:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
…
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách
năm, không phân biệt về tội gì;
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân
Em rể tôi đang bị án treo vì tội đánh bạc. Mới đây, lại bị bắt quả tang cũng vì hành vi đánh bạc. Vậy tôi xin hỏi với hành vi đánh bạc trong lúc hưởng án treo em rể tôi sẽ bị xử lý như thế nào?
cấu thành tội cướp. Tôi bị VKS đề nghị xử khoản 2 (từ 7 đến 15 năm) tôi đã ngồi tạm giam được 3 tháng 25 ngày. Tức là tòa xử tôi là 5 năm trừ đi 3 tháng 25 ngày, có nghĩa tôi phải đi là 4 năm 8 tháng 5 ngày (tôi đang được tại ngọai). Vậy tôi muốn hỏi luật sư là: trong vụ án này người bị hại không đòi hỏi gì và cũng viết đơn xin cho tôi giảm nhẹ hình
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù không quá 3 năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được thì Toà án cho hưởng án treo.
Điều kiện của
Bạn tôi công tác tại Phòng tư pháp huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Khi tham gia giao thông, bạn tôi đi xe gắn máy gây tai nạn làm chết 1 người đi bộ. Bạn tôi bị Toà án xử 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 4 năm. Về trách nhiệm dân sự bạn tôi đã thực hiện đầy đủ. Vậy bạn tôi có được tiếp tục công tác nữa không? Vấn đề này
người thực hành.
Thực tiễn xét xư cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc
hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính tuổi là tính theo tuổi tròn. Trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng
Có nhiều dạng bỏ lọt tội phạm khác nhau; chẳng hạn Viện kiểm sát truy tố bị cáo ba tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử bị cáo hai tội; các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một tội hoặc nhiều tội khác nhưng Viện kiểm sát không truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm không thể xét xử các hành vi mà
ứng. Riêng hành vi chiếm đoạt của người có hành vi tấn công có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội không có ý định chiếm đoạt tài sản, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người
trường hợp trong khi thi hành công vụ do sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, gây thương tích dẫn đến chết người. Đây là vấn đề cả lý luận và thực tiễn vẫn còn cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.
Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về các trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng
lần thực hiện hành vi đã cấu thành tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức, nhưng tất cả các lần phạm tội đó đều bị xét xử trong cùng một bản án
Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý:
- Nếu người phạm tội nhiều lấn sửa chữa, làm sai lệch hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận
, việc giải thích thế nào là “chức vụ cao” còn nhiều ý kiến khác nhau và thực tiễn xét xử đã không thể áp dụng tình tiết này trong các vụ án cụ thể. Mặt khác, do cơ cấu của Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi so vớiBộ luật hình sự năm 1985, nên nhà làm luật quy định tình tiết “ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” thay cho tình tiết “ lợi
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội khi chưa thành niên nhưng khi xét xử đã thành niên mà hình phạt bị áp dụng có thể lên đến mức hình phạt cao nhất là tử hình thì có bị kết án tử hình hay không?
thực hiện hành vi ấy vào thời điểm sau khi có sự thay đổi của tình hình không bị coi là người phạm tội, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. + Do hành vi được thực hiện vào thời điểm trước đây mà pháp luật quy định là tội phạm nhưng tại thời điểm điều tra, truy tố, xét xử hành vi ấy đã mất hẳn đi tính nguy hiểm cho xã hội, nên luật quy định là
vũ khí trong tay, A gây sự và giết chết C.
Tuy chưa có giải thích hoặc hướng dẫn như thế nào là liền trước đó, nhưng thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực hiện trước đó, thời gian phải liền kề với hành vi giết người (có thể trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong vài ngày
, vì nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án ). Nhưng nếu người phạm tội thực sự khai báo thì lại được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều này không chỉ thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta mà còn có tác dụng đấu tranh, phát hiện tội phạm một cách nhanh chóng. Thực tiễn xét xử cho
học, còn về pháp luật, thực tiễn các Tòa án đã coi người từ 60 tuổi trở lên phạm tội là người già và họ được giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Bộ luật hình sự không phân biệt người già phạm tội nào thì được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn tội nào, nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, người già phạm các tội mà tội đó bị ảnh hưởng trực tiếp đến
. Việc này, bản thân người phạm tội phải chứng minh; các cơ quan điều tra, truy tố khi lập hồ sơ cần phải thu thập tài liệu để xác định tình trạng lúc phạm tội của bị cáo có thai hay không. Nếu tại phiên tòa bị cáo mới khai là lúc phạm tội đang có thai và xuất trình đầy đủ tài liệu chứng minh, Tòa án vẫn có thể chấp nhận.
Khi xét xử bị cáo mới có