Kính gửi:
|
- Viện kiểm sát quân sự trung ương;
- Các đơn vị thuộc VKSND tối cao;
- VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Thực hiện chỉ đạo của
Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao về tham mưu giải đáp khó khăn,
vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, Viện kiểm sát (VKS) các cấp trong
năm 2023, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học VKSND tối cao (Vụ 14) giải đáp một số
nội dung liên quan đến trách nhiệm của Vụ 14 như sau:
I. KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT LIÊN QUAN ĐẾN HÌNH SỰ, TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Những
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất Vụ 14 ghi nhận để tổng hợp, nghiên cứu,
tham mưu Lãnh đạo VKSND tối cao xem xét sửa đổi hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền trong việc xây dựng, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
(Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) (BLHS), Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối
cao...)
1.1. Quá trình giải
quyết vụ án, vụ việc liên quan các tội danh “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ” và “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”
quy định tại Điều 356, Điều 357 BLHS, do chưa có văn bản hướng
dẫn về việc xác định tình tiết “thiệt hại khác” là gồm những thiệt hại
gì, nên có nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống nhất áp dụng pháp luật giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tình tiết “gây thiệt hại
khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”
(VKSND tỉnh An Giang)
Trả lời:
Vụ 14 ghi nhận vấn đề này
để tổng hợp, báo cáo Lãnh đạo VKSND tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao bổ sung hướng dẫn. Trước mắt, có thể tham khảo quy định khoản
9 Điều 3 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội
phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ hướng dẫn về thiệt hại khác quy định
tại các điều 353, 354, 355 và 358 BLHS, theo đó, “thiệt hại
khác” là thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm
tội và là những thiệt hại không phải là thiệt hại về tài sản đã được quy định
trong các điều nêu trên của BLHS.
1.2. BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ 01/01/2018, tuy nhiên các văn bản hướng dẫn
luật vẫn chưa đồng bộ. Một số Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao;
Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
đã hết hiệu lực nhưng đến nay chưa có văn bản hướng dẫn thay thế; một số vấn đề
còn có hướng dẫn giải đáp chưa cụ thể, chồng chéo gây khó khăn cho các đơn vị
khi thực hiện nhiệm vụ (ví dụ: tội phạm liên quan đến hành vi đánh bạc và tổ chức
đánh bạc; tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan và tổ chức, tội sử dụng con
dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông để chiếm đoạt tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản,...) (Vụ 2, Vụ 7; VC1; VKSND các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Yên
Bái, Lạng Sơn, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thanh Hóa, Kon Tum, Đồng Nai, Đồng
Tháp, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang,...)
Trả lời:
- Về vấn đề này, VKSND tối
cao đã có văn bản gửi TAND tối cao đề nghị sớm ban hành văn bản thay thế các
văn bản hướng dẫn thi hành BLHS đã hết hiệu lực. Hiện nay, TAND tối cao cũng
đang xây dựng một số dự thảo nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn liên quan như: Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 313 BLHS; Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS về các tội phạm ma túy; Nghị quyết hướng dẫn áp dụng 1 số quy định tại Điều 347, Điều 348, Điều 349 và Điều 350 BLHS...
Trước mắt, các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tại địa phương cần chủ động phối hợp trao đổi, thống
nhất quan điểm để xử lý, giải quyết các vụ án liên quan, bảo đảm phù hợp với
quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đồng thời, có thể tham
khảo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật không trái với quy định của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- VKSND tối cao đang tiến
hành xây dựng Báo cáo đánh giá thực tiễn 05 năm thi hành BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) trong ngành KSND, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất
với các cơ quan có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung BLHS hoặc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết BLHS. Do vậy, đề nghị VKS các địa
phương tiếp tục phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong nhận thức, áp dụng
pháp luật hình sự để VKSND tối cao tiếp tục tổng hợp chung trong quá trình xây
dựng Báo cáo.
1.3. Đối với tội “Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 255
BLHS: điểm a tiết 6.3 mục 6 phần II Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 quy định “người nghiện
ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người
nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà tùy từng
trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất
ma túy hoặc tội Sử dụng trái phép chất ma túy”. Tại Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP thì chỉ bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 phần II và Mục
8 Thông tư liên tịch số 17. Nghĩa là mục 6 phần II Thông tư
liên tịch số 17 vẫn có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, tại Công văn số
89/TANDTC-PC ngày 18/5/2020 và Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 hướng dẫn
“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các
hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, địa
điểm, phương tiện, dụng cụ... để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh nhiều vướng mắc, như:
- Về việc áp dụng tình
tiết “đối với 02 người trở lên” trong trường hợp các đối tượng cùng nhau
góp tiền, phân công đi mua ma túy, chuẩn bị công cụ sử dụng ma túy... về cùng sử
dụng, hiện nay, các văn bản hướng dẫn của TAND tối cao và VKSND tối cao có nhiều
nội dung chưa thống nhất về đường lối giải quyết, cụ thể:
+ Tại Công văn số
1797/VKSTC-V14 ngày 25/5/2022 của VKSND tối cao hướng dẫn áp dụng tình tiết “đối
với 02 người trở lên” trường hợp trong 01 lần thực hiện hành vi phạm tội,
người phạm tội tổ chức cho 02 người trở lên sử dụng trái phép chất ma túy mà 02
người này phải không có hành vi đồng phạm với người phạm tội và không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
+ Tại Công văn số
279/TANDTC-V1 ngày 09/12/2022 của TAND tối cao, Công văn số 20/VKSTC-V4 ngày
04/01/2023 của VKSND tối cao, hướng dẫn áp dụng tình tiết “đối với 02 người
trở lên” trường hợp trong 01 lần thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội
tổ chức cho 02 người trở lên sử dụng trái phép chất ma túy mà 02 người này
(không bao gồm người phạm tội) có thể là không phạm tội hoặc đồng phạm về tội Tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Việc xem xét xử lý đối
với lượng ma túy còn lại thu giữ được trong các vụ án “Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy”: Thực tiễn, địa phương vận dụng giải đáp tại Công văn số
1149/VKSTC-V4 ngày 07/4/2022 và Văn bản số 1723/VKSTC-V4 ngày 09/5/2023 của
VKSND tối cao để xử lý hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với trường hợp
lượng ma túy còn lại thu giữ được đủ lượng để cấu thành tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 BLHS và
xác định được nguồn gốc số ma túy nói trên là của ai. Tuy nhiên, do chưa có văn
bản hướng dẫn cụ thể, nên tại một số địa phương có quan điểm không xử lý hành
vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mà thu hút về tội “Tổ chức trái
phép chất ma túy”.
- Xử lý vật chứng
trong vụ án ma túy: Trong các vụ án về ma túy, các bị cáo thường sử dụng xe mô
tô, xe máy làm phương tiện phạm tội (dùng để mua, bán hoặc vận chuyển ma túy).
Trong nhiều trường hợp, những phương tiện này không phải thuộc quyền sở hữu của
bị cáo mà do các bị cáo mượn của người thân, bạn bè để sử dụng; những người này
đều không biết các bị cáo sử dụng xe của mình để thực hiện hành vi phạm tội. Hiện
nay, việc xử lý vật chứng của Tòa án đối với những phương tiện nói trên là chưa
thống nhất. Thực tế xét xử, có trường hợp Thẩm phán lại tuyên trả lại cho chủ sở
hữu hợp pháp; nhưng cũng có trường hợp Thẩm phán tuyên tịch thu, nộp ngân sách
nhà nước, nếu phát sinh tranh chấp giữa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan và bị cáo thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khi có yêu cầu. Nhận thấy,
việc tịch thu sung công đối với những tài sản nói trên là không đảm bảo, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền và nghĩa vụ liên quan (VKSND các tỉnh: Hòa Bình, Bắc Giang, Bình Định, Kon Tum,
Bà Rịa - Vũng Tàu)
Trả lời:
Hiện nay, VKSND tối cao
đang phối hợp với TAND tối cao xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về các tội phạm ma
túy. Do vậy, đối với các vấn đề như: định tội đối với người nghiện ma túy; về
nhận thức áp dụng tình tiết “đối với 02 người trở lên”; việc giải quyết
đối với trường hợp các đối tượng cùng nhau góp tiền, phân công đi mua ma túy,
chuẩn bị công cụ sử dụng ma túy... về cùng sử dụng, Vụ 14 sẽ tổng hợp, đề nghị
TAND tối cao trong quá trình nghiên cứu, góp ý đối với dự thảo Nghị quyết này để
áp dụng pháp luật thống nhất.
1.4. Điều
318 BLHS quy định tội Gây rối trật tự công cộng với tình tiết định tội là “gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, đây cũng là tình tiết
định khung cơ bản, khung tăng nặng của một số loại tội phạm được quy định tại
BLHS. Tuy nhiên, hiện chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào là “gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, do đó gây khó khăn cho các cơ quan
tiến hành tố tụng trong áp dụng thống nhất đường lối xử lý (VKSND các tỉnh: Quảng Bình, Kon Tum, Bình Thuận)
Trả lời:
Hiện nay, các cơ quan có
thẩm quyền chưa có hướng dẫn cụ thể về tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội” tại khoản 1 Điều 318 BLHS[1]. Vụ 14 ghi nhận, tổng hợp và đề nghị Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn.
Tuy nhiên, các địa phương
có thể tham khảo ý kiến của Vụ 14 tại cuốn sách “Giải đáp vướng mắc về pháp
luật và giải quyết các vụ án, vụ việc về tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy”
do Văn phòng, Vụ 14 phối hợp xuất bản tại Nhà xuất bản Tư pháp năm 2019 (câu số
39 Phần I.1) trả lời về tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 168, điểm
h khoản 2 Điều 169, điểm đ khoản 2 Điều 170, điểm h khoản 2
Điều 171, điểm c khoản 1 Điều 172, điểm c khoản 1 Điều 173, điểm
c khoản 1 Điều 174, điểm e khoản 2 Điều 175, điểm c khoản 1 Điều 178 BLHS;
Công văn số 1120/VKSTC-V14 ngày 28/3/2023 tổng hợp, giải đáp khó khăn, vướng mắc,
kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp trong 03 năm (năm 2020 - 2022); khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại khoản 3 các điều
353, 355 của BLHS để thống nhất liên ngành tố tụng giải quyết các vụ án
theo quy định.
1.5. Khó khăn trong
xem xét, áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: “phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều
52 BLHS; “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người
đủ 70 tuổi trở lên” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52
BLHS; tình tiết “có tính chất côn đồ” quy định tại điểm i khoản
1 Điều 134 BLHS; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS; “phạm tội do lạc hậu” quy
định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS,... do hiện nay chưa
có hướng dẫn cụ thể (VKSND các tỉnh:
Cao Bằng, Sơn La, Hưng Yên, Hà Nam, Quảng Ninh)
Trả lời:
Các tình tiết nêu trên
chưa được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn cụ thể hoặc chưa được sửa đổi,
bổ sung, thay thế. Tuy nhiên, trong thời gian chưa có hướng dẫn của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao thì các đơn vị có thể nghiên cứu, tham khảo:
(1) Về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 BLHS,
có thể tham khảo, vận dụng hướng dẫn tại mục 5.1 Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao để phối
hợp xử lý vì hiện còn phù hợp với thực tiễn. Cụ thể: “phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp” là trường hợp người phạm tội: (i) cố ý thực hiện
tội phạm từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích và (ii) lấy
các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn
sống chính.
(2) Về tình tiết “phạm tội do lạc hậu” quy
định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS, trước mắt, có thể
tham khảo Sổ tay Thẩm phán của TAND tối cao, theo đó:
+ “Lạc hậu” là
không theo kịp đà tiến bộ, đà phát triển chung.
+ Chỉ áp dụng tình tiết “phạm
tội do lạc hậu” nếu lạc hậu đó là do nguyên nhân khách quan đưa lại, như do
đời sống xã hội nên không hiểu biết hoặc kém hiểu biết về pháp luật, không được
học tập, không có điều kiện thực tế để nhận biết các đúng, sai trong cuộc sống...
(3) Về tình tiết “có tính chất côn đồ” quy định
tại điểm i khoản 1 Điều 134 BLHS, có thể tham khảo hướng dẫn
tại cuốn sách “Giải đáp vướng mắc về pháp luật và giải quyết các vụ án, vụ
việc về tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy” do Văn phòng và Vụ 14 phối hợp
xuất bản tại Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2019, theo đó: “phạm tội có
tính chất côn đồ” là trường hợp người phạm tội thể hiện sự hung hãn, manh động,
bất chấp lý do, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác. Ví dụ: chỉ vì va
chạm, mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà người phạm tội đã sử dụng vũ lực tước bỏ
hoặc xâm phạm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người khác.
