Bên tuyển dụng yêu cầu mua đồng phục trước khi vào làm việc có phải lừa đảo hay không?
Bên tuyển dụng yêu cầu mua đồng phục trước khi vào làm việc có phải lừa đảo hay không?
Căn cứ Điều 11 Bộ luật Lao động 2019 quy định về tuyển dung lao động như sau:
Tuyển dụng lao động
1. Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại lao động để tuyển dụng lao động theo nhu cầu của người sử dụng lao động.
2. Người lao động không phải trả chi phí cho việc tuyển dụng lao động.
Theo quy định trên thì khi tham gia tuyển dụng lao động người lao động sẽ không cần phải trả bất cứ chi phí nào kể cả tiền đồng phục vì lúc này hai bên chưa phát sinh quan hệ lao động. Tuy nhiên trường hợp sau khi các bên kí kết hợp đồng công ty có thể yêu cầu người lao động mặc đồng phục và chi phí này có thể được công ty hỗ trợ.
Trường hợp chưa kí kết hợp đồng mà đã yêu cầu người lao động trả chi phí đồng phục trong khâu tuyển dụng thì có thể là hình thức lừa đảo. Người xin việc nên lưu ý, xem xét cẩn thận trong trường hợp này.
Bên tuyển dụng yêu cầu mua đồng phục trước khi vào làm việc có phải lừa đảo hay không?
Những hình thức lừa đảo thường thấy trong tuyển dụng là gì?
Trong quá trình tuyển dụng, có nhiều hình thức lừa đảo mà người tuyển dụng và người tìm việc nên cảnh giác. Có thể tham khảo một số hình thức lừa đảo phổ biến trong tuyển dụng, dưới đây:
Các trang web tuyển dụng giả mạo: Một số trang web tuyển dụng giả mạo sẽ yêu cầu bạn đăng nhập hoặc cung cấp thông tin cá nhân, sau đó sử dụng thông tin này cho mục đích lừa đảo.
Việc làm từ xa không rõ ràng: Các công việc làm từ xa có lương hấp dẫn thường được bên tuyển dụng sử dụng để lừa đảo người tìm việc, đặc biệt nếu họ yêu cầu bạn trả tiền trước hoặc cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng.
Thông báo việc làm qua email không xác định nguồn gốc: Cẩn trọng với các email thông báo việc làm mà bạn không nhớ đã đăng ký. Có thể đó là email lừa đảo để lấy thông tin cá nhân của bạn.
Yêu cầu trả tiền trước: Nếu công ty yêu cầu bạn trả tiền cho các khoản phí tuyển dụng hoặc đào tạo trước khi bạn bắt đầu công việc, đó có thể là dấu hiệu của một lừa đảo.
Yêu cầu thông tin cá nhân nhạy cảm: Nếu bạn được yêu cầu cung cấp thông tin như số Bảo hiểm Xã hội, thông tin tài khoản ngân hàng hoặc số thẻ tín dụng trước khi bạn ký hợp đồng làm việc, hãy cẩn trọng.
Việc tuyển dụng không qua phỏng vấn: Nếu bạn nhận được một công việc mà bạn không cần phải tham gia phỏng vấn hoặc quá dễ dàng để có được, đó có thể là lừa đảo.
Thỏa thuận việc làm trên mạng xã hội: Các tin nhắn qua mạng xã hội có thể là cách lừa đảo để kết nối với bạn và cung cấp các cơ hội việc làm giả.
Yêu cầu thực hiện các giao dịch tài chính kỳ lạ: Nếu bạn được yêu cầu thực hiện các giao dịch tài chính không rõ ràng hoặc không liên quan đến công việc, đó có thể là dấu hiệu của lừa đảo.
Chào giá làm việc qua mạng xã hội: Một số lừa đảo viên có thể sử dụng mạng xã hội để chào giá công việc và thu phí trước khi bạn nhận được dịch vụ.
Thông tin không đầy đủ hoặc không rõ ràng về công ty: Nếu thông tin về công ty hoặc vị trí làm việc không đầy đủ, hoặc bạn không thể xác minh thông tin này, hãy cẩn trọng.
Để tránh rơi vào các hình thức lừa đảo trong tuyển dụng, bạn nên luôn kiểm tra kỹ thông tin về công ty, tìm hiểu về quy trình tuyển dụng, không chia sẻ thông tin cá nhân quá nhạy cảm, và luôn giữ cảnh giác khi gặp các dấu hiệu đáng ngờ.
Công ty yêu cầu cọc tiền tuyển dụng sẽ bị xử lý như thế nào?
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định 12/2022/NĐ-CP có quy định như sau:
Vi phạm về tuyển dụng, quản lý lao động
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động khi có một trong các hành vi sau đây:
a) Không khai trình việc sử dụng lao động theo quy định;
b) Thu tiền của người lao động tham gia tuyển dụng lao động;
c) Không thể hiện, nhập đầy đủ thông tin về người lao động vào sổ quản lý lao động kể từ ngày người lao động bắt đầu làm việc;
d) Không xuất trình sổ quản lý lao động khi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
a) Phân biệt đối xử trong lao động trừ các hành vi phân biệt đối xử quy định tại điểm d khoản 1 Điều 13, khoản 2 Điều 23, khoản 1 Điều 36 và khoản 2 Điều 37 Nghị định này;
b) Sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia;
c) Không báo cáo tình hình thay đổi về lao động theo quy định;
d) Không lập sổ quản lý lao động hoặc lập sổ quản lý lao động không đúng thời hạn hoặc không đảm bảo các nội dung cơ bản theo quy định pháp luật.
3. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: lôi kéo; dụ dỗ; hứa hẹn; quảng cáo gian dối hoặc thủ đoạn khác để lừa gạt người lao động hoặc để tuyển dụng người lao động với mục đích bóc lột, cưỡng bức lao động nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả
Buộc người sử dụng lao động trả lại cho người lao động khoản tiền đã thu đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Lưu ý: theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Như vậy, theo quy định nêu trên, nếu công ty thu tiền của người lao động tham gia tuyển dụng có thể bị xem là lừa đảo trong tuyển dụng thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng - 6.000.000 đồng (mức phạt đối với tổ chức).
Đồng thời, công ty còn phải buộc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là phải trả lại cho người lao động khoản tiền đã thu.
- Cơ quan xét xử cao nhất của nước ta là gì?
- Từ 1/7/2025 công chứng viên được phân công hướng dẫn tập sự phải có bao nhiêu năm kinh nghiệm hành nghề công chứng?
- Người lao động đã thành lập tổ chức nào để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình?
- Không còn quy định được miễn đào tạo nghề đấu giá từ 01/01/2025 đúng không?
- Thời điểm tổ chức Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THPT là khi nào?