Theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định 102/2014 ngày 10/11/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau: Điều 20. Tự ý chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện mà không đủ điều kiện của hộ gia đình, cá nhân. 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đến 1.000.000đ đối với hộ gia đình, cá nhân có
giấy tờ quyền SDĐ thì mẹ tôi sẽ thanh toán đủ số vàng còn thiếu theo HD mua bán đất. Đến thời điểm mẹ tôi sang trả số vàng còn lại để được nhận giấy chứng nhận quyền SDĐ thì Vợ của ông Nguyễn Van A không đồng ý số tiền theo HD trước kia mà đòi thêm 16 chỉ vàng nửa mới giao QSDĐ(lúc này ông Nguyễn Văn A đã chết). Hiện mẹ tôi không
hỏi: Trường hợp của tôi có làm thừa kế để làm thủ tục huyển nhượng các miếng đất cho người mua đất không? Mình tôi có quyền ký chuyển nhượng trong ghi trong GCN QS D đất để tên là hộ bà không? Trong sổ hộ khẩu chỉ có mình tôi là chủ hộ. Xin nhờ luật sư tư vấn giúp tôi
sử dụng hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì thực hiện xử lý như sau:
a) Trường hợp đang sử dụng đất thuộc quy hoạch sử dụng đất cho các mục đích quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai thì Nhà nước thu hồi
cấp;
b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất
Kính chào luật sư, thưa luật sư tôi muốn nhờ luật sư tư vấn giúp cho về nội dung sau đây, hiện nay tôi đang sống tại, phong sơn, phong điền, thừa thiên huế. Vào năm 2001, đã lập gia đình và năm 2002 có xin chính quyền xã phong sơn, (nơi tôi đang ở) để làm nhà ở, và đã được đồng ý bằng miệng. Và tôi tiến hành làm nhà thuận,nhưng đến năm 2006 tôi
Gia đình tôi có vấn đề về đất đai như sau: Ngày 31/5/2004 chính quyền xã Tân kỳ đã bán cho gia đình tôi là 145m 2 ao cạnh nhà đứng tên chủ hộ là tôi tức Nguyễn Thế Viễn. Do tôi đi làm xa, vợ tôi là Nguyễn Thị Bẩy đã nộp cho Ủy ban Nhân Dân xã là 7.250.000đ (bảy triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng), hóa đơn đứng tên Nguyễn Thế Viễn và có nội dung
gia đình đăng ký lại;
d) Tài sản của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký lại quyền sở hữu, sử dụng do giấy chứng nhận bị mất, rách nát, hư hỏng;
đ) Trường hợp khi cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phát sinh chênh lệch diện tích đất tăng thêm nhưng ranh giới của thửa đất không thay đổi thì
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng
Năm 1992 ông Nguyễn Văn A bán 9960m 2 đất thổ cư cho ông Trần Văn B (ông B đứng ra mua giùm cho em vợ là Huỳnh Văn C, việc mua bán chỉ thỏa thuận bằng miệng). Đến năm 1994 ông Huỳnh Văn C bán cho ông Phạm D. (Có giấy viết tay). Sau khi mua ông Phạm D cho con là Phạm E miếng đất nói trên (chỉ cho bằng miệng). Ông Phạm E đã ở từ đó cho đến nay gần
/4 mảnh đất mà chú được chia bằng miệng -> Cho tới bây giờ chú vẫn xác nhận đã cho bố tôi và không có ý kiến gì cả. Như vậy tính tới thời điểm này thì bố tôi đã có 3/4 mảnh đất 1.300m2. Ngày chia đất lập 1 biên bản họp gia đình, do bà nội tôi không biết chữ nên đã để 4 người con trai kí tên vào giấy, riêng bác trưởng làm nhân chứng và chia cho mọi người
Với các thông tin bạn cung cấp thì trường hợp này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự. Điều 104 quy định như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp
chứng để thực hiện việc khai nhân, phân chia di sản thừa kế (bất kể người để lại di chúc đó chết từ khi nào).
2. Khoản 1, Điều 633 BLDS 2005 quy định:
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của
Hiện nay ông bà tôi đều đã ngoài 75 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn. Nay ông bà tôi có ý định viết di chúc để lại tài sản cho các con Hiệu lực của di chúc như thế nào?
lại di chúc thì về nguyên tắc di sản của bố mẹ bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật cho các đồng thừa kế mỗi người 1 phần bằng nhau. Nếu các anh em bạn không đồng ý chia thừa kế. bạn có quyền khởi kiện ra tòa để được bảo vệ quyền lợi. bạn có thể tham khảo các qui định sau:
Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo
đình đều biết việc này, nhưng đến năm 1996 tôi đi công tác vợ chồng tôi chuyển chỗ ở để tiện cho công việc, đến năm 1997 bố chồng tôi đã cắt 240m2 đất vườn để bán cho người ngoài với lí do ông bà và vợ chồng tôi có vay nợ ngân hàng 5.000.000 đ đến kì trả, nhưng một người anh trai chồng tôi không đồng ý và yêu cầu ông bà làm giấy chuyển nhượng cho anh ấy, nhưng
1/ Về nguyên tắc nội bạn chết không để lại di chúc thì di sản phải chia theo quy định của pháp luật thừa kế.
2/ Nếu trước khi chết nội bạn có trăn trối về mục đích của số tiền tiết kiệm như bạn trình bày thì các thành viên trong gia đình (nhất là ngươi con bình thường) nên làm theo ý kiến của người đã chết vì đó là đạo lý và nghĩa tình. Người đ
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của
dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng