vai trò trong việc khuyến
khích và ủng hộ môi trường đưa ra quyết định và cho cấp dưới những công cụ cũng
như kiến thức họ cần để đưa ra quyết định và hành động trên quyết định của họ.
● Giao thêm các nhiệm vụ mới cho cấp
dưới
Việc giao các nhiệm vụ vượt quá khả
năng của cấp dưới đòi hỏi cá nhân người cán bộ, công chức phải vượt ra khỏi những
gì đã biết và qua đó học thêm được những kỹ năng mới. Khi giao việc phải đảm bảo
các yêu cầu:
Căn cứ vào mục tiêu phát triển của tổ
chức, đơn vị để giao thêm nhiệm vụ mới cho các cá nhân;
Yêu cầu của các nhiệm vụ mới không quá
cao so với năng lực thực tiễn của cá nhân. Nếu yêu cầu công việc quá cao, cán bộ,
công chức không đáp ứng được sẽ dẫn đến chán nản, mất động lực làm việc;
Cung cấp những điều kiện, phương tiện
cần thiết để thực thi công việc.
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của
ngành ở địa phương
Có nhiều cách để phát triển năng lực
cho cán bộ, công chức, trong đó đào tạo, bồi dưỡng có vai trò quan trọng. Năng
lực của cán bộ, công chức do nhiều yếu tố cấu thành trong đó có sự tham gia của
quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Trang bị kiến thức, kỹ năng làm việc thông qua
đào tạo, bồi dưỡng là hình thức phổ biến được các cơ quan nhà nước áp dụng để
nâng cao năng lực của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước ở địa
phương.
Kỹ năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trong đó, có những bước cơ bản là:
+ Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng phải
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan; yêu cầu thực thi nhiệm vụ do pháp
luật quy định; thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức; những yếu tố khác như kinh
phí, cơ sở vật chất....
+ Xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng
Xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức dựa trên cơ sở những quy định của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức được quy định tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP , ngày 05/3/2010 của
Chính phủ, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
+ Tổ chức, phối hợp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức
Có nhiều hình thức tổ chức, phối hợp
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Cử cán bộ, công chức đến các cơ sở đào
tạo phù hợp
để tham gia vào quá trình học tập nhằm bổ sung những kiến thức, kỹ năng còn thiếu
là một trong những biện pháp chủ yếu. Đào tạo cán bộ, công chức tại các cơ sở
đào tạo có hiệu quả cần phải chú ý đến nhiều vấn đề như: người học, người dạy,
cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình... và liên quan đến nhiều chủ thể như:
cơ sở đào tạo; cơ quan cử người đi học; các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quyết
định chương trình và biên soạn giáo trình, tài liệu.... Vì thế, để hình thức
đào tạo này thực sự là công cụ phát triển năng lực cho cán bộ, công chức đòi hỏi
phải có những giải pháp đồng bộ.
Riêng đối với cơ quan sử dụng cán bộ,
công chức là những cơ quan cử cán bộ, công chức đến các cơ sở đào tạo cần lưu
ý:
● Lựa chọn người đi học phù hợp.
● Lựa chọn cơ sở đào tạo phù hợp.
● Phân công công việc phù hợp để cán bộ,
công chức có cơ hội sử dụng và duy trì những năng lực đã được tiếp nhận qua đào
tạo.
● Đánh giá sau đào tạo.
Kèm cặp, huấn luyện: đây là một
phương pháp đào tạo phát triển năng lực tại chỗ. Mỗi cá nhân được giao cho một
nhà quản lý hoặc một người làm chuyên môn giỏi kèm cặp, huấn luyện. Ngoài cơ hội
quan sát, các cá nhân còn phải thực hành ngay và được chỉ định một số công việc
quan trọng đòi hỏi kỹ năng ra quyết định.
Áp dụng biện pháp huấn luyện cán bộ,
công chức trong thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta
là rất cần thiết, đặc biệt đối với những người mới được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc
phải đảm nhận một công việc mới. Họ cần phải có những kỹ năng mới, năng lực mới
và kinh nghiệm đối với công việc để thực thi tốt công việc của mình. Huấn luyện
có thể về những vấn đề liên quan đến chính sách của tổ chức, thực tiễn thực thi
công vụ, thủ tục.
Với tư cách là một nhà huấn luyện, nhà
quản lý có những hành vi và cách ứng xử tương tự như hành vi và cách ứng xử của
một huấn luyện viên thể thao, họ theo dõi từng hoạt động trong quá trình thực
hiện công vụ của từng công chức trong tổ chức để có những điều chỉnh kịp thời.
Tất cả các cán bộ, công chức, nhất là các cán bộ, công chức cấp thấp đều cần đến
một nhà huấn luyện, đặc biệt là giai đoạn mới bước vào nghề.
Áp dụng huấn luyện như một phương pháp
quản lý không những có thể tạo ra một đội ngũ cấp dưới có đủ năng lực, đảm
đương được công việc được giao mà còn tạo ra một môi trường làm việc thuận lợi
trong đó tinh thần làm việc đồng đội, sự ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau sẽ được củng cố
và lợi ích của tất cả thành viên trong tổ chức sẽ được phát triển hài hòa, đồng
thời, sự đố kỵ và các yếu tố tiêu cực khác sẽ được hạn chế.
Bên cạnh đó, còn có những biện pháp
phát triển năng lực cán bộ, công chức phát huy được tính chủ động của cơ quan sử
dụng cán bộ, công chức như các biện pháp đào tạo tại chỗ thông qua huấn luyện;
trao đổi và học hỏi kinh nghiệm hay những biện pháp tự đào tạo nhằm phát huy
tính chủ động, sáng tạo của người cán bộ, công chức gắn liền với những tình huống
công việc cụ thể.
Các biện pháp phát triển năng lực cho
cán bộ, công chức này có thể được tiến hành tại nơi làm việc, trong giờ làm việc
hoặc ngoài giờ làm việc hoặc tiến hành ngoài nơi làm việc.
Mỗi một hình thức có những ưu điểm và
nhược điểm nhất định, nên phải có sự cân nhắc để lựa chọn những biện pháp phù hợp.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Từ thực tiễn công tác, đồng chí cho
biết những bất cập trong triển khai mô hình vị trí việc làm ở ngành đồng chí
lãnh đạo, quản lý?
2. Đồng chí hãy cho biết những bất cập
về năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính của ngành ở địa
phương đồng chí công tác?
3. Đồng chí làm thế nào để nâng cao
năng lực của cán bộ công chức trong cơ quan hành chính của ngành ở địa phương đồng
chí công tác?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. TS. Lê Thanh Hà (chủ biên). Giáo
trình quản trị nhân lực. NXB Lao động xã hội. H 2009.
2. Nguyễn Văn Điềm và Nguyễn Ngọc
Quân. Quản trị nguồn nhân lực. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2007.
3. Nguyễn Hữu Thân. Giáo trình quản trị
nhân sự. NXB Thống kê. H 2001.
4. Học viện Hành chính Quốc gia. Hành
chính công. Dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học. H. KHKT,
2006.
5. Học viện Hành chính. NXB KHKT. H
2012. Quản lý nguồn nhân lực xã hội./.
Chuyên đề 9
KỸ
NĂNG QUẢN LÝ SỰ THAY ĐỔI TRONG TỔ CHỨC
1. Những vấn đề chung về sự thay đổi
a) Ý thức về sự thay đổi:
- Thay đổi trong bối cảnh đổi mới và cải
cách hành chính:
Trong thế giới rộng lớn và bao bọc
xung quanh ta có một triết lý không bao giờ thay đổi, đó là: mọi vật luôn vận động
và phát triển không ngừng. Và tất nhiên, các tổ chức cũng không nằm ngoài vòng
xoáy của sự thay đổi.
“Thay đổi” trong một tổ chức theo
nghĩa chung nhất là sự phản ứng lại một cách có kế hoạch hoặc không có kế hoạch
đối với những sức ép hay những yếu tố nào đó. Trong những thập kỷ qua, các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp và cạnh tranh là những nguyên nhân làm
cho các tổ chức phải thay đổi liên tục. Sự thay đổi đã trở thành một vấn đề cực
kỳ quan trọng trong điều kiện ngày nay vì những sức ép nảy sinh liên tục và
không có khả năng dự báo trước. Đặc biệt là:
+ Công cuộc đổi mới trong điều kiện
toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập quốc tế.
+ Cải cách hành chính trong điều kiện
bất ổn của tình hình thế giới.
- Thay đổi trong điều kiện hội nhập quốc
tế:
Những thay đổi trên trường quốc tế và
sự thích ứng của Việt Nam. Những cạnh tranh trong đời sống của thế giới hiện đại
bắt buộc các tổ chức phải vận động không ngừng trong dòng chảy liên tục của những
thay đổi. Hầu hết mọi tổ chức đều bị thúc bách bởi cải cách hoặc thay đổi nhằm
thích nghi với hoàn cảnh mới. Không một tổ chức nào có thể giữ nguyên phương thức
hoạt động từ năm này qua năm khác mà không phải lưu ý đến những ý tưởng mới,
các phát minh khoa học, công nghệ cùng những xu hướng xã hội và các điều luật mới
được ban hành.... Mọi cơ quan, tổ chức cần phải có đủ linh hoạt để ứng phó một
cách nhanh nhất với những thay đổi, cần đưa ra những quyết định đúng và phải thực
hiện chúng càng sớm càng tốt.
- Thay đổi trong thực hiện nhiệm vụ của
cấp sở và tương đương:
Tác động của các yếu tố kinh tế, chính
trị, xã hội, luật pháp và cạnh tranh làm cho nội dung và phương pháp làm việc của
sở phải thay đổi liên tục.
Các sở, ban, ngành cần nâng cao chất
lượng, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo, nâng cao hiệu quả ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác thông tin, báo cáo; phối hợp chặt chẽ để giải
quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc, khiếu nại, tố cáo; đổi mới hình thức,
nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc họp.
Lãnh đạo các sở, ban, ngành phải thể
hiện rõ vai trò; cán bộ, công chức, viên chức phải sắp xếp thời gian một cách
khoa học, hợp lý tránh chồng chéo nhưng không bỏ sót. Thực hiện đúng việc đánh
giá cán bộ, công chức để làm cơ sở tiếp tục tinh giảm những trường hợp thiếu
năng lực, phẩm chất....
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong hoạt động của sở hiện nay, cần đưa ra mục tiêu, giải pháp đổi mới phương
thức hoạt động của các sở, ban, ngành trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn và công
tác tham mưu, thực hiện chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn
tỉnh, đảm bảo phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực
hiện chương trình công tác của UBND tỉnh, nghiêm túc thực hiện chế độ thông
tin, báo cáo; tăng cường mối quan hệ giữa các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện;
thực hiện nghiêm túc chế độ hội họp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động cải
cách hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ, cán bộ, công chức, viên chức; đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành.
Vấn đề đổi mới phương thức hoạt động của
các sở, ban, ngành hết sức cần thiết và cấp bách trong việc nâng cao vai trò,
trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các sở, ban, ngành đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển, đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, quản lý, điều
hành của UBND tỉnh.
b) Sự cần thiết phải thay đổi:
- Thay đổi là vận động tất yếu của thế
giới:
Những thay đổi lớn thường xuất hiện
như là kết quả của sự phát triển và tiến hóa, thí dụ như: những phát minh mới mở
ra những cơ hội mới; kinh nghiệm dẫn đến những phương pháp tốt hơn; những giá
trị cũ được điều chỉnh, trở nên phù hợp hơn với văn hóa tổ chức hiện đại....
Nguồn gốc của thay đổi là xuất phát từ
nhiều nguyên do khác nhau, cần được xem xét trong một hệ thống tổng thể. Mọi
thay đổi đều nảy sinh dưới tác động của những tiến bộ khoa học và công nghệ,
các tác nhân xã hội và pháp luật, và nhất là ảnh hưởng của các tác nhân kinh tế.
Nếu ngày mai mọi việc vẫn diễn ra như
ngày hôm nay, thì chúng ta sẽ không có cơ hội sử dụng những kỹ năng cũng như
phát triển cá nhân mình một cách độc lập.
Đối với xã hội, sự phát triển là một
quá trình, trong đó diễn ra những thay đổi quan trọng về lượng và về chất trong
lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội hoặc là trong các thành tố riêng biệt của
nó - quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, cơ cấu nhóm xã hội và cơ cấu tổ chức
xã hội.... Không phải mọi thay đổi trong các hiện tượng xã hội đều là sự phát
triển của chúng, mà chỉ có những thay đổi khi có một số hiện tượng xã hội này
được thay thế bằng một số hiện tượng xã hội khác có trình độ cao hơn hoặc là
chuyển lên các hiện tượng có trình độ cao hơn (theo tiêu chuẩn khách quan về tiến
bộ xã hội) - đó là tiến bộ, hoặc ngược lại, được thay thế bởi các hiện tượng ở
trình độ thấp hơn - thoái bộ. Tuy nhiên, hiện nay khi nói về phát triển kinh tế,
người ta thường đồng nhất khái niệm “phát triển” với “tăng trưởng”.
- Tính quan liêu của hành chính:
Phương thức điều hành hành chính mang
nặng tính “ỳ” và quan liêu.
Trong suốt tiến trình phát triển từ
khi Nhà nước Việt Nam kiểu mới ra đời năm 1945, bản chất nhân dân của Nhà nước
được khẳng định trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm
2013 vừa được thông qua tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII. Tuy nhiên, trong
tiềm thức của không ít cán bộ, công chức vẫn còn đậm tính công quyền, cưỡng chế
của Nhà nước. Trong khi đó, mục tiêu cốt lõi của cải cách hành chính là: chuyển
từ nền hành chính cai quản (cai trị) sang nền hành chính phục vụ, tức là nhân
dân không phải chỉ đơn thuần là đối tượng chịu sự quản lý, cai quản, mà còn là
“khách hàng” mà nền hành chính phải phục vụ. Hoạt động quản lý công trong nhiều
trường hợp bị “hành chính hóa”, quá chú trọng thực hiện mệnh lệnh, chấp hành chỉ
đạo của cấp trên, tuân theo quy trình, thủ tục, hơn là nêu cao trách nhiệm phục
vụ, linh hoạt thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân một cách hiệu quả nhất. Do đó,
cần tiếp tục cải cách, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nền hành chính và
công dân. Công dân ủy quyền cho công chức - “công bộc” của mình cung ứng những
dịch vụ có chất lượng theo pháp luật. Nền hành chính không có mục đích tự thân
mà phải vì nhân dân phục vụ. Cơ quan công vụ là các thiết chế phục vụ xã hội,
phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức gương mẫu chấp hành pháp luật, thực thi
công vụ một cách phi vụ lợi, đặt lợi ích của xã hội, của công dân lên trên hết.
Nhân dân là đối tác chính trong xây dựng và triển khai chính sách, được tạo mọi
điều kiện để chủ động tham gia vào quá trình quản lý, cung ứng dịch vụ công; giám
sát hoạt động của các cơ quan công quyền, và có thể thông qua các đại biểu của
mình bãi miễn chức vụ của cán bộ, công chức không đủ uy tín, năng lực, với cơ
chế thuận tiện, khả thi. Để làm được điều đó, phải chú trọng nâng cao dân trí,
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước, cần thể chế
hóa các quy định liên quan tới quyền và nghĩa vụ công dân một cách rõ ràng, cụ
thể nhằm đảm bảo cho công dân thực sự được hưởng quyền và nghiêm chỉnh thực hiện
nghĩa vụ. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của nền hành chính, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng
đơn giản hóa nhằm xóa bỏ mầm mống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Nền hành
chính cần tạo lập các cơ sở pháp lý để bảo đảm công khai, minh bạch thông tin
cho xã hội; lắng nghe, tiếp thu ý kiến và sẵn sàng tiếp nhận sự kiểm tra, giám
sát và phê bình của nhân dân. Các cơ quan phải chủ động xây dựng những kênh phù
hợp cho mọi tầng lớp nhân dân tiếp cận và phản hồi thông tin về hoạt động quản
lý của mình nhằm phát huy vai trò phản biện chính sách của xã hội và nâng cao
trách nhiệm giải trình của bộ máy hành chính. Tăng cường các hình thức dân chủ
trực tiếp; qua đó, động viên được nhân dân tham gia sâu rộng, thực chất hơn vào
các hoạt động chính trị - xã hội.
Nền hành chính thực hiện quản lý nhà
nước thông qua việc tác động bằng tổ chức - quyền lực để điều hành các quan hệ
xã hội. Vì thế, nền hành chính phải có cơ cấu tổ chức hợp lý và cơ chế vận hành
phù hợp để hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Tái cơ cấu tổ chức gắn liền với đổi
mới phương thức quản lý, lề lối làm việc là một trọng tâm cải cách hành chính,
cần tiếp tục phân định hợp lý, rành mạch thẩm quyền, trách nhiệm giữa các
ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị và cá nhân để tạo cơ chế cân bằng và kiểm
soát quyền lực; đồng thời, bao quát hết nhiệm vụ, đảm bảo thực thi có chất lượng
các công việc nhà nước ngày càng đa dạng, phức tạp. Trong đó, xác định hợp lý
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, đơn vị từ trung ương đến
địa phương, định rõ trách nhiệm, quyền hạn từng vị trí, chức danh công tác sẽ
góp phần đảm bảo trật tự pháp luật hành chính.
Trong quá trình cải cách hành chính,
phải kết hợp nhuần nhuyễn nguyên tắc pháp trị và nguyên tắc đức trị. Hiện nay,
xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp phù hợp với từng nhóm cán bộ, công chức;
áp dụng hệ thống đánh giá công tác một cách khách quan, khoa học, sát thực; chấn
chỉnh việc chấp hành pháp luật, kỷ luật ở mọi cấp, mọi ngành; tạo cơ chế kiểm
tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong các cơ quan và trong nhân dân; trừng
trị nghiêm theo pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức
ở bất kỳ cương vị nào;... là những yêu cầu đặt ra nhằm đảm bảo pháp trị hành
chính. Thực tế đang đòi hỏi phải nâng cao ý thức đạo đức, tinh thần trách nhiệm
của cán bộ công chức; tăng cường giáo dục pháp luật cho công dân, tạo lòng tin
và nếp sống làm việc theo pháp luật của cán bộ, công chức cũng như của các tầng
lớp nhân dân; phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông để không chỉ là
phương tiện phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp thời mà phải trở thành
công cụ hữu hiệu để phân tích, dự báo, phản biện chính sách cho xã hội và là diễn
đàn để nhân dân trao đổi, bày tỏ ý kiến tham gia quản lý nhà nước. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về thiết lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ chống lại sự lạm quyền, quan
liêu, tham nhũng song song với xây dựng môi trường đạo đức trong sạch vẫn còn
nguyên giá trị vận dụng trong cải cách hành chính thời gian tới. Trong đó, “cán
bộ phải thực hành chữ liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”, tạo niềm tin và
hình ảnh tốt đẹp về cơ quan công vụ.
Hoàn thiện chế độ hành chính là điều
kiện đặc biệt quan trọng để quản lý nhà nước một cách hiệu quả bằng pháp luật.
Khi hoạch định thể chế, pháp luật, các ban soạn thảo phải chú trọng đến công đoạn
phân tích chính sách, kết hợp giữa kinh nghiệm quản lý ngành, lãnh thổ của các
bộ, UBND với việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và sử dụng phương pháp
chuyên gia. Các văn bản, đề án phải phản ánh được ý nguyện của nhân dân, lợi
ích chung của đất nước, quy luật tự nhiên của xã hội, giải quyết được các mối
quan hệ giữa Trung ương với địa phương, giữa các Bộ, ngành, giữa các nhóm lợi
ích. Để bảo đảm quyền và lợi ích của công dân, một mặt, các cơ quan khi dự thảo
các văn bản pháp quy cần lường tính, ngăn chặn những nguy cơ vi phạm đến quyền
con người từ bất kỳ chủ thể nào, kể cả từ phía Nhà nước. Mặt khác, coi trọng
vai trò của các định chế tài phán hành chính trong việc kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lý của các quyết định, hành vi hành chính. Quá trình cải cách hành chính cần
rà soát các quy định luật hành chính; đánh giá, rút ra những bài học từ thực tiễn
giải quyết các khiếu kiện... ở nước ta.
Trong cải cách thể chế, cần ưu tiên nội
dung hoàn thiện chế độ trách nhiệm hành chính. Thể chế, pháp luật công chức -
công vụ phải có hệ thống quy định về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm vật chất
đối với những trường hợp vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội và công
dân. Cần phân biệt rõ trách nhiệm của bộ máy hành chính, của cơ quan với trách
nhiệm của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ. Thiết lập chế độ trách nhiệm
công vụ thuộc tổ chức là nhằm đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức
khi thực hiện nhiệm vụ nhà nước, phục vụ lợi ích cộng đồng. Phân tích, xác định
rõ lỗi cá nhân là để cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước nhà nước, xã hội
và công dân về hành vi công vụ của mình. Trong mọi trường hợp, cho dù trách nhiệm
thuộc về một văn bản, một chính sách, một quyết định công vụ hay một lỗi của
người công chức, thì tổ chức hay công dân bị thiệt hại phải được bồi thường hay
được khắc phục hậu quả theo luật. Từ đó, cán bộ, công chức, đặc biệt là những
người có chức vụ, quyền hạn phải am hiểu pháp luật và biết áp dụng pháp luật
khi giải quyết công việc. Cán bộ, công chức phải được giao đủ thẩm quyền (gắn với
trách nhiệm) và có đủ năng lực để chủ động, linh hoạt xử lý các vấn đề trên cơ
sở pháp luật, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tránh biến hệ thống hành chính
thành bộ máy quan liêu, cứng nhắc. Ngay cả khi công dân gửi yêu cầu chưa đúng địa
chỉ giải quyết, công chức vẫn phải thụ lý và chủ trì lấy ý kiến các cơ quan,
đơn vị liên quan, trả lời đương sự.
Nền hành chính bao gồm các bộ phận: thể
chế hành chính; cơ cấu, cơ chế tổ chức; hoạt động của bộ máy hành chính; đội
ngũ cán bộ, công chức; nguồn tài chính công và các điều kiện vật chất, phương
tiện làm việc cần thiết. Để làm tốt chức năng phục vụ công, thực hiện quản lý một
cách dân chủ, hiệu quả, nền hành chính cần chú trọng nâng cao năng lực cả năm
thành tố trên, tạo nên sức mạnh tổng hợp để tổ chức thực hiện thành công đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì thế, cải cách hành chính thời gian tới
cần tập trung tăng cường năng lực cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu thực tế
công tác; thiết lập mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu,
giáo dục, đào tạo hành chính với các cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ; nâng cao
đạo đức công chức gắn với đẩy mạnh giáo dục công dân, bồi dưỡng ý thức làm chủ
của người dân; mở rộng các hoạt động hợp tác công - tư, huy động mọi nguồn lực
tham gia hoàn thiện nền hành chính dân chủ, pháp quyền, đáp ứng có hiệu quả các
nhu cầu của nhân dân.
- Tính chất tham mưu của cấp sở và
tương đương:
Công tác tham mưu phụ thuộc phần lớn
vào những ý tưởng từ cấp trên, song sở cần năng động hơn để có các sáng kiến hiệu
quả. Công tác tham mưu có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý và
điều hành công việc của tất cả các cơ quan hành chính nhà nước.
Tham mưu là hiến kế, kiến nghị, đề xuất,
đưa ra các ý tưởng độc đáo, sáng tạo có cơ sở khoa học, các sáng kiến, các
phương án tối ưu, những chiến lược, sách lược và các giải pháp hữu hiệu cho Thủ
trưởng cơ quan, đơn vị trong việc đặt ra và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác
ngắn hạn, dài hạn, hàng năm của cơ quan đơn vị đạt kết quả cao nhất. Các chuyên
gia, các cán bộ, công chức có trình độ năng lực giúp đề ra các chiến lược, kế
hoạch phát triển, các chế độ, chính sách vĩ mô của Nhà nước gọi là đội ngũ cán
bộ, công chức tham mưu, hoạch định chính sách ở tầm chiến lược.... Tham mưu phải
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo và điều hành công việc của cơ quan cấp
trên.
Yêu cầu cải cách hành chính đặt ra đối
với công tác tham mưu của sở trước hết là phải đề cao trách nhiệm trong xây dựng
và hoàn thiện hệ thống các thể chế (các quy chế, quy định) nhằm tạo cơ sở pháp
lý đầy đủ và bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của cơ quan. Cải cách thủ tục
hành chính trong cơ quan phải được bắt đầu từ đơn giản hóa các thủ tục hành
chính, thí dụ như trong công tác văn thư, trong quy trình xử lý, giải quyết văn
bản đến, trong quy trình trình ký, ban hành văn bản đi, trong đơn giản hóa, chuẩn
hóa thể thức văn bản của Bộ.... Trong tham mưu xây dựng các quy chế, quy định điều
chỉnh các lĩnh vực hoạt động và công tác của cơ quan như: “Quy chế làm việc của
sở”, “Quy chế làm việc của Văn phòng sở”, v.v... phải đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ. Các quy định, quy trình xử lý, giải quyết công việc vừa chặt chẽ, vừa
thông thoáng, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, bảo đảm và đáp ứng yêu cầu
quản lý, chỉ đạo, điều hành công việc của lãnh đạo và các hoạt động của cơ quan
một cách thông suốt và đạt hiệu quả cao.
- Tính chất điều hành nội bộ của cấp sở
và tương đương:
Sở có tính độc lập tương đối và tùy
thuộc chức năng và nhiệm vụ cần có những thay đổi cần thiết tương ứng.
Cần xây dựng cơ chế vận hành bao gồm từ
chế độ trách nhiệm, phối hợp, cách thức ra quyết định, các nguyên tắc sử dụng
nguồn lực đến các mối quan hệ bên trong và bên ngoài sở sao cho phù hợp với
tính chất đặc thù của công việc mỗi sở. Nếu cơ cấu là “phần cứng” thì cơ chế
chính là “phần mềm” của tổ chức, được xác định nhằm đảm bảo bộ máy hoạt động nhịp
nhàng, hiệu quả theo đúng định hướng chiến lược.
Trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp
của ban lãnh đạo và giữa các bộ phận không rõ ràng, chồng chéo. Các nguyên tắc
làm việc và ứng xử không được thiết lập. Các quy định về sử dụng tài chính, tài
sản và thông tin không được tường minh và có tính hiệu lực. Các chuẩn mực quan
hệ với tổ chức và công dân không được xác lập .... Những điều này đều có thể
gây thất thoát, rối loạn, xung đột, thậm chí vô hiệu hóa hoạt động của tổ chức.
Do đó, phải thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động để đạt được hiệu quả
công tác cao nhất.
- Phát triển bền vững trong hoạt động
chấp hành và điều hành của cấp sở và tương đương:
Hoạt động chấp hành và điều hành hành
chính cần có tính linh hoạt nhất định, đặc biệt là ở cấp sở. Do đó, cần hướng tới
thường xuyên:
+ Hoàn thiện cơ chế điều hành của ban
lãnh đạo sở nhằm làm rõ vai trò và trách nhiệm của từng cấp, từng vị trí trong
quản lý.
+ Phân cấp quản lý tài chính, tăng cường
kiểm soát chi phí nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong huy động và sử
dụng.
+ Xây dựng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực; xây dựng quy trình tuyển dụng, đánh giá và đào tạo nhằm sử dụng và
phát triển nguồn nhân lực một cách hữu hiệu.
+ Thiết lập quy trình quản lý nội bộ;
hợp lý hóa và tối ưu hóa quy trình làm việc, bảo mật thông tin, hệ thống lập kế
hoạch và báo cáo .…
+ Thiết lập những chuẩn mực, nguyên tắc
thực thi công vụ và ứng xử trong và ngoài sở, phù hợp với giá trị văn hóa công
sở.
+ Xác định các chế độ, lề lối làm việc,
biện pháp khuyến khích, khen thưởng cho từng đối tượng CBCC,... nhằm nâng cao
năng suất và hiệu quả thực thi công vụ.
c) Đón nhận sự thay đổi:
- Thay đổi tư duy trước sự thay đổi:
Các thay đổi có thể xảy ra do những
nguyên nhân khác nhau như kinh tế, khoa học và công nghệ hay xã hội và pháp luật
và cũng có thể là kết quả của sự kết hợp những nguyên nhân đó. Nhưng cho dù là
do nguyên nhân nào thì nhà quản lý đều phải có trách nhiệm nhận thức được sự
phát triển của những nguyên nhân đó trong chính phạm vi công việc của mình. Các
thách thức mà chúng ta phải đối mặt hiện giờ rất khác nhau: sự may rủi và cơ hội
cho bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào. Toàn cầu hóa được điều khiển bởi một tập hợp
rộng lớn và uy lực của các lực lượng kết hợp với thay đổi công nghệ, hội nhập
kinh tế quốc tế, sự chín muồi của thị trường trong nước trong các quốc gia phát
triển.
Nhiều thay đổi lớn trong công việc có
nguồn gốc từ những phát triển khoa học và công nghệ. Những tiến bộ khoa học và
công nghệ đang thay đổi toàn bộ cuộc sống của chúng ta và hứa hẹn nhiều thay đổi
lớn lao hơn nữa trong tương lai. Những tiến bộ khoa học và công nghệ có thể
mang lại những ích lợi cho cuộc sống, tuy nhiên chúng cũng có thể làm đau đầu
những ai chưa được chuẩn bị để sẵn sàng tiếp nhận chúng.
- Nhận biết thay đổi từ bên trong hoặc
từ môi trường xung quanh
Chúng ta đang sống trong giai đoạn lịch
sử mà những đổi thay về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội diễn ra nhanh
chóng hơn bao giờ hết. Những thay đổi đó có tác động to lớn đến cuộc sống thường
nhật của tất cả mọi người. Chúng ta khó và không thể cưỡng lại được những thay
đổi đó, lại càng không thể lờ chúng đi. Vấn đề là chúng ta có thể và cần kiểm
soát những thay đổi đó sao cho có hiệu quả nhất và tìm kiếm những nguồn lợi từ
bối cảnh do những thay đổi đó tạo ra.
Trong thực tế, mọi đương đầu với các
thay đổi đều tiềm ẩn những mạo hiểm nhất định. Song thành công chỉ có thể đến với
những người muốn và luôn luôn nỗ lực vượt lên phía trước để thoát ra khỏi trạng
thái “cố hữu” nhằm tìm kiếm những cơ hội mới.
Thực tiễn cho thấy, với bất kỳ thước
đo khách quan nào, thì số lượng thay đổi rất lớn và thường là bi kịch cho các tổ
chức ngày càng tăng đáng kể. Mặc dầu một số người dự đoán rằng phần lớn việc
tái cơ cấu bộ máy, tái cơ cấu chiến lược, sát nhập, giảm biên chế, nỗ lực và
tăng cường văn hóa sẽ sớm biến mất, song thực tế dường như không hoàn toàn như
vậy. Các tác lực kinh tế vĩ mô hiện hữu trong công việc và các tác lực này có thể
sẽ phát triển thậm chí còn gia tăng mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Sự thay đổi, theo Toffler A. (Future
Shock, N.Y., 1970), khởi nguồn từ những khuynh hướng của đời sống xã hội nhằm
vào sự nhất thời (transience), tính mới (novelty) và tính đa dạng (diversity).
Trong thời đại ngày nay, những thay đổi diễn ra nhanh chóng, do đó việc quản lý
sự thay đổi ngày càng trở nên khó khăn hơn, song cũng có khoa học hơn và do đó
có hiệu quả hơn.
d) Phân loại sự thay đổi:
- Thay đổi về cơ cấu tổ chức:
Thay đổi về tổ chức thường bị chi phối
bởi các yếu tố cấu thành một tổ chức, trong đó mục tiêu và chiến lược là một
trong những yếu tố vô cùng quan trọng. Thay đổi về tổ chức thường đưa đến những
thay đổi về cơ cấu tổ chức và quan trọng hơn cả là những thay đổi phương pháp
quản lý.
Những thay đổi về môi trường chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội là những thay đổi bên ngoài (ngoại vi) có tác động tới
cơ quan, tổ chức và kéo theo những thay đổi tương ứng bên trong các cơ quan, tổ
chức đó. Những thay đổi bên ngoài đó có thể có tác động tích cực và tiêu cực. Một
chính sách, chủ trương đúng, phù hợp có thể tạo điều kiện cho tổ chức phát triển,
song nếu không phù hợp sẽ dẫn tới đình trệ, thậm chí triệt tiêu sự tồn tại của
tổ chức. Những thay đổi bên ngoài có thể là tiền đề dẫn tới những thay đổi bên
trong cơ quan, tổ chức. Cải cách hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu” dẫn
tới những thay đổi đáng kể trong cơ cấu tổ chức bộ máy, nhân sự và lề lối làm
việc của nhiều cơ quan, tổ chức công quyền.
- Thay đổi về kỹ thuật công nghệ:
Khoa học giữ vai trò đặc biệt trong hoạt
động của con người và vai trò đó ngày càng tăng lên trong đời sống xã hội.
Trong thời đại ngày nay mọi bước tiến quan trọng của lịch sử đều xuất phát từ
tri thức khoa học và vai trò của khoa học trở nên to lớn đến mức có thể gọi thời
đại ngày nay là thời đại của khoa học và công nghệ.
Ngày nay, trong điều kiện cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học và công nghệ phát triển cực kỳ mạnh mẽ
và nhanh chóng, vai trò của khoa học và công nghệ đối với đời sống xã hội cũng
như mối quan hệ giữa chúng với thực tiễn, sản xuất biến đổi to lớn. Khoa học và
công nghệ đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi quá trình và mọi mặt của đời sống
xã hội. Đặc biệt, ngày nay khoa học không còn đứng trên cao hay bên ngoài sản
xuất mà chuyển thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhiều ngành sản xuất mới ra
đời trên cơ sở nền tảng của các thành tựu khoa học. Tri thức khoa học được vật
hóa, được kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất và cả trong những hình
thức tổ chức của sản xuất.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ
đã trở thành tiền đề, điểm xuất phát trực tiếp cho những biến đổi to lớn trong
kỹ thuật - công nghệ và đã tạo ra những ngành sản xuất mới. Sự phát triển của
khoa học đã dẫn đến tự động hóa từng phần và toàn bộ quá trình sản xuất, làm biến
đổi sâu sắc vai trò của khoa học đối với sản xuất cũng như vị trí của con người
trong sản xuất.
Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học
kỹ thuật, khoa học xã hội cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều ngành khoa học
xã hội như kinh tế học, xã hội học, luật học... đã trở thành chỗ dựa cho việc
quản lý kinh tế và xã hội.
Ngày nay, trong điều kiện cách mạng
khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học và công nghệ không chỉ
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, mà còn tham gia vào các quá trình
phát triển xã hội. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay bao gồm cả khoa học,
kỹ thuật, công nghệ cũng như hệ thống tổ chức lao động và quản lý sản xuất.
Khoa học đã trở thành một thiết chế xã
hội, một sức mạnh, một lực lượng xã hội. Không thể hiểu được gương mặt của xã hội
hiện đại nếu thiếu khoa học và xã hội hiện đại không thể phát triển được nếu
không có khoa học. Khoa học và công nghệ đang được sử dụng để khởi thảo các kế
hoạch và phát triển kinh tế và xã hội. Khoa học và công nghệ làm tăng sức mạnh
của con người trong việc cải tạo hiện thực. Chính vì vậy, cần nhanh chóng triển
khai các chương trình nghiên cứu khoa học khác nhau phù hợp với mỗi giai đoạn
phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ mỗi
ngày một một cao hơn, hiệu quả hơn. Trong đó, đặc biệt tập trung nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hệ thống quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh việc
nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, vật liệu mới, tự động hóa; đẩy nhanh tiến bộ khoa học, công
nghệ phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn, miền núi; quan tâm
bảo vệ và cải thiện môi trường của các vùng đô thị, nông thôn, khu công nghiệp,
kiểm tra chặt chẽ, ngăn chặn và giải quyết kịp thời những hành vi gây ô nhiễm
và suy thoái môi trường, thực hiện đúng mục tiêu phát triển đi đôi với bảo vệ
môi trường, môi sinh, có kế hoạch rà soát lại tất cả các công trình gây ra ô
nhiễm, tác hại đến môi trường và có giải pháp khắc phục.
Chẳng hạn, tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, không thể không ứng dụng và phát triển công nghệ tự động
hóa. Công nghệ tự động hóa là tập hợp các phương pháp và kỹ thuật tiên tiến nhằm
tạo ra các thiết bị, hệ thống thiết bị và quá trình sản xuất được điều khiển tự
động để thay thế hoặc giảm nhẹ lao động trực tiếp của con người, đồng thời nâng
cao năng suất lao động, chất lượng của sản phẩm và hiệu quả hoạt động của con
người trong các loại hình công việc khác nhau. Khi tự động hóa xâm nhập và phát
triển mạnh mẽ vào tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội sẽ có vai
trò to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, song đồng thời cũng làm thay đổi về tổ
chức, nhân sự, phong cách quản lý, cung cách điều hành... của cơ quan, tổ chức.
Thay đổi này tạo ra những tiến bộ về
trang thiết bị phục vụ cho hoạt động trong một tổ chức. Thay đổi này đưa đến
thay đổi qui trình hoạt động.
- Thay đổi sản phẩm:
Sản phẩm của hành chính có thể không
thay đổi, song bản chất của quá trình tạo ra chúng là thay đổi, do đó cũng cần
có những cách tiếp cận sao cho phù hợp.
Những thay đổi bên trong (nội tại) có
thể là những thay đổi về bản chất vấn đề, về mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ
cấu tổ chức, nhân sự, môi trường văn hóa điều hành trong cơ quan, tổ chức,....
Những thay đổi bên trong có thể là tự nhiên hay có chủ ý. Có những thay đổi bên
trong là do để thích ứng với những thay đổi bên ngoài (thí dụ như việc ứng dụng
ISO vào quản lý hành chính), song những thay đổi bên trong cũng có thể dẫn tới
những thay đổi bên ngoài (sự bùng nổ của phương tiện giao thông dẫn tới những
quy định mới về kiểm soát giao thông đường bộ).
Theo Toffler A. (Future Shock, N.Y.,
1970), thay đổi có thể là gia tăng (incremental) và gián đoạn (discontinuous).
Thay đổi gia tăng diễn ra vào thời kỳ nền công nghiệp phát triển bền vững và tập
trung thay đổi nhằm tạo ra sản phẩm tốt hơn thông qua quá trình gắn kết, thích ứng
và hoàn thiện (tinkering, adaptation and modofication). Sự thay đổi này dựa
trên cơ sở những gì đã hoàn thiện và không ngừng được cải tiến. Còn sự thay đổi
gián đoạn diễn ra vào giai đoạn phát triển không bền vững (periods of disequilibrium)
và do đó còn gọi là sự thay đổi quá độ (transformational change). Sự thay đổi
này dẫn tới sự từ bỏ những gì đã có, một giai đoạn thay đổi chức năng, dựa trên
những quan hệ và động lực mới nhằm tạo ra những sản phẩm mới, khác biệt chứ
không phải là sản phẩm tốt hơn.
- Thay đổi nhân sự:
Thay đổi về con người thường có thể là
những thay đổi về cách bố trí sắp xếp người lao động trong tổ chức. Theo xu thế
phát triển thì những thay đổi về con người thường gắn với việc nâng cao trình độ,
kỹ năng của người lao động. Đó là thay đổi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trong đó, tập trung nguồn nhân lực cho những ngành,
lĩnh vực có vai trò quyết định, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã
hội; đặc biệt cần quán triệt tinh thần tập trung một phần nguồn nhân lực chất
lượng cao cho khu vực quản lý công.
- Thay đổi về văn hóa:
Bao gồm những thay đổi về thái độ, các
chuẩn mực trong đối xử, các giá trị chung có liên quan đến hành vi của con người
trong một tổ chức. Những thay đổi này chịu áp lực lớn từ dư luận xã hội.
Dư luận của đông đảo quần chúng, ý kiến
rộng rãi của nhân dân (công luận) ngày càng được tôn trọng và bảo đảm với cá
nhân cũng như tập thể, đặc biệt trong điều kiện dân chủ hóa xã hội hiện nay. Là
phương thức tồn tại đặc thù của ý thức xã hội dưới dạng một ý thức đông đảo
không chính thức của những nhóm xã hội nào đó, của những liên hợp người gắn bó
với nhau bởi sự thống nhất về lợi ích, trong đó thể hiện thái độ của họ đối với
những biến cố hay những hiện tượng của đời sống xã hội, đối với hoạt động của
các đảng, các cơ quan và các cá nhân, dư luận xã hội là tác nhân quan trọng dẫn
tới những thay đổi trong đời sống xã hội, đặc biệt là đối với sự hình thành và
phát triển của các tổ chức. Đó là do dư luận xã hội biểu hiện ra dưới hình thức
các khuyến nghị và những đòi hỏi, cũng như ở thái độ tán thành hay lên án những
hoạt động của các thể chế xã hội này hay các thể chế xã hội khác, những hành động
của một người cá biệt hay của một tập đoàn người nào đó.
Dư luận xã hội được hình thành do kết
quả tác động có mục đích của các tổ chức, cơ quan đến quần chúng, cũng như được
hình thành một cách tự phát, trên cơ sở của kinh nghiệm sống thực tiễn, của những
truyền thống đã được xác lập, do đó trong dư luận xã hội không những bộc lộ sự
khác biệt về lợi ích, mà còn bộc lộ cả trình độ nhận thức không giống nhau về
những lợi ích đó. Dư luận xã hội là nhân tố điều tiết độc đáo hành vi của con
người, dẫn tới những thay đổi và phát triển tính cách con người phù hợp với môi
trường xã hội của mình. Sống trong bất kỳ một xã hội, một cộng đồng người nào,
mỗi cá nhân không chỉ tìm hiểu phân tích và nhận thức về môi trường sống, mà
còn tìm cách xác định mối quan hệ của mình đối với các sự kiện diễn ra và đồng
thời tạo cho mình cách thức ứng xử phù hợp trước cuộc sống thực tế.
Thực tiễn phát triển của lịch sử nhân
loại cho thấy dư luận xã hội bao giờ cũng có vai trò quan trọng đối với quản lý
xã hội. Chính vì vậy, cần chú trọng việc tìm hiểu, phân tích vai trò và chức
năng của dư luận xã hội từ nhiều góc độ - tích cực hoặc tiêu cực, đối với tiến
trình phát triển xã hội và con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự
tiến bộ trong dư luận xã hội là điều kiện tiên quyết để hoàn thành được bất kỳ
công cuộc cải tạo, cách mạng nào. Bác Hồ từng dạy chúng ta: “Giữ chặt mối liên
hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực
lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính
trị Quốc gia, t.5, tr. 286). Rõ ràng là dư luận xã hội tiềm ẩn sức mạnh to lớn
được thể hiện qua các chức năng của nó trong điều hòa các quan hệ xã hội, điều
chỉnh hành vi, hoạt động của cá nhân, giám sát và tư vấn đối với hoạt động của
các thiết chế quản lý.
Trong trạng thái vẹn toàn của mình, dư
luận xã hội thường phản ánh lợi ích và các quan điểm của các nhóm lớn trong xã
hội, đồng thời thỏa mãn một cách hợp lý lợi ích và quan điểm của các nhóm khác
trong xã hội. Đó chính là cơ sở để điều hòa các mối quan hệ xã hội và ổn định
trong tiến trình phát triển đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước.
Sự phán xét đánh giá của dư luận xã hội
cũng có tác động mạnh mẽ đến hành vi của cá nhân và nhóm. Chẳng hạn, dư luận có
thể tác động trực tiếp nhằm lên án những hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức hay
cổ vũ những hành vi phù hợp với lợi ích chung, nêu gương cao đẹp. Trong các trường
hợp này, cá nhân hay nhóm sẽ có hành vi đáp ứng đối với sự đánh giá của dư luận
mà cụ thể là họ sẽ điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với giá trị, chuẩn
mực chung. Bên cạnh đó, dư luận xã hội còn có tác động lâu dài đến việc xây dựng
nhân cách con người. Nếu coi hệ thống giá trị chuẩn mực là sự kiện đã định hình
trong xã hội thì sự phán xét đánh giá của dư luận được coi như lời nhắc nhở,
khuyến cáo con người quay trở về với khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi đã
có phù hợp với các giá trị chuẩn mực văn hóa của cộng đồng người. Thí dụ như,
trong xây dựng văn hóa quản lý mới, dư luận xã hội sẽ có tác động tích cực và
hiệu quả hơn những biện pháp quản lý hành chính đơn thuần nhằm hướng tới đảm bảo
những giá trị văn hóa mang tính bản sắc dân tộc. Quy chế quản lý hoạt động biểu
diễn văn nghệ mang nặng tính quản lý hành chính liệu có kết quả hơn sự phán xét
và chấp nhận của chính công chúng? Khi công chúng “quay lưng” lại với những
phong cách biểu diễn “lố lăng” thì người biểu diễn sẽ tự biết phải làm gì. Tuy
nhiên, cũng cần nhận thức được tác động tiêu cực của dư luận xã hội, bởi lẽ sự
phán xét đánh giá của dư luận xã hội không phải lúc nào cũng đúng, hợp lý và
tích cực đối với tiến trình phát triển của xã hội và con người. Và do đó cần có
hành động hợp lý nhằm quản lý sự thay đổi có liên quan đến dư luận xã hội. Phải
thấy được rằng, không chỉ dư luận xã hội có tác động làm con người phải điều chỉnh
hành vi của mình, mà chính con người cũng có tác động khiến cho dư luận xã hội
thay đổi. Mối quan hệ qua lại, biện chứng đó cần được chú trọng trong quá trình
quản lý sự thay đổi.
Cùng với tiến trình dân chủ hóa đời sống
xã hội, người dân bình thường ngày càng có nhiều cơ hội tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước. Người dân, một mặt ủy quyền cho các đại
biểu của mình tại các cơ quan dân cử, mặt khác thông qua dư luận xã hội đưa ra
các phán xét, đánh giá về các chủ trương chính sách của Nhà nước và các hoạt động
cụ thể của bộ máy công quyền. Đó chính là chức năng giám sát và tư vấn của dư
luận xã hội.
2. Quản lý sự thay đổi
a) Phản ứng với sự thay đổi:
Sẽ là không thực tế nếu nói rằng có một
sự thống nhất chung về qui mô, mức độ, thời gian và những ảnh hưởng của những yếu
tố thúc đẩy sự thay đổi. Một số bộ phận có thể nhìn thấy lý do và nhu cầu phải
thay đổi, trong khi một số khác thì lại không nhìn thấy. Hơn nữa, việc quản lý
sự thay đổi có thể được nhìn nhận từ các góc độ khác nhau. Chẳng hạn, một người
có thể cho rằng quá trình thực hiện sự thay đổi cần phải được quản lý hoàn hảo,
sẽ rất nguy hiểm nếu như mắc sai lầm và hầu như không có chỗ cho những sai lầm
này. Trong khi đó, người khác có thể cho rằng việc sẵn sàng chấp nhận sai lầm,
coi đó như sự tất yếu là rất quan trọng trong quá trình quản lý sự thay đổi. Tổ
chức có thể học từ những sai lầm và do đó làm tăng khả năng linh hoạt và có thể
đem đến những thắng lợi lâu dài hơn.
- Phản ứng tiêu cực:
Những sức ép thúc đẩy quá trình phải
thay đổi có thể được xem như những cản trở, những thử thách, chúng có thể gây ảnh
hưởng xấu.
Những thay đổi có thể mang tính cách mạng
(cải cách), song cũng có thể là hệ quả của tiến trình (evolution). Những phản ứng
có thể trước thay đổi, là:
+ Những người đổi mới - những người mơ
ước.
+ Những người chấp thuận nhanh chóng:
ngay lập tức hiểu được ý tưởng mới.
+ Những người chấp thuận từ từ: đại đa
số.
+ Những người chấp thuận muộn: ủng hộ
ý tưởng mới sau cùng.
+ Những người chống đối đến cùng.
- Phản ứng tích cực:
Sự thay đổi có thể được nhìn nhận như
là các cơ hội, tức là có thể là sự thúc giục tiềm năng, năng lực của con người.
Thay đổi là diễn trình không thể tránh
khỏi trong quá trình phát triển và nó thường mang tới những hy vọng cùng các cơ
hội mới, một khi chúng ta ý thức được nó. Vấn đề là công việc sẽ có ý nghĩa hơn
khi chúng ta tập nhìn nhận những khía cạnh tích cực của sự thay đổi.
Thay đổi có thể đem lại những hệ quả tích
cực nào?
+ Tạo ra hứng thú mới cho công việc: hầu
hết mọi người đều cảm thấy kém hứng thú sau một thời gian dài thực hiện mãi một
công việc. Những thay đổi sẽ kích thích nhiệt tình làm việc và tạo nên những mối
quan tâm, hứng thú mới đối với công việc.
+ Mang đến một góc nhìn mới mẻ cho
công việc: làm mãi một nghề, ở lâu mãi một nhóm, thực hiện mãi một cách thức
làm việc sẽ tạo ra cảm giác chây lì đến mức tin rằng sẽ không thể có cách làm
nào khác hơn được. Chỉ đến khi nào tự phá vỡ những thói quen cũ thì ta mới nhận
ra còn nhiều khía cạnh và cách thức khác nhau để thực hiện công việc mà ngay
chính bản thân mình cũng chưa bao giờ nghĩ đến. Thay đổi sẽ tạo ra nhiều vấn đề
mới, kích thích tranh luận và là nguồn cung cấp “chất liệu mới” cho tư duy của
bạn.
+ Tạo ra cơ hội tiếp thu những kỹ năng
mới: kỹ thuật mới, hệ thống mới, những con người mới,... toàn bộ những điều này
sẽ làm cho kỹ năng của bạn trở nên phong phú hơn.
+ Tạo ra cơ hội trao quyền cho nhân
viên: mở rộng thêm phạm vi trách nhiệm và tạo cho các nhân viên thêm những nguồn
lực để giúp họ kiểm soát tốt hơn công việc của mình.
+ Thay đổi cũng chính là một thử
thách: triển khai một thay đổi giống như bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới, và bạn
sẽ là người tiên phong, người khám phá những điều mới mẻ. Vậy, bạn có đủ bình
tĩnh và chín chắn để đương đầu với thử thách?
b) Những yếu tố thúc đẩy quá trình
thay đổi:
- Yếu tố bên ngoài:
Những yếu tố thuộc môi trường xung
quanh như sự phát triển của khoa học, sự vận động không ngừng của cuộc cạnh
tranh trong nước và quốc tế trong đó ưu thế luôn nghiêng về những tổ chức có khả
năng thay đổi theo kịp với môi trường hoạt động, sự thay đổi của các qui định,
qui chế do Nhà nước hay chính quyền ban hành, sự thay đổi trong nhu cầu và thị
hiếu của cộng đồng.
Có thể chia ra làm ba nhóm nguyên
nhân:
+ Nhóm các nguyên nhân xã hội: Những
xu hướng chung trong xã hội không những ảnh hưởng đến con người mà còn ảnh hưởng
đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chúng ảnh hưởng đến văn hóa
công sở, đến văn hóa lãnh đạo, đến các nguyên tắc vận hành của tổ chức.
+ Nhóm các nguyên nhân kinh tế: Xu hướng
thay đổi kinh tế khá chậm nhưng có một sức mạnh khó lay chuyển được. Tuy nhiên
trong xu hướng tương đối ổn định đó, thị trường và dòng tiền có thể biến động mạnh
ảnh hưởng tới cuộc sống, tác phong của người dân, tới các cơ quan, tổ chức và
cá nhân trong đó có cả cán bộ, công chức.
+ Nhóm các nguyên nhân về công nghệ:
Cách mạng công nghệ thông tin (IT) với tốc độ ngày càng gia tăng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến phương pháp quản lý, tổ chức, điều hành, phục vụ của cơ quan, đơn vị.
- Yếu tố bên trong:
+ Năng lực của sở
Nhu cầu thay đổi trong hoạt động quản
lý nói chung sẽ không giảm ngay trong thời gian tới. Ở bất kỳ nơi nào, trong
lĩnh vực nào, những va chạm với những rủi ro lớn và những cơ hội tốt là điều tất
yếu, nhất là chúng được tạo ra bởi quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế theo xu
hướng xã hội và công nghệ. Một tổ chức thuần túy trong thế kỷ XXI không hoạt động
tốt trong một môi trường thay đổi nhanh chóng, nếu không có chiến lược quản lý
sự thay đổi một cách đứng đắn và hợp lý. Cơ cấu, hệ thống, thực tiễn và văn hóa
chậm chạp trong sự thay đổi hơn là được thúc đẩy.
+ Biến động chức năng, nhiệm vụ.
Cách thức một tổ chức tiến hành công
việc được phản ánh qua cơ cấu của nó và ngược lại. Một số cơ cấu dễ dàng thích
nghi với những thay đổi hơn những cơ cấu khác.
Đề xướng thay đổi là một việc, còn làm
cho những thay đổi đó diễn ra được lại là việc khác. Những thay đổi sẽ được thực
hiện một cách có hiệu quả khi cán bộ, công chức chấp thuận và làm chủ được
chính những thay đổi đó. Một khi các cán bộ, công chức coi những thay đổi như
là nhiệm vụ, quyền hạn, động lực của họ thì họ dành hết tâm huyết, nhiệt tình ủng
hộ và thực hiện. Nói cách khác, cảm giác làm chủ là chìa khóa thành công trong
việc thực hiện những thay đổi. Như vậy, cần đảm bảo cho mọi người có cơ hội
tham gia thực sự vào việc thực thi những thay đổi và có được đầy đủ thông tin,
kiến thức và các kỹ năng cần thiết để đón nhận sự thay đổi.
Những người lãnh đạo thành công luôn đảm
bảo cho cán bộ, công chức của mình có khả năng để ứng phó với những thay đổi bằng
cách cung cấp (nếu cần thì đấu tranh để có được) những thông tin cần thiết, kiến
thức và kỹ năng cho họ.
Ngoài ra, một bầu không khí làm việc cởi
mở, thân thiện, chia sẻ, hỗ trợ và tin cậy lẫn nhau sẽ góp phần rất lớn giúp việc
thực hiện thay đổi dễ dàng hơn. Bầu không khí làm việc hình thành trên nền tảng
sự kết hợp của những thái độ và hành vi của mọi người trong tổ chức và cũng bị
biến đổi thường xuyên. Một thay đổi thường chứa đựng: vấn đề phải giải quyết, một
thách thức hoặc đòn bẩy tạo ra những cơ hội mới, và ở cương vị của mình người
quản lý phải biết điều hành trong bầu không khí làm việc tương thích do mình tạo
ra. Một tổ chức làm việc trong bầu không khí tích cực sẽ dễ dàng chấp nhận và
đương đầu với những khó khăn khi có thay đổi. Để tạo được sự thay đổi thực sự
trong cách mọi người suy nghĩ, cảm nhận và cư xử với nhau cần có nhiều thời
gian và những nỗ lực thường xuyên.
Nhà quản lý không thể chỉ ngồi chờ “mọi
chuyện từ từ lắng xuống”, mà cần phải lên kế hoạch cho sự thay đổi và lập ra những
kế hoạch hành động để đối phó với những chống đối trước sự thay đổi.
Việc trao quyền cho cán bộ, công chức
và xây dựng tinh thần làm chủ là chìa khóa thành công trong quá trình thực hiện
sự thay đổi. Cụ thể là các tổ chức thành công đảm bảo rằng mọi cán bộ, công chức
không chỉ có cơ hội tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện sự thay đổi mà họ
còn được cung cấp thông tin, kiến thức và kỹ năng đầy đủ để xử lý những thay đổi.
Hơn thế nữa cần phải khuyến khích được lòng nhiệt tình của họ.
Sự thay đổi lớn không bao giờ thành
công được nếu cấp độ hài lòng thấp. Một tỷ lệ hài lòng cao của cán bộ, công chức
sẽ hỗ trợ rất nhiều việc hoàn thành tất cả các bước trong quá trình thay đổi. Ở
thế kỷ XXI, nếu các yếu tố bên ngoài tiếp tục ảnh hưởng, thúc đẩy tổ chức, việc
chấp nhận sự thay đổi yêu cầu đạt tới mức cao nhất, tuyệt đối không bao hàm nỗi
sợ hãi, lo lắng cho hiện tại. Nó chỉ còn là vấn đề tìm kiếm các cơ hội và xác định
rõ điểm mạnh, đẩy lùi những điểm yếu, tránh xa những thách thức và quyết tâm
hoàn thành sự thay đổi.
c) Những yếu tố kìm hãm quá trình thay
đổi:
Mọi thay đổi đều có thể không diễn ra
suôn sẻ, bởi lẽ thường gặp phải những “rào cản” nhất định.
Khi phải đối mặt với những nguy cơ
thay đổi, người ta thường phản ứng bằng cách xem những thay đổi đó như một mối
đe dọa, nhất là khi họ không được tham gia bàn bạc về những tác động của sự
thay đổi.
Những “rào cản” có thể là khách quan
bên ngoài như các quy định lỗi thời hay không tương ứng của hệ thống pháp luật,
những hạn chế, cấm đoán của khung pháp lý; những yếu kém, hạn chế của bản thân
nền kinh tế; sự lạc hậu, thiếu thốn của trang thiết bị, cơ sở vật chất; những
ràng buộc của truyền thống văn hóa, những mặc cảm của tâm lý xã hội. Thí dụ, việc
thay đổi thói quen từ kiểu làm việc “tùy hứng” sang “đảm bảo giờ giấc” đang và
sẽ còn là vấn đề hết sức nan giải đối với một xã hội “tư duy vòng tròn” kiểu
phương Đông như Việt Nam.
Bên cạnh đó, những “rào cản” còn có thể
mang tính chủ quan, xuất phát từ các mối quan hệ tổ chức - nhân sự, những đặc điểm
tâm lý con người. Đặc biệt ở đây là thái độ của con người trước những thay đổi.
Sự lo lắng hay nghi ngờ đối với những
đề nghị thay đổi là điều có thể lường trước được. Ai mà biết được rồi ngày mai
sẽ ra sao khi chấp nhận những thay đổi? Trong khi đó, hãy cứ để mọi thứ diễn ra
như xưa nay vẫn thế xem ra “dễ chịu” hơn nhiều.
Đối mặt với những thay đổi bao giờ
cũng luôn xuất hiện những “chống đối” khác nhau và do vậy các nhà quản lý phải
biết vận dụng các kỹ năng thuyết phục và tính khéo léo. Những “chống đối” có thể
tự triệt tiêu, song nhiều khi rất cần sự “uốn nắn” kịp thời.
Người ta có thể “chống đối” thay đổi
vì lo ngại bị mất chức vụ hay vị trí hiện tại; lo lắng trước triển vọng nghề
nghiệp có thể bị ảnh hưởng; lo ngại mất nguồn thu nhập. Hơn thế nữa người ta
còn có thể cảm thấy tức giận vì tất cả công sức mà họ đã bỏ ra để xây dựng hệ
thống công việc nay lại bị vứt bỏ, rồi người ta không còn kiểm soát được vận mệnh
của mình, rơi vào tình trạng bất an.
Sự “chống đối” trước sự thay đổi là phản
ứng tự nhiên của con người. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ phải biết cách nhận ra
những mặt tích cực của các thay đổi để phát huy, đồng thời cũng thấy được những
mặt tiêu cực để phòng ngừa và có những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ, vượt qua.
Những biện pháp hành chính đơn thuần, khiên cưỡng rất có thể sẽ đem lại những hậu
họa khôn lường. Có thể dễ dàng nhận thấy những nguyên nhân sau đây:
- Lãnh đạo cấp cao dẫn dắt sự thay đổi
không hiệu quả. Đây là một trong những thách thức lớn với những vấn đề thường gặp,
bao gồm:
● Thiếu sự kết nối chặt chẽ giữa định
hướng và mục tiêu của thay đổi;
● Lãnh đạo thiếu cam kết trong việc quản
lý quá trình thay đổi;
● Lãnh đạo có những ưu tiên khác thậm
chí mâu thuẫn với đề án thay đổi;
● Sự thay đổi lãnh đạo không đủ;
● Thiếu lãnh đạo quyết liệt hoặc tầm ảnh
hưởng của người chủ trì quá trình thay đổi;
● Thiếu hoặc không có sự gắn kết với
lãnh đạo cấp phòng, ban.
- Không đủ nguồn lực để quản lý sự
thay đổi:
Con người và tài chính là những nguồn
lực có ảnh hưởng trực tiếp đến việc lên kế hoạch và thực hiện quản lý sự thay đổi.
Cụ thể, những hạn chế dưới đây sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của sự thay đổi:
● Không đủ nguồn lực để hỗ trợ quá
trình quản lý sự thay đổi cần thiết cho đề án;
● Nhân sự chủ chốt không làm việc toàn
thời gian tại tổ chức;
● Thiếu kiến thức và kỹ năng quản lý sự
thay đổi để dẫn dắt các hoạt động quản lý thay đổi một cách hiệu quả;
● Chậm trễ bổ sung các nguồn lực cho
quản lý sự thay đổi trong khuôn khổ chương trình công tác;
Một đề án thay đổi cơ cấu sẽ thành
công hơn nếu được bổ sung nguồn lực đủ tốt. Nếu thiếu nhân tố này, mọi hoạt động
sẽ trượt khỏi kế hoạch ban đầu và thậm chí không đạt mục tiêu. Đảm bảo nguồn lực
quản lý cho sự thay đổi sẽ khó thực hiện được nếu sự thay đổi không phải là ưu
tiên hàng đầu.
- Sự bất hợp tác của quản lý cấp
trung:
Vấn đề gặp phải với đội ngũ quản lý cấp
phòng là miễn cưỡng ủng hộ hay miễn cưỡng dẫn dắt cán bộ, công chức dưới quyền
đi theo sự thay đổi đó. Phản kháng từ quản lý cấp phòng sẽ dẫn đến thiếu sự nhất
quán và truyền thông không chính xác về sự thay đổi tới các cán bộ, công chức.
Nguyên nhân chủ yếu là:
● Lo sợ ảnh hưởng tiêu cực của cuộc
thay đổi vì không rõ liệu cuộc thay đổi có thành công không và có mang lại lợi
ích cho mình không;
● Lo sợ mất việc hoặc mất quyền lợi;
● Khuyến khích chưa đủ mạnh để họ tự
thay đổi;
● Thiếu hiểu biết về nhu cầu cần phải
có quản lý sự thay đổi;
● Thiếu kiến thức hay kỹ năng để quản
lý sự thay đổi hiệu quả;
● Không đủ thời gian để hoàn thành những
hoạt động trong quản lý sự thay đổi; người quản lý quá tập trung vào thực hiện
và không thể cam kết về mặt thời gian.
Mọi phản ứng của cán bộ quản lý cấp
phòng đều rất đáng quan tâm bởi vì họ có vai trò quan trọng trong việc dấn dắt
cán bộ, công chức dưới quyền trong quá trình thay đổi. Người quản lý nếu không
tự họ chủ động thay đổi bản thân mình thì không thể làm gương cho cán bộ, công
chức của họ. Song, thực tế cũng cho thấy rằng khá nhiều những phản kháng từ cán
bộ quản lý cấp phòng hoàn toàn có thể tránh được. Các bước giúp chủ động tránh
gặp phải sự phản kháng đó bao gồm: để cán bộ quản lý cấp phòng tham gia vào
toàn bộ hoạt động của dự án tái cơ cấu, xây dựng nhận thức về nhu cầu thay đổi,
tạo ra kết quả ngắn hạn trong quá trình thay đổi và kêu gọi những hỗ trợ về mặt
điều hành trong thay đổi.
- Sự phản kháng từ phía người lao động:
Sự phản kháng từ phía người lao động
có thể do:
● Cán bộ, công chức không hiểu được
“Vì sao cần phải thay đổi” hay “Tôi được lợi ích gì từ những thay đổi này?”;
● Cán bộ, công chức gần đến tuổi về
hưu sẽ không muốn có sự xáo trộn nào cả;
● Cán bộ, công chức hoàn toàn thỏa mãn
với hoàn cảnh hiện tại và không muốn phải tìm hiểu những hệ thống hay công cụ mới;
● Sợ mất vị trí công việc và quyền lợi
hiện tại;
● Cán bộ, công chức bị hàng loạt những
thay đổi cùng lúc trong tổ chức choáng ngợp;
● Không muốn thay đổi vì đã có tiền lệ
thay đổi thất bại/yếu kém trong quá khứ. Trong thay đổi, không thể tránh khỏi
phản kháng từ phía cán bộ, công chức, nhưng nếu hiểu được căn nguyên của những
hành động, tư tưởng đó lãnh đạo hoàn toàn có thể có đối sách phù hợp. Phần lớn
cán bộ, công chức có những phản ứng tiêu cực đối với sự thay đổi là do chưa nhận
thức được sự cần thiết phải có thay đổi và họ sợ rằng quyền lợi của mình sẽ bị ảnh
hưởng.
Lãnh đạo nên tập trung làm để tìm được
sự đồng thuận của cán bộ, công chức: giúp họ hiểu rằng vì sao thay đổi vào lúc
này là cần thiết và chỉ rõ cho họ thấy những thay đổi này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
tới họ như thế nào.
- Truyền thông kém hiệu quả:
Có rất nhiều lý do dẫn tới truyền
thông không như mong muốn như:
● Thông điệp truyền thông không nhất
quán.
● Truyền thông không chỉ rõ được đâu
là yếu tố cần thiết hay lý do cho sự thay đổi.
● Truyền thông không tới được cán bộ,
công chức do những lý do nhất định.
● Truyền thông không liên tục và kịp
thời: Khi thực hiện truyền thông tới cán bộ, công chức, thông điệp truyền thông
về sự thay đổi được coi là hiệu quả phải chỉ rõ sự thay đổi này giúp “người
nghe” có được lợi ích gì, đồng thời đưa ra một vài giải thích về lý do cho sự
thay đổi một cách chân thành và rành mạch. Trong truyền thông, diễn giả có vai
trò quan trọng không kém nội dung thông điệp muốn truyền tải. Có thể nói truyền
thông hiệu quả là truyền tải một thông điệp chính xác và do một người am hiểu vấn
đề, có sức hút và đủ tầm ảnh hưởng phát ngôn. Trái lại, một chương trình truyền
thông kém hiệu quả lại có xu hướng chú trọng nhiều vào chi tiết chuyên sâu của
dự án thay vì nói về lý do cần phải có thay đổi, và thường do một nhân vật có
am hiểu về dự án truyền đạt (như trưởng dự án hay chuyên gia truyền thông).
Trên thực tế, những gì gắn với thực tiễn, gần gũi với cán bộ, công chức sẽ là
kim chỉ nam cho lãnh đạo trong việc tạo ra một kế hoạch truyền thông hoàn hảo.
d) Quản lý các phản ứng đối với sự
thay đổi:
Quản lý có thể thay đổi hành vi theo
hai cách: (1) Tăng cường áp lực để vượt qua sự chống đối, và (2) giảm thiểu
chính sự chống đối. Tuy nhiên, việc quản lý sự thay đổi, vượt qua những chống đối
không dễ dàng, luôn tiềm ẩn những sai lầm và hệ quả là những thất bại khó tránh
khỏi. Dưới đây là một số bí quyết có thể giúp quản lý các phản ứng đối với sự
thay đổi:
+ Giữ bình tĩnh khi làm việc với những
người khác;
+ Dự đoán trước những áp lực và trải
qua nó một cách nhẹ nhàng hơn và có hiệu quả hơn;
+ Không nên quá bảo thủ bảo vệ ý kiến
của mình khi người khác bất đồng ý kiến với mình;
+ Đưa ra những giải pháp có tính sáng
tạo để giải quyết vấn đề;
+ Chấp nhận mạo hiểm và thử áp dụng những
ý tưởng mới;
+ Đánh giá và xếp thứ tự những việc
nên làm theo điều kiện của sự thay đổi;
+ Tỏ ra phấn khởi đối với sự thay đổi
và quyết tâm đạt được những mục tiêu lâu dài;
+ Cởi mở và chân thật khi làm việc với
những người khác;
+ Tham gia tích cực vào quá trình thay
đổi;
+ Quyết định dứt khoát khi cần thiết,
tránh chần chừ lâu.
đ) Thay đổi trong đồng thuận:
- Nghĩ suy kỹ về những phản đối:
Mọi thay đổi đối với họ đều tiềm ẩn những
nguy cơ nhất định, đặc biệt là khi chúng làm cho họ bị khác đi, mất đi những
thói quen và có cảm giác như không còn là chính mình. Cũng có người muốn thay đổi
những thói quen đó, nhưng việc đó mới khó khăn làm sao và họ tự nhủ “Làm sao để
khác đi được đây!”. Đúng như vậy, thay đổi luôn là thử thách. Thay đổi không dễ
dàng, và nhất định sẽ gặp phải những cản trở, nhất là trong giai đoạn ban đầu.
Nhưng hoàn toàn có thể thực hiện những thay đổi một khi phải tự ý thức được rằng
bản thân mình có thật sự muốn nghiêm túc thay đổi hay không, đồng thời xác định
rõ ràng là tất cả những thay đổi đầu gặp những trở lực, rào cản, chống đối và
do đó phải sẵn sàng đối đầu với nó.
Do đó hãy suy nghĩ kỹ về những phản đối,
cho phản đối là:
+ Phản ứng tự nhiên như phản ứng tự bảo
vệ mình;
+ Một bước tích cực để tiến tới thay đổi;
+ Tạo thêm năng lượng để cùng làm việc;
+ Là nguồn thông tin quan trọng trong
quá trình thay đổi;
+ Không phải là cản trở để tiến tới sự
thay đổi.
- Hãy giúp các nhân viên những bước đầu
tiên:
Công việc của nhà quản lý là khởi xướng
việc thay đổi. Dẫn dắt, chỉ đạo sự thay đổi, nhà quản lý cần làm sao đạt được sự
ảnh hưởng đến cán bộ, công chức, sự tin cậy và lòng tôn trọng, tinh thần hợp
tác tự nguyện và sự tận tâm với công việc từ phía họ.
Hơn ai hết nhà quản lý thường là người
phải chịu nhiều áp lực nhất trước những thay đổi và các thành viên khác mong đợi
họ phải là một tiêu điểm trong mọi hoạt động. Quản lý cấp cao lên kế hoạch thay
đổi và cuối cùng cán bộ, công chức là người chịu ảnh hưởng. Nhưng chính nhà quản
lý trực tiếp (lãnh đạo) tổ chức mới là người trực tiếp biến những kế hoạch trên
thành hiện thực. Do đó, nhà lãnh đạo, quản lý tổ chức có vai trò:
● Đề xướng sự thay đổi: trong nhiều
trường hợp ban lãnh đạo cấp cao thường khởi xướng sự thay đổi. Tuy nhiên, không
phải lúc nào cũng nhất thiết làm như vậy.
● Nhận biết những thay đổi tiềm năng.
● Tính toán các chi phí để thực hiện sự
thay đổi.
● Xác định mức độ khả thi.
● Cung cấp
thông tin phản hồi.
● Hoạch định kế hoạch triển khai công
việc cho cán bộ, công chức.
● Tìm cách tốt nhất cập nhật thông tin
đầy đủ, kịp thời cho mọi thành viên trong tổ chức của mình.
● Thuyết phục tổ chức tin tưởng và ủng
hộ thay đổi.
● Trao quyền cho nhóm nhằm ứng phó với
những thay đổi: thuyết phục không chưa đủ, mà còn cần phải trao quyền để nhóm
quản lý công việc theo cách riêng của họ.
● Xây dựng tinh thần làm chủ cho cả
nhóm đối với thực hiện thay đổi: khi đã “gán” được ý tưởng về sự thay đổi cho
cán bộ, công chức, cần hoàn tất bằng việc làm cho họ hiểu được rằng không bị
bưng bít thông tin, không chỉ đứng quan sát công việc từ bên ngoài, không chỉ
đơn thuần là người giúp thực hiện những kế hoạch quản lý do ban lãnh đạo đề ra,
mà chính họ là những người kiểm soát công việc. Nếu làm được việc đó, các thành
viên sẽ nỗ lực hết mình cho sự thay đổi và còn động viên những đồng nghiệp khác
cùng thực hiện theo.
● Tổ chức hậu cần: cung cấp cho nhóm
các điều kiện vật chất cần thiết để ứng phó với sự thay đổi.
● Đảm bảo công việc vẫn trôi chảy
trong khi diễn ra những thay đổi: không gây ra những xáo trộn gay gắt khi tiến
hành những thay đổi; đảm bảo cho công việc thay đổi diễn ra một cách dễ dàng
thông qua việc áp dụng những phương pháp thích hợp trong từng hoàn cảnh.
- Tạo khả năng giúp mọi người cùng
thay đổi:
+ Thông qua khuyến khích kinh tế
Những khuyến khích kinh tế bao giờ
cũng rất quan trọng trong đời sống xã hội. Một khi sự do dự là do những nguyên
nhân kinh tế, thì mọi khuyến nghị phi kinh tế đều trở nên vô nghĩa.
+ Thông qua đối thoại
Những thay đổi vấp phải sự chống đối một
khi người ta thiếu thông tin về cái gì sẽ xảy ra và tại sao phải xảy ra. Trong
trường hợp này chỉ có thông qua đối thoại mới có thể giải quyết được vấn đề.
Khi một sự thay đổi lớn được dự liệu thì người lãnh đạo và cán bộ, công chức cần
cùng nhau bàn bạc để xử lý tình huống.
+ Thông qua quyết định nhóm
Một trong những kỹ thuật hiệu quả để
giảm thiểu sự chống đối đối với thay đổi là cuốn hút sự tham gia của mọi người
vào quá trình đưa ra các quyết định theo nhóm.
+ Thông qua thương lượng
Sự khác biệt giữa quyết định nhóm với
thương lượng là ở chỗ: trong khi ra quyết định nhóm thì nhóm có quyền tự do, dù
là trong khuôn khổ được phép, đưa ra quyết định của mình, còn thương lượng là
các thành viên bàn bạc và nỗ lực hướng tới thỏa hiệp nhằm thông qua đề nghị giải
pháp của nhóm đối với những thay đổi. Tất nhiên, nhà quản lý không thể chấp nhận
mọi đề nghị của nhóm, mà thông thường chỉ chấp nhận một vài đề nghị nào đó và đổi
lại, nhóm chấp thuận những mong muốn của người quản lý. Sự thương lượng có thể
là hàm ẩn hay hiện hữu.
+ Thông qua thăm dò đối với thay đổi
Khi mọi người được tham gia vào việc
đưa ra quyết định cuối cùng đối với việc có tiến hành hay không sự thay đổi thì
việc thăm dò dư luận có những lợi thế nhất định.
+ Thông qua duy trì các giá trị biểu
trưng.
Một khi tiến hành những thay đổi có
liên quan đến các biểu tượng của tổ chức, cần làm cho mọi người hiểu những thay
đổi đó không làm mất đi những giá trị truyền thống mà các biểu tượng đó vốn có.
+ Làm chậm lại hay thúc đẩy cho nhanh
hơn.
Nếu tiến hành quá nhanh, đột ngột dễ
gây sốc cho mọi người, song có trường hợp việc thay đổi diễn ra quá chậm chạp
chỉ làm cho tình hình trở nên căng thẳng và kết quả nhiều khi không được như
mong muốn ban đầu dẫn tới những chán nản, bỏ cuộc không cần thiết, hoặc mọi người
không nhận thức được điều gì mới mẻ đang diễn ra, từ đó họ tiếp tục ứng xử như
đã quen và sẽ chẳng có gì thay đổi diễn ra hết.
+ Những kỹ thuật khác:
● Tư vấn;
● Luận giải;
● Tạo áp lực;
● Tránh thay đổi khi chưa đủ uy tín:
người lãnh đạo có thể có ngay uy lực chính thức, song không dễ có ngay uy tín
phi chính thức. Nếu chỉ có uy lực chính thức không dễ làm cho người ta chấp thuận
thay đổi, cần phải có đủ uy tín lãnh đạo, khi đó những chống đối sẽ được giảm
thiểu tối đa.
e) Chọn lựa thay đổi:
- Cần tập trung vào một vài quy trình
thật sự cần thiết:
+ Xác định những mục tiêu nhỏ ban đầu
Những mục tiêu cần phải được những người
có liên quan đồng chấp thuận. Vậy, nếu cần thiết, hãy tham khảo ý kiến của cán
bộ, công chức.
Khi xác lập các mục tiêu, nên lưu ý tới
những vấn đề sau đây:
● Lý do phải thay đổi là gì? Nhằm giải
quyết những vấn đề gì? Sự thay đổi có thật sự cần thiết và đáng làm hay không?
Các mục tiêu của việc thay đổi là gì?
● Những nhóm, tổ, bộ phận, ... nào
liên quan đến kế hoạch thay đổi?
● Có những hạn chế nào? Có thể là những
hạn chế về tài chính, về nguồn lực, v.v....
● Thời gian dự tính là bao lâu? Thời
gian đặt ra có hợp lý không, có khả thi không?
● Những ai và những nguồn lực nào có
thể sẵn sàng hỗ trợ cho sự thay đổi?
● Công việc thường lệ sẽ bị ảnh hưởng
thế nào?
+ Lên danh mục những việc cần làm
Một khi đã cân nhắc thấu đáo các khía
cạnh trong kế hoạch thay đổi, cần quyết định phải tiến hành những hành động cụ
thể nào. Đây có thể coi là giai đoạn chuẩn bị. Cần thường xuyên quay lại những
giai đoạn trước, bởi vì khi lên kế hoạch hành động sẽ có thêm nhiều hướng để
xem xét vấn đề.
Việc lên danh mục những việc cần làm được
xác định cho những khoảng thời gian nhất định là cốt lõi của mọi quá trình lập
kế hoạch. Kế hoạch chính là định hướng để tiến hành công việc nào đó liên quan
đến những điều cần làm, người thực hiện, những điều kiện tinh thần và vật chất,
thời gian cần thiết, những phương án dự phòng.
Việc lập kế hoạch cần được tiến hành
theo những bước nhất định. Quá trình đó có thể bao gồm: phân tích tình hình,
phân tích đối ngoại, đánh giá khe hở, triển khai hành động, đánh giá tài
nguyên, đặt chỉ tiêu, xác định mô hình tài chính.
- Ưu tiên thay đổi ở những lĩnh vực
chính, sau đó hãy tập trung diện rộng hơn. Chẳng hạn, cần lưu ý những điểm sau:
+ Những thay đổi trong cách làm việc;
+ Những thay đổi trong cách làm việc của
nhóm;
+ Các nhu cầu về huấn luyện - đào tạo;
+ Những thay đổi trong cách trao đổi
thông tin;
- Phải có mục tiêu rõ ràng:
Quy trình thay đổi nên được bắt đầu với
những tuyên bố rõ ràng và chi tiết về các mục tiêu mà nhà quản lý muốn vươn tới.
Các mục tiêu này nên được trình bày
trong bối cảnh tình hình thực tế và liên quan với mục đích chung của cơ quan. Điều
này yêu cầu hoạt động thông tin và giao tiếp nội bộ phải được đảm bảo thông suốt
để toàn bộ cán bộ, công chức đều chắc chắn rằng tập thể cơ quan đang đi đúng hướng,
đồng thời các mục tiêu lớn của tổ chức không mâu thuẫn với nhu cầu của cán bộ,
công chức.
Theo Kotter (Quản lý sự thay đổi), mục
tiêu được thể hiện ở những tầm nhìn thay đổi hiệu quả với những đặc điểm sau:
+ Đủ để đẩy mọi người ra khỏi những
thói quen thoải mái thường lệ. Mục đích không phải là cải thiện tốt hơn 5%; mà mục
đích thường là trở nên tốt nhất trong lĩnh vực nào đó.
+ Nhìn chung chúng thường nhằm vào mục
tiêu thường là cung cấp những sản phẩm hay những dịch vụ ngày càng tốt hơn với
chi phí ngày càng thấp hơn, và từ đó có sức lôi cuốn lớn đối với các khách hàng
và cổ đông.
+ Chúng tận dụng những xu hướng cơ bản,
đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa và công nghệ mới.
+ Chúng không cố gắng bóc lột ai và vì
thế có một quyền lực đạo đức nhất định.
- Hoạch định và thực hiện sự thay đổi:
Quy trình 8 bước theo Kotter (Quản lý
sự thay đổi)
Các phương pháp được sử dụng trong các
cuộc thay đổi thành công đều dựa trên một nhận định nền tảng là: sự thay đổi lớn
lao đó không dễ dàng diễn ra bởi nhiều lý do khác nhau. Thậm chí một người quan
sát khách quan có thể dễ dàng thấy rằng chi phí rất cao hoặc các sản phẩm không
đủ chất lượng hoặc các yêu cầu của khách hàng thường xuyên thay đổi đều không
được quan tâm một cách đúng mực, sự thay đổi cần thiết có thể vẫn dẫm chân tại
chỗ do văn hóa tập trung nội bộ, sự quan liêu, trì trệ, chính sách cục bộ, lòng
tin thấp, thiếu tinh thần làm việc nhóm, thái độ kiêu căng, thiếu lãnh đạo ở cấp
giữa, và nỗi lo ngại nói chung của mọi người về những điều mà họ chưa biết đến.
Để có được tính hiệu quả, một phương pháp thiết kế để thay đổi chiến lược, quá
trình tái cơ cấu, hoặc nâng cao chất lượng phải hướng đến các rào cản này và phải
giải quyết chúng cho thật tốt.
Trong cuốn “Quản lý sự thay đổi”
Kotter đã tóm tắt các bước tạo nên sự thay đổi thành công đối với bất kỳ quy mô
nào của tổ chức. Quá trình đó bao gồm 8 bước, trong đó mỗi bước được kết hợp với
một trong 8 bước sai phạm cơ bản thường gây tác động xấu đến nỗ lực thực hiện
thay đổi. Các bước này bao gồm: thiết lập ý nghĩa của sự cần thiết, cấp bách, tạo
ra sự liên kết hướng dẫn, xây dựng một tầm nhìn và chiến lược, giao tiếp trao đổi
về tầm nhìn của sự thay đổi, tạo cơ sở rộng rãi cho mọi người bắt tay vào hành
động, tạo ra các mục tiêu thắng lợi ngắn hạn, củng cố kết quả đạt được và tạo
ra nhiều thay đổi tiếp theo, và thể chế hóa các bước tiếp cận mới trong văn hóa
(Xem Bảng Quy trình 8 bước tạo ra sự thay đổi lớn, dưới đây).
Bảng 8: Qui trình 8 bước tạo ra sự
thay đổi lớn
1. Thiết lập ý nghĩa của sự cấp bách
Ø Kiểm tra thị trường và tình hình cạnh
tranh
Ø Xác định và thảo luận các cuộc khủng
hoảng, những cuộc khủng hoảng có nguy cơ, hoặc các cơ hội lớn
|
2. Tạo ra sự liên minh định hướng
Ø Xây dựng một nhóm công tác với đầy đủ
quyền hạn để lãnh đạo sự thay đổi
Ø Điều hành nhóm làm việc theo mô hình làm
việc của một đội ngũ thống nhất
|
3. Xây dựng một tầm nhìn và chiến
lược
Ø Xây dựng tầm nhìn để hỗ trợ trực tiếp các
hoạt động thay đổi
Ø Xây dựng chiến lược để đạt được tầm nhìn
đó
|
4. Giao tiếp trao đổi về tầm nhìn
của sự thay đổi
Ø Sử dụng bất kỳ phương tiện có sẵn nào để
giao tiếp, trao đổi về tầm nhìn và chiến lược mới
Ø Giữ vai trò liên kết hướng dẫn về thái độ
cần có đối với nhân viên
|
5. Tạo cơ sở rộng rãi cho mọi người
bắt tay vào hành động
Ø Gỡ bỏ các rào cản
Ø Thay đổi hệ thống hoặc cấu trúc gây tác hại
đến tầm nhìn của sự thay đổi
Ø Khuyến khích việc va chạm với những rủi ro
và áp dụng thử các ý tưởng, hoạt động và hành động không mang tính truyền
thống
|
6. Tạo ra các mục tiêu thắng lợi
ngắn hạn
Ø Lập kế hoạch tăng cường hiệu năng thực
hiện mục tiêu hoặc “chiến thắng”
Ø Tạo ra các chiến thắng này
Ø Nhận biết và áp dụng chế độ khen thưởng
đối với những đối tượng giành được kết quả tốt nếu có thể
|
7. Củng cố kết quả đạt được và tạo
ra nhiều thay đổi tiếp theo
Ø Sử dụng lòng tin được tăng cường để thay
đổi tất cả hệ thống, cấu trúc và chính sách không phù hợp với nhau và không
phù hợp với tầm nhìn của sự thay đổi
Ø Thuê, thăng tiến và xây dựng đội ngũ nhân
viên là những người có thể thực hiện được tầm nhìn của sự thay đổi
Ø Tăng cường quá trình này với các dự án, đề
án, chủ đề mới và thay đổi nhân viên
|
8. Thể chế hóa các bước tiếp cận mới
trong văn hóa
Ø Tạo ra hiệu năng thực hiện cao hơn thông
qua thái độ định hướng sản xuất, định hướng khách hàng, lãnh đạo hiệu quả hơn
và quản lý tốt hơn
Ø Sắp xếp các mối quan hệ giữa những hành vi
mới và thành công trong tổ chức
Ø Xây dựng các công cụ đảm bảo việc phát
triển lãnh đạo và sự kế tiếp
|
Tóm lại:
+ Thay đổi là một quá trình không phải
là một sự kiện.
+ Thay đổi nên được thực hiện theo chiến
lược nhất định.
+ Mục tiêu chiến lược rõ ràng.
+ Có sự hỗ trợ từ cấp cao nhất.
+ Quản lý dự án thay đổi.
+ Cần có thời gian.
+ Hệ thống thưởng phạt.
+ Lập kế hoạch.
+ Thay đổi phải có tính thực tế.
Để thay đổi thành công cần lưu ý:
+ Thay đổi chính con người trong tổ chức.
+ Tạo ra bầu không khí tin cậy lẫn
nhau.
+ Lãnh đạo cần thay đổi chính mình trước
tiên.
+ Những thành viên có ảnh hưởng cần
chiếm giữ các vị trí chủ chốt.
+ Lãnh đạo phải tin vào sự ủng hộ của
các thành viên ảnh hưởng.
+ Chuẩn bị cuộc họp, xây dựng chương
trình nghị sự cởi mở.
+ Khuyến khích tác động không chính thức
của các thành viên lẫn nhau.
+ Cho mọi người biết bằng cách nào họ
có được những lợi ích từ những thay đổi.
+ Hãy để mọi người cảm thấy những
thành quả đổi mới là do chính họ tạo ra và cảm giác được mình là chủ nhân các
thay đổi.
Do đó cần phải:
+ Thông tin cho mọi người biết rằng họ
có đủ thời gian để suy nghĩ về mọi phương diện của thay đổi và họ có thể tác động
thế nào đến quá trình đó.
+ Phổ biến những mục tiêu chung của
thay đổi, những nguyên nhân và đặc điểm của thay đổi.
+ Những thay đổi sẽ đem lại ích lợi gì
cho mọi người.
+ Đề nghị mọi người cùng tham gia tích
cực vào mọi giai đoạn của sự thay đổi.
+ Các kênh phản hồi luôn “để ngỏ”.
+ Trong quá trình thực hiện sự thay đổi
cần mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng.
+ Luôn bày tỏ sự tin tưởng vào thành
công.
+ Động viên và trợ giúp mọi người.
Về tổng thể, toàn bộ các bước tiến
hành quản lý sự thay đổi cần bao gồm việc: 1. Phân tích; 2. Thảo luận 3. Tổ chức;
4. Chuẩn bị 5. Thực hiện.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy cho biết ý nghĩa của
quản lý sự thay đổi trong hoạt động điều hành cơ quan hành chính nhà nước?
2. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất những yêu cầu cần thiết đối với quản lý sự thay đổi có hiệu quả.
3. Đồng chí hãy cho biết sự cần thiết
hoàn thiện và tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo cấp sở và tương đương trong
quản lý sự thay đổi?
4. Đồng chí hãy cho biết những yếu tố
tác động đến hiệu quả quản lý sự thay đổi trong công tác của lãnh đạo cấp sở và
tương đương?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Lưu Kiếm Thanh. Quản lý sự thay đổi.
H. 2001.
2. Nguyễn Thị Bích Đào. Bài giảng Quản
trị sự thay đổi (2006). Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN.
3. Nguyễn Văn Đáng và Vũ Xuân Hương.
Văn hóa và nguyên lý quản trị. NXB Thống kê, 1996.
4. Andrew Mathew. Đời thay đổi khi
chúng ta thay đổi. TP HCM. NXB Trẻ, 2011.
5. Balogun, J. & Hailey, V.H.,
Exploring Strategic Change, 3rd ed, Financial Times Prentice Hall. Harlow,
2008.
6. John P. Kotter. Linh hồn của
sự thay đổi (The heart of change). H, 2010.
7. Huczynski, A. A. & Buchanan, D.
A., Organisational Behaviour, 6th ed, Pearson Education. Milan, 2007./.
Chuyên đề 10
KỸ
NĂNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP HIỆU QUẢ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH CẤP SỞ VÀ
TƯƠNG ĐƯƠNG
1. Phối hợp trong điều hành công việc
a) Phối hợp - một yêu cầu quan trọng
trong điều hành công việc:
Phối hợp chính là quá trình làm việc
cùng nhau của một nhóm người hay của các tổ chức nhằm đạt mục đích nào đó.
Mục đích của việc phối hợp là:
Tăng cường trách nhiệm, năng lực tổ chức
thực hiện và sự liên kết giữa các cơ quan liên quan.
Bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất từ Trung
ương đến địa phương, giữa các cơ quan có liên quan nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của hoạt động thực thi công vụ.
- Phối hợp - điều kiện để tổ chức hoạt
động hiệu quả
Mỗi tổ chức và mỗi phòng ban đều có chức
năng nhiệm vụ riêng, mỗi cá nhân đều được phân công, phân nhiệm rõ ràng nên rất
cần một quy chế phối hợp hoạt động để tạo điều kiện hỗ trợ nhau thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình và vì mục tiêu phát triển của tổ chức.
- Phối hợp - quá trình liên kết các hoạt
động hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau
Phối hợp trong quản lý hành chính nhà
nước là quá trình liên kết các hoạt động hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau của cán bộ,
công chức nhằm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao.
b) Kỹ năng làm việc nhóm - phối hợp để
thành công:
- Làm việc nhóm - phương pháp làm việc
hiệu quả ở công sở
Làm việc nhóm là kỹ năng không thể thiếu
đối với một con người hiện đại. Làm việc nhóm không chỉ được áp dụng trong việc
học ở trường mà còn là phương pháp làm việc hiệu quả ở công sở. Trong môi trường
làm việc tập thể, mọi cá nhân hiểu và tin rằng việc tư duy, lập kế hoạch, quyết
định và hành động sẽ được thực hiện tốt hơn khi tất cả cùng hợp tác. Người ta
nhận ra, hiểu rõ và tin rằng: “Không một ai trong chúng ta có thể giỏi bằng tất
cả chúng ta hợp lại”. Đặc biệt với môi trường hiện đại ngày nay, sự phối hợp
trong công việc không đơn thuần chỉ là giữa một nhóm người mà phải là giữa các
phòng/ban trong tổ chức.
- Những ảnh hưởng của phối hợp đối với
sự phát triển của tổ chức
Sự phối hợp không nhịp nhàng, hiệu quả,
chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn sự phát triển của tổ chức.
Sự phối hợp tốt sẽ làm tăng sức mạnh của
tổ chức, cùng giải quyết nhanh các vấn đề liên quan giữa các bên.
c) Hình thức phối hợp:
- Phối hợp bên trong:
+ Tổ chức họp giao ban;
+ Làm việc trực tiếp với từng đơn vị,
các cá nhân;
+ Trao đổi công việc, họp rút kinh
nghiệm định kỳ;
+ Thực hiện làm việc nhóm;
+ Các hình thức khác.
- Phối hợp bên ngoài:
+ Trao đổi ý kiến bằng văn bản hoặc
cung cấp thông tin bằng văn bản theo yêu cầu của cơ quan chủ trì, cơ quan phối
hợp;
+ Tổ chức họp liên ngành;
+ Tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết;
+ Thành lập các đoàn công tác liên
ngành;
+ Các hình thức khác.
d) Cơ chế phối hợp:
- Phối hợp dọc
Phối hợp dọc là sự phối hợp giữa các cấp
khác nhau, chẳng hạn như giữa Trung ương và địa phương; giữa cấp trên với cấp
dưới trực thuộc.
- Phối hợp ngang
Phối hợp ngang là sự phối hợp giữa các
cấp ngang nhau, chẳng hạn như giữa các sở, các phòng với nhau; giữa các đồng
nghiệp,....
- Phối hợp mạng lưới
Phối hợp mạng lưới là sự kết hợp giữa
hai cơ chế phối hợp dọc và phối hợp ngang.
đ) Các nguyên tắc phối hợp:
- Tuân thủ quy định của pháp luật;
- Chủ động, thường xuyên, chặt chẽ, kịp
thời;
- Lãnh đạo thống nhất;
- Chia sẻ thông tin;
- Chuyên môn hóa;
- Hợp tác hóa;
- Đảm bảo tính khách quan;
- Hài hòa các lợi ích;
- Không làm ảnh hưởng đến chức năng,
nhiệm vụ và hoạt động chuyên môn của các cơ quan có liên quan.
2. Quy trình và kỹ năng phối hợp
a) Quy trình phối hợp:
- Xác định công việc cần phối hợp;
- Phân tích công việc;
- Thiết lập các mục tiêu;
- Phát triển các tiền đề lập kế hoạch;
- Phân công công việc cho các đơn vị,
cá nhân tham gia và xác định phương án lựa chọn;
- Thỏa thuận, điều chỉnh sự phân công
cho các đơn vị, cá nhân tham gia và phân bổ nguồn lực;
- Quyết định phương án lựa chọn;
- Giao cho đơn vị chủ trì, giữ vai trò
đầu mối, kiểm tra tiến trình kế hoạch.
b) Kỹ năng phối hợp
- Kỹ năng thống nhất mục tiêu:
Công tác phối hợp triển khai thực hiện
các mục tiêu đặt ra trong hoạt động của sở cần được xây dựng và thực hiện trên
nguyên tắc hoạt động chủ yếu theo quy chế làm việc của sở. Mục tiêu của quan hệ
phối hợp là để tăng cường trách nhiệm, tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Sự phối hợp được thực
hiện dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau để cùng thực hiện các mục
tiêu đặt ra. Các đơn vị có trách nhiệm phối hợp để cùng thực hiện những mục
tiêu chung của toàn cơ quan sở và mục tiêu riêng của từng đơn vị, cá nhân.
Các nhà lãnh đạo phải quán triệt rằng
hiệu quả của công việc dựa trên sự nhất quán của mục tiêu. Nhất quán để huy động
tối đa nguồn lực. Thật khó có thể chấp nhận một tổ chức đề ra những mục tiêu
“nhảy cóc” tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm kia, gây hoang mang, xáo trộn
công việc của cán bộ, công chức và nguy hiểm hơn là làm cho họ lùi bước. Trên
phương diện tâm lý học, con người ta về cơ bản được “lập trình” để bắt chước những
hành vi mang tính nhất quán. Khi mà các đơn vị phối hợp không thể thống nhất được
một mục tiêu hay chương trình hành động nhất quán, thì giá trị lao động của cán
bộ, công chức sẽ giảm bởi những nỗ lực vô ích do “khối mục tiêu” rối ren và
không có phương hướng. Có thể nói, một mục tiêu nhất quán cần được xây dựng gắn
kết với sứ mệnh, tầm nhìn của bên tham gia, dựa vào nền tảng của thành công này
để vươn tới những thành công trên tầm cao mới, từ đó có sức lan tỏa mạnh mẽ đến
toàn thể hệ thống, như một mệnh lệnh thực thi.
Yếu tố còn lại của một mục tiêu thành
công chính là kế hoạch hành động và sự hỗ trợ thực hiện mục tiêu đó.
- Kỹ năng làm việc nhóm
Nhóm không đơn giản chỉ là một tập hợp
nhiều người làm việc cùng nhau hoặc làm việc dưới sự chỉ đạo của một nhà quản
lý. Nhóm là một tập hợp những cá nhân có các kỹ năng bổ sung cho nhau và cùng
cam kết chịu trách nhiệm thực hiện một mục tiêu chung.
Vì thế các thành viên trong nhóm cần
có sự tương tác với nhau và với trưởng nhóm để đạt được mục tiêu chung. Các
thành viên trong nhóm cũng phải có sự phụ thuộc vào thông tin của nhau để thực
hiện phần việc của mình. Dù mỗi người trong nhóm có thể có những mục tiêu riêng
khác nhau, song hướng tới mục tiêu chung họ cần phải xây dựng được tinh thần đồng
đội, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau, ngoài ra chúng ta còn phải tạo ra một môi
trường hoạt động mà các thành viên trong nhóm cảm thấy tự tin, thoải mái để
cùng nhau làm việc, hợp tác và hỗ trợ nhau để đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Điều
quan trọng là phải giúp cho các thành viên trong nhóm tin rằng sự cống hiến của
mình cho tập thể được đánh giá đúng đắn, chính xác và nhận được sự khen thưởng
xứng đáng, không có sự nhập nhằng gây ra ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi người.
Những thành viên trong nhóm phải được xác định rằng thành quả của tập thể có được
là từ sự đóng góp tích cực của mỗi người.
Một nhóm người làm việc trong cùng một
văn phòng hay thậm chí một dự án chung không phải lúc nào cũng tiến hành công
việc của một nhóm làm việc. Nếu nhóm đó được quản lý theo kiểu chuyên quyền độc
đoán thì sẽ không có sự tác động qua lại liên quan đến công việc giữa các thành
viên trong nhóm. Nếu có bất kỳ tư tưởng bè phái nào trong nhóm, hoạt động của
nhóm sẽ không bao giờ tiến triển được. Ngược lại, một nhóm làm việc vẫn có thể
phát triển dù các thành viên không cùng làm việc hay sinh hoạt trong một môi
trường, một không gian nhất định.
Nói một cách đơn giản, nhóm làm việc
là nhóm tạo ra được một tinh thần hợp tác, biết phối hợp và phát huy các ưu điểm
của các thành viên trong nhóm để cùng nhau đạt đến một kết quả tốt nhất cho mục
đích mà nhóm đặt ra.
Tùy theo nhu cầu, mục đích được đề ra
cho nhóm và số lượng cũng như năng lực của các thành viên trong nhóm, các nhóm
được hình thành và phát triển theo nhiều hình thức và thời gian hoạt động khác
nhau. Nhưng nhìn chung thì hầu như đều trải qua bốn bước cơ bản:
Bước 1. Tạo dựng: Khi được mời gọi hay
đưa vào nhóm, các thành viên còn rụt rè và tìm kiếm những vị trí của mình trong
nhóm, chưa bộc lộ nhu cầu cũng như năng lực cá nhân.... Một điều không thể thiếu
là các thành viên sẽ thử khả năng lãnh đạo của trưởng nhóm. Thông thường hầu
như không có nhóm nào có được sự tiến bộ trong giai đoạn này.
Bước 2. Công phá: Đây có lẽ là giai đoạn
khó nhất của mỗi nhóm. Các thành viên thường cảm thấy thiếu kiên nhẫn với việc
thiếu sự phát triển của công việc, nhưng họ vẫn chưa có kinh nghiệm làm việc
như một nhóm thật sự. Họ có thể sẽ tranh cãi về những công việc được giao vì phải
đối mặt với những điều trước đây họ chưa bao giờ nghĩ tới và khiến họ cảm thấy
không thoải mái. Tất cả “sức mạnh” của họ dành để chĩa vào các thành viên khác,
thay vì tập trung lại và hướng tới mục tiêu chung.
Bước 3. Ổn định: Trong suốt giai đoạn
này, các thành viên trong nhóm quen dần và điều hòa những khác biệt giữa họ. Sự
xung đột về tính cách, ý kiến giảm dần và tính hợp tác tăng lên. Khi đó, họ có
thể tập trung nhiều hơn cho công việc và bắt đầu có sự tiến bộ đáng kể trong hiệu
quả công việc.
Bước 4. Hoàn thiện: Ở giai đoạn này,
các thành viên đã hiểu và thích nghi được với điểm mạnh và yếu của từng người
trong nhóm mình và biết được vai trò của họ là gì. Mọi người đã cởi mở và tin
tưởng nhau hơn, rất nhiều ý kiến hay được nêu ra thảo luận vì họ không còn e ngại
như lúc đầu. Họ linh hoạt sử dụng quyết định của mình như một công cụ để hiện
thực hóa những ý tưởng, ưu tiên những nhiệm vụ cần thiết và giải quyết những vấn
đề khúc mắc. Rất nhiều việc được hoàn thiện và sự gắn bó giữa các thành viên
trong nhóm là rất cao.