1.6. Trong giai đoạn
giải quyết nguồn tin về tội phạm chưa có quy định các cơ quan có thẩm quyền được
tiến hành các hoạt động thực nghiệm điều tra, nhận dạng, nhận biết giọng nói, đối
chất. Trong khi đó có những tố giác, tin báo về tội phạm nếu không tiến hành
các hoạt động này thì không đủ căn cứ để xác định có dấu hiệu tội phạm hay
không nên gặp nhiều khó khăn khi đánh giá chứng cứ (Thanh tra VKSND tối cao, VKSND tỉnh Bắc Kạn)
Trả lời:
Hiện nay, VKSND tối cao
đang triển khai việc xây dựng Báo cáo nghiên cứu, rà soát và sơ kết thực tiễn
05 năm thi hành BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) theo Kế hoạch số
81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) triển
khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng chương
trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Đối với khó khăn, vướng mắc
nêu trên, VKSND tối cao sẽ tổng hợp nghiên cứu, đề xuất tại Báo cáo này, gửi cấp
có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Liên quan đến nội dung
này, VKSND tối cao đã có hướng dẫn tại mục II.10 Công văn số
5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc
liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS năm 2015 và thi hành án hình sự, theo
đó:
“Khoản
3 Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định:
“3. Khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến
hành các hoạt động:
a) Thu thập thông
tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra,
xác minh nguồn tin:
b) Khám nghiệm hiện
trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định,
yêu cầu định giá tài sản”.
Như vậy, ngoài 04 hoạt động
cụ thể (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, yêu cầu
định giá tài sản) thì khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động khác để kiểm tra,
xác minh theo điểm a khoản 3 Điều 147 nêu trên.
Ngoài ra, theo quy định tại
điểm d khoản 3 Điều 83 BLTTHS năm 2015 thì: “Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có
quyền: d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Thông tư số 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân
dân thì: “Khi thực hiện việc thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm
được quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS được thực hiện cụ
thể như sau: ....2. Tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói
và các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công của
Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra của Công an nhân dân thực hiện các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình
theo sự phân công của Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (trừ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt quy định tại Chương XVI BLTTHS năm 2015)”.
Trước đây, theo quy định
tại điểm c khoản 3 Điều 10 Thông tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng dẫn thi
hành quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố thì Điều tra viên được phân công giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiệm vụ và quyền hạn tiến hành
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng.
Do vậy, mặc dù không được
quy định cụ thể tại Điều 147 BLTTHS năm 2015 nhưng khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có
thể tiến hành hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói theo các văn bản
hướng dẫn nêu trên với tính chất là những biện pháp để kiểm tra, xác minh tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, không coi đây là những biện
pháp điều tra được quy định và áp dụng trong giai đoạn điều tra.
1.7. Về quản lý vật chứng
trong quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến vũ khí quân dụng: Thông qua
việc giải quyết các vụ án “Chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ
khí quân dụng”, thông thường vật chứng của vụ án là súng tự chế, thuộc vũ
khí quân dụng. Tuy nhiên, khi nhập kho vật chứng thì Phòng Cảnh sát Thi hành án
hình sự và Hỗ trợ tư pháp Công an tỉnh từ chối nhận vì vật chứng không nằm
trong danh mục các vật chứng được nhập kho và việc nhập kho vật chứng này có thể
gây nguy hiểm; khi chuyển sang nhập kho tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh cũng bị từ
chối vì vật chứng không nằm trong danh mục được nhập kho vật chứng của Quân đội
theo quy định tại Thông tư số 131/2014/TT-BQP ngày 01/10/2014 của Bộ Quốc Phòng
(VKSND các tỉnh: Hòa Bình, Bắc Giang, Đắk
Nông)
Trả lời:
Điểm đ
khoản 1 Điều 90 BLTTHS quy định: “Vật
chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công
an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy
tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn
xét xử và thi hành án”. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng cần chủ động
trao đổi, phối hợp với các cơ quan liên quan xác định trách nhiệm bảo quản vật
chứng để bảo đảm cho việc quản lý vật chứng và giải quyết vụ án. Vụ 14 cũng sẽ
ghi nhận vấn đề này để để kiến nghị có quy định phù hợp.
2. Những
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất đã được luật, thông tư liên tịch, Công
văn giải đáp khó khăn, vướng mắc của VKSND tối cao, các văn bản khác hướng dẫn
rõ
2.1. Tại khoản 2 Điều 127 BLTTHS năm 2015:
- Quá trình giải quyết
nguồn tin về tội phạm, nhiều trường hợp mời, triệu tập nhưng người bị tố giác
không đến, không làm việc với Điều tra viên, trong khi đó theo điểm
c khoản 2 Điều 127 BLTTHS, chỉ khi khởi tố vụ án thì mới được thực hiện biện
pháp dẫn giải.
- Bị hại trong các vụ
án xâm phạm về nhân thân, vì các lý do khác nhau mà họ đã từ chối giám định tỷ
lệ thương tích. Để có căn cứ giải quyết vụ việc, cơ quan tiến hành tố tụng phải
ra quyết định dẫn giải bị hại. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn gặp phải
những khó khăn như: Việc từ chối giám định là quyền của bị hại; nhiều trường hợp
mời, triệu tập nhưng người bị tố giác không đến. Trường hợp họ từ chối giám định,
người bị tố giác không đến mà vẫn dùng biện pháp bắt buộc dẫn giải họ thì có vi
phạm quyền công dân không? Trường hợp VKS ra Quyết định dẫn giải thì sẽ phải thực
hiện việc dẫn giải đó như thế nào? (Cục
1, VKSND các tỉnh: Bắc Kạn, Hưng Yên, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu)
Trả lời:
- Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 127 BLTTHS thì dẫn giải có thể áp dụng đối
với “người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra,
xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội
được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất
khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”. Quy định này nhằm bảo
đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
do đó, phải đáp ứng các điều kiện nêu trên mới được dẫn giải người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố.
- Đã trả lời tại câu số 4
và câu số 17 phần tố tụng hình sự Tài liệu giải đáp về những khó khăn, vướng mắc
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự của VKSND tối
cao năm 2020. Theo đó:
+ Theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 4 và Điều 127 BLTTHS thì: dẫn giải có thể
áp dụng với người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết
định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất
khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Đồng thời, khoản 4
Điều 62 BLTTHS cũng quy định rõ bị hại có nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu
tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không
vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Do vậy, việc áp dụng biện pháp dẫn giải với bị hại trong trường hợp bị hại từ
chối giám định nêu trên là không vi phạm quyền công dân.
+ Khoản 5
Điều 127 BLTTHS quy định: Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có trách
nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải.
- Đề nghị VKS địa phương
tham khảo thêm Thông tư số 47/2020/TT-BCA ngày 15/5/2020 của Bộ trưởng Bộ Công
an quy định thực hiện nhiệm vụ bắt, áp giải, dẫn giải của lực lượng làm nhiệm vụ
hỗ trợ tư pháp trong Công an nhân dân.
2.2. Khó khăn trong
công tác giám định, định giá: Giám định về quy trình đấu thầu, thẩm định giá và
việc xác định thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật; giám định trong lĩnh vực
tài chính (kế toán, kiểm toán), tài nguyên (cát, than, quặng), đất, xây dựng cầu
đường, thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất, động vật và các sản phẩm từ động vật;
giám định kỹ thuật hình sự chưa triển khai thực hiện như: giám định về âm
thanh, giám định hình ảnh, giám định kỹ thuật số - điện tử; giám định pháo nổ,
vật liệu nổ, kim loại vàng, bạc...; giám định, định giá một số mặt hàng đặc thù
như: hàng hóa do nước ngoài sản xuất như vật tư, thiết bị y tế; sản phẩm từ động
vật hoang dã (xương, ngà) (VKSND tỉnh
Quảng Ninh)
Trả lời:
- Hiện liên ngành Trung
ương (Bộ Công an chủ trì) đang xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch quy định
quan hệ phối hợp và trách nhiệm trong hoạt động trưng cầu giám định tư pháp về
hình sự. Ngày 31/01/2024, Bộ Công an cũng đã chủ trì, phối hợp với VKSND tối
cao ban hành Hướng dẫn số 02/HDLN-BCA-VKSNDTC về phối hợp thực hiện thủ tục
trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản của các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân. Do vậy, sẽ giải quyết
được một số khó khăn, vướng mắc trong công tác giám định xảy ra trên thực tiễn.
