ỦY BAN NHÂN
DÂN
THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 128/BC-UBND
|
Thành phố
Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 8 năm 2018
|
BÁO CÁO
KẾT
QUẢ THỰC HIỆN GIỮA NHIỆM KỲ CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN
2016-2020
Sau hai năm thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp được đề ra trong Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU ngày 31 tháng 10
năm 2016 của Thành ủy về cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020, Ủy ban nhân
dân thành phố báo cáo kết quả đạt được như sau:
I. QUÁ TRÌNH TRIỂN
KHAI
1. Ngày 31 tháng 10 năm
2016, Thành Ủy ban hành Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU về thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X Chương trình cải cách hành chính
(CCHC) giai đoạn 2016 - 2020 (Chương trình 18-CTrHĐ/TU), xác định
05 mục tiêu, 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Để quán triệt Chương trình hành động, các cấp ủy
đã tổ chức học tập, quán triệt đến tất cả các ngành, các cấp1, đồng thời
yêu cầu các cơ quan, đơn vị bổ sung vào làm một trong những nội dung trọng tâm
của kế hoạch, chương trình công tác của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Triển khai thực hiện Chương trình hành
động số 18-CTrHĐ/TU, Ủy ban nhân
dân thành phố (UBND thành phố) đã ban hành Quyết định số 6119/QĐ-UBND ngày 22
tháng 11 năm 20162. Căn cứ vào Kế hoạch này, UBND thành phố
ban hành Kế hoạch công tác CCHC hàng năm3; đồng thời triển khai đồng
bộ, đầy đủ từ thành phố đến cơ sở và các cơ quan ngành dọc trú đóng để thực hiện. Về
cơ bản, UBND thành phố đã triển khai và hoàn thành tốt về chất lượng, tiến độ đối
với các nhiệm vụ đã đề ra trong Chương trình.
Công tác truyền thông hỗ trợ CCHC, tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ được thực hiện thường xuyên, góp phần nâng cao nhận
thức và trách nhiệm của công chức, viên chức, cán bộ, đảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ CCHC; được sự đồng lòng “chung tay CCHC” của người dân, doanh nghiệp.
2. Kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao tại phần III.2 Chương trình 18-CTrHĐ/TU về tổ chức
thực hiện
UBND thành phố đã triển khai tổ chức
thực hiện 05/05 nhiệm vụ được giao: xây dựng các Kế hoạch để triển khai Chương
trình 18-CTrHĐ/TU4; xây dựng và tổ chức thực hiện các giải
pháp đồng bộ cải thiện
các chỉ số: nâng cao năng lực cạnh tranh (PCI), hiệu quả quản trị và hành chính
công cấp tỉnh (PAPI) và CCHC (PAR Index) để nâng cao năng lực quản lý của bộ máy chính
quyền; ban hành Quy định về Thư xin lỗi người dân, doanh nghiệp trong trường hợp
giải quyết TTHC trễ hạn; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện; tổ chức đánh giá kết
quả thực hiện CCHC hàng năm5. Nhìn chung, hoạt động chỉ đạo điều
hành đã đi vào nề nếp, góp phần quyết định vào kết quả thực hiện Chương trình
18-CTrHĐ/TU.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Kết quả thực hiện
các mục tiêu
1.1. Mục tiêu 1: CCHC tiến hành trên
cơ sở đồng bộ với thực hiện các nghị quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ
thống chính trị, đổi mới phương
thức và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
- Trong 02 nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ
thành phố liên tiếp (lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 - 20156; lần thứ
X nhiệm kỳ 2015 - 2020), thành phố đều ban hành và xác định Chương trình CCHC
là một trong những chương trình đột phá để thực hiện Nghị quyết của Đại hội. Để triển
khai thực hiện Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU của Thành ủy
về CCHC giai đoạn 2016 - 2020, Ban Cán sự đảng UBND thành phố chỉ đạo UBND thành
phố kịp thời cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết vào trong kế hoạch triển
khai công tác ngắn hạn, dài hạn của thành phố và từng cơ quan, đơn vị. Trên cơ
sở Kế hoạch của thành phố, 100% các sở, ban, ngành, UBND quận - huyện (có sự
trao đổi xin ý kiến chỉ đạo với cấp ủy cùng cấp) đều xây dựng kế hoạch thực hiện
Chương trình CCHC giai đoạn 2016 - 2020 và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng
cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện.
Để đánh giá việc chỉ đạo, lãnh đạo
trong công tác CCHC, các cấp chính quyền đều thành lập Ban Chỉ đạo CCHC7
để tập trung chỉ đạo, lãnh đạo và thực hiện tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực
hiện, nhằm đúc kết những ưu điểm, hạn chế và đề ra các giải pháp trong thời
gian tới. Qua công tác sơ kết, tổng kết, nhận thấy các cơ quan, đơn vị
đặc biệt quan tâm đến công tác CCHC, có xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể
triển khai thực hiện, thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra các
hoạt động; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, đơn vị có thành tích
trong việc triển khai thực hiện và các mô hình hiệu quả trong công tác CCHC.
- Theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành
ủy, trong kế hoạch công tác Đảng, các cơ sở Đảng phải có nội dung chỉ đạo, lãnh
đạo nhiệm vụ CCHC của chính quyền. Hàng năm, Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban Kiểm
tra Thành ủy, Đảng ủy Khối Dân - Chính - Đảng thành phố xây dựng kế hoạch và tiến
hành kiểm tra, giám sát, thanh tra đối với các cấp ủy, các cơ quan, đơn vị và
người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo và triển khai thực hiện công
tác CCHC, kịp thời chấn chỉnh những mặt còn hạn chế, thiếu sót của cấp
dưới, đồng thời chỉ đạo
rà soát, bổ sung nội dung, giải pháp thực hiện CCHC8. Riêng đối
với chính quyền, UBND thành phố đã thành lập đoàn để kiểm tra định
kỳ 285 lượt đối với công tác triển khai thực hiện công tác CCHC tại các sở,
ban, ngành, UBND quận, huyện, phường, xã - thị trấn.
Với mục tiêu tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Thành ủy, thực hiện đồng bộ cải cách thủ tục hành chính
(TTHC) trong Đảng, Ban Thường vụ Thành ủy đã kiện toàn và hợp nhất Ban chỉ đạo
Thành ủy về cải cách TTHC trong Đảng và Ban chỉ đạo Công nghệ
thông tin Thành ủy thành Ban chỉ đạo Thành ủy về cải cách TTHC và ứng dụng công
nghệ thông tin của Đảng bộ thành phố. Các cấp ủy, các ban Thành ủy đã tổ chức
triển khai, quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ đạo của thành phố về thực hiện cải
cách TTHC trong Đảng và ứng dụng công nghệ thông tin trong Đảng.
1.2. Mục tiêu 2: Đẩy mạnh CCHC nhằm
xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại, năng
động, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển khoa học -
công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; chủ trọng cải cách thủ tục hành chính,
đảm bảo thuận lợi nhất cho nhân dân và doanh nghiệp, góp phần tích cực phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực và sự tham gia của mọi người dân vào công tác
CCHC
- Hiện đại hóa nên hành chính được đẩy
mạnh với các ứng dụng công nghệ thông tin theo quy trình kết nối liên thông
mang lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành của thành phố
và phục vụ người dân, doanh nghiệp; TTHC được cải cách cơ bản, kiểm soát chặt
chẽ việc quy định và thực hiện TTHC, chuẩn hóa và minh bạch công khai thông tin
về TTHC, áp dụng nhiều giải pháp, mô hình hiệu quả. Huy động sự tham gia của người
dân, các tổ chức đoàn thể chung tay CCHC thông qua việc giám sát, đề xuất đơn
giản hóa TTHC đã góp phần đẩy mạnh CCHC hướng đến đáp ứng mục tiêu đặt ra xây dựng nền
hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại, năng động.
Năm 2016 - 2017, tỷ lệ hài lòng của
người dân, doanh nghiệp đối với 04 loại hình dịch vụ hành chính công và: 05 loại hình
dịch vụ công9 (bao gồm tỷ lệ hài lòng và tỷ
lệ bình thường) bình quân đạt trên 80%10. Tỷ lệ giải quyết hồ sơ
đúng hạn khoảng 98-99%11.
1.3. Mục tiêu 3: Xây dựng tổ chức bộ
máy tinh gọn, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phản định rõ trách
nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính quyền; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm
và tận tụy phục vụ nhân dân; đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng, phát triển bền vững
và hội nhập quốc tế, xây dựng thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện
đại, nghĩa tình.
Thành phố tiếp tục rà soát quy chế tổ
chức hoạt động của đơn vị, hoàn thiện quy chế làm việc, kiện toàn và sắp xếp bộ máy
theo hướng tinh gọn, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phù hợp
với lĩnh vực quản lý, điều hành. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có số lượng, cơ cấu hợp
lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, tính đến nay, thành phố đã phê
duyệt 31/31 (đạt 100%) đề án vị trí việc làm của các cơ quan hành chính nhà nước12;
triển khai thực hiện Kết luận số 224-KL/TU ngày 24 ngày 11 năm 2017 của Ban Thường vụ
Thành ủy về thực hiện Thông báo số 30-TB/TW ngày 23 tháng 5 năm 2017 và kết luận
số 17-KL/TW ngày 11 tháng 9 năm 2017 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế.
Bên cạnh đó, Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống chính
trị đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo Thành ủy, UBND
thành phố, gắn kết tốt với thực hiện các chủ trương về thí điểm cơ chế, chính
sách đặc thù theo Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội,
nâng cao trình độ và năng lực thi hành công vụ, nhiệm vụ cho cán bộ, công chức,
viên chức cũng như tạo bước phát triển mới trong thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao, góp phần thực hiện có hiệu quả các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
1.4. Mục tiêu 4: Xây dựng chính quyền
điện tử phù hợp với đô
thị đặc biệt tương thích với mô hình Chính phủ điện tử, có mô hình hiệu quả cho
từng cấp, đảm bảo công khai minh bạch; tạo môi trường
kinh doanh bình đẳng, thông
thoáng, thuận lợi nhằm giảm thiểu về thời gian và chi
phí của các doanh nghiệp thuộc, mọi thành phần kinh tế trong việc tuân
thủ thủ tục hành chính.
Thành phố xác định ứng dụng công nghệ
thông tin trong các cơ quan quản lý nhà nước là khâu đột phá quan trọng, giúp cải
thiện, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý, điều hành tạo thuận lợi
cho cá nhân và tổ chức trong giải quyết TTHC, là cơ sở để xây dựng chính quyền
điện tử; phê duyệt và bước đầu triển khai Đề án “Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh
trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”: ban hành Kế hoạch số
5205/KH-UBND tổ chức xây dựng Đề án “Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành
đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025”, ban hành Quyết
định số 6179/QĐ-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2017; tổ chức hội nghị công bố Đề án.
So với đầu nhiệm kỳ, có sự gia tăng đáng kể về
số lượng văn bản được liên thông qua trục văn bản thành phố; số lượng hộp
thư điện tử đã cấp; số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, cụ
thể như sau: Đến tháng 3 năm 2018, số lượng liên thông qua trục văn bản thành
phố là 2.686.000 văn bản (đầu nhiệm kỳ là 608.707 văn bản); số lượng hộp thư điện tử
đã cấp là 21.800 hộp thư (đầu nhiệm kỳ là 17.135 hộp thư; số lượng dịch vụ công trực
tuyến mức độ 3 là
590 thủ tục (đầu nhiệm kỳ là 426 thủ tục), mức độ 4 là 95 thủ tục (đầu nhiệm kỳ
là 46 thủ tục). Đặc biệt, tỷ lệ đăng ký doanh nghiệp qua mạng và tỷ lệ đăng
ký đầu tư qua mạng vượt chỉ tiêu do thành phố đề ra, cụ thể: Năm 2017, tỷ lệ
đăng ký doanh nghiệp qua mạng là 70,98% (194.665/274.267 hồ sơ), so với đầu nhiệm
kỳ là 6,88% (13.543/196.706 hồ sơ); tỷ lệ đăng ký đầu tư qua mạng là 33,57%
(1.784/5.315 hồ sơ), so với đầu nhiệm kỳ là
1,24% (41/3.318 hồ sơ)13.
Về số lượng dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3, mức độ 4 trong giải quyết TTHC so với các TTHC đã được công bố: đến tháng
3 năm 2018, tỷ lệ số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 đạt 38,09%
(590/1.549 thủ tục), mức độ 4 đạt 6,13% (95/1.549 thủ tục), về hiệu quả sử dụng các
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4: năm 2017, trong 560.638 hồ sơ xử lý
đối với các TTHC đã được triển khai trực tuyến mức độ 3, có 48.770 hồ sơ được xử
lý trực tuyến (đạt 8,6%), số hồ sơ còn lại được nộp trực tiếp; trong 406.821 hồ
sơ xử lý đối với các TTHC đã được triển khai trực tuyến mức độ 4, có 248.578 hồ
sơ được xử lý trực tuyến (đạt 61%), số hồ sơ còn lại được nộp trực tiếp14.
1.5. Mục tiêu 5: Phấn đấu Chỉ số Cải
cách hành chính (PAR index) của thành phố năm trong nhóm 05 địa phương dẫn đầu của cả
nước
Qua quá trình triển khai đánh giá, chỉ
số CCHC của thành phố được cải thiện, hạn chế thấp nhất các nội dung bị trừ điểm
qua từng năm, cải thiện vị trí thứ tự của thành phố với các tỉnh thành: Năm
2017, chỉ số CCHC của thành phố (PAR Index) có vị trí thứ tự 10/63 tỉnh, thành
phố (năm 2016 là 15/63 và năm 2015 là 18/63).
2. Kết quả thực hiện
các giải pháp, nhiệm vụ chủ yếu
2.1 Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo cấp ủy, chính quyền trong công tác cải cách hành chính, phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội của Đảng đối với
công tác cải cách hành chính
- Tiếp tục tăng cường quán triệt Nghị
quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, Thành Ủy
ban hành Chương trình hành động số 10-CTrHĐ/TU ngày 17 tháng 5 năm
2011 và Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU ngày 31 tháng 10 năm 2016 để quán
triệt và chỉ đạo các cấp ủy Đảng tổ chức quán triệt Nghị quyết đến tất cả các
ngành, các cấp, đồng thời yêu cầu bổ sung vào làm một trong những nội dung trọng
tâm của kế hoạch, chương trình công tác của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn
thể thành phố. Hàng năm, thực hiện các văn bản của Đảng và Nhà nước có liên
quan công tác CCHC và Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU của Thành ủy,
các cấp ủy đảng đã tổ chức triển khai, quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ đạo về
thực hiện cải cách TTHC và ứng dụng công nghệ thông tin trong Đảng; đồng thời
đã lãnh đạo và cho ý kiến để chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội
xây dựng Kế hoạch, chương trình CCHC triển khai thực hiện tại cơ quan, đơn vị,
địa phương. Điều này, tạo sự thống nhất, đồng thuận về nhận thức và tầm quan trọng
của công tác CCHC gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ quan, đơn vị,
địa phương.
Công tác kiểm tra CCHC, thanh tra, kiểm
tra công vụ được đẩy mạnh. Hàng năm, Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban Kiểm tra
Thành ủy, Đảng ủy Khối Dân - Chính - Đảng thành phố đều xây dựng kế hoạch và tiến
hành kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy, các cơ quan, đơn vị và người đứng đầu
trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo và triển khai thực hiện công tác CCHC. Riêng đối
với chính quyền, UBND thành phố đã thành lập đoàn để kiểm tra định kỳ và đột xuất
285 lượt đối với công tác triển khai thực hiện công tác CCHC, cải cách TTHC.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội của Đảng phát huy vai trò giám sát trong việc thực hiện công
tác CCHC của thành phố15. Thông qua hoạt động giám sát đã kiến
nghị chính quyền các cấp của thành phố tăng cường các giải pháp quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực CCHC, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của
người dân. Song song với các hoạt động giám sát theo quy định, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam thành phố và UBND thành phố đã ký kết Chương trình phối hợp
giám sát tinh thần trách nhiệm, thái độ giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức,
viên chức trong quá trình giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân của cơ quan
hành chính nhà nước các cấp trên địa bàn thành phố giai đoạn 2017 - 2020. Trên
cơ sở Kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thành phố ban hành chính thức chương trình giám sát năm gửi đến các tổ chức
chính trị - xã hội thành phố, đồng thời hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
quận, huyện phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp xây dựng
chương trình phối hợp giám sát phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của từng
địa phương16.
Trong năm 2018, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố thực
hiện đánh giá sự hài lòng của người dân đối với 04 sở, 02 quận và 01 huyện và
khảo sát sự hài lòng cán bộ là lãnh đạo đối với cơ quan, đơn vị do mình phụ
trách.
2.2. Cải cách thể chế hành chính, nâng
cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
Thành ủy, UBND thành phố đã chủ động xây
dựng và đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù cho thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với
quá trình chuẩn bị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày
10 tháng 8 năm 2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thành
phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội đã ban hành
Nghị quyết số 54/2017/QH14
về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. UBND
thành phố đã ban hành Kế hoạch về triển khai các nội dung, đề án thực hiện Nghị
quyết số 54/2017/QH14 của Quốc hội.