Vì trải qua bốn giai đoạn như thế, nên
ban đầu có vẻ như một nhóm hoạt động lại không đạt được những hiệu quả như một
cá nhân làm việc. Vì thế nên nhóm làm việc là những cá nhân tập hợp lại và hình
thành một đơn vị hoạt động cùng nhau, vì vậy mỗi thành viên trong nhóm đều phải
biết kỹ năng để gắn kết và áp dụng tốt các kỹ năng này để đạt được những hiệu
quả nhất định. Có hai kỹ năng mà một nhóm cần phải có là kỹ năng tổ chức các hoạt
động cho nhóm và kỹ năng giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm.
Bất kỳ một công việc gì, từ cá nhân đến
tập thể đều cần phải có sự tổ chức, vậy phải dựa vào yếu tố gì để có thể tổ chức
một hoạt động đem lại kết quả tốt nhất. Ông cha ta coi trọng ba yếu tố là thiên
thời, địa lợi và nhân hòa. Điều này có nghĩa là: phải gặp đúng thời cơ hay thời
điểm thích hợp, phải thực hiện ở một địa điểm thích hợp, có những yếu tố thuận
lợi và điều quan trọng nhất là đạt được sự đồng lòng, hòa thuận giữa mọi người
với nhau. Còn hiện nay thì chúng ta có thể dựa vào nguyên lý 5W + 1H để tổ chức
một công việc hay một hoạt động, một kế hoạch.
Khi bắt đầu bất kỳ một vấn đề gì mới,
chúng ta phải trả lời được các câu hỏi:
+ Kế hoạch hay chương trình đó dùng để
làm gì (What)?
+ Kế hoạch đó xuất phát từ đâu, ở đâu
ra (Where)?
+ Khi nào thì bắt đầu tiến hành
(When)?
+ Ai sẽ là người thực hiện hay phụ
trách việc này (Who)?
+ Tại sao phải tiến hành hoạt động này
(Why)?
+ Chúng ta sẽ thực hiện nó như thế nào
(How)?
Nếu một kế hoạch hay dự án mà không trả
lời được các câu hỏi này thì chúng ta không nên tiến hành vì có nhiều khả năng
thất bại hay chí ít cũng là những khó khăn khó khắc phục, có thể dẫn đến sự mất
đoàn kết hay tan rã nhóm.
Ngoài ra trong kỹ năng tổ chức, mỗi
người trong nhóm đều phải nhận ra được thế mạnh cũng như điểm yếu của mình để
có thể đảm nhận hay sắp xếp các công việc, các trách nhiệm phù hợp điều đó mới
giúp cho nhóm đạt được những kết quả tốt nhất.
Điều cơ bản nhất là phải tạo được sự đồng
thuận hay tiếng nói chung giữa những người trong nhóm để cùng nhau thực hiện được
các hoạt động chung, thì mỗi một thành viên trong nhóm cần phải có một số các kỹ
năng sau đây ngoài sự đồng thuận chung về quan điểm và mục đích của nhóm:
+ Lắng nghe: Đây là một trong những kỹ
năng quan trọng nhất. Các thành viên trong nhóm phải biết lắng nghe ý kiến của
nhau. Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng ý kiến giữa các thành viên trong nhóm.
Lắng nghe không chỉ là sự tiếp nhận thông tin từ người nói mà còn phải biết
phân tích, nhìn nhận theo hướng tích cực và phản hồi bằng thái độ tôn trọng những
ý kiến của người nói dù đó là ý kiến hoàn toàn trái ngược với quan điểm của bản
thân.
+ Chất vấn: là kỹ năng thể hiện tư duy
phản biện tích cực, thực tế đây là một kỹ năng khó mà bất kỳ ai cũng cần phải
rèn luyện. Chất vấn bằng những câu hỏi thông minh dựa trên những lý lẽ tán đồng
hay phản biện chặt chẽ. Điều này đòi hỏi mức độ tư duy cao và tinh thần xây dựng
cho nhóm. Lời lẽ chất vấn cần mềm mỏng, lịch sự. Tuy nhiên, điều quan trọng là
trong nhóm cần có sự cởi mở để khuyến khích mọi người có thể tiếp nhận những ý
kiến trái chiều với quan điểm của mình mà không tự ái. Người chất vấn cũng phải
sử dụng những lời lẽ mềm mại và tế nhị, không xoáy vào những điểm yếu, lên tiếng
phê phán hay chê bai để dẫn đến sự tranh luận vô ích.
+ Thuyết phục: Các thành viên phải
trao đổi, suy xét những ý tưởng đã đưa ra. Đồng thời họ cần biết tự bảo vệ và
thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình. Khi thuyết phục, ta phải
dựa vào chính những ý kiến chung để củng cố hay làm cho nó trở nên hợp lý hơn
chứ không chỉ dựa vào lý lẽ cá nhân. Nhất là không thể dựa vào vị trí hay tài
năng của mình để buộc người nghe phải chấp nhận.
+ Tôn trọng: Mỗi thành viên trong nhóm
phải tôn trọng ý kiến của những người khác thể hiện qua việc động viên, hỗ trợ
nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Khi các thành viên trong nhóm thể hiện
sự tôn trọng lẫn nhau nghĩa là đang đóng góp sức mình vào sự thành công trong
việc tổ chức các hoạt động của nhóm.
+ Trợ giúp: Các thành viên phải biết
giúp đỡ nhau vì trong một nhóm, có người sẽ mạnh lĩnh vực này, nhưng người khác
lại mạnh lĩnh vực khác. Và nhiều khi, vấn đề mà nhóm đang phải giải quyết cần
kiến thức ở nhiều lĩnh vực, mức độ và đòi hỏi các kỹ năng khác nhau. Đây là kỹ
năng mà mỗi người cần rèn luyện để sẵn sàng đóng góp vào thành quả chung của
nhóm.
+ Chia sẻ: Các thành viên đưa ra ý kiến
và chia sẻ kinh nghiệm của mình khi gặp các tình huống tương tự trước đó. Trong
nhóm đang thảo luận, người nào càng chia sẻ được nhiều kinh nghiệm quý giá của
mình, hoặc đưa ra các ý kiến sáng suốt cho nhóm, thì sẽ càng nhận được sự yêu mến
và vị nể của các thành viên còn lại. Và một khi, mỗi thành viên trong nhóm đều
nhận thức được tầm quan trọng của việc chia sẻ, không khí làm việc của nhóm sẽ
cởi mở và tích cực hơn.
+ Chung sức: Mỗi thành viên phải đóng
góp trí lực cùng nhau thực hiện kế hoạch đã đề ra. Có nghĩa là, cả nhóm cần phải
hiểu rõ mục đích của nhóm cần đạt được là gì và có cùng chung khao khát hoàn thành
nó. “Hãy tưởng tượng, chúng ta đang cùng ở trên một con thuyền, tất cả đều phải
cùng chèo để đưa con thuyền về đến đích!”.
- Kỹ năng làm việc với cấp trên
+ Hãy đặt 100% nhiệt huyết của mình
vào công việc. Mỗi cán bộ, công chức đều mong muốn nhận được nhiều sự khen ngợi
của lãnh đạo cấp trên, tuy nhiên một kế hoạch hoặc một dự án đang thực hiện dở
dang và có phần lơ là thì hẳn nhiên người chịu trách nhiệm thực hiện không thể
nhận được bất kỳ lời khen hay phần thưởng nào. Người cán bộ, công chức phải biết
khéo léo sắp xếp công việc để hoàn thành chúng đúng thời hạn quy định, không
làm bê trễ ảnh hưởng đến guồng máy công việc của cơ quan.
+ Hãy xác định điều gì quan trọng nhất
trong suy nghĩ của lãnh đạo:
Quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá
của lãnh đạo về cán bộ công chức dưới quyền rất quan trọng, do đó cán bộ, công
chức cấp dưới tìm hiểu các mục tiêu và quan tâm đến những gì đang diễn ra trong
suy nghĩ của lãnh đạo.
+ Thể hiện sự chủ động và tác phong
làm việc đúng đắn:
Nhà lãnh đạo sẽ cảm thấy yên tâm hơn
khi nhìn thấy sự chủ động của cán bộ, công chức dưới quyền, bởi lẽ như vậy những
áp lực công việc được giảm đi đáng kể nếu cán bộ, công chức trong cơ quan chú
trọng đến công việc của mình hơn.
- Kỹ năng ủy thác công việc
Ủy thác công việc là bàn giao một phần
hay toàn bộ công việc cho người khác (đồng nghiệp, bạn bè, cấp dưới, người
thân,...). Khi đó, người lãnh đạo vẫn đảm bảo công việc được thực hiện đúng tiến
độ, yêu cầu đặt ra mà không nhất thiết cần phải trực tiếp tham gia.
Ủy thác công việc là một phần quan trọng
trong tiến trình quản lý: hoàn thành công việc thông qua người khác. Tuy nhiên,
kỹ năng này lại thường được thực hiện một cách thiếu tích cực và hầu hết các
nhà quản lý đều không muốn thực hiện việc ủy quyền. Kết quả là nhiều người trong
số họ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do cố gắng tự làm mọi việc một
mình.
Ủy thác công việc là cách duy nhất để
thực hiện đầy đủ các công việc thông qua người khác và phát huy hết năng lực của
cơ quan, tổ chức.
Ủy thác công việc là trao cho cán bộ,
công chức thẩm quyền và các nguồn lực để thực hiện một công tác. Nó còn mang ý
nghĩa động viên họ. Tuy nhiên nhà quản lý vẫn là người chịu trách nhiệm về kết
quả cuối cùng.
Ủy thác công việc có thể định nghĩa
đơn giản là việc một nhà quản lý giao cho một người cộng sự thẩm quyền để hành
động và ra quyết định thay cho nhà quản lý đó. Như vậy, nó hàm ý rộng hơn là
“thực hiện công việc thông qua người khác” mặc dù đây cũng là một phần của nó.
Như vậy, ủy thác công việc là giao cho cán bộ, công chức thẩm quyền để tiến
hành một công việc và quyền tự quyết công việc đó được hoàn thành như thế nào.
Song, người ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm chính về kết quả cuối cùng của
công tác đó.
Ủy thác công việc có thể ở nhiều mức độ
ủy quyền khác nhau:
· Ủy quyền hoàn toàn: Mức độ này được áp dụng
đối với cán bộ, công chức có chuyên môn cao, hay rất lành nghề. Nó cũng có thể
áp dụng cho các công tác nhỏ nhặt hoặc các công việc sự vụ hành chính. Lãnh đạo
cần cho cán bộ, công chức được ủy quyền biết nội dung, yêu cầu đối với công việc
và thời hạn hoàn thành. Việc làm như thế nào là do cán bộ, công chức được ủy
quyền quyết định. Tuy nhiên, lãnh đạo cũng cần sẵn sàng để cán bộ, công chức
tham khảo ý kiến khi cần.
· Ủy quyền chủ yếu: Ở mức độ ủy quyền này, cần
giải thích cho cán bộ, công chức rõ nội dung công việc và hạn chót để hoàn
thành công việc. Cũng xác định rõ thời gian gặp gỡ để thảo luận về tiến độ và
chất lượng hoàn thành công việc do người được ủy quyền thực hiện. Cán bộ, công
chức vẫn được tự do quyết định phương án tiến hành công việc, nhưng định kỳ
thông báo cho lãnh đạo về tiến độ. Còn, lãnh đạo thì không nên phủ quyết các
phương án và quyết định của cán bộ, công chức trừ khi điều đó thật sự cần thiết.
· Ủy quyền giới hạn: Lãnh đạo giải thích cho
cán bộ, công chức về nội dung và yêu cầu đối với công việc, đồng thời đề nghị
người được ủy quyền suy nghĩ về phương án mà người đó dự định tiến hành. Sau
khi người được ủy quyền trình bày phương án, lãnh đạo có thể chấp nhận, hiệu chỉnh
hoặc bác bỏ song cuối cùng vẫn phải thống nhất một phương án nhất định để thực
hiện.
· Ủy quyền tối thiểu và không ủy quyền gì cả: Ở
hai mức độ này, về căn bản người lãnh đạo chỉ ra lệnh cho người dưới quyền phải
làm gì và làm thư thế nào hoặc là không ủy quyền chút gì cả.
Cho dù ở mức độ nào thì ủy thác công
việc không phải chỉ là “phân phối công việc”, hoặc là “ra mệnh lệnh và chỉ thị”.
Nếu phân phối công việc kèm theo chỉ thị nghiêm ngặt hoặc ra lệnh, thì đó là
đang điều hành chứ không phải ủy thác. Nói cách khác, khi giao công tác thì cần
hướng dẫn phải làm chính xác như thế nào và cần thường xuyên kiểm tra để đảm bảo
rằng công việc đang được thực hiện.
Ủy thác công việc cần đạt tới hiệu quả.
Ủy thác không hiệu quả cũng giống như không ủy thác gì cả mà thôi. Thoái thác
trách nhiệm hoặc chỉ thuần túy ra lệnh đều có hại cho uy tín của lãnh đạo và hiệu
quả của cơ quan, tổ chức.
* Lợi ích của ủy thác công việc:
Thứ nhất: giao việc giúp lãnh đạo có
thêm nhiều thời gian và tập trung vào những điều quan trọng nhất. Thực tế, người
lãnh đạo luôn có rất nhiều việc cần làm, nhiều khi đó là những việc cần được tiến
hành song song hoặc cần sức mạnh tập thể. Trong khi đó, họ không đủ thời gian,
công sức, trí tuệ và chuyên môn để làm tốt tất cả những công việc đó.
Thứ hai: khi giao việc cho cán bộ, công
chức nào đó thì người lãnh đạo đã tạo điều kiện cho người đó phát triển năng lực
và sự tự tin. Thông thường lãnh đạo không thích giao việc vì chưa thực sự tin
tưởng vào họ, còn e ngại họ không làm đúng theo ý mình nên muốn tự làm mọi việc.
Tuy nhiên, mỗi người giỏi một lĩnh vực, người lãnh đạo nên giao việc theo đúng
chuyên môn của cán bộ, công chức cấp dưới. Thông qua công việc, không những họ
được đóng góp cho tập thể, được giúp lãnh đạo mà còn được làm công việc họ yêu
thích.
Thứ ba: khi giao việc người lãnh đạo sẽ
có điều kiện để huấn luyện và đào tạo cán bộ, công chức, nhận ra năng lực của họ.
Giao việc hiệu quả cũng chính là một nghệ thuật đào tạo và phát triển năng lực
con người. Khi cán bộ, công chức đạt được thành công trong công việc, lãnh đạo mới
có cơ hội nhận ra nỗ lực của họ, khuyến khích họ phát huy năng lực của mình. Từ
đó, người lãnh đạo đã mang lại cho họ niềm vui và động lực trong công việc.
Thứ tư: giao việc giúp đảm bảo thời
gian và tiến độ công việc. Khi giao việc, lãnh đạo sẽ đảm bảo công việc lớn được
chia thành nhiều công đoạn nhỏ, mỗi công đoạn có nhiều người tham gia và được
tiến hành song song. Bằng cách đó, sẽ tạo ra “đòn bẩy” về thời gian và sức mạnh
của tập thể, giúp đảm bảo thời hạn và chất lượng công việc.
Nhiều công việc được thực hiện trong
cùng thời gian sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành mục tiêu. Trách
nhiệm cán bộ, công chức được xác định và nâng lên, họ trở nên quan tâm và có
trách nhiệm. Sự phân công trách nhiệm quyền hạn rõ ràng sẽ giúp cho việc kiểm
tra của nhà lãnh đạo bớt khó khăn hơn. Tận dụng hết nguồn nhân sự và năng suất
làm việc tăng lên.
Người lãnh đạo có thời gian để làm những
công việc mà không thể giao cho người khác được. Người lãnh đạo có nhiều thời
gian để lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện và kiểm tra.
Ủy thác hiệu quả là sự cân bằng giữa
trao quyền giải quyết công việc để giải phóng thời gian quý báu của lãnh đạo và
việc phát triển nhân viên. Để có thể làm được điều này, người lãnh đạo cần phải
biết việc nào có thể ủy thác được và việc nào không.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Đồng chí hãy cho biết ý nghĩa của
công tác phối hợp trong hoạt động điều hành cơ quan hành chính nhà nước?
2. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất những yêu cầu cần thiết đối với công tác phối hợp có hiệu quả.
3. Đồng chí hãy cho biết sự cần thiết
hoàn thiện và tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo cấp sở và tương đương trong
công tác phối hợp?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Lưu Kiếm Thanh. Nghiệp vụ hành
chính văn phòng. H. Thống kê, 2010.
2. Nguyễn Văn Thâm. Kỹ thuật tổ chức điều
hành công sở. H. 2010.
3. Nguyễn Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh (Chủ
biên). Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành chính. NXB. Thống kê, Hà Nội, 1999.
4. Tài liệu bồi dưỡng QLHCNN. Học viện
Hành chính. Hà Nội, 2013.
5. Mary Albright, Clay Carr. Cạm bẫy
trong quản lý. NXB Trẻ, 2011.
6. Lorin Woolfe: Kinh thánh về nghệ
thuật lãnh đạo. NXB Tri thức, Hà Nội, 2006.
4. Rudolf Grunig, Richard Kuhn. Successful Decision
Making/ A Systematic Approach to Complex Problems/ Translated from German by
Anthony Clark and Clair O’Dea. Springer,
2005./.
Chuyên đề 11
KỸ
NĂNG ĐỐI THOẠI, TRẢ LỜI CHẤT VẤN, TIẾP DÂN VÀ QUAN HỆ VỚI TRUYỀN THÔNG
1. Kỹ năng đối thoại trong tiếp dân phục
vụ công tác của cấp sở
a) Đối thoại - một công cụ quan trọng
trong phương thức quản lý:
- Mục đích
Đối thoại là một trong những tác nghiệp
quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Thông qua đối thoại nhằm
thu thập và củng cố những thông tin có giá trị, chứng cứ để xác định sự thật của
vụ việc như: nguyên nhân, điều kiện phát sinh vụ việc, trách nhiệm của từng người
đến đâu; ai đúng, ai sai? Mức độ sai sót... những điểm bất cập, sơ hở, thiếu
sót của pháp luật, cũng như những ưu, khuyết điểm của các cá nhân, cơ quan đoàn
thể trong công tác quản lý cũng như trong việc chấp hành chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo. Những thông
tin là kết quả của đối thoại đó giúp cho người có trách nhiệm và thẩm quyền có
được những quyết định đúng đắn trong việc giải quyết công việc.
- Ý nghĩa
+ Tổ chức đối thoại tốt trong quá trình
giải quyết công việc là một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đề cao pháp luật, pháp chế;
+ Thể hiện tính công khai, dân chủ
trong hoạt động giải quyết công việc và cao hơn nữa là thể hiện rõ phương châm:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và khẳng định bản chất của Nhà nước
ta: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”;
+ Khi đối thoại thông qua việc trả lời
và giải thích các quy định của pháp luật, các bên tham gia đối thoại còn được
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng và
pháp luật nói chung, ý nghĩa này đặc biệt quan trọng đối với loại hình tổ chức
đối thoại có đông người tham gia;
+ “Đối thoại” cũng là dịp để cán bộ,
lãnh đạo các cấp thể hiện bản lĩnh và phẩm chất của mình trước các bên tham gia
đối thoại;
+ Bản chất của “đối thoại” cũng chính
là một biện pháp hòa giải trong khuôn khổ của pháp luật nhằm giải quyết công việc,
và các văn bản pháp luật nhằm góp phần củng cố và tăng cường sự đoàn kết trong
nhân dân, tránh đối đầu, đối địch dẫn đến hận thù....
b) Đối thoại trong tiếp dân:
Đối thoại là việc người đứng đầu các
cơ quan nhà nước, đơn vị, địa phương (gọi tắt là cơ quan, đơn vị) tiếp xúc trực
tiếp với công dân, tổ chức nhằm: tiếp nhận các thông tin về tình hình triển
khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
phát hiện những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện; tinh thần, thái độ
phục vụ nhân dân, những sai phạm của cán bộ, công chức, để giải quyết, chấn chỉnh,
xử lý kịp thời.
Thông qua đối thoại để các cơ quan,
đơn vị cung cấp và giải thích (nếu có) kịp thời cho công dân, tổ chức các thông
tin về chủ trương, chính sách, chế độ, về quy trình, thủ tục quản lý, kiểm tra,
giám sát; kết quả xử lý kiến nghị, giải quyết vướng mắc phát sinh, đồng thời
thu thập và củng cố những thông tin về các bất cập trong thực thi pháp luật của
các cơ quan, đơn vị nhằm giải quyết bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
công dân, tổ chức; tạo điều kiện hỗ trợ cho công dân, tổ chức tự giác chấp hành,
thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các quy định của địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Đối thoại vừa là quyền lợi, vừa là
trách nhiệm của công dân, tổ chức trong việc phản ánh hạn chế, vướng mắc trong
thực tiễn khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, tham gia đề xuất, kiến nghị
sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, cải tiến quy trình, thủ tục trên các lĩnh vực
nhằm phục vụ cho công dân, tổ chức tốt hơn.
Đối thoại được tổ chức theo chuyên đề,
thường xuyên theo yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù. Mỗi cơ quan, đơn vị trong tỉnh tổ
chức đối thoại với công dân, tổ chức ít nhất 02 lần/năm.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, ngoài
việc tổ chức tiếp công dân định kỳ cần phải có trách nhiệm đối thoại với công
dân, tổ chức. Đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác dân vận
trong các cơ quan nhà nước, góp phần hạn chế các đơn, thư khiếu nại, tố cáo;
khiếu nại, tố cáo vượt cấp nhằm tạo sự đồng thuận trong nhân dân.
- Nguyên tắc đối thoại
+ Đảm bảo dân chủ, công khai, tôn trọng
người tham gia đối thoại và tuân thủ đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Việc tổ chức đối thoại phải đảm bảo
tính dân chủ, công khai, minh bạch, trên tinh thần hợp tác, xây dựng và có hiệu
quả thiết thực, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo
quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Khi triển khai các chương trình, đề án
có liên quan đến địa bàn dân cư, liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công
dân, tổ chức, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó phải tổ chức đối thoại ngay từ đầu
để tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Căn cứ vào nhu cầu thực tế, tính chất,
nội dung đối thoại, cơ quan đơn vị có thể tự tổ chức hoặc phối hợp với các cơ
quan khác có liên quan cùng tổ chức đối thoại với công dân, tổ chức trong phạm
vi quản lý.
+ Đảm bảo những quy định và yêu cầu về
văn hóa, văn minh công sở:
Không lợi dụng cuộc đối thoại để làm
nơi thực hiện ý đồ xấu, không thiện chí, hoặc xúc phạm danh dự, uy tín của cơ
quan nhà nước và cá nhân.
Trong phạm vi, quyền hạn của mình, các
cơ quan, đơn vị có trách nhiệm trả lời, giải quyết dứt điểm, đúng thời hạn theo
quy định những vấn đề được nêu ra trong và sau đối thoại. Những vấn đề vượt quá
thẩm quyền giải quyết của mình, những vướng mắc về chính sách, chế độ phải báo
cáo kịp thời lên cấp trên.
Đối với những kiến nghị thuộc trách
nhiệm của các cơ quan, ban, ngành khác thì phải chuyển đến cơ quan có chức năng
giải quyết kiến nghị đó, đồng thời thông báo cho công dân, tổ chức kiến nghị biết.
Trong buổi đối thoại mọi người tuyệt đối
không được mang vũ khí, chất nổ, chất độc vào phòng làm việc, mọi người phải
tuân thủ sự điều hành của người chủ trì, nếu vi phạm tùy theo tính chất, mức độ
sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Người chủ trì đối thoại có quyền từ chối
đối thoại với người không có đủ năng lực hành vi, người uống rượu, bia hoặc
dùng các chất kích thích khác, người không có quyền và lợi ích liên quan.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chọn địa điểm
đối thoại phải đảm bảo trang trọng, có đủ điều kiện cần thiết phục vụ cho việc
đối thoại và đảm bảo an toàn về an ninh, trật tự theo đúng quy định của pháp luật.
Khi tham gia đối thoại, mọi cán bộ,
công chức phải mặc trang phục chỉnh tề (nếu có trang phục của ngành phải mặc),
đeo thẻ công chức đúng quy định. Mọi công dân, tổ chức tham gia cuộc đối thoại
phải xuất trình chứng minh nhân dân, giấy mời làm việc, giấy ủy quyền (nếu được
ủy quyền), nếu là tổ chức được mời, phải là người đứng đầu của cơ quan, tổ chức
đó đại diện theo quy định của pháp luật (áp dụng trong các cuộc đối thoại liên
quan đến khiếu nại, tố cáo).
Thái độ: bình tĩnh, thận trọng, tôn trọng
sự thật khách quan.
+ Xử lý hiệu quả thông tin
Trong điều kiện của xã hội hiện đại, đối
với người sử dụng thông tin nói chung, sự “bùng nổ thông tin” gây khó khăn
trong việc tiếp nhận thông tin, như: thông tin quá nhiều không tiếp nhận được hết
thông tin, thông tin phân tán thu thập thông tin tốn nhiều thời gian,.... Hoạt
động xử lý thông tin sẽ tinh chế thông tin, giúp người sử dụng thông tin khắc
phục được hiện tượng “ bùng nổ thông tin” và “khủng hoảng thông tin”.
Người sử dụng thông tin nhiều lúc sẽ
không có đủ thời gian để tìm kiếm thông tin. Hoạt động xử lý thông tin giúp người
sử dụng thông tin định hướng, chọn lọc và tìm kiếm được thông tin cần một cách
nhanh chóng, chính xác trong khối lượng thông tin khổng lồ.
Khi thu thập được đầy đủ thông tin cần,
người sử dụng thông tin cũng không có đủ thời gian để xem hết những thông tin
đã thu thập được, vì thông tin dàn trải, nhiều thông tin thừa, trùng lắp.... Hoạt
động xử lý thông tin giúp người sử dụng thông tin rút ngắn, tiết kiệm được thời
gian đọc để đọc được nhiều hơn.
Hoạt động xử lý thông tin giúp người sử
dụng thông tin đánh giá thông tin để có thể chọn lọc được những thông tin mới
nhất, đầy đủ nhất, phù hợp nhất với nhu cầu.
Hoạt động xử lý thông tin sẽ cung cấp
cho người sử dụng thông tin những thông tin đã được tổng hợp từ nhiều nguồn
thông tin, loại bỏ thông tin thừa, thông tin trùng lặp.
Hoạt động xử lý thông tin không chỉ
cung cấp cho người sử dụng thông tin những thông tin đã được hệ thống, cô đọng,
mà trên cơ sở tổng hợp thông tin, hoạt động xử lý thông tin còn cung cấp những
thông tin mang tính chất dự báo như: xu hướng phát triển của vấn đề, xu hướng
triển khai vấn đề ...
- Chuẩn bị cho công tác đối thoại
Cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại có
trách nhiệm lập kế hoạch, xây dựng chương trình, nội dung; căn cứ kế hoạch và
nhu cầu thực tế để xác định quy mô, thành phần tham dự cho từng cuộc đối thoại;
quyết định việc tổ chức cuộc đối thoại độc lập hoặc phối hợp với các cơ quan
khác có liên quan tổ chức đối thoại chung.
Cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại phải
chủ động chuẩn bị chu đáo các nội dung và tài liệu phục vụ đối thoại theo trình
tự sau:
+ Căn cứ vào kế hoạch, mục tiêu cụ thể
của mỗi cuộc đối thoại, tiến hành thu thập ý kiến tham gia thông qua các hình
thức: thư mời; phiếu thăm dò ý kiến; trang thông tin điện tử của ngành, kiến
nghị của công dân, tổ chức gửi đến; các vấn đề được phản ánh trên các phương tiện
thông tin đại chúng;
+ Nghiên cứu, khai thác các ý kiến gửi
đến để nắm bắt các vướng mắc phát sinh và yêu cầu của công dân, tổ chức; phân
loại theo từng chuyên đề, từng nội dung, theo mức độ cấp thiết của vấn đề kiến
nghị, trên cơ sở đó phân công cụ thể cho các đơn vị, bộ phận có liên quan chuẩn
bị nội dung trả lời;
+ Tổ chức thảo luận thống nhất về các
vấn đề kiến nghị và dự kiến nội dung trả lời để báo cáo cấp trên; đồng thời
phân công giải quyết ngay các kiến nghị thuộc thẩm quyền của mình trước khi thực
hiện đối thoại hoặc xin ý kiến cấp trên về hướng giải quyết những nội dung vượt
quá thẩm quyền của cấp mình;
+ Tất cả các ý kiến thu thập được và nội
dung chuẩn bị trả lời đều phải tập hợp vào tài liệu đối thoại, trong đó nêu rõ:
tên tổ chức, cá nhân nêu kiến nghị; nội dung kiến nghị; nội dung trả lời, kết
quả đã giải quyết hoặc hướng giải quyết, thời gian giải quyết, cấp giải quyết.
Tài liệu đối thoại cần sắp xếp phân loại theo chuyên đề, nội dung kết hợp với mức
độ xử lý: những việc trả lời ngay tại cuộc đối thoại; những việc cần kiểm tra
làm rõ, trả lời sau; những việc ghi nhận và báo cáo cấp trên.
Trước khi tổ chức cuộc đối thoại, thủ
trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại quyết định nhân sự tham gia đối thoại,
tổ thư ký và bộ phận tham mưu (gồm đại diện các đơn vị, bộ phận có liên quan
thuộc phạm vi quản lý) giúp thủ trưởng điều hành chương trình đối thoại; giao
nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, từng bộ phận đảm nhiệm trong các giai đoạn:
chuẩn bị đối thoại, tiến hành đối thoại và xử lý công việc sau đối thoại.
Trường hợp phối hợp với các cơ quan,
đơn vị khác cùng tiến hành đối thoại, phải trao đổi thống nhất về chủ trương, nội
dung, thời gian và thành phần tham gia đối thoại. Trên cơ sở đó phân công nhiệm
vụ cho từng cơ quan, đơn vị chuẩn bị trước nội dung, tài liệu và nhân sự để
tham gia đối thoại.
Khi công tác chuẩn bị đã đạt yêu cầu,
cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại phải gửi thư mời công dân, tổ chức tham dự
trong thời gian ít nhất là 05 ngày làm việc trước khi tiến hành đối thoại. Thư
mời phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung để công dân, tổ chức
tham dự nghiên cứu, chuẩn bị trước ý kiến tham gia. Kèm theo thư mời phải có
phiếu đăng ký nội dung phát biểu tại cuộc đối thoại để bố trí, sắp xếp chương
trình.
- Thực hiện đối thoại
Tất cả các ý kiến nêu ra tại cuộc đối
thoại đều được cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại lắng nghe, ghi chép đầy đủ, tiếp
thu nghiêm túc và trả lời kịp thời.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ trì tổ
chức đối thoại, cơ quan, đơn vị phối hợp tổ chức đối thoại điều hành chương
trình cuộc đối thoại. Bộ phận tham mưu, tổ thư ký cuộc đối thoại giúp thủ trưởng
điều hành chương trình đối thoại có nhiệm vụ sau:
+ Tổ thư ký chịu trách nhiệm: tiếp nhận
các phiếu đăng ký phát biểu từ công dân, tổ chức, phân loại sơ bộ các nhóm vấn
đề mà công dân, tổ chức nêu ý kiến để chuyển cho bộ phận tham mưu sắp xếp
chương trình, ghi chép đầy đủ các ý kiến của công dân, tổ chức và nội dung trả
lời của thủ trưởng, tổng hợp kết quả đối thoại.
+ Bộ phận tham mưu thực hiện các nhiệm
vụ: phân loại ý kiến để sắp xếp chương trình; dự kiến số công dân, tổ chức đối
thoại; theo dõi, ghi chép đầy đủ các ý kiến của công dân, tổ chức; chuẩn bị các
căn cứ pháp lý và nội dung chính giúp thủ trưởng trả lời tại cuộc đối thoại hoặc
ghi nhận trả lời sau; trực tiếp đối thoại với công dân, tổ chức nêu ý kiến khi
thủ trưởng yêu cầu.
+ Người trả lời đối thoại trực tiếp phải
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước giao của cơ quan mình,
cấp mình để trả lời rõ ràng, cặn kẽ, chính xác, ngắn gọn và dễ hiểu. Những vấn
đề có tính chất phức tạp hoặc có hồ sơ, văn bản kèm theo thì phải trả lời bằng
văn bản hoặc mời công dân, tổ chức nêu ý kiến đến làm việc cụ thể tại trụ sở cơ
quan. Những vấn đề không thuộc trách nhiệm, thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền
của cấp mình thì chỉ được phép ghi nhận để chuyển giao cho cơ quan có trách nhiệm
hoặc báo cáo cấp trên để trả lời sau.
+ Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức đối
thoại chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan cấp trên về việc trả lời các ý
kiến tham gia đối thoại, kể cả trong trường hợp chỉ định người khác trả lời
thay.
Đối với công dân, tổ chức trong buổi đối
thoại phải tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu các ý kiến phát biểu, trả lời của chủ
trì và các ngành liên quan, sau đó mới có ý kiến phản hồi (nếu được chủ trì cho
phép), không được tự ý cắt ngang, làm mất trật tự hoặc có hành vi gây rối.
Khi kết thúc các cuộc đối thoại trong
biên bản phải có chữ ký của các bên tham gia. Trường hợp công dân, tổ chức tham
dự không ký biên bản, người ghi biên bản phải ghi rõ lý do không ký biên bản đối
thoại.
- Xử lý công việc sau đối thoại
Sau cuộc đối thoại, cơ quan nhà nước
các cấp phải tiến hành tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm nội bộ và phân công
các đơn vị, bộ phận chức năng khẩn trương giải quyết các công việc sau:
+ Trả lời bằng văn bản cho công dân, tổ
chức nêu kiến nghị về nội dung đã được thủ trưởng ghi nhận, hứa trả lời sau khi
đã kiểm tra, xác minh.
+ Trình cơ quan cấp trên giải quyết
các vấn đề vượt quá thẩm quyền đã được nêu ra và ghi nhận tại cuộc đối thoại; đề
xuất, kiến nghị với các cơ quan cấp trên về sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế
chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
+ Chuyển cơ quan có thẩm quyền giải
quyết đối với các kiến nghị thuộc trách nhiệm của cơ quan đó theo chức năng,
nhiệm vụ được Nhà nước phân công, đồng thời thông báo cho công dân, tổ chức nêu
kiến nghị biết.
+ Xây dựng chương trình, kế hoạch, biện
pháp sửa đổi, hoàn thiện hoặc ban hành các quy trình, thủ tục quản lý.
Trong thời hạn nhất định (ví dụ 10
ngày làm việc) sau khi kết thúc cuộc đối thoại, cơ quan tổ chức đối thoại phải
báo cáo kết quả của cuộc đối thoại với cơ quan cấp trên bằng văn bản. Báo cáo
phải nêu rõ: nội dung tổ chức đối thoại, thành phần tham gia, các kết quả đạt
được qua đối thoại kèm theo tổng hợp các vấn đề đã được nêu ra trong quá trình
chuẩn bị và trong thời gian đối thoại, kết quả giải quyết kiến nghị đã trả lời
tại cuộc đối thoại; những vấn đề ghi nhận để trả lời sau và thời hạn giải quyết
hoặc trả lời; những vấn đề cần tiếp thu, báo cáo cấp trên để bổ sung, sửa đổi
chính sách, chế độ hoặc quy trình thủ tục quản lý; những vấn đề phát sinh chưa
giải quyết được và biện pháp xử lý tiếp theo.
Nội dung tổng hợp các vấn đề kiến nghị
và kết quả trả lời đối thoại phải được gửi đến công dân hoặc đại diện của công
dân, tổ chức tham gia đối thoại để họ theo dõi, giám sát việc thực hiện.
c) Kỹ năng đối thoại:
Như chúng ta đều biết đối với bất kỳ một
công việc cụ thể nào nếu được chuẩn bị tốt thì khả năng đạt hiệu quả chắc chắn
sẽ cao hơn. “Đối thoại” lại là một công việc hết sức phức tạp, cho nên càng đòi
hỏi công tác chuẩn bị phải được quan tâm hơn, công phu hơn. Trong quá trình chuẩn
bị cho đối thoại cần thiết phải thực hiện các bước sau đây:
- Nghiên cứu hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ là một trong những
công việc quan trọng chuẩn bị cho đối thoại. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc đang giải
quyết cho phép người chủ trì đặt kế hoạch chất vấn, xác định kỹ thuật và nội
dung hỏi thích hợp với từng người đối thoại. Trong hồ sơ vụ việc thường có những
tài liệu sau phải nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những tài liệu chuyên môn:
Những quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực đó;
+ Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ đã được
xác minh;
+ Nghiên cứu những tài liệu khác và áp
dụng những biện pháp cần thiết thu thập thêm tài liệu làm căn cứ cho việc áp dụng
phương pháp kỹ thuật chất vấn trong đối thoại.
- Xác minh
Xác minh để làm rõ ý, vấn đề chưa rõ
mà trong cuộc đối thoại sắp tới phải giải quyết giữa người khiếu nại, tố cáo với
người bị khiếu nại, tố cáo;
Nguyên tắc đi xác minh phải luôn có từ
hai người trở lên;
Kết quả xác minh phải lập biên bản hoặc
phải có báo cáo về nội dung đã xác minh;
Có thể thu thập được chứng cứ (sổ
sách, hóa đơn, bưu ảnh thư từ...) và đều phải tiến hành lập biên bản;
Việc xác minh phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
· Nội dung: cần xác minh việc gì, tình tiết
gì;
· Nguyên nhân: lý do trực tiếp và gián tiếp, điều
kiện và động cơ xảy ra sự việc;
· Thời gian: xảy ra vào giờ, ngày, tháng, năm
nào (càng chính xác càng tốt);
· Địa điểm: xảy ra tại đâu, trong địa phương
nào (ví dụ tại thôn xóm, xã, huyện, tỉnh nào);
· Người chứng kiến: việc đó có những ai biết,
một người hay nhiều người, lý lịch cụ thể những người đó và họ biết thế nào....
Cần ghi lời khai cụ thể chi tiết của họ về vụ việc đó.
- Nghiên cứu nhân thân “người” tham
gia đối thoại
Thuật ngữ “người” ở đây là chỉ một người,
hoặc nhiều người, hay một tổ chức tham gia đối thoại.
+ Nghiên cứu nhân thân người tham gia
đối thoại giúp cho người chủ trì dự kiến được thái độ, lựa chọn đúng phương
pháp kỹ thuật đối thoại, thiết lập được tâm lý giao tiếp với người đối thoại,
có cơ sở khoa học xác đáng trong quá trình phân tích và đánh giá lời lẽ đối thoại.
+ Trong đối thoại việc nghiên cứu nhân
thân người đối thoại cần hướng vào những nội dung sau:
· Về phẩm chất đạo đức, tâm lý, hoạt động
chính trị - xã hội và công tác của người đối thoại;
· Trình độ học vấn và nghề nghiệp mà người đối
thoại đã được đào tạo;
· Quan hệ xã hội của người đối thoại;
· Nếu có thể nghiên cứu cả lối sống và văn hóa
xử sự của người tham gia đối thoại thì hiệu quả đối thoại càng cao hơn nhiều...
Đối với nhiều người, với một tổ chức
thì phức tạp và khó khăn hơn, song về cơ bản vẫn phải vận dụng phương pháp như
đối với một người, đó là “nhằm” vào người đại diện, người đứng đầu, người thay
mặt.
- Lập kế hoạch cụ thể chi tiết
Bên cạnh việc chuẩn bị về nội dung
như: mục đích, kế hoạch chất vấn, xác định kỹ thuật và vấn đề cần đối thoại thì
công việc chuẩn bị về địa điểm, thời gian và phương tiện cũng giữ vai trò hết sức
quan trọng.
Địa điểm và vị trí ngồi đối thoại phù
hợp sẽ toát lên tính uy quyền của người chủ trì, tạo lên sự tôn trọng và niềm
tin của người đối thoại.
Thời gian hợp lý thì thành phần tham
gia đối thoại sẽ thuận lợi và có mặt đầy đủ, đúng giờ hơn. Đồng thời phải khống
chế thời gian, biết điều chỉnh thời gian cho cả cuộc đối thoại và cho những người
tham gia. Người chủ trì biết ngắt lời người đang nói một cách có văn hóa, không
làm họ tự ái, nổi khùng, mà vẫn đạt được mục đích, nội dung của cuộc đối thoại
- Sử dụng phương pháp cảm hóa, thuyết
phục
Cảm hóa, thuyết phục trong đối thoại
là chinh phục người đối thoại hay bằng đường lối, chính sách, pháp luật, bằng
tình cảm, bằng thực tế cuộc sống, đạo đức và phong cách của bản thân làm cho
người đối thoại tiếp nhận và chuyển đổi thái độ theo hướng tích cực, có lợi cho
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả. Song không phải vì thế mà để xuất
hiện tư tưởng và hành vi làm cho cuộc đối thoại trở thành cuộc thương lượng hay
một cuộc hòa hoãn vô nguyên tắc....
Cảm hóa, thuyết phục được tiến hành một
cách mềm dẻo, sinh động bằng những cuộc đấu lý, đấu lẽ giữa người chủ trì và
“người” đối thoại về một vấn đề nhất định. Trong những trường hợp đó, người chủ
trì cần chứng tỏ cho “người” tham gia đối thoại thấy sự công minh của mình mà
“tâm phục, khẩu phục”.
- Sử dụng tài liệu chứng cứ
Sử dụng tài liệu, chứng cứ là việc người
chủ trì chủ động cho người đối thoại biết tài liệu, chứng cứ (cho xem hoặc nói
cho biết đến một mức độ nhất định) với mục đích tác động mạnh mẽ vào tư tưởng,
tâm lý người đối thoại, buộc người đối thoại phải nói đầy đủ, đúng sự thật về
những việc làm của mình.
Người đối thoại không chịu nói đúng sự
thật có nguyên nhân quan trọng là cho rằng người chủ trì chưa có hoặc có ít tài
liệu, chứng cứ về vụ việc, cho nên họ có thể tìm cách che giấu được. Khi chuẩn
bị tham gia đối thoại, họ thường suy nghĩ phỏng đoán: vì sao phải tham gia đối
thoại? người chủ trì đã nắm được những tài liệu, chứng cứ gì? hiểu những hành động,
việc làm của họ đến đâu?.... Từ đó, người đối thoại đã dự phòng một kế hoạch
cho mình cách xử sự trong quá trình đối thoại. Người đối thoại thường tìm cách
chối quanh nếu biết hoặc cho rằng “đối thủ” của mình cũng như người chủ trì đối
thoại thiếu tài liệu, chứng cứ. Có những người đối thoại sử dụng thủ đoạn tinh
vi để tìm hiểu xem người chủ trì biết đến đâu nhằm tính toán khả năng tiết lộ sự
thật của mình. Trong những trường hợp như vậy, cần sử dụng tài liệu, chứng cứ
buộc người đối thoại trình bày đầy đủ, đúng sự thật về hành vi của mình.
Muốn sử dụng có hiệu quả tài liệu, chứng
cứ đã thu được, cần chú ý những điểm dưới đây:
+ Quá trình sử dụng tài liệu, chứng cứ
cần quan sát phát hiện những biến đổi trạng thái tâm lý của người đối thoại.
+ Cần có nghệ thuật sử dụng tài liệu
chứng cứ khi công bố cho người tham gia đối thoại, không để lộ nguồn, hoặc công
bố dần dần các tài liệu cho phù hợp với đối tượng và phạm vi của đối thoại.
- Sử dụng mâu thuẫn
Sử dụng mâu thuẫn là việc người chủ
trì phải biết phát hiện những mâu thuẫn trong lời trình bày của “người” đối thoại
để vạch ra biểu hiện của thái độ không trung thực, không thiện chí, buộc họ phải
trình bày đầy đủ, đúng sự thật.
Việc sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh với
người đối thoại phải trải qua hai giai đoạn sau đây:
+ Phát hiện kịp thời, đầy đủ và tìm được
nguyên nhân gây ra mâu thuẫn
Trong thực tiễn đối thoại, chúng ta
thường gặp những loại mâu thuẫn sau đây:
Lời trình bày của người đối thoại mâu
thuẫn với tài liệu, chứng cứ mà người giải quyết đã xác minh, thu thập được;
Lời trình bày trước và sau của người đối
thoại mâu thuẫn với nhau;
Lời trình bày của người đối thoại mâu
thuẫn với trình độ, khả năng của chính họ;
Lời trình bày của người đối thoại mâu
thuẫn với các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội (thời gian, thời tiết,
khuyết tật, ví dụ như: người bị cận thị nặng thì không thể không đeo kính mà lại
đứng xem được tài liệu);
Để phát hiện đầy đủ, kịp thời các mâu
thuẫn, người chủ trì phải nắm vững tài liệu của vụ việc, tập trung theo dõi,
nghiên cứu quá trình trình bày của người đối thoại, phân tích từng lời nói và
tài liệu đưa ra để có căn cứ xác định.
Những loại mâu thuẫn trên có thể là
tình tiết, có thể là vấn đề cơ bản của vụ việc, song cách giải quyết chúng như
thế nào trong quá trình đối thoại là tùy thuộc ở nguyên nhân gây ra mâu thuẫn
đó.
Thông thường vì muốn che giấu sự thật,
thoái thác trách nhiệm hoặc đánh lạc hướng người chủ trì, trình bày của người đối
thoại mâu thuẫn với thực tế khách quan. Tuy nhiên, có trường hợp nguyên nhân
gây ra mâu thuẫn là do trình độ, khả năng diễn đạt, do trạng thái tâm lý không ổn
định, do hiểu không đúng bản chất sự việc, hiện tượng, do trí nhớ kém nên trình
bày không đúng với thực tế khách quan. Mỗi loại mâu thuẫn do những nguyên nhân
khác nhau gây ra cần có phương pháp thích ứng giải quyết chúng.
+ Sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh
Chỉ khi phát hiện ra mâu thuẫn và
nguyên nhân gây mâu thuẫn, người chủ trì đối thoại mới có thể chọn được cách giải
quyết đúng đắn.
Thông thường mâu thuẫn do trí nhớ của
người tham gia đối thoại kém mà trình bày sai thì người chủ trì phải dùng cách
gợi nhớ, nếu do trình độ và khả năng diễn đạt kém thì dùng kỹ thuật hỏi tuần tự,
nếu tâm lý căng thẳng thì phải tạo ra bầu không khí cởi mở, thân thiện để làm
yên lòng người đối thoại.
Đối với mâu thuẫn do người đối thoại cố
ý trình bày sai sự thật tạo ra thì ta mới sử dụng mâu thuẫn để làm rõ và có
thái độ kiên quyết. Trong quá trình sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh cần tuân
theo một số quy tắc sau:
Mâu thuẫn phải được sử dụng đúng lúc,
tùy thuộc vào diễn biến của cuộc đối thoại mà chọn thời điểm cho đúng.
Quá trình sử dụng mâu thuẫn là quá
trình đấu lý, đấu lẽ, do đó người giải quyết cần đưa ra được những căn cứ khoa
học và có thái độ khách quan.
d) Kỹ thuật nêu vấn đề và giải quyết vấn
đề trong đối thoại:
- Các điều kiện
+ Phù hợp với quy định của pháp luật
nói chung, về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng;
+ Có căn cứ khoa học, chứng cứ thu được
phải có giá trị pháp lý.
- Kỹ thuật đối thoại trực tiếp
Đối thoại trực tiếp trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo bao gồm cả đối chất và chất vấn, tức hỏi và trả lời, hay nói
cách khác là giải thích những câu hỏi những vấn đề đặt ra. Trong đối thoại để
phục vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, người chủ trì cũng có khi phải trả lời
câu hỏi của người đối thoại nhưng chủ yếu họ vẫn là người đặt câu hỏi để người
tham gia đối thoại giải thích.
+ Kỹ thuật hỏi: có nhiều kỹ thuật về hỏi
trong các cuộc đối thoại đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn, nhưng
những kỹ thuật điển hình và phổ biến nhất là nêu câu hỏi ngắn, rõ ràng cho các
bên tham gia đối thoại và trả lời đúng trọng tâm nội dung của vấn đề nêu ra
trong cuộc đối thoại.
+ Kỹ thuật trả lời: như trên đã nói
người chủ trì chủ yếu là đặt câu hỏi nhưng cũng có khi người đối thoại đặt câu
hỏi để người chủ trì trả lời giải thích, trong trường hợp này, người chủ trì phải
chú ý:
Đánh vào tâm lý đối tượng tham gia đối
thoại tình cảm, chan hòa;
Người chủ trì phải thực sự thành tâm,
cho dù kỹ thuật đặt câu hỏi sáng tỏ vấn đề có mang dáng dấp của “thủ đoạn” cũng
là vì mục đích của sự thật khách quan chứ không phải có ý đồ cá nhân không lành
mạnh;
Đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi, kết luận
vấn đề sao cho chính xác, khách quan, không để các đối tượng hiểu lầm là mình
thiên vị bên kia;
Không đặt câu hỏi ngay mà nên có lời
thăm hỏi sức khỏe, sự làm ăn của họ, kể một câu chuyện...
Nếu vấn đề nào chắc chắn thì mới trả lời
và khẳng định ai đúng, ai sai và khuyết điểm, trách nhiệm của từng người đến
đâu;
Nếu chưa rõ hoặc cần xin ý kiến người
có thẩm quyền thì cũng giải thích rõ như vậy và chưa khẳng định ai đúng, ai
sai;
Quá trình trả lời phải lồng vấn đề
tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kết thúc câu trả lời phải đặt được vấn đề
cho câu hỏi tiếp theo, không được đưa cuộc đối thoại vào chỗ cụt khi mục đích đối
thoại chưa đạt được.
+ Kết thúc đối thoại và biên bản ghi
nhận:
Cuộc đối thoại dù có được chuẩn bị kỹ
như thế nào, quá trình đối thoại dù có thành công đến đâu nhưng nếu kết quả đó
không được ghi lại bằng các biên bản và các bên ký xác nhận thì cũng không có
tính pháp lý. Do vậy, ghi biên bản trong quá trình đối thoại là một nguyên tắc
hết sức quan trọng. Mặc dù việc ghi biên bản không phải thuộc chức trách của
lãnh đạo cấp sở, song họ cũng nên lưu ý: khi ghi biên bản cần chú ý những vấn đề
nhất định, chẳng hạn như:
· Về nội dung:
Biên bản phải được ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng không tẩy xóa, đồng thời cũng phải “chốt” được những nội
dung mà mục đích đối thoại đã đặt ra. Muốn vậy, người được phân công ghi biên bản
cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo về:
Giấy, bút (không được ghi bút đỏ, bút
chì);
Vị trí ngồi sao cho dễ quan sát, dễ
nghe, dễ viết...;
Nội dung những tình huống dự kiến sẽ đề
cập đến.
Trong quá trình đối thoại người ghi
biên bản phải tập trung cao độ, lắng nghe, phân tích để tổng hợp một cách khách
quan, trung thực. Nếu kết thúc một vấn đề đối thoại mà các bên đã khẳng định được
đúng, sai thì phải thể hiện rõ trong biên bản, trong đó nêu cả những căn cứ
pháp lý, căn cứ thực tế và quan điểm của các bên.
· Về hình thức:
Cũng như những loại biên bản làm việc
khác, biên bản đối thoại phải ghi rõ ngày, giờ, địa điểm tổ chức, thành phần
tham gia và ngày giờ kết thúc;
Vì bản chất đối thoại là trao đổi, so
sánh, làm rõ, sáng tỏ một vấn đề, do đó biên bản đối thoại nên viết dưới hình
thức hỏi - đáp;
Khi kết thúc cuộc đối thoại phải đọc
biên bản cho mọi người cùng nghe và ký tên xác nhận. Tuy nhiên, trên thực tế có
thể có những người tham gia không tự đọc hoặc xem lại sau khi được nghe, nhưng
đều phải ký xác nhận.
2. Kỹ năng trả lời chất vấn
a) Chất vấn - sự đối thoại mang tính
quyền lực:
- Mục tiêu
Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt
quan trọng, thể hiện quyền lực của cơ quan dân cư ở địa phương. Tại kỳ họp, chất
vấn là nội dung thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Thông qua chất
vấn, các đại biểu thể hiện trách nhiệm của mình đối với cử tri. Đồng thời, qua
việc trả lời chất vấn, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và các cơ
quan chức năng.
- Yêu cầu
Chất vấn và trả lời chất vấn phải được
coi là công cụ giám sát trực tiếp, nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân. Hoạt động chất vấn ngày càng thiết thực và có chiều sâu.
Nội dung chất vấn ngày càng sắc sảo, câu hỏi chất vấn ngắn gọn, rõ ràng, có trọng
tâm, thể hiện được những vấn đề bức xúc của cử tri. Cần mạnh dạn trong việc
tranh luận, truy vấn để làm rõ vấn đề.
b) Kỹ năng trả lời chất vấn:
- Nội dung chất vấn
Nội dung trả lời phải trọng tâm, ngắn
gọn, không phân tích viện dẫn các lý do dài dòng. Những vấn đề đại biểu, cử tri
phản ánh không đúng hoặc chỉ đúng một phần thì đưa ra cơ sở chứng minh, đồng thời
tư vấn cách tiếp cận và phản ánh thông tin chuẩn xác hơn. Trong quá trình chất
vấn, những vấn đề cử tri và đại biểu phê bình về tinh thần trách nhiệm, tiến độ
giải quyết chậm... thì bình tĩnh nêu rõ tình hình, những vướng mắc, khó khăn
trong quá trình giải quyết. Tiếp thu nghiêm túc, có thái độ thiện chí, cầu thị,
làm rõ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Nếu hứa giải quyết vấn đề nào
đó cần nêu rõ phương án, lộ trình thực hiện cụ thể để đại biểu và cử tri giám
sát.
- Thái độ chất vấn
Phải linh hoạt, bảo đảm phiên chất vấn
được thực hiện dân chủ, cởi mở và thẳng thắn, phát huy tinh thần trách nhiệm của
đại biểu cũng như trách nhiệm của người trả lời chất vấn; chủ tọa kỳ họp có thể
gợi mở cho các đại biểu dự kỳ họp nêu thêm câu hỏi thảo luận để tạo không khí
sôi nổi và sinh động hơn.
- Kỹ năng đặt và trả lời câu hỏi
+ Kỹ năng đặt và trả lời câu hỏi:
Chuẩn bị kỹ lưỡng về các nguồn thông
tin, phải khảo sát thực tế để đặt ra các câu hỏi và trả lời đủ tầm, vừa đúng, vừa
trúng.
Khi trả lời những câu hỏi chất vấn, cần
tránh lúng túng và rơi vào thế bị động. Nên nhớ rằng, thông thường đó sẽ là các
câu hỏi đề cập tới những vấn đề an sinh xã hội, đang gây nhiều bức xúc trong dư
luận xã hội và nhân dân địa phương hoặc gắn với lĩnh vực công tác của người đại
biểu. Do đó, cần phải nắm đầy đủ và chắc những vấn đề người chất vấn muốn hỏi.
Trước khi trả lời cần tập hợp và phân loại câu hỏi thành những nhóm vấn đề
chung để chuẩn bị cách trả lời khái quát nhất. (Đây là cách tốt nhất thể hiện
năng lực tập hợp, xử lý thông tin, khả năng phân tích vấn đề...). Cũng cần xếp
các vấn đề theo thứ tự ưu tiên để trả lời những câu hỏi nắm rõ và chắc nhất có
như vậy sẽ có cơ hội thể hiện năng lực và kỹ năng của mình. Đối với những vấn đề
chưa rõ, chưa am hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ có thể trả lời chung chung hoặc xin
tiếp thu, nghiên cứu và tìm hiểu thêm tránh trả lời hấp tấp, vội vàng, tùy tiện.
Một số nội dung cần quan tâm là:
· Người chất vấn sẽ hỏi những câu liên quan chặt
chẽ đến lợi ích của họ;
· Có thể người chất vấn sẽ chưa tin rằng người
bị chất vấn sẽ làm được những điều đã hứa trong bản chương trình hành động, và
họ sẽ hỏi kỹ người bị chất vấn làm thế nào để đạt được kết quả, từ đó phát sinh
việc chất vấn đối với các đại diện cơ quan chính quyền;
· Có khi vấn đề hỏi để thử thách tính cách, bản
lĩnh trả lời từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền như thế nào về những chuyện
nóng bỏng hiện nay;
· Hãy chú ý lắng nghe, tập trung suy nghĩ.
Chăm chú nhìn vào người nói thể hiện sự tôn trọng và thấu hiểu. Có thể đôi lúc
sử dụng từ đệm khi nghe câu hỏi: vâng, vâng ạ, dạ; hoặc cử chỉ: gật đầu tỏ ý hiểu,
cười thông cảm…;
· Thái độ tiếp thu vui vẻ, khiêm tốn, luôn giữ
nét mặt tươi tắn, không tỏ ra bối rối, không lo sợ, không giận dữ trước những
câu hỏi gai góc;
· Nếu không nhớ được, hãy ghi chép nhanh, đầy
đủ các câu hỏi, không bỏ sót chi tiết;
· Phân loại trước các nhóm vấn đề để xếp các
câu hỏi cùng một nhóm vào với nhau để lúc trả lời đỡ tốn thời gian. Ví dụ, các
nhóm vấn đề: pháp luật, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, bản thân.... Những
câu hỏi nào cùng một nhóm thì trả lời chung một lần;
· Trước khi trả lời nên nói lời cảm ơn về việc
đã nêu ý kiến;
· Trả lời đúng vào câu hỏi, ngắn gọn, rõ ràng;
· Chọn những vấn đề đã nắm vững để trả lời trước;
· Những vấn đề không thuộc chức năng, phạm vi
giải quyết của mình; những vấn đề khó trả lời ngay thì xin tiếp thu, đề nghị được
để lại nghiên cứu kỹ hơn trả lời sau, hoặc chuyển cho các cơ quan có trách nhiệm
trả lời;
· Không nên từ chối trả lời câu hỏi. Nếu không
trả lời được, hãy nói rằng: đây là một câu hỏi thiết thực, tôi cũng quan tâm và
muốn biết thêm, nhưng hiện nay tôi chưa có đầy đủ thông tin, vì vậy tôi xin được
tiếp thu và sẽ cố gắng tìm hiểu thêm vấn đề này;
· Không nên hứa bất cứ điều gì mà mình không
thể làm được;
· Khi không còn thời gian trả lời, phải xin lỗi.
· Lắng nghe ý kiến người chất vấn, nhưng cũng phải
biết nói lại những gì họ hiểu chưa đúng, nói chưa đúng, không phải họ nói gì
mình cũng vâng dạ, làm cho cử tri thiếu tin mình. Điều rất quan trọng là bản
chương trình hành động của mình phải được viết sẵn ra giấy, thuyết trình phải
có tính thuyết phục, có sức thu hút. Khi người chất vấn phát biểu mình phải ghi
chép đầy đủ, không bỏ sót tý nào.
· Sử dụng ngôn ngữ nói:
Âm lượng lời nói: Hãy nói đủ to để gây
ấn tượng về quyền lực và sự nhiệt tình. Nhưng không nên nói quá to, không nói
quá nhỏ, nói vừa đủ để tất cả mọi người trong phòng nghe được và hiểu mình.
Giọng nói từ tốn, điềm đạm.
Tốc độ nói vừa phải sẽ giúp người nghe
có thời gian tiếp nhận và suy nghĩ về những gì đại biểu nói. Nói chậm đi cũng
giúp đại biểu có chút thời gian để suy nghĩ và để thở, thấy tự tin hơn. Tuy
nhiên, nên nhớ rằng thời gian có hạn, nếu nói chậm đại biểu sẽ không đủ thời
gian trình bày hết nội dung của bài. Bởi vậy, nên giữ tốc độ nói không nhanh
quá, không chậm quá. Như đã trình bày ở phần trên, tập nói trước sẽ giúp đại biểu
làm quen với tốc độ nói thích hợp.
Ngữ điệu nói: Không nên nói đều đều
làm người ta thấy chán. Hãy thay đổi ngữ điệu nói để làm cho bài trình bày thêm
sinh động. Ví dụ, để mọi người chú ý đến những nội dung quan trọng, hãy nói to
hơn, ngừng lại một chút hoặc nhắc lại từ của nội dung đó. Khi sắp kết thúc bài
trình bày vẫn phải giữ giọng nói nhiệt tình, sôi nổi. Nói những câu cuối cùng
chậm lại, thật rõ ràng.
Dùng từ: dùng từ cẩn thận, tránh gây
hiểu lầm, gây tổn thương. Chú ý cả tình cảm chứ không chỉ lý trí. Nên dùng
“chúng ta” và “của chúng ta” chứ không nên dùng “tôi” và “các quý vị” (trừ lúc
giới thiệu bản thân). Chú ý cách xưng hô, dùng từ phù hợp với cử tri nơi có những
sắc thái văn hóa, đặc điểm dân tộc khác nhau. Nếu được, dùng tiếng của đồng bào
dân tộc thiểu số đúng lúc, đúng chỗ cũng có thể gây thiện cảm của cử tri.
· Sử dụng điệu bộ, cử chỉ:
Chú ý ánh mắt: mắt nhìn thẳng vào cử
tri. Nếu đại biểu chỉ nhìn vào một nhóm người nghe thì gây cảm giác rằng đại biểu
chỉ chú ý đến nhóm đó mà bỏ quên nhóm khác. Vì vậy, khi nói, hãy đưa ánh mắt
bao quát toàn bộ phòng họp, không bỏ sót một góc nào.
Nét mặt luôn giữ tươi tắn; có thể
nghiêng đầu, gật đầu lúc thích hợp.
Không để đôi tay một chỗ gò bó, mà hãy
sử dụng tay một cách tự nhiên để nhấn mạnh ý hoặc chuyển ý.
Tránh những động tác, cử chỉ buồn cười:
che miệng, gãi đầu…; Không chống tay vào hông hoặc bỏ tay vào túi quần (áo),
không mân mê bút mực, bút chì hoặc micro trên tay. Trong lúc trình bày không
cúi xuống để ghi chép hoặc sửa văn bản, không sửa tóc hoặc sửa quần áo.
Trường hợp tiếp dân tiếp nhận đơn thư
khiếu nại tố cáo:
Chuẩn bị bối cảnh thuận lợi cho việc
bày tỏ, phản ánh của công dân. Ví dụ như chọn vị trí ngồi (hoặc đứng), khoảng
cách, không gian, ánh sáng phù hợp; hạn chế các yếu tố nhiễu có thể xảy ra làm
gián đoạn cuộc tiếp xúc (như người ra, người vào,...).
Lắng nghe, tôn trọng ý kiến của công
dân; bình tĩnh và kiên nhẫn trước thái độ bức xúc của người có vấn đề cần khiếu
nại. Đặt câu hỏi đúng cách để khích lệ người nói hoặc kiểm tra chéo thông tin.
Ghi chép đầy đủ, trung thực.
- Kỹ năng giải trình
Trước hết theo cách hiểu thông thường
thì giải trình là giải thích, trình bày nhằm làm sáng rõ một vấn đề gì. Trong
tiếng Anh “accountability” (trách nhiệm giải trình) có nguồn gốc Latin là “(giải
thích)”. Trong hoạt động của bộ máy công quyền thì trách nhiệm giải trình là việc
cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Theo
đó, cơ quan nhà nước; cán bộ, công chức nhà nước, phải có trách nhiệm thực thi
công việc được giao đạt kết quả và phải chịu hậu quả khi chưa làm tròn trách
nhiệm. Xét về phương diện luật thực định ở Việt Nam hiện nay thì dường như khái
niệm trách nhiệm giải trình chủ yếu bao gồm nội dung thứ nhất, tức là trách nhiệm
giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu.
Theo Luật Khiếu nại quy định, nghĩa vụ
của người bị khiếu nại là: giải trình về tính hợp pháp, đúng đắn của quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại khi người giải quyết khiếu nại hoặc
cơ quan, đơn vị kiểm tra, xác minh yêu cầu. Trong một số trường hợp giải trình
không chỉ là trách nhiệm mà cũng có thể được coi là quyền của một chủ thể nào
đó được phát biểu, nói lên ý kiến giải thích cho việc làm của mình là đúng đắn,
hợp pháp.
Đặc điểm của trách nhiệm giải trình hướng
lên trên là cấp bậc và hình thức thưởng phạt về hành chính, trong khi đó đặc
tính của trách nhiệm giải trình hướng xuống dưới là phản hồi từ khách hàng,
cung cấp thông tin cho khách hàng và sự tham gia trong quá trình ra quyết định.
Nhìn từ góc độ cải cách hành chính, việc thực hiện trách nhiệm giải trình sẽ
góp phần tăng cường hơn nữa sự đối thoại giữa người dân và cơ quan nhà nước.
Người dân và doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận dễ dàng với các thông tin, quyết
định và biện pháp của cơ quan quản lý và qua đó mà việc thực hiện các biện
pháp, quyết định này sẽ thuận lợi hơn. Có nhiều ý kiến cho rằng nếu thực hiện tốt
trách nhiệm giải trình thì sẽ giảm một phần đáng kể các khiếu kiện, thắc mắc của
người dân đến các cơ quan nhà nước. Để đạt được hiệu quả thì có lẽ việc thực hiện
trách nhiệm giải trình không chỉ xảy ra khi có yêu cầu mà còn có những trường hợp
cơ quan nhà nước chủ động khi xét thấy cần thiết. Chẳng hạn khi xảy ra một sự cố,
ảnh hưởng đến lợi ích của một hay nhiều người, gây ra những luồng thông tin
trái chiều, những hoang mang, lo lắng cho người dân thì cơ quan nhà nước cần sớm
thể hiện trách nhiệm của mình để có những thông tin chính xác, kịp thời về sự
việc, xác định trách nhiệm của những tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là
có những thông báo về các biện pháp mà cơ quan nhà nước đã và đang tiến hành để
khắc phục hậu quả hay ngăn chặn những sự việc tiếp theo có thể xảy ra.
3. Kỹ năng tiếp dân
a) Mục đích và ý nghĩa của việc tiếp
dân:
- Mục đích
Tiếp công dân và giải quyết các công
việc của dân là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ công tác thường
xuyên của các cấp các ngành, các cơ quan, đơn vị. Việc tiếp công dân nhằm mục
đích tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên quan
đến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công
tác quản lý của cơ quan đơn vị. Đây là sự cụ thể hóa quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của Nhà nước và xã hội của
công dân, là sự cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Đồng thời đây cũng là sự thể hiện sinh động bản chất dân chủ, nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của Nhà nước ta.
Tiếp công dân nói chung hay tiếp dân
còn là để hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo nói
riêng là một hoạt động quan trọng trong chức trách của đại biểu nhằm thu thập ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị của công dân; giải thích, tuyên truyền chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho công dân và tiếp nhận đơn thư của công dân
để chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định
của pháp luật.
- Ý nghĩa
Làm tốt công tác tiếp công dân sẽ góp phần
phát huy bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước
ta, củng cố thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Thực
hiện tốt việc tiếp công dân là sự thể hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối
với nhân dân, sẽ tác động tích cực đến tình cảm, thái độ của nhân dân, xây dựng
niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước. Cũng thông qua việc tiếp công
dân để giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân, Đảng và Nhà nước có điều kiện lắng
nghe, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, thắc mắc, ý kiến của người dân liên quan trực
tiếp tới hoạt động của cán bộ, các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước. Mặt khác làm tốt công tác tiếp công dân cũng sẽ
góp phần khơi dậy tiềm năng, trí tuệ của nhân dân giúp cho Đảng và Nhà nước nói
chung, các cơ quan nhà nước nói riêng thu nhận được những thông tin phản hồi.
Tiếp công dân nói để hướng dẫn, giúp đỡ
công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng là một hoạt động quan trọng
trong chức trách của cán bộ, công chức nhằm thu thập ý kiến, nguyện vọng, kiến
nghị của công dân; giải thích, tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước cho công dân và tiếp nhận đơn thư của công dân để chuyển hoặc để giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Thông qua hoạt động tiếp dân, lãnh đạo
cấp sở có thể:
+ Đảm bảo sự liên hệ chặt chẽ, hai chiều
giữa chính quyền địa phương với công dân. Nhờ đó, hạn chế các nguy cơ về quan
liêu, xa rời quần chúng của chính quyền địa phương;
+ Thu thập ý kiến, kiến nghị của công
dân để giải quyết theo thẩm quyền.
+ Giải thích, tuyên truyền, vận động để
nhân dân thực hiện các chính sách và pháp luật nhà nước;
+ Có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân;
+ Có cơ sở để công dân giám sát hoạt động
của các cơ quan công quyền.
Chính vì vậy, cán bộ, công chức nói
chung và lãnh đạo cấp sở nói riêng cần nắm vững các quy tắc luật định, đồng thời
thực hành nhuần nhuyễn các kỹ năng đối với hoạt động tiếp công dân để vận dụng
có hiệu quả vào thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Đặc thù của hoạt động tiếp dân
Trên nền của các đặc điểm của quá
trình giao tiếp công vụ nói chung, cán bộ, công chức cần nắm rõ các đặc thù của
hoạt động tiếp dân - một trạng thái, một hình thức giao tiếp cụ thể gắn với các
mục tiêu công vụ trong đó một bên là cán bộ, công chức và một bên là công dân
như là đối tượng phục vụ của nền công vụ, của cơ quan chính quyền địa phương.
+ Tiếp công dân là hoạt động giao tiếp
trực tiếp, liên quan đến sự tiếp xúc mặt đối mặt với cử tri, công dân. Chính vì
vậy, nó có đầy đủ các thế mạnh của hoạt động tiếp xúc trực tiếp (như nhiều
thông tin, thông điệp đến đối tượng nhanh hơn so với hình thức giao tiếp bằng
văn bản,...); đồng thời, cũng mang theo các nguy cơ của tiếp xúc trực tiếp (như
áp lực thời gian dẫn đến hiện tượng suy nghĩ không chín muồi, lỡ lời, ...). Ý
thức được điều này, trong tiếp xúc với công dân nói chung hay tiếp dân giải quyết
khiếu nại tố cáo, cần có sự chuẩn bị kỹ càng về thông tin, tâm lý, tâm trạng, sức
khỏe,... để có thể tập trung vào cuộc tiếp xúc, phân tích diễn biến, xử lý
thông tin nhanh và chính xác, làm cơ sở cho việc phát ngôn hợp lý.
+ Đó là hoạt động đa dạng về đối tượng.
Sự đa dạng này bao gồm mọi khía cạnh như nhóm thành phần, ngành nghề (trí thức,
công nhân, nông dân), tuổi tác, giới tính, xuất thân vùng miền,.... Họ lại càng
khác biệt về nguyện vọng và tâm trạng cụ thể. Cho dù đa số công dân hay cử tri
có nguyện vọng chung liên quan đến các quyền và lợi ích chính đáng của công
dân. Họ vẫn xuất hiện với những mức độ hiểu biết khác nhau về các vấn đề liên
quan, có những cách diễn đạt ý nghĩ khác nhau và nguyện vọng được đáp ứng nhu cầu
đó một cách cụ thể riêng biệt. Tâm trạng cụ thể, cách thể hiện cảm xúc và khả
năng kiểm soát cảm xúc của họ khi tiếp xúc với cán bộ, công chức lại càng khác
biệt. Chính vì vậy, việc nghiên cứu kỹ đối tượng và có được những kỹ năng như
nhận diện tính cách và tâm trạng của đối tượng giao tiếp có vai trò quan trọng
đối với cán bộ, công chức.
+ Tiếp công dân là hoạt động mang tính
bối cảnh, tình huống cụ thể. Cho dù hoạt động đó có thể được khái quát hóa
thành các quy trình, các công thức,... gắn với các mục tiêu mang tính phổ quát,
hay các yếu tố ảnh hưởng mang tính phổ biến, mỗi cuộc tiếp xúc, tiếp dân luôn
có những đặt thù bối cảnh gắn với khu vực tiếp xúc, đối tượng tham gia tiếp
xúc, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương vào thời điểm tiếp
xúc, hay chính bản thân uy tín, diện mạo của người trực tiếp tiếp xúc, tiếp
dân.
+ Trình độ và yêu cầu của công dân đối
với quản lý nhà nước ngày càng cao. Trong xu hướng chung của sự phát triển xã hội,
trình độ công dân ngày càng được nâng cao và các yêu cầu, trông đợi của họ đối
với quản lý nhà nước cũng thay đổi tương ứng. Công dân đang có khả năng và những
cơ hội tốt hơn để hiểu và thực hiện quyền và trách nhiệm công dân của mình. Do
vậy họ cũng đòi hỏi những thay đổi tương ứng từ phía các cơ quan nhà nước.
Chính vì vậy, dù có thể đã có nhiều kinh nghiệm và thành tựu trong nhiệm kỳ trước,
ở địa bàn khác, trong các lĩnh vực khác của đời sống cá nhân hay đời sống làm
việc, cán bộ, công chức cũng cần không ngừng cập nhật, học tập để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công dân và xã hội.
+ Công dân không nhất thiết “hiểu nội
tình”. Đây là một yếu tố quan trọng chỉ ra sự khác biệt giữa giao tiếp nội bộ của
cán bộ, công chức trong môi trường công sở và khi tiếp công dân. Các quy trình,
thủ tục, các thông tin và cách thức giao tiếp trong nội bộ khi giải quyết vấn đề
có thể được xem là “đương nhiên”, “dễ hiểu” giữa các cán bộ, công chức với
nhau, nhưng lại có thể là mới hoặc không rõ ràng với công dân. Chính vì vậy,
trong tiếp dân cán bộ, công chức cần chú ý đặt mình vào tâm trạng, vào thế của
công dân để có thể hiểu và tìm cách nói, cách giải thích cho thuyết phục.
+ Cán bộ, công chức tiếp công dân là đại
diện cho quyền lực nhà nước để giải quyết công việc. Do đó mọi phát ngôn hay
hành động của cán bộ, công chức đều gắn với thẩm quyền theo luật định, đại diện
cho quyền lực nhà nước giải quyết công việc trong một tư cách nhất định với những
giới hạn nhất định về chức trách.
+ Quá trình tiếp dân cần diễn ra theo
những quy trình, thủ tục được quy định. Quá trình tiếp xúc, tiếp dân hay giao
tiếp với nhân dân nói chung của cán bộ, công chức là sự hiện thực hóa quyền lực
nhà nước ở thẩm quyền tương ứng, nhằm gắn với các mục tiêu quản lý nhà nước cụ
thể.... Chính vì vậy, cách thức, quá trình tiếp dân đều cần tuân thủ những chuẩn
mực nhất định như về khu vực tiếp xúc, địa điểm, thời điểm tiếp xúc, cách thức
thu thập và xử lý thông tin, giải quyết công việc của công dân sao cho hiệu quả
nhất,....
+ Tiếp dân là một quá trình chịu nhiều
áp lực. Cán bộ, công chức vừa là đại diện cho quyền lực nhà nước, song đồng thời
là công bộc của dân, do vậy họ phải chịu đầy áp lực sao cho đảm bảo trách nhiệm
trên tinh thần cầu thị hướng tới phục vụ nhân dân. Thêm vào đó là các áp lực về
sự hạn chế về thời gian, những hạn chế của hệ thống pháp luật, hay những hạn chế
nhất định của bản thân cán bộ công chức về sức khỏe, kiến thức,....
b) Tổ chức tiếp dân:
- Trách nhiệm của lãnh đạo cấp sở và
tương đương trong tiếp dân
Lãnh đạo cấp sở có trách nhiệm tiếp
công dân và tổ chức việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo; bố trí cán bộ có phẩm chất tốt,
có kiến thức am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác
tiếp công dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của công
tác tiếp công dân, từ trước đến nay Đảng, nhà nước ta đã luôn quan tâm chú trọng
thực hiện tốt công tác này, đặc biệt là việc thể chế hóa công tác tiếp công dân
thông qua các chỉ thị và các văn bản pháp luật.
Tiếp công dân của Thủ trưởng là để trực
tiếp lắng nghe, trực tiếp xem xét, giải quyết chỉ đạo việc xem xét, giải quyết
các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của mình. Đồng thời, qua việc trực tiếp
tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cũng biết được tình hình khiếu nại, tố
cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị cấp dưới, từ
đó có biện pháp kiểm tra, đôn đốc cấp dưới trong công tác tiếp công dân, xử lý
đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khi tiếp công dân, nếu tiếp nhận những
khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết thì
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức
tạp cần nghiên cứu xem xét thì nói rõ thời hạn giải quyết và người cần liên hệ
tiếp để biết kết quả giải quyết.
Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ
quan, đơn vị phải được cán bộ giúp việc ghi chép đầy đủ vào sổ tiếp công dân và
được lưu giữ tại nơi tiếp công dân. Những ý kiến chỉ đạo của Thủ trưởng trong
việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân cần được thông báo
bằng văn bản đến cho các bộ phận liên quan biết để triển khai thực hiện theo
đúng yêu cầu, nội dung chỉ đạo.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc tiếp công dân
được thể hiện qua trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đối với Giám đốc sở
và cấp tương đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi tiếp công dân có trách
nhiệm tiếp nhận và xử lý các khiếu nại thuộc thẩm quyền theo quy định sau:
Đối với khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp thì
giao cho trưởng phòng ban chuyên môn thuộc sở hoặc Chánh Thanh tra sở xác minh,
kết luận và kiến nghị việc giải quyết.
Đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ
quan thuộc sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì giao cho Chánh Thanh tra
sở tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết.
Đối với đơn thư tố cáo, trong quá
trình tiếp công dân, Giám đốc sở phải tiếp nhận các đơn tố cáo; nếu nội dung tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật của trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc sở, những
người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp thì thụ lý để xem xét giải quyết;
nếu nội dung tố cáo không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết.
Trong quá trình tiếp công dân nếu thấy
các vụ việc đã có quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật thuộc phạm vi
trách nhiệm của mình thì Giám đốc sở phải tổ chức việc thi hành, kiểm tra, đôn
đốc các phòng ban thuộc sở thi hành các quyết định đó.
- Nội quy tiếp dân của cấp sở và tương
đương
Các quy định của pháp luật về trách
nhiệm của người tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân, về quyền và nghĩa vụ của
công dân tại nơi tiếp công dân của sở.
Nội quy này có thể được xây dựng gồm
các mục sau:
· Những quy định chung;
· Lịch tiếp công dân;
· Quy định đối với công dân khi đến nơi tiếp
công dân;
· Quy định đối với cán bộ tiếp công dân;
· Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ tiếp dân;
· Điều khoản thi hành.
- Chỉ đạo cán bộ tiếp công dân
Khâu chuẩn bị cho buổi tiếp công dân của
lãnh đạo cấp sở phải được các bộ phận tham mưu, giúp việc tiến hành chu đáo. Việc
tiếp công dân phải được cán bộ giúp việc ghi chép đầy đủ vào sổ tiếp công dân
và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân.
Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo. Trách nhiệm tổ chức công tác tiếp
công dân bao gồm: phải bố trí địa điểm thuận tiện, bảo đảm các điều kiện vật chất
cần thiết để công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Tiếp công dân
là công tác có ý nghĩa rất quan trọng, nó liên quan đến chất lượng, hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và liên quan đến việc thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân do đó, việc bố trí nơi tiếp công dân thuận tiện, chu đáo nhằm mục
đích đưa công tác tiếp công dân vào nề nếp, hạn chế các hành vi tiêu cực của
cán bộ, công chức trong quá trình tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo; góp phần
khắc phục tình trạng công dân đến nhà riêng để khiếu nại, tố cáo, làm ảnh hưởng
đến những sinh hoạt bình thường của cán bộ, công chức. Đồng thời, việc tiếp
công dân đến khiếu nại, tố cáo là thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công
dân, người tiếp công dân với tư cách là đại diện cho cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cho nên việc tiếp công dân cần phải tiến hành tại nơi tiếp công dân. Mặt
khác, việc tiếp công dân phải tiến hành tại nơi tiếp công dân mới bảo đảm thực
hiện đầy đủ các thủ tục tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, từ đó mới có cơ sở để xác
định trách nhiệm của người tiếp công dân theo đúng quy định của pháp luật.
+ Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết
lịch tiếp công dân, nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi nhận
cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi
rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại,
tố cáo.
+ Bố trí cán bộ có phẩm chất, đạo đức,
có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công
tác tiếp công dân. Tiếp công dân là việc làm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa
nhân dân với Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước, của nhân dân, do nhân
dân, vì dân. Nội dung các vấn đề phản ánh ở nơi tiếp công dân rất đa dạng, liên
quan đến chính sách, pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Do đó, trách nhiệm
của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải bố trí những cán bộ có đủ khả năng,
tiêu chuẩn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cụ thể hóa tiêu chuẩn của cán bộ tiếp
công dân như sau:
· Có phẩm chất tốt: đây là tiêu chuẩn chung của
cán bộ, công chức và đối với người cán bộ tiếp công dân, đòi hỏi họ phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà
nước. Ở nơi tiếp công dân, hàng ngày cán bộ tiếp công dân phải tiếp cận, giải
thích, hướng dẫn công dân các vấn đề của xã hội, thậm chí là về các vấn đề tiêu
cực của xã hội như tham nhũng, lãng phí, cố ý làm trái ngoài ra đến phòng tiếp
công dân không chỉ đơn thuần là những công dân trách nhiệm, có ý thức xây dựng
mà còn không ít kẻ bất mãn, quá khích. Vì vậy, cán bộ tiếp công dân không chỉ
giải thích, hướng dẫn mà đôi khi còn đòi hỏi bản lĩnh chính trị để đấu tranh với
các luồng tư tưởng sai trái, đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
· Có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật
để có thể hướng dẫn giải thích cho công dân khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Trước hết, đó là những kiến thức pháp luật về khiếu nại, tố cáo, về đất đai,
chính sách xã hội, giải tỏa đền bù, thu hồi đất, kinh tế, tài chính.... Đây là
những lĩnh vực nóng bỏng phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo. Có thể nói
chất lượng, hiệu quả của việc hướng dẫn, giải thích của người cán bộ tiếp công
dân phụ thuộc chủ yếu vào năng lực, trình độ của người cán bộ đó. Nếu cán bộ tiếp
công dân không nắm vững quy định pháp luật, hiểu rõ các chính sách của Đảng và
Nhà nước sẽ không giải thích cho người dân hiểu pháp luật để thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của mình hoặc xác định sai thẩm quyền dẫn đến hướng dẫn cho
người dân đến cơ quan không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, gây ra tâm lý bất
bình cho người dân. Người tiếp công dân cũng cần có trình độ nghiệp vụ vững
vàng để thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật. Chính
vì thế cán bộ tiếp công dân phải là người có kiến thức, am hiểu chính sách pháp
luật. Đây là yếu tố quyết định đến chất lượng công tác tiếp công dân.
· Có tinh thần trách nhiệm với công việc: Tinh
thần trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân không chỉ thể hiện ở khía cạnh là việc
chấp hành đúng giờ giấc, nội quy hoặc có tinh thần làm việc mẫn cán mà tiêu chuẩn
này còn đòi hỏi người tiếp công dân có ý thức đối với sự nghiệp của cách mạng,
sự tồn vong của chế độ xã hội. Người cán bộ đó không chỉ là người đại diện cho
cơ quan, tổ chức mà rộng hơn là đại diện cho Đảng, Nhà nước trong mối quan hệ với
nhân dân. Rất nhiều công dân đến trụ sở tiếp công dân với tâm trạng bức xúc, thậm
chí nhiều người có thái độ gay gắt, lăng mạ, chửi bới cán bộ. Chính những lúc
này người cán bộ tiếp công dân phải mềm dẻo, kiên trì giải thích, thuyết phục họ
và có những biện pháp giải quyết kịp thời. Mọi sự nóng giận, mất bình tĩnh hoặc
nhu nhược đều đem lại những hậu quả xấu cho lợi ích nhà nước, lợi ích cộng đồng.
Mặt khác, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ tiếp công dân còn bị thử thách
bởi tính chất công việc không được hấp dẫn này. Nếu không phải là người có tinh
thần trách nhiệm, có bản lĩnh vững vàng chắc chắn sẽ phát sinh tư tưởng bi
quan, chán nản, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp công dân.
+ Tổ chức công tác tiếp công dân thường
xuyên. Các cơ quan tùy thuộc vào tình hình khiếu nại, tố cáo trong phạm vi
trách nhiệm của địa phương và của ngành mình, phải có trách nhiệm tổ chức tiếp
công dân thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo và kịp thời giải quyết những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
c) Trình tự thủ tục tiếp dân:
- Tiếp xúc ban đầu
Một trong những thủ tục đầu tiên mà
cán bộ tiếp công dân cần làm là đề nghị người khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy
tờ tùy thân (chứng minh thư nhân dân), giấy giới thiệu (nếu là đại diện cơ
quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo), giấy ủy quyền (nếu là người
được ủy quyền). Theo quy định của pháp luật thì hiện nay người khiếu nại có thể
ủy quyền cho người khác thực hiện việc khiếu nại, ngoài ra họ có thể nhờ luật
sư giúp đỡ trong quá trình giải quyết khiếu nại, vì vậy cần phải yêu cầu những
người này xuất trình giấy tờ chứng minh việc đại diện hợp pháp nếu là người đại
diện hợp pháp hoặc Thẻ luật sư nếu là Luật sư. Việc kiểm tra như vậy nhằm xác định
người được tiếp là người khiếu nại, tố cáo thực sự và để tránh các trường hợp
người đi khiếu nại là đối tượng “cò mồi” hoặc khiếu nại thuê, ở giai đoạn này
người tiếp công dân phải quan sát, song cán bộ tiếp công dân cần có ứng xử linh
hoạt khi quan sát thấy người đến khiếu nại đang ở trạng thái tâm lý, bức xúc để
tránh cho việc tiếp xúc ban đầu không thuận lợi.
- Kỹ năng lắng nghe, ghi chép nội dung
trình bày trực tiếp
Cần lưu ý trong trường hợp người đến
khiếu nại chưa có đơn khiếu nại thì cán bộ tiếp công dân hướng dẫn họ làm đơn
theo quy định. Trên cơ sở trình bày của người đến khiếu nại cũng như những
thông tin, tài liệu mà họ cung cấp, cán bộ tiếp công dân ghi nhận tóm tắt nội
dung vụ việc khiếu nại vào Sổ tiếp công dân.
Trong bước này cán bộ tiếp công dân cần
xác định đúng cơ quan có thẩm quyền trực tiếp giải quyết việc khiếu nại, tố
cáo, muốn xác định điều này cán bộ tiếp công dân phải nắm được bản chất của sự
việc, địa điểm, thời gian phát sinh sự việc; cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào
bị khiếu nại, tố cáo; vụ việc đã được chưa? giải quyết như thế nào? quá trình
giải quyết của các cơ quan (nếu vụ việc đã giải quyết), việc khiếu nại, tố cáo
thuộc lĩnh vực nào, ngành luật nào điều chỉnh. Sau khi nắm bắt được những tiêu
chí tương đối cơ bản, cán bộ tiếp công dân phải phân tích, đánh giá xử lý, ở
đây việc xử lý đối với khiếu nại khác so với xử lý tố cáo, cụ thể:
Với việc khiếu nại:
+ Đối với khiếu nại thuộc thẩm quyền
giải quyết của Thủ trưởng cơ quan thì căn cứ vào quy định của pháp luật, cán bộ
tiếp công dân phải tiến hành các thủ tục tiếp nhận khiếu nại, đơn và các tài liệu
có liên quan đến nội dung khiếu nại, cần lưu ý công dân cung cấp đầy đủ các tài
liệu liên quan đến khiếu nại như quyết định hành chính, quyết định giải quyết
khiếu nại (nếu có)... kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản, viết giấy biên nhận
theo mẫu thống nhất làm thành 2 bản ghi lại các tài liệu và đơn đã nhận, hai
bên cùng ký vào biên nhận, giao cho người khiếu nại một bản. Sau khi tiếp nhận
đơn báo cáo với Thủ trưởng đơn vị để có ý kiến chỉ đạo thụ lý giải quyết khiếu
nại.
Chú ý đối với những trường hợp sau khi
công bố kết luận và quyết định giải quyết, người khiếu nại còn có thể cung cấp
thêm tài liệu, bằng chứng mới làm thay đổi bản chất vụ việc thì cán bộ tiếp
công dân cần báo cáo với Thủ trưởng để chỉ đạo xem xét lại việc giải quyết.
+ Đối với trường hợp khiếu nại không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan thì cán bộ tiếp công dân hướng
dẫn công dân đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết và có phiếu hướng dẫn
cho họ.
Kết thúc buổi tiếp công dân cán bộ tiếp
công dân cần ghi chép tóm tắt kết quả tiếp và xử lý của mình vào Sổ tiếp công
dân.
Với vấn đề tố cáo:
+ Cán bộ tiếp công dân đến tố cáo cần
chú ý đảm bảo các quyền của người tố cáo do pháp luật quy định, nhất là việc giữ
bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo, bảo đảm cho người tố cáo
không bị đe dọa, trù dập, trả thù. Do đó, sau khi làm thủ tục kiểm tra, đối chiếu
giấy tờ tùy thân của công dân đến tố cáo, cán bộ tiếp công dân cần lưu ý một số
trường hợp:
Nếu việc tố cáo có tính chất khẩn cấp:
Như tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hiện còn đang diễn ra, có khả năng gây hậu
quả thiệt hại cho lợi ích nhà nước, tập thể, công dân thì cán bộ tiếp công dân
phải nhanh chóng báo cáo cho cơ quan nhà nước để có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp
thời.
Nếu việc tố cáo liên quan đến cá nhân
giữ trọng trách của ngành, hoặc những việc nghiêm trọng, có liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực thì phải báo cáo ngay với Thủ trưởng cơ quan để chỉ đạo
việc tiếp, nếu cần thì đề nghị Thủ trưởng cơ quan trực tiếp tiếp người tố cáo.
+ Trường hợp người đến tố cáo có đơn tố
cáo cần kiểm tra đơn đã có chữ ký hay chưa, nếu là bản phô tô phải yêu cầu người
tố cáo ký lại. Nếu người tố cáo không có đơn mà trực tiếp đến trình bày thì sau
khi ghi chép lại nội dung tố cáo, cán bộ tiếp công dân phải yêu cầu người tố
cáo ký và ghi rõ họ, tên vào biên bản hoặc vào Sổ tiếp công dân.
+ Nếu người tố cáo có yêu cầu được
thông báo kết quả, cán bộ tiếp công dân phải ghi rõ yêu cầu này vào biên bản,
hoặc Sổ tiếp công dân để sau này cơ quan có thẩm quyền thông báo kết quả giải
quyết cho người tố cáo.
- Kết thúc buổi tiếp
+ Đối với tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết của Thủ trưởng cơ quan: Cán bộ tiếp công dân phải viết giấy biên nhận
thành 02 bản, ghi rõ danh mục các tài liệu được tiếp nhận có chữ ký của mình và
người tố cáo rồi giao cho người tố cáo 01 bản, 01 bản còn lại đưa vào hồ sơ để
giao cho cán bộ thụ lý trình Thủ trưởng cơ quan giải quyết trong thời hạn luật
định.
+ Đối với tố cáo không thuộc thẩm quyền:
Cán bộ tiếp công dân chuyển đơn và các tài liệu liên quan đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết.
Trước khi kết thúc buổi tiếp cán bộ tiếp
công dân phải đọc lại biên bản cho công dân nghe và đề nghị ký vào biên bản.
Yêu cầu công dân cung cấp đơn thư, tài liệu, chứng cứ kèm theo để hoàn chỉnh hồ
sơ. Các tài liệu trên được lập thành danh mục, đánh số trang và yêu cầu công
dân ký xác nhận.
4. Kỹ năng quan hệ với truyền thông
a) Xây dựng và tạo lập quan hệ với
truyền thông:
- Truyền thông và quan hệ công chúng
Public Relations (PR) là mọi nỗ lực có
kế hoạch để tạo lập, duy trì và phát triển mối quan hệ hai chiều giữa một tổ chức
với công chúng của nó, hướng tới việc tạo nên sự hiểu biết và ủng hộ của công
chúng đối với tổ chức đó.
Nghề PR phải làm việc nhiều với nhà
báo, để liên tục cung cấp thông tin về tổ chức của mình.
- Vai trò của truyền thông trong PR
chính phủ
Chính phủ ở mức độ nào đó, cũng có thể
được xem như là một thương hiệu với qui mô, phạm vi và cách thức hoạt động đặc
thù để tạo ra các tác động, các hiệu ứng đặc biệt về mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, môi trường trong xã hội mà không có bất cứ một doanh nghiệp nào có thể
so sánh. Trước thực tiễn suy giảm, xói mòn niềm tin đối với chính phủ ở nhiều
quốc gia hiện nay, PR cần được chính phủ quan tâm một cách thích đáng nhằm giúp
tạo dựng một hình ảnh tích cực và niềm tin đối với chính phủ, tăng sự hỗ trợ,
trước hết là từ chính công chúng, rồi đến các đối tượng quan tâm khác; nhằm thu
hút đầu tư và quan trọng hơn là tạo áp lực cho những đổi mới trong chính nội bộ
chính phủ.
b) Kỹ năng quan hệ với truyền thông:
- Học cách truyền đạt
Mục đích của báo chí là cung cấp thông
tin nhưng dưới dạng ngắn gọn. Vì vậy, hãy trình bày “câu chuyện” thật đơn giản,
dễ hiểu. Đừng để các nhà báo, phóng viên phải mất nhiều công biên tập hay giúp
lựa chọn ý kiến. Nói chung, không đơn giản chỉ là nói ra những điều mình biết,
mà còn là sự hiểu biết của chính mình. Vì vậy, nói sao cho ngắn gọn, súc tích,
hấp dẫn là những điều cần học.
- Phản ứng nhanh chóng
Khi làm việc với giới truyền thông cần
phải có kỹ năng cập nhật và phản hồi nhanh chóng. Nếu biết rất rõ về vấn đề gì
đó, nhưng không cung cấp kịp thời cho các nhà báo thì cũng không có ích gì.
- Xử lý tin xấu
+ Không nói dối.
+ Không bưng bít.
+ Đừng lảng tránh các cuộc gọi của
phóng viên.
+ Hãy thừa nhận vấn đề rắc rối.
+ Hãy giải thích cách khắc phục vấn đề.
Khi tiếp xúc với báo chí, cần:
Tự tin và chủ động trong tiếp xúc với
báo chí. Chuẩn bị một tâm thế, tinh thần thoải mái, vui vẻ cho buổi phỏng vấn.
Đừng ngần ngại tiếp xúc với các phóng viên - phỏng vấn là công việc thường ngày
của họ. Biết tận dụng báo chí để chuyển tới công chúng những suy nghĩ, dự định
của mình, sẽ đem lại nhiều lợi thế.
Thể hiện thái độ niềm nở, cởi mở, thân
thiện, tạo cảm tình tốt của phóng viên; nhưng không thân mật quá, mà hãy tạo cảm
giác mình là một người có vị thế trong xã hội, một nhà lãnh đạo. Hãy tỏ ra sẵn
sàng trả lời phỏng vấn và đúng hẹn.
Nhận biết những điểm mạnh và điểm yếu
của bản thân khi tiếp xúc với báo chí. Tập trước để tránh mắc phải những điểm yếu.
Đừng tỏ ra sợ tốn thời gian trả lời các câu hỏi.
Hãy trao đổi một cách trung thực,
không giấu diếm báo chí và cử tri điều gì, nhưng không nói quá những vấn đề
mình biết. Hãy thể hiện cho thấy, bản thân cán bộ, công chức có thể mắc phải một
số điểm yếu, nhưng điểm mạnh chiếm ưu thế hơn nhiều lần.
Hãy chuẩn bị kỹ thông tin trước khi trả
lời phỏng vấn. Nếu có thể hãy đoán trước những câu hỏi mà phóng viên có thể hỏi
để không bị lúng túng khi trả lời. Cần nhớ rằng, báo chí có quyền thể hiện quan
điểm của họ, bởi vậy hãy giữ bình tĩnh và tìm cách trả lời thích hợp nếu phóng
viên nêu những câu hỏi gay gắt, khó trả lời. Mặt khác, lãnh đạo có quyền thể hiện
quan điểm của mình, vì vậy hãy yêu cầu phóng viên cho xem lại bài phỏng vấn trước
khi đăng lên báo để xem lại lời lẽ, ý tứ có đúng với những gì muốn nói không. Nếu
thấy không phải, hãy yêu cầu phóng viên sửa lại cho đúng ý. Như vậy, cần chuẩn
bị trước bài trả lời với các ý rõ ràng, đầy đủ; chuẩn bị trước một số câu nói
ngắn nhưng nói được đúng ý mà công chúng muốn nghe. Trả lời rõ ràng, đủ ý từng
câu hỏi. Không trả lời theo định hướng của phóng viên; dù câu hỏi về nội dung
gì thì cũng nên trả lời những ý mà công chúng muốn nghe.
Dùng ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu,
tránh dùng tiếng địa phương; khi trả lời qua truyền thanh, ngôn ngữ nói rất
quan trọng. Phải chú ý đến âm lượng giọng nói, tốc độ nói, ngữ điệu, cách dùng
từ....
Gặp câu hỏi khó, không nên trả lời
“Tôi không biết” hoặc “Tôi không có ý kiến gì”, mà nên nói “Xin lỗi, tôi chưa sẵn
sàng trả lời câu hỏi này”.
Cần tạo ấn tượng tốt, nên phải ngồi thẳng,
tư thế thoải mái trong suốt cuộc phỏng vấn; giữ nét mặt bình tĩnh, tự tin; sử dụng
cử chỉ tay tự nhiên, không đưa tay quá màn hình máy quay hoặc che màn hình máy
quay.
Tóc chải gọn gàng, quần áo đơn giản, lịch
sự. Tránh mặc quần áo kẻ sọc hoặc có hoa văn và những chi tiết lấp lánh. Chọn
màu phù hợp, tránh lòe loẹt.
Đối với phụ nữ, nếu trang điểm hãy
trang điểm nhẹ nhàng, đậm hơn thường ngày để lên hình không bị nhợt nhạt, nhưng
không quá đậm. Tránh đeo những đồ trang sức to nặng có thể gây tiếng động vào
micro.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
1. Từ thực tiễn công tác, đồng chí hãy
đề xuất những yêu cầu cần thiết đối với hoạt động đối thoại có hiệu quả.
2. Đồng chí hãy cho biết những yếu tố
tác động đến hiệu quả đối thoại trong hoạt động của lãnh đạo cấp sở và tương
đương?
3. Đồng chí hãy cho biết những điều
nên và không nên làm trong quan hệ với truyền thông?
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Lưu Kiếm Thanh. Nghiệp vụ hành
chính văn phòng. H. Thống kê, 2010.
2. Nguyễn Văn Thâm. Kỹ thuật tổ chức điều
hành công sở. H. 2010.
3. Nguyễn Văn Thâm, Lưu Kiếm Thanh (Chủ
biên). Hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ hành chính, NXB. Thống kê, Hà Nội, 1999.
4. Lorin Woolfe. Kinh thánh về nghệ
thuật lãnh đạo. NXB Tri thức, Hà Nội, 2006.
5. Mary Albright, Clay Carr. Cạm bẫy
trong quản lý. NXB Trẻ, 2011.
6. Rudolf Grunig, Richard Kuhn.
Successful Decision Making/ A Systematic Approach to Complex Problems.
Translated from German by Anthony Clark and Clair O’Dea. Springer,
2005./.
Phần III
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ VÀ VIẾT ĐỀ
ÁN
Mục 1: NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
1. Muc đích
a) Giúp học viên quan sát và trao đổi
kinh nghiệm công tác qua thực tiễn tại cơ quan cấp sở và tương đương cụ thể.
b) Giúp học viên gắn giữa lý thuyết với
thực tế.
2. Yêu cầu
a) Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tổ chức đi
thực tế cho học viên. Có thể lựa chọn nghiên cứu thực tế thực hiện việc quản
lý, điều hành 1 sở thuộc khối Kinh tế, khối Văn hóa - xã hội hoặc khối Nội
chính phù hợp với thực tế công tác của học viên.
b) Cơ quan, đơn vị nơi học viên đến thực
tế chuẩn bị báo cáo kinh nghiệm và tạo điều kiện cho học viên trao đổi, chia sẻ
kinh nghiệm thực tiễn.
Mục 2: VIẾT ĐỀ ÁN
1. Muc đích
a) Đánh giá mức độ kết quả học tập của
học viên đạt được qua chương trình bồi dưỡng.
b) Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức
và kỹ năng thu nhận được vào thực tiễn công tác của lãnh đạo cấp sở và tương
đương.
2. Yêu cầu
a) Cuối khóa học, mỗi học viên viết một
đề án gắn với công việc lãnh đạo, quản lý của mình.
b) Đảm bảo các yêu cầu của một đề án về
nội dung và hình thức.
3. Đánh giá
Đạt/ Không đạt.
Học viên nào không đạt thì viết lại đề
án. Sau khi viết và chấm lại đề án, nếu không đạt thì học viên không được cấp
chứng chỉ./.