- Theo quy định tại Điều 41 Luật Giám định tư pháp thì bộ, cơ quan ngang bộ quản
lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn ban hành quy
trình giám định; ban hành hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt
động giám định tư pháp; căn cứ yêu cầu và tính chất đặc thù của lĩnh vực thuộc
thẩm quyền quản lý quy định cụ thể về thời hạn đối với từng loại việc giám định.
Như vậy, đối với từng lĩnh vực cụ thể sẽ có những quy trình, quy chuẩn giám định
nhất định và thuộc trách nhiệm ban hành của bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên
môn về lĩnh vực giám định tư pháp. Thời gian qua, các bộ, ngành đã ban hành một
số văn bản quy định về quy trình giám định để quy chuẩn công tác này trong một
số lĩnh vực quản lý nhà nước[2], do vậy, đề nghị
nghiên cứu.
2.3. Phối hợp liên
ngành tư pháp Trung ương ban hành các văn bản hướng dẫn với những quy định còn
bất cập và chưa cụ thể, bảo đảm áp dụng thống nhất, như: Trong việc áp dụng các
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ; áp dụng pháp luật giữa tội “Tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy” với “Sử dụng trái phép chất ma túy”,
tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” với “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi”; tội “Giết người” với “Giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh”; tội “Giết người” và “Đe dọa giết
người”; tội “Trộm cắp tài sản” với “Tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có”; tội “Cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người”
với “Giết người”;... và trong áp dụng các án lệ của Tòa án như Án lệ 17
về tình tiết “Có tính chất côn đồ”, Án lệ 57 về áp dụng tình tiết “Phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp” và “Phạm tội 02 lần trở lên”; hướng
dẫn về quy trình, thủ tục quản lý, xử lý vật chứng, đồ vật, tài sản tạm giữ; về
xử lý đối với các hành vi tham nhũng xảy ra
trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước; về xử lý đối với các vụ án đánh bạc trên
không gian mạng, xác định số tiền và truy thu số tiền đánh bạc qua mạng,... (Vụ 7, VC3, VKSND các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, Hải
Phòng, Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Quảng Bình, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Tây Ninh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Kiên Giang, Đắk Lắk)
Trả lời:
- Việc đề nghị liên
ngành có văn bản hướng dẫn áp dụng các án lệ và các vướng mắc về pháp
luật nội dung trong lĩnh vực hình sự là không hợp lý, vì thẩm quyền hướng dẫn
này thuộc Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.
- Hiện TAND tối cao đang
xây dựng dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về các tội
phạm ma túy, trong đó sẽ giải quyết các vướng mắc nêu trên.
- Về việc áp dụng pháp luật
giữa tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi với Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, đề nghị VKS địa phương tham khảo thêm hướng dẫn tại Nghị quyết số
06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình
dục người dưới 18 tuổi.
- Đối với nội dung đề nghị
hướng dẫn về hành vi tham ô, đưa hoặc nhận hối lộ xảy ra trong các tổ chức,
doanh nghiệp tư nhân: VKSND tối cao đã có Công văn số 4115/VKSTC-V14 ngày
28/9/2023 gửi TAND tối cao đề nghị hướng dẫn xử lý đối với các tội phạm tham
nhũng trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước. Ngày 03/10/2023, TAND tối
cao cũng đã có Công văn số 196/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến
một số vướng mắc trong công tác xét xử, trong đó, có giải đáp về nội dung này,
đề nghị nghiên cứu, tham khảo.
- Đối với hướng dẫn về
quy trình, thủ tục quản lý, xử lý vật chứng, đồ vật, tài sản tạm giữ, hiện nay
Bộ Công an đã thực hiện tổng kết về quản lý, xử lý vật chứng, đồ vật, tài sản tạm
giữ để đề xuất hướng giải quyết.
- Đối với những khó khăn
trong quá trình giải quyết các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc, TAND tối cao
cũng đã tiến hành tổng kết để xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn (ngành KSND đã có văn bản tổng kết gửi TAND tối cao).