Triển khai Luật ban hành VBQPPL, Luật
Tổ chức chính quyền địa phương, thành phố đã rà soát 10 chuyên đề, số hóa và cập
nhật 4.048 văn bản QPPL do Hội đồng nhân dân, UBND thành phố ban hành từ năm
1975 đến năm 2016 trên Cơ sở dữ liệu quốc gia; cập nhật 810 văn bản của Hội đồng
nhân dân, UBND quận - huyện còn hiệu lực thi hành đến ngày 31 tháng 12 năm 2015
và 61 VBQPPL do Hội đồng nhân dân, UBND thành phố ban hành; hoàn thiện về thể
chế đối với công tác ban hành văn bản QPPL và kiểm tra, xử lý rà soát hệ thống
hóa văn bản QPPL trên địa bàn thành phố17. Từ năm 2016 đến quý I/2018, thành
phố ban hành 184 văn bản QPPL, trong đó nhiều văn bản quy định chính sách, rút ngắn thời gian
giải quyết hồ sơ hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp18.
Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống
hóa văn bản quy phạm pháp luật tiếp tục được triển khai kịp thời, nội dung bám
sát yêu cầu nhiệm vụ, chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền. Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, UBND thành phố ban hành được thực hiện hàng năm. Trên cơ
sở rà soát, Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định công bố VBQPPL
hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần. Sở Tư pháp giúp UBND thành phố tự kiểm tra 100%
văn bản do UBND ban hành và kiểm tra theo thẩm quyền 100% văn bản do Hội
đồng nhân dân, UBND quận, huyện gửi đến kiểm tra.
Công tác theo dõi thi hành pháp luật
tiếp tục được thành phố chỉ đạo triển khai có trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ
với công tác xây dựng, rà soát, kiểm tra và xử lý VBQPPL trên địa bàn thành phố.
Hàng năm, ngoài việc thực hiện theo dõi tình hình thi hành pháp luật chung,
thông qua việc thu thập thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua
phản ánh, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, thành phố còn thực hiện việc theo dõi
thi hành pháp luật trong các lĩnh trọng tâm19.
2.3. Cải cách thủ tục hành chính
Chương trình hành động số 18-CTrHĐ/TU xác định: đẩy
mạnh cải cách TTHC là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt
động của người dân và doanh nghiệp. Thành phố đã tổ chức thực hiện đầy đủ 05 nội
dung cải cách TTHC. TTHC được cải cách cơ bản, có những chuyển biến tích cực,
rõ nét hơn so với đầu nhiệm kỳ. Nhiều giải pháp, mô hình được nghiên cứu, triển khai
thực hiện có hiệu quả; điều này giúp tỷ lệ giải quyết TTHC đúng hạn được nâng
cao và tạo sự hài lòng, đồng thuận, chia sẻ từ các cơ quan truyền thông, cá
nhân, tổ chức; góp phần tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh để nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia. Tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn đối với tổng số
TTHC được giải quyết của thành phố đạt trung bình 98-99%. Một số kết quả nổi bật:
- Về rà soát, chuẩn hóa, đơn giản
hóa TTHC, bên cạnh việc rà soát, đơn giản hóa TTHC theo lĩnh vực trọng tâm
hướng đến việc giảm thời gian giải quyết, giảm thành phần hồ sơ, tiết kiệm chi
phí tuân thủ TTHC trong lĩnh vực đầu tư-đăng ký kinh doanh; y tế, tư pháp, hộ tịch,
giáo dục20; thành phố đã thực hiện tổng rà soát
trên 2.000 hồ sơ, quy trình, bãi bỏ các thủ tục hết hiệu lực, thủ tục không còn
phù hợp. Từ kết quả rà soát, thành phố công bố chuẩn hóa 100% các thủ tục đã đủ
điều kiện công bố (Chủ tịch UBND thành phố ban hành 56 Quyết định, công bố
1.549 thủ tục thuộc thẩm quyền giải quyết của 03 cấp); kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung quy định đối với các thủ tục chưa đáp ứng điều kiện công
bố (quy định
chưa rõ thời gian giải quyết, thành phần hồ sơ...). Việc cập nhật công bố được
thực hiện thường xuyên khi có văn bản quy định điều chỉnh về thủ tục hành
chính.
- Về công khai, minh bạch thông tin
TTHC,
so với hình thức niêm yết thủ tục bảng
giấy trước đây thì đến nay hình thức công khai đa dạng hơn. Người dân, doanh
nghiệp có thể tiếp cận, tìm hiểu trực tiếp tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ hoặc có thể gián
tiếp qua website của các đơn vị hoặc tra cứu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC;
đồng thời có thể theo dõi, giám sát tiến độ giải quyết hồ sơ thông qua một cửa điện
tử; thực hiện việc phản ánh, kiến nghị về TTHC qua nhiều kênh thông tin và được
phản hồi kết quả xử
lý.
- Cải cách trong giải quyết thủ tục được
đẩy mạnh gắn với các giải
pháp ứng dụng công nghệ thông tin. Nhiều giải pháp, mô hình hiệu quả được
áp dụng21. Riêng năm 2017, 35/48 đơn vị cấp sở,
cấp huyện có các giải pháp, sáng kiến rút ngắn thời gian giải quyết, đơn giản hóa
thành phần hồ sơ, tiết
kiệm chi phí tuân thủ TTHC22. Đa dạng hóa cách thức thực hiện thủ tục
để người dân,
doanh nghiệp lựa chọn: Mô hình một cửa, một cửa liên thông, kết hợp ứng dụng
công nghệ thông tin, ISO 9001/ISO điện tử, phối hợp với hệ thống bưu điện tiếp
nhận, trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích; liên
thông điện tử trong nội bộ cơ quan, giữa các cơ quan trong thành phố, giữa các
cơ quan của thành phố với cơ quan ngành dọc; số lượng cơ quan, đơn vị áp dụng
mô hình một cửa điện tử và số lượng TTHC được cung cấp dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, 4 ngày càng được mở rộng23.
Cơ sở dữ liệu về TTHC tập trung của
thành phố được xây dựng từ năm 2017, dự kiến năm 2018 đưa vào khai thác góp phần
hiện đại hóa cải cách TTHC, tạo sự đồng bộ và thống nhất trong quản lý, giải quyết
TTHC.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát
việc giải quyết TTHC trên địa bàn và tăng cường vai trò người đứng đầu trong việc
hạn chế thấp nhất tỷ lệ hồ sơ bị trễ hạn, hồ sơ bị bổ sung nhiều lần24;
chấn chỉnh thái độ chưa đúng mực, xử lý nghiêm các hành vi
tiêu cực của công chức, viên chức; tiếp nhận xử lý các phản ánh, kiến nghị của
người dân, doanh nghiệp được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định25.
2.4. Cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước
- Thực hiện các quy định pháp luật về
tổ chức, bộ máy, Thành phố thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo triển khai rà soát về
vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức, biên chế của Sở, ban, ngành, UBND quận - huyện để kiện toàn bộ
máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả26 và đã ban hành các Quy
chế (mẫu) về tổ chức và hoạt động các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận - huyện,
Quy chế tổ chức và hoạt động của sở - ngành. Thành phố ban hành Chỉ thị số 15/CT-UBND
ngày 04 tháng 12 năm 2017 về việc tăng cường thực hiện các quy định về trách
nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Các sở, ngành, quận, huyện đã nghiêm
túc quán triệt, chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị này tại đơn vị, địa
phương.
- Công tác phân cấp quản lý, ủy quyền
giữa UBND thành phố với sở, ban- ngành, UBND quận - huyện, phường, xã - thị trấn
tiếp tục được đẩy mạnh trên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước như: xây dựng,
môi trường, giao thông, đăng ký kinh doanh, đầu tư, đào tạo, tiếp khách nước
ngoài, lao động, văn hóa, thông tin. Bên cạnh đó, thành phố cũng chú trọng công
tác “xã hội hóa” các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, tư pháp và đẩy
mạnh công tác “cổ phần hóa” các doanh nghiệp nhà nước theo tiến độ27.
Huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển tiếp tục tăng trưởng, phục vụ cho
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội thành phố. Thành phố tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý,
phân cấp ủy quyền cho cơ sở28;
phát huy định chế tài chính của Công ty đầu tư tài chính nhà nước thành phố để
huy động nguồn lực đầu tư, chính sách khuyến khích lãi suất, kích cầu đầu tư;
tăng nguồn lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ cấu và nguồn
vốn đầu tư; tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình phát triển
công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao. Đồng
thời tăng cường chuyển các cơ sở công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp
mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích theo hướng
tăng quyền tự chủ về tổ chức quản lý, hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi…; cải tiến chất
lượng, nâng cao hiệu quả và cung cấp tốt dịch vụ, sản phẩm; bảo đảm quyền lợi và cơ hội
tiếp cận bình đẳng của người
thụ hưởng, đặc biệt là trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y tế.
2.5. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Triển khai Chương trình hành động của
Thành ủy về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố giai đoạn 2016 -
2020, thành phố đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình với 6 chương trình
nhánh. Trên cơ sở Kế hoạch đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức giai đoạn
2016 - 202029 và các Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức thành phố30, thành phố đã tổ chức các lớp đào tạo,
bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ,
ngoại ngữ và bồi dưỡng nghiệp vụ
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, giáo dục, đô thị...trong nước và nước
ngoài cho 26.556 lượt cán bộ, công chức, viên chức.
- Thành phố tiếp tục thực hiện chế độ
thi tuyển công chức theo nguyên tắc cạnh tranh; thực hiện tiếp nhận công chức
không qua thi và xét chuyển cán bộ, công chức cấp xã thành công chức cấp huyện và tuyển
dụng viên chức theo quy định. Triển khai đồng bộ công tác đánh giá công chức,
viên chức kết hợp với công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm, luân
chuyển và giải quyết chế độ, chính sách.
- Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án
vị trí việc làm của các Sở, ban - ngành, UBND quận - huyện, đẩy nhanh tiến độ
trình phê duyệt Đề án vị trí việc làm của đơn vị sự nghiệp công lập và quyết liệt
triển khai thực hiện chính sách tinh giản biên chế. Thành phố đang tập trung
triển khai thực hiện Kết luận số 224-KL/TU ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Ban Thường vụ
Thành ủy về thực hiện Thông báo số 30-TB/TW ngày 23 tháng 5 năm 2017 và kết luận
số 17-KL/TW ngày 11 tháng 9 năm 2017 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế. Đến nay, thành
phố đã thực hiện tinh giản biên chế 317 trường hợp.
- Thái độ phục vụ của cán bộ, công chức
trong giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp có tiến bộ hơn nhưng
cũng còn hiện tượng né tránh, sợ trách nhiệm, thái độ thờ ơ trong giải quyết
công việc tồn tại trong một bộ phận cán bộ, công chức. Do đó, nhằm nâng cao ý
thức, trách nhiệm của công chức trong hoạt động nhiệm vụ, công vụ và quan hệ xã
hội, UBND thành phố đã ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập
trên địa bàn thành phố31. Thành phố thành lập Đoàn kiểm tra để
kiểm tra đột xuất đối với việc triển khai thực hiện Quy tắc này.
2.6. Cải cách tài chính công
Để thực hiện hiệu quả của yêu cầu
CCHC công, thành phố chỉ đạo tập trung vào cải cách quản lý tài chính của các
cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đối với các cơ quan hành chính nhà
nước: 100% cơ quan hành chính thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07
tháng 10 năm 2013 của Chính phủ và 100% cơ quan hành chính đã xây dựng quy chế
chi tiêu nội bộ và có tiết kiệm kinh phí. Kinh phí tiết kiệm chi phí hành chính
được sử dụng để tăng thu nhập góp phần ổn định đời sống cán bộ, công chức32.
- Đối với đơn vị sư nghiệp công lập:
tiếp tục giao tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định
số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ33. Tuy nhiên, Nghị định này không dùng để
thực hiện trực tiếp mà chỉ là quy định khung, làm cơ sở để các Bộ ngành tham
mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ trong từng lĩnh vực
cụ thể. Đến nay, Chính
phủ chỉ mới ban hành 02/7 quy định cơ chế tự chủ trong từng lĩnh vực (Nghị định
số 141/2016/NĐ-CP và thực hiện tự chủ của tổ chức Khoa học và Công nghệ theo
Nghị định số 54/2016/NĐ-CP). Do đó, hầu hết các lĩnh vực còn lại (giáo dục đào
tạo; y tế; giáo dục nghề nghiệp; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin, truyền
thông và báo chí) vẫn tiếp tục thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25 tháng 4 năm 2006.
2.7. Hiện đại hóa hành chính
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của cơ quan hành chính
+ Tổ chức xây dựng đề án “Xây dựng
thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm
nhìn đến năm 2025”. Năm 2018, Thành phố tập trung xây dựng Kế hoạch thực hiện 4
nhiệm vụ trọng tâm của Đề án (Kế hoạch số 1008/KH-UBND về “Xây dựng Kho dữ liệu
dùng chung và phát triển Hệ sinh thái dữ liệu mở cho thành phố”, Kế hoạch số
1009/KH-UBND về xây dựng Trung tâm Điều hành đô thị thông minh của Thành phố Hồ
Chí Minh, Kế hoạch số 1010/KH-UBND ngày 14 tháng 3 năm 2018 về thành lập Trung
tâm an toàn thông tin thành phố (SOC) và Kế hoạch 1082/KH-UBND ngày 20 tháng 3
năm 2018 triển khai Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị
thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025); đồng thời quyết định
thí điểm Đề án đô thị thông minh tại Quận 1, Quận 12 và Khu đô thị mới Thủ
Thiêm.
+ Tiếp tục thúc đẩy xây dựng và triển
khai chính quyền điện tử từ thành phố đến cơ sở. Thành phố đã thực hiện tổ chức
triển khai tập trung các ứng dụng các sở - ngành, quận - huyện tại Trung tâm dữ
liệu thành phố và tăng cường an toàn an ninh thông tin cho hệ thống này. Hệ thống
liên thông văn bản điện tử của thành phố tiếp tục được triển khai và kết nối
liên thông đối với các cơ quan, đơn vị từ thành phố đến cơ sở. Hệ thống Hội nghị
trực tuyến tiếp tục được sử dụng hiệu quả. Hệ thống thư điện tử đang hoạt động ổn
định, được sử dụng thông dụng và hiệu quả, giúp tiết kiệm thời gian và kinh phí
hoạt động; thực hiện việc áp dụng chữ ký điện tử trong trao đổi văn bản điện
tử, thư mời họp, tiến dần đến chấm dứt tình trạng sử dụng văn bản giấy34.
Thành phố đã triển khai thực hiện các hệ thống thông tin chuyên ngành tại các Sở,
ban - ngành trên lĩnh vực: Quản lý cán bộ công chức; quản lý đô thị, dân cư, Hộ
tịch, quản lý thuế và tích hợp dữ liệu doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài tại cấp phép
lao động nước ngoài, và hệ thống quản lý số liệu xuất nhập khẩu trên địa bàn
thành phố. Bên cạnh đó, thành phố thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong
một số ngành, lĩnh vực cấp bách như: Giảm ùn tắc giao thông, Chống ngập, Giáo dục
Y tế, An ninh trật tự. Thành phố từng bước hoàn thành ứng dụng công nghệ thông
tin tại các quận, huyện theo mô hình chung của cả thành phố, với hơn 100 ứng dụng
phục vụ tác nghiệp của quận - huyện: quản lý đô thị, cấp phép xây dựng, quản lý
khiếu nại - tố cáo; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ cá thể, đăng ký sử
dụng lao động, quản lý hồ sơ chứng thực,...
+ Thành phố triển khai ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp như: (1) Cổng thông tin điện tử
thành phố và các trang thành viên đã được nâng cấp hoàn chỉnh các yêu cầu kỹ
thuật, nội dung, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu khai thác, tiếp cận thông tin của
các các tổ chức, cá nhân; (2) Công tác xây dựng và cung cấp dịch vụ công trực
tuyến tiếp tục được quan tâm chỉ đạo và thường xuyên mở rộng35. (3)
Thành phố đã triển khai hệ thống Một cửa điện tử nhằm cung cấp tình trạng giải
quyết hồ sơ hành chính và công khai tỷ lệ hồ sơ xử lý đúng hạn/trễ hạn tại địa
chỉ: https://dichvucong.hochiminhcity.gov.vn. kết hợp với dịch vụ trả kết
quả tại nhà, thông qua dịch vụ bưu chính công ích; (4) Thiết lập hệ thống đường dây
nóng tiếp nhận phản ánh, kiến nghị sự cố hạ tầng kỹ thuật của người dân với
lãnh đạo thành phố qua tổng đài 1022, thư điện tử, website và liên thông tổng đài 113-114-115
để giúp người dân thuận lợi hơn khi thực hiện các cuộc gọi khẩn cấp. (5) Xây dựng
hệ thống công bố thông tin của các doanh nghiệp nhà nước thành phố tại địa chỉ http://dnnn.hochiminhcity.gov.vn và thí điểm hỗ trợ các
doanh nghiệp nhà nước thực hiện báo cáo tháng/quý qua mạng. (6) Triển khai hệ
thống một cửa điện
tử quản lý hồ sơ đất đai https://motcuadatdai.tphcm.gov.vn.
- Về áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001; ứng dụng công nghệ thông tin trong áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 (ISO điện tử) trong hoạt động của cơ quan hành
chính: Hiện nay, các sở -
ngành, UBND quận - huyện đã xây dựng, áp dụng và duy trì hệ thống quản lý chất
lượng phù hợp với TCVN ISO 900136; tỷ lệ phường-xã, thị trấn khuyến
khích áp dụng ISO tăng cao (đạt tỷ lệ 95%, so với năm 2016 là tăng gần 35%). Thành
phố đã chủ động triển khai thí điểm hệ thống ISO điện tử, kết hợp với quản lý
Trang thông tin một cửa điện tử tại một số sở, ban, ngành, UBND quận - huyện
trong quá trình tiếp nhận, xử lý, trả kết quả TTHC.