2.4. Quá trình giải
quyết vụ án, vụ việc liên quan đến tội phạm “Rửa tiền”, còn gặp khó khăn
trong hướng dẫn pháp luật. Cụ thể, tại điểm d khoản 2 Điều 4 của
Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS về tội Rửa tiền,
khi hướng dẫn xử lý hành vi “Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch
khác quy định tại điểm a khoản 1 Điều 324 của BLHS”,
nhưng tại điểm d khoản 2 Điều 4 của Nghị quyết này lại quy
định “Các hành vi khác không liên quan đến tài chính, ngân hàng” nên các
cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương còn có nhận thức chưa thống nhất trong
áp dụng pháp luật (VKSND tỉnh An Giang)
Trả lời:
Điểm a khoản
1 Điều 324 BLHS quy định “Tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác...”.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP hướng
dẫn về hành vi tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các giao dịch tài chính, ngân
hàng và các giao dịch khác quy định tại điểm a khoản 1 Điều 324
BLHS; trong đó, điểm n khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số
03/2019/NQ-HĐTP quy định về các hành vi khác trong giao dịch tài chính,
ngân hàng theo quy định của pháp luật; còn điểm d khoản 2 Điều 4
Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP quy định về các hành vi khác không liên quan
đến tài chính, ngân hàng. Đây là 02 quy định khác nhau để hướng dẫn đầy đủ, rõ
ràng các trường hợp và không có sự mâu thuẫn.
3. Những
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất Vụ 14 trả lời
3.1. Vướng mắc trong
việc thực hiện khoản 6 Điều 134 BLHS quy định xử lý đối với
trường hợp “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm,
a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm
nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác...” vì
trên thực tế những hành vi này thường được các cơ quan tố tụng xem xét, xử lý về
tội Gây rối trật tự công cộng.
Tại khoản
1 Điều 155 BLTTHS quy định khởi tố khi có yêu cầu của bị hại đối với khoản 1 Điều 134 mà không quy định đối với khoản
6 Điều 134 BLHS. Trong khi đó tính chất mức độ nguy hiểm của khoản
6 Điều 134 BLHS không bằng khoản 1 Điều 134 BLHS vì
chưa có đối tượng bị tác động, ảnh hưởng. Bị hại không yêu cầu khởi tố liệu cơ
quan tố tụng có đủ căn cứ khởi tố theo khoản 6 Điều 134 BLHS
hay không? Nếu cơ quan tố tụng khởi tố theo khoản 6 Điều 134
BLHS mà không có yêu cầu của bị hại sẽ dễ dẫn đến việc áp dụng tùy nghi hoặc
nhầm lẫn với tội “Gây rối trật tự công cộng” (VKSND tỉnh Thanh Hóa)
Trả lời:
- Khoản 6
Điều 134 BLHS là để xử lý ngăn chặn sớm đối với các hành vi chuẩn bị phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tức là
chưa có bị hại và chưa có hậu quả xảy ra nhưng không thể lường trước được mức độ
nguy hiểm sẽ xảy ra như thế nào nếu không được ngăn chặn, phòng ngừa sớm, do vậy,
không thể áp dụng theo trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại theo quy định
tại Điều 155 BLTTHS.
- Để xử lý tội phạm theo
quy định tại khoản 6 Điều 134 và Điều 318 BLHS, thì tùy từng
trường hợp cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập, đánh giá, chứng
minh đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, bảo đảm xác định đúng bản chất sự việc
và xử lý nghiêm hành vi và người phạm tội để bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm.
3.2. Khó khăn trong việc
áp một số quy định pháp luật và án lệ về hình sự: (1) Về thời hạn điều
tra sau khi tách vụ án hình sự, như chưa thống nhất quan điểm: Thứ nhất,
thời hạn điều tra của vụ án sau khi được tách ra sẽ được tính theo thời hạn điều
tra của vụ án đã khởi tố trước đó theo quy định tại Điều 172
BLTTHS; Thứ hai, thời hạn điều tra của vụ án sau khi được tách ra sẽ
được tính như một vụ án mới được khởi tố theo thời hạn điều tra được quy định tại
Điều 172 BLTTHS); (2) Về thời hạn bổ sung chứng
cứ, như: thời hạn bổ sung chứng cứ để xem xét phê chuẩn khởi tố bị can: Tại đoạn
2 khoản 3 Điều 179