- Đầu tư xây dựng trụ sở UBND cấp xã:
Có 162 trụ sở UBND phường - xã, thị trấn đã xây dựng mới và cải tạo, sửa chữa. Tính
từ nay đến năm 2020, dự kiến khoảng 160 trụ sở UBND phường, xã, thị trấn có nhu
cầu đầu tư xây dựng mới, cải tạo và sửa chữa, bao gồm: 60 trụ sở UBND phường, xã, thị trấn
có nhu cầu đầu tư xây dựng mới giai đoạn 2016 - 2020 và 100 trụ sở phường, xã,
thị trấn có nhu cầu đầu tư cải tạo, sửa chữa.
2.8. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của mỗi cán bộ, đảng viên đối với công tác CCHC
- Các chương trình, kế hoạch, văn bản
về CCHC được thành phố phổ biến, quán triệt kịp thời, sâu rộng trong cán bộ,
công chức và trong nhân dân. Thành phố đã tổ chức nhiều đợt quán triệt, tập huấn
cho cán bộ, công chức tham mưu, giúp việc CCHC và lãnh đạo sở, ban - ngành,
UBND quận - huyện thông qua các hình thức đa dạng: lồng ghép vào các cuộc họp nội
bộ, tại Hội nghị các chuyên đề, sơ kết, tổng kết, các buổi tập huấn CCHC, nghiệp
vụ kiểm soát TTHC, phát hành cẩm nang CCHC,...
- Hàng năm, UBND thành phố đều tổ chức
sơ kết, tổng kết xây dựng chương trình thực hiện cụ thể, thường xuyên chỉ đạo,
hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị sở, ban - ngành, UBND quận - huyện xây dựng kế
hoạch triển khai việc xây dựng Chương trình CCHC cũng như kịp thời biểu dương, khen
thưởng các tập thể, đơn vị có thành tích, sáng kiến trong việc triển khai thực
hiện công tác CCHC. Trong quản lý điều hành, Thành ủy, UBND thành phố đã kịp thời
có những văn bản chỉ đạo, phân công các ngành, các cấp tăng cường thực hiện
công tác CCHC theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Đến nay, công
tác CCHC của Thành phố đã đạt được những kết quả khá tốt, có đổi mới và ngày
càng tiến bộ. Đa số
cán bộ, công chức đã nắm được nội dung CCHC nhà nước và hầu hết các cấp ủy
đảng, thủ trưởng các ngành, các cấp đều nhận thức rõ hơn về mục đích, ý nghĩa,
vai trò nhiệm vụ và tầm quan trọng của công tác CCHC, xem CCHC là nhiệm vụ trọng
tâm hàng đầu để phục vụ nhân dân tốt hơn khi đến liên hệ, giao dịch hành chính.
Tuy nhiên, sự quan tâm của lãnh đạo của một số cơ quan, đơn vị đến công tác
CCHC chưa quyết liệt; từ đó thiếu sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong việc
thực hiện công tác CCHC tại đơn vị; chưa có những giải pháp đột phá về
CCHC theo ngành, lĩnh vực phụ trách; nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức
còn chưa đầy đủ về công tác CCHC, nhất là trong công tác tiếp nhận và giải quyết hồ
sơ hành chính của
người dân, doanh nghiệp.
2.9. Công tác chỉ đạo, điều hành cải
cách hành chính
- Việc chỉ đạo quán triệt và tổ chức
thực hiện Kế hoạch: Căn cứ vào Chương trình của Thành ủy, các Kế hoạch của
UBND thành phố, các cấp ủy Đảng và thủ trưởng Sở, ban - ngành, UBND quận - huyện,
các cơ quan ngành dọc trú đóng chủ động xây dựng Kế hoạch chi tiết thực hiện
Chương trình CCHC giai đoạn 2016 - 2020 tại đơn vị, hàng năm, phân công cụ thể
nhiệm vụ và xác định trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện Chương trình.
Thường xuyên kiện toàn Ban Chỉ đạo CCHC Thành phố37, thành
lập Tổ công tác
tham mưu Ban Chỉ đạo và chỉ đạo các cơ quan, đơn vị kiện toàn Ban Chỉ đạo của
cơ quan, đơn vị theo hướng Thủ trưởng cơ quan, đơn vị là Trưởng Ban Chỉ đạo của
cơ quan, đơn vị; đổi mới các cuộc
họp của Ban Chỉ đạo từ họp truyền thông sang họp trực tuyến, họp chuyên đề và
tăng cường công tác đi cơ sở, thực hiện khảo sát và nhân rộng các mô hình hay,
hiệu quả và các gương điển hình công
tác CCHC, cải cách TTHC. Đặc biệt, trong năm 2018, Thành phố đã chủ động thực
hiện trong công tác chỉ đạo, điều hành công tác CCHC như: (1) Đề nghị Quốc hội
ban hành Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát
triển thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng nhân dân thành phố ban hành các
Nghị quyết thông qua các Đề án thực hiện Nghị quyết 54/2017/QH14; (2) Đề nghị Hội
đồng nhân dân thành phố thực hiện giám sát chuyên đề thực hiện công tác CCHC,
“Nâng cao sự hài lòng của người dân và tổ chức về dịch vụ hành chính công trên
địa bàn thành phố” và ban hành Nghị quyết để UBND thành phố triển khai thực hiện38.
Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố, UBND thành phố thực hiện
điều chỉnh Chương trình CCHC của thành phố đến năm 2020 theo Nghị quyết số
02/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố và chỉ đạo triển khai thực hiện39;
(3) Phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố thực hiện Chương trình
phối hợp giám sát tinh thần trách nhiệm, thái độ giao tiếp, ứng xử của cán bộ,
công chức, viên chức trong quá trình giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân
của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trên địa bàn thành phố giai đoạn 2017 -
2020; (4) Thực hiện công khai, minh bạch, đơn giản hóa TTHC và thực hiện tiếp
nhận, xử lý và giải quyết TTHC liên thông điện tử trong lĩnh vực đầu tư - kinh
doanh, xây dựng - quy hoạch, đất đai, hải quan, thuế, bảo hiểm xã hội, hộ chiếu...
- Công tác đánh giá chỉ số CCHC (chỉ
số PAR Index): UBND thành phố tiếp tục quán triệt, chỉ đạo các cơ quan, đơn
vị triển khai thực hiện các giải pháp nâng cao chỉ số CCHC của thành phố giai
đoạn 2016 - 202040. Đối với công tác đánh giá chỉ
số CCHC của Sở - ngành, quận - huyện, hàng năm, UBND thành phố thực hiện công bố
và chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức rà soát và kịp thời đưa ra các giải
pháp khắc phục hạn chế. Năm 2017, UBND thành phố đã ban hành Quyết định phê duyệt
Đề án đánh giá Chỉ số CCHC41 và công bố chỉ số năm 2017 của các cơ
quan trên địa bàn thành phố42.
- Công tác khảo sát, đánh giá sự hài
lòng của cá nhân, tổ chức: Thành phố tiếp tục chú trọng công tác khảo sát, đánh
giá sự hài lòng của người dân, tổ chức và xác định đây là thước đo đánh giá chất
lượng, hiệu quả phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, thông qua nhiều
hình thức khảo sát đa dạng như: (1) Triển khai hệ thống đánh giá sự hài lòng của
tổ chức và người dân tại địa chỉ https://danhgiahailong.hochiminhcity.gov.vn/, địa
chỉ liên kết trên trang thông tin điện tử thành phố (Hochiminh Cityweb), trang
thông tin điện tử các cơ quan, đơn vị và Cổng dịch vụ công trực tuyến thành phố
hoặc người dân có thể đánh giá trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
qua các trang thiết bị (kiosk, máy tính bảng); (2) Trong năm 2016 -2017, thành
phố tiếp tục khảo sát mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với 09 loại
hình dịch vụ43; (3) Triển khai thực hiện Đề án đo lường
sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính
nhà nước trên địa bàn thành phố, giai đoạn 2017-2020 theo quy định của Bộ Nội vụ
(chỉ số SIPAS); (4) Các ngành, lĩnh vực (hải quan, thuế, bảo hiểm xã hội, y tế,
giáo dục,...) và các Sở, ban-ngành, UBND quận - huyện cũng chủ động triển khai
và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện khảo sát mức độ hài lòng của người
dân đối với các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết, quản lý của ngành, lĩnh vực,
địa phương.
- Công tác truyền thông hỗ trợ công
tác CCHC:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền CCHC, hàng năm, thành phố và các cơ quan, đơn vị
ban hành Kế hoạch tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền CCHC. Các Kế hoạch
được quy định với nhiều nội dung và hình thức đa dạng, phong phú. Các cơ quan
báo, đài thành phố ghi nhận và phản ánh những lợi ích thiết thực của công tác
CCHC trên địa bàn thành phố thông qua các tin, bài, chương trình chính luận, lồng ghép các
đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy, Hội đồng
nhân dân, UBND thành phố về CCHC vào các chương trình thời sự, tạo một diện mạo
mới, niềm tin của người dân vào sự công khai, minh bạch của bộ máy công quyền.
Hàng năm, có gần 200 tin bài (trên báo in) và rất nhiều chuyên mục, chương
trình trên phát thanh - truyền hình xoay quanh chủ đề CCHC với các
nội dung như: Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh; Kế hoạch
xây dựng chính quyền điện tử tại thành phố; Cải cách bộ máy hành chính bằng
hình thức tổ chức lại đề án vị trí việc làm, tinh giản biên chế; xây dựng văn
hóa tiếp dân chuẩn mực, gần dân tạo nên một diện mạo mới, niềm tin của người
dân vào sự công khai, minh bạch của bộ máy công quyền; cải cách
TTHC,...Ngoài ra, nhằm tạo phong trào thi đua sôi nổi và phát
huy, nhân rộng các sáng kiến, giải pháp hay trong thực hiện công tác CCHC, các
cụm thi đua của các Khối quận - huyện, sở - ngành đều quy định bắt buộc phải
quy định và thực hiện nội dung công tác CCHC trong thỏa ước thi đua và xem đây
là “điều kiện cần” để xem xét đánh giá thi đua - khen thưởng hàng năm. Các đoàn
thể của khối và
thành phố (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh...) và các tổ chức
chính trị - xã hội thường xuyên tổ chức các hoạt động, phong trào liên quan đến
công tác CCHC44. Bên cạnh đó, để kịp thời nắm được
tình hình và những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong công tác CCHC trên địa
bàn thành phố thời gian qua và đề ra giải pháp tháo gỡ hoặc ghi nhận để kiến nghị
các cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn,
hàng năm, thành phố đã tổ chức tập
huấn công tác CCHC, kiểm soát TTHC cho hơn 300 lượt học viên là đại diện lãnh đạo
và chuyên viên được phân công trực tiếp thực hiện công tác CCHC, kiểm soát
TTHC, công chức tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của các cơ quan, đơn vị.
- Công tác chỉ đạo, điều hành việc
triển khai thực hiện Nghị quyết số 54/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển
thành phố Hồ Chí Minh và
các quy định của trung ương liên quan đến công tác CCHC: UBND thành phố
đã ban hành Kế hoạch về
triển khai các nội dung, đề án thực hiện Nghị quyết số 54/2017/QH14 của Quốc hội.
Theo Kế hoạch này, thành phố xác định có 21 đề án, nội dung thực hiện, trong đó
có 13 đề án, nội dung thực hiện thường xuyên theo nhiệm vụ được phân công, 08 đề
án cần được tổ chức nghiên cứu, đề xuất thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy, quản lý
đất đai, dự án và tài chính, ngân sách. Tại kỳ họp bất thường ngày 15 tháng 3
năm 2018, Hội đồng nhân dân thành phố đã thông qua 05 đề án để cơ quan có thẩm
quyền triển khai thực hiện. UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch triển khai Nghị
quyết kỳ họp thứ 7 (kỳ họp bất thường) và chuẩn bị nội dung kỳ họp Hội đồng nhân dân thành phố tháng 7, 9 năm
2018.
- Việc lãnh đạo công tác kiểm tra:
Hàng năm, thành phố thành lập đoàn kiểm tra định kỳ và đột xuất công tác CCHC,
kiểm soát TTHC. Qua kiểm tra, Đoàn nắm được những tồn tại, hạn chế trong công tác
và có kiến nghị UBND Thành phố có chỉ đạo khắc phục45. Tại
cơ sở, các cơ quan, đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra
tình hình thực hiện công tác CCHC, kiểm tra công vụ, thời giờ làm việc của cán
bộ, công chức46. Bên cạnh đó, thành phố đã thành lập
Tổ Công tác của Chủ tịch UBND thành phố47 về kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện các chỉ đạo của UBND thành phố; đặc biệt chú trọng kiểm tra việc thực
hiện 7 chương trình đột phá theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố
lần thứ X. Ngoài ra, Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy tổ chức
đoàn kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng, Bí thư Đảng ủy cơ sở về thực hiện
Chương trình CCHC giai đoạn 2016 - 2020, các giải pháp nâng cao chỉ số CCHC cấp
tỉnh; Ban Tuyên giáo Thành ủy tổ chức 22 đoàn kiểm tra, kiểm tra, giám sát 32 Sở,
ngành, UBND quận, huyện về công tác CCHC gắn với thực hiện quy chế dân chủ.
3. Kết quả về huy động
và sử dụng các nguồn lực
3.1. Về tài chính: Hiện nay,
công tác CCHC chủ yếu sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Qua quản lý, nhận
thấy, các cơ quan, đơn vị dự trù nguồn kinh phí cho hoạt động này còn nhiều hạn
chế, vướng mắc, đặc biệt là nguồn kinh phí phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức; ứng dụng công nghệ thông tin; trang thiết bị làm việc; xây dựng, sửa
chữa trụ sở làm việc… nhất là tại UBND phường - xã, thị trấn.
3.2. Về con người: Do tầm quan
trọng và tính chất đặc thù của công tác CCHC, nên để thực hiện tốt và hiệu quả
công tác này, cần phải có sự chung tay của cả hệ thống chính trị và nêu cao
trách nhiệm của người đứng đầu ở các cấp. Hiện nay, thành phố, sở, ban, ngành,
quận - huyện có thành lập Ban Chỉ đạo CCHC (do Thủ trưởng cơ quan làm Trưởng
ban), Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo và thiết lập được hệ thống công chức đầu mối làm
công tác CCHC (với 154 người ở cấp Sở và cấp huyện), kiểm soát TTHC (với 675
người ở 03 cấp) để thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, lực lượng này chủ yếu làm
công tác kiêm nhiệm và thường xuyên thay đổi nên ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả,
hiệu lực của công tác này. Kinh nghiệm cho thấy, cấp ủy, thủ trưởng cơ quan,
đơn vị nào quan tâm đến công tác CCHC, thì nơi đó công tác CCHC rất hiệu quả và
thực chất.
3.3. Về thông tin: Công tác
truyền thông hỗ trợ công tác CCHC, cải cách TTHC tiếp tục được quan tâm thực hiện.
UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền
CCHC giai đoạn 2016 - 2020 và hàng năm. Các Kế hoạch được quy định với nhiều nội
dung và hình thức đa dạng, phong phú. Ngoài công tác tuyên truyền, phổ biến
công tác CCHC truyền thống như điểm tin, đăng tin, chuyên mục, chuyên đề, phát
hành tờ rơi, tờ gấp trên các
phương tiện truyền thông đại chúng, trang thông tin điện tử, thành phố đã chủ động
cung cấp thông tin; thông cáo báo chí; tổ chức họp báo; trả lời - tư vấn trực
tuyến; mời các đơn vị báo chí cùng tham gia các buổi họp; công khai kết quả giải
quyết TTHC, kết quả kiểm tra CCHC; kết quả giải quyết, xử lý phản ánh, kiến nghị
của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính và thực hiện “xã hội hóa công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật”;...để các cơ quan báo chí, các cơ quan thành viên
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố có thể tham gia đánh giá, chất vấn; phản biện,
góp ý các giải pháp và đưa các thông tin kịp thời, chính xác đến cá nhân,
tổ chức để giám sát. Các cấp ủy Đảng đã tổ chức học tập, quán triệt đến tất cả
các ngành, các cấp, đồng thời yêu cầu bổ sung vào làm một trong những nội dung
trọng tâm của kế hoạch, chương trình công tác của các cơ quan Đảng, chính
quyền, đoàn thể.
4. Tính hiệu quả của
phương thức triển khai và trách nhiệm của Ban Thường vụ Thành ủy, Ủy ban nhân
dân thành phố, các sở - ngành, quận, huyện trong việc triển khai
Công tác CCHC ngày càng được quan tâm,
triển khai thực hiện của cả hệ thống chính trị của thành phố và sự giám sát trực
tiếp, chặt chẽ của người dân qua nhiều kênh thông tin. Công tác này tiếp tục được
sự quan tâm lãnh đạo của Ban Thường vụ Thành ủy qua các buổi làm việc, kiểm
tra, giám sát đối với các cấp ủy, Đảng viên của các cơ sở Đảng; chỉ đạo sâu sát
của UBND thành phố, Ban Chỉ đạo CCHC thành phố thông qua các Hội
nghị trực tuyến giao ban về
công tác CCHC và phê duyệt cụ thể chương trình, kế hoạch của các cơ quan, đơn vị;
sự giám sát bằng nhiều hình thức, phương pháp của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thành phố và các đoàn thể thành viên và sự cố gắng, trách nhiệm của người đứng
đầu từng cơ quan, đơn vị và cơ sở, động lực để các cơ quan, đơn vị triển khai
thực hiện phong trào thi đua. Nhìn chung, các nhiệm vụ đề ra trong Chương trình
CCHC giai đoạn 2016 - 2020 đều được triển khai thực hiện và đạt được những kết
quả rất khả quan trên 08 lĩnh vực, một số tiêu chí đã vượt chỉ tiêu đề ra và nâng dần
sự tín nhiệm, hài lòng và đồng thuận của người dân, doanh nghiệp đối với công tác
phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, Thành phố chủ động đề ra nhiều
giải pháp mới, hiệu quả và mang tính đột phá cao như:
phối hợp Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thành phố giám sát tinh thần trách nhiệm, thái độ giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công
chức, viên chức trong quá trình giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân và
đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan hành chính nhà nước; đề xuất
Hội đồng nhân dân thành phố thực hiện giám sát chuyên đề thực hiện công tác
CCHC “Nâng cao sự hài lòng của người dân và tổ chức về dịch vụ hành chính công
trên địa bàn thành phố”; đề xuất và triển khai thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù
phát triển thành phố; triển khai xây dựng chính quyền điện tử, xây dựng thành
phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh, xây dựng “Khu Đô thị sáng tạo” tại
phía Đông thành phố.
III. ĐÁNH GIÁ
1. Mặt được
Chương trình CCHC giai đoạn 2016 -
2020 với 08 nhóm giải pháp, nhiệm vụ đã được triển khai thực hiện đầy đủ, đồng
bộ trên 06 lĩnh vực48. Kết quả đạt được trong gần 03 năm thực
hiện cho thấy từng nội
dung cải cách, từng lĩnh vực đều có chuyển biến tích cực, đáp ứng một phần 05 mục tiêu Chương trình
hành động số 18-CTrHĐ/TU đề ra. Kết quả chỉ số CCHC của thành phố (PAR Index) được cải thiện
đáng kể so với thời điểm đầu nhiệm kỳ. Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính
công (PAPI) và Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) cũng được cải thiện49.
Công tác chỉ đạo, điều hành công tác
CCHC đã đi vào nề nếp, bước đầu thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, được
thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong chỉ đạo của
thành phố đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của cơ sở, gắn trách nhiệm
người đứng đầu với hiệu quả thực hiện CCHC tại đơn vị. Có sự chuyển biến rõ nét
trong nhận thức và trách nhiệm của mỗi công chức, viên chức, cán bộ, đảng viên
về thực hiện nhiệm vụ CCHC.
Công tác thể chế về cơ bản đáp ứng yêu
cầu chỉ đạo, điều hành và thực tiễn quản lý của thành phố. TTHC được cải cách
cơ bản, gắn với ứng dụng
công nghệ thông tin, tạo sự đột phá trong hoàn thiện cơ sở dữ liệu, chuẩn hóa
quy trình thủ tục, minh bạch, công khai thông tin TTHC; rút ngắn thời gian
giải quyết, giảm thành phần hồ sơ, tiết kiệm chi phí tuân TTHC; tăng tỷ lệ TTHC
được thực hiện theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa điện tử, dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; đa dạng cách thức thực hiện thủ tục để người
dân, doanh nghiệp lựa chọn. Bên cạnh đó, cơ chế giám sát việc giải quyết hồ sơ
hành chính được thực hiện ngày càng hiệu quả với sự tham gia của nhiều tổ chức,
cá nhân, như: Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân, người dân, tổ chức, doanh
nghiệp...
đặc
biệt là nhận thức và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan đơn vị đối với
việc giải quyết TTHC đã được nâng lên đáng kể với vai trò trực tiếp chỉ đạo và kiểm soát
quy trình giải quyết TTHC của đơn vị, ký thư xin lỗi trong trường hợp giải quyết
hồ sơ hành chính trễ hạn. Kết quả cải cách đã kéo giảm tỷ lệ hồ sơ trễ hạn xuống còn
dưới 2% trên tổng số hồ sơ tiếp
nhận (bình quân tỷ lệ đúng hạn từ 98% - 99%).
Bộ máy ngày càng được kiện toàn, đẩy mạnh
phân cấp, ủy quyền, phát huy vai trò điều hành, phân định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền ở địa phương. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức từng bước được cải thiện, nâng cao, đáp ứng cơ bản
yêu cầu về trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân. Tăng cường
kỷ luật, kỷ cương hành chính, mở rộng sự giám sát, trực tiếp tiếp đánh giá của
người dân, tổ chức và doanh nghiệp đối với cán bộ, công chức. Tăng cường kiểm
tra, chấn chỉnh thái độ tiếp xúc, trách nhiệm của cán bộ, công chức.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động hành chính được đặc biệt quan tâm, phát huy tối đa các tính
năng ưu việt của công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ CCHC của thành phố,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan, đơn vị và phục vụ người dân, doanh
nghiệp; xây dựng và triển khai chính quyền điện tử từ thành phố đến cơ sở, tổ chức
triển khai tập trung các ứng dụng các sở - ngành, quận - huyện tại Trung tâm dữ
liệu thành phố và tăng cường an toàn an ninh thông tin cho hệ thống này.
2. Hạn chế
Công tác CCHC đã có nhiều tiến bộ hơn
so với đầu nhiệm kỳ, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, người dân, doanh nghiệp vẫn
chưa hài lòng với công tác CCHC của thành phố, cụ thể như:
- Công tác chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc
việc tổ chức thực hiện của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới chưa thường xuyên,
nội dung, phương thức kiểm tra có đổi mới nhưng kết quả xử lý sau kết luận kiểm
tra chưa triệt để và quyết liệt. Công tác khảo sát, đánh giá sự hài lòng của
người dân chưa đạt kết quả như mong muốn, đặc biệt là lĩnh vực đô thị, giáo dục
và y tế. Việc nhân rộng và áp dụng những mô hình, giải pháp CCHC hiệu quả còn
chậm.
- Tiến độ xây dựng và ban hành VBQPPL
có quy định TTHC trong một số lĩnh vực còn chậm; kết quả kiểm tra xử lý văn bản
cho thấy còn trường hợp VBQPPL đã ban hành chưa đảm bảo trình tự, thủ tục và kỹ
thuật xây dựng văn bản, chưa phù hợp về thẩm quyền và nội dung so với văn bản cấp
trên.
- Việc cập nhật, công bố TTHC một số
lĩnh vực chưa đảm bảo tiến độ quy định. Một số thủ tục hành chính còn chồng
chéo, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, nhất là lĩnh vực xây dựng, đất
đai. Tỷ lệ giải quyết hồ sơ trễ hạn trên tổng số TTHC được tiếp nhận có giảm nhưng trong một
số lĩnh vực cụ thể (đất đai, xây dựng, quy hoạch) còn tình trạng hồ sơ trễ hạn
kéo dài, hồ sơ bổ sung nhiều lần50, số lượng TTHC thực hiện theo cơ chế một
cửa liên thông điện tử/hiện đại còn ít so với số lượng TTHC đang thực hiện. Tỷ
lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 so với tổng số hồ sơ tiếp nhận
giải quyết đối với các dịch vụ công trực tuyến đã triển khai còn thấp. Việc triển
khai áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 tại quận - huyện, phường - xã còn
chưa đồng bộ. Hệ thống liên thông
văn bản phối hợp giữa các sở, ban, ngành, các bộ phận còn ách tắc, chưa đồng bộ.
- Cơ chế kiểm soát và trách nhiệm theo
dõi đôn đốc, kiểm tra của người đứng đầu đối với việc giải quyết hồ sơ TTHC thuộc thẩm
quyền tiếp nhận của cơ quan đơn vị quản lý chưa được tổ chức thực hiện nghiêm
túc, đầy đủ51.
- Công tác tiếp công dân, giải quyết
những kiến nghị của người dân tại một số cơ quan, đơn vị còn chậm thực hiện, thực
hiện chưa triệt để, làm cho người
dân bức xúc.
- Tiến độ thực hiện sắp xếp, kiện toàn
tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn chậm, chưa đạt yêu cầu; một số chức
năng, nhiệm vụ trong quản lý nhà nước vẫn còn chồng chéo và chưa phù hợp thực
tiễn; công tác “xã hội hóa” chưa mạnh dạn mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác; công
tác “cổ phần hóa” còn chậm tiến độ. Việc thể chế về quy định và thực hiện trách nhiệm và cơ
chế giải trình của các cơ quan nhà nước chưa quyết liệt và đúng mức.
- Số lượng tinh giản biên chế chưa đạt
được yêu cầu so với chỉ tiêu đề ra52; Công tác xây dựng, thẩm định và phê
duyệt Đề án vị trí việc làm của đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm so với tiến
độ; chưa tiếp tục tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo cấp sở, ban, ngành, cấp
phó phòng và tương đương theo quy định. Thái độ của cán bộ, công chức, viên chức
trong quan hệ tiếp xúc với nhân dân vẫn còn chưa chuẩn mực.
- Thành phố chưa ban hành Kiến trúc tổng thể chính
quyền điện tử để làm định hướng
cho công tác triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ CCHC và xây dựng
chính quyền điện tử của thành phố. Ứng dụng công nghệ thông tin tại các cơ
quan, đơn vị chưa được đồng bộ, thiếu sự kết nối, đặc biệt là chưa có phần mềm
dùng chung cho cấp huyện, cấp xã, quản lý cùng lĩnh vực theo ngành dọc từ thành
phố đến cơ sở.
- Nhiều trụ sở và phương tiện làm việc
của cơ quan, đơn vị còn chưa đáp ứng yêu cầu công tác, đặc biệt là tại UBND phường,
xã, thị trấn, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Quy định pháp luật liên quan đến từng
lĩnh vực của công tác CCHC được áp dụng chung trên toàn quốc, chưa có cơ chế đặc
thù, phù hợp cho các thành phố đặc biệt nên việc triển khai, đánh giá công tác
CCHC còn nhiều vướng mắc, khó khăn.
- Quy định về TTHC chủ yếu do cơ quan
Trung ương ban hành nên địa phương hoàn toàn phụ thuộc trong việc tiếp nhận, xử
lý và trả kết quả. Nội dung một số TTHC do Bộ chủ quản công bố còn chưa đầy đủ nội
dung, thiếu thành phần
chủ yếu của thủ tục dẫn đến khó khăn trong công tác rà soát, công bố theo quy định,
vẫn còn sự khác biệt, vướng mắc giữa TTHC được công bố với giá trị pháp lý, yêu
cầu kỹ thuật trong áp dụng cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Vẫn còn một số cấp ủy và người đứng
đầu một số cơ quan, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của mình
và chưa thực sự quan tâm, thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện
công tác CCHC của đơn vị, chưa xử lý nghiêm cán bộ, công chức gây phiền hà cho
người dân, doanh nghiệp, còn ngại khó, chưa chú trọng đúng mức đến việc cải tiến,
đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với thực tiễn.
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ,
công chức còn chưa đầy đủ về công
tác CCHC. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức còn chưa đồng đều,
có nhiều nơi còn yếu, nhất là yếu về năng lực làm việc trên cơ sở ứng dụng công
nghệ thông tin và năng lực tham mưu, đề xuất các biện pháp về CCHC. Một số cán bộ,
công chức khi giải quyết công việc có liên quan đến tổ chức, công dân còn có biểu
hiện nhũng nhiễu, tiêu cực, vô cảm, sợ trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm làm ảnh
hưởng chung tới công tác CCHC.
- Công tác phối hợp trong giải quyết
TTHC liên thông, kết hợp giữa các cơ quan và các cấp cho người dân và doanh
nghiệp chưa đồng bộ.
- Kinh phí dành cho đầu tư, sửa chữa
trụ sở cơ quan hành chính nhất là tại cấp phường - xã, thị trấn còn hạn chế.
IV. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM
VỤ TRỌNG TÂM ĐẾN CUỐI NHIỆM KỲ
Cùng với các giải pháp đã triển khai
có hiệu quả, thành phố tiếp tục đề ra các giải pháp bổ sung phù hợp với yêu cầu
quản lý để phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành các mục tiêu của Chương trình CCHC.
Trong đó, tập trung các nhiệm vụ sau:
1. Triển khai thực hiện
có hiệu quả Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Quốc hội về
thí điểm cơ chế chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh và Nghị quyết
số 02/NQ-HĐND ngày 15 tháng 3 năm 2018 của Hội đồng nhân dân thành phố về công
tác CCHC, nâng cao sự hài lòng của người dân và tổ chức về dịch vụ hành chính
công trên địa bàn thành phố đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng.
2. Chú trọng việc đánh
giá tác động của các chính sách và tiến độ xây dựng, ban hành chính sách, quy định
thuộc thẩm quyền của UBND thành phố, đặc biệt là các VBQPPL có quy định TTHC, đảm
bảo tuân thủ quy trình, chất lượng, tiến độ; chấm dứt tình trạng chậm trễ trong tiếp
nhận, giải quyết hồ sơ cho cá nhân, tổ chức với lý do chờ văn bản quy định, hướng
dẫn của UBND thành phố.
3. Triển khai, thực hiện
hiệu quả các nội dung phân cấp, ủy quyền cho sở, ngành, quận, huyện trong giải
quyết TTHC.
4. Đẩy mạnh cải cách
TTHC, tập trung vào các mục tiêu: minh bạch, công khai đầy đủ, chính
xác các thông tin về TTHC; làm tốt công tác giải thích, hướng dẫn thủ tục cho
cá nhân, tổ chức để hạn chế việc bổ sung hồ sơ nhiều lần; trả kết quả đúng hạn;
tăng số lượng thủ tục thực hiện liên thông nhất là nhóm đầu tư, đất đai, xây dựng,
giải quyết chính sách cho người dân; thực hiện cơ chế một cửa liên thông, nhất
là liên thông điện tử; kiểm soát tốt trách nhiệm phối hợp của các đơn vị trong
quy trình liên thông; triển khai Nghị định 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm
2018 về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC.
5. Sơ kết việc thực hiện
quy định về Thư xin lỗi, đánh giá hiệu quả tác động đến trách nhiệm giải trình
của cơ quan thực hiện TTHC đối với trường hợp hồ sơ trễ hạn, trách nhiệm của
người đứng đầu trong thực hiện cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện TTHC của công chức,
viên chức thuộc quyền.
6. Tập trung thực hiện
Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành đô thị thông minh”. Đặc biệt là Kế
hoạch “Xây dựng Kho dữ liệu dùng chung và phát triển Hệ sinh thái dữ liệu mở
cho Thành phố Hồ Chí Minh”.
7. Sơ kết tình hình, kết
quả triển khai dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn thành phố; rà soát, đánh
giá sự phù hợp của TTHC đối với yêu cầu thực hiện dịch vụ công trực tuyến; có
giải pháp đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 theo nguyên tắc vừa
đảm bảo hiệu quả cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến vừa đảm bảo tránh đầu
tư chồng chéo, lãng phí.
8. Nghiên cứu trình Hội
đồng nhân dân thành phố cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ đội ngũ
trực tiếp thực hiện TTHC (bộ phận tiếp nhận, trả kết quả, bộ phận giải quyết hồ
sơ); đội ngũ cán bộ đầu mối thực hiện nhiệm vụ kiểm soát TTHC; đội ngũ cán bộ đầu
mối về CCHC tại các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã.
9. Thực hiện hiệu quả Kết
luận số 244-KL/TU ngày 24
tháng 11 năm 2017 của Ban Thường vụ Thành ủy. Tập trung rà soát tổ chức bộ máy
các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6
Khóa XII và các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, gắn với tinh giản biên chế.
10. Nghiên cứu, đề xuất
những chính sách và giải pháp nhằm thực hiện sâu rộng hơn chủ trương xã hội hóa
lĩnh vực xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, khoa học và công nghệ, hành chính -
tư pháp, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để thu hút các nguồn lực đầu tư phát
triển thành phố.
11. Nghiên cứu, tổ chức
có hiệu quả công tác khảo sát sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với
cơ quan hành chính nhà nước các cấp giải quyết TTHC, theo hướng mở rộng phạm vi
khảo sát, thống nhất phương pháp khảo sát đánh giá, thực hiện việc khảo sát khoa học
và bảo đảm tính đại diện.
12. Triển khai thực hiện
đánh giá cán bộ, công chức, viên chức gắn với chi thu nhập tăng thêm theo Nghị
quyết số 03/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố.
13. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ và nâng cao kỹ năng giao tiếp, thái độ ứng xử của đội ngũ cán bộ,
công chức trong giải quyết TTHC.
14. Tăng cường công tác
kiểm tra việc thực hiện TTHC trong các cơ quan, đơn vị thực hiện tiếp nhận, giải
quyết hồ sơ TTHC, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhũng nhiễu người dân,
doanh nghiệp.
15. Nâng cao chất lượng
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức chính trị - xã
hội về công tác CCHC, tập trung giám sát đối với người đứng đầu các đơn vị, cán
bộ trong thực hiện công tác CCHC./.
(Đính kèm các Phụ lục về kết quả thực
hiện công tác CCHC)
Nơi nhận:
-
Thường
trực Thành ủy; (để báo cáo)
-
Hội đồng nhân dân TP; (để báo cáo)
-
TTUB: CT, các PCT;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN TP;
- Văn phòng Thành ủy;
- Các sở, ban, ngành;
- UBND quận-huyện;
- Sở Nội vụ (3b);
- VPUB: CPVP;
- Lưu: VT, (KSTT-ThL) TV.71
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Vĩnh Tuyến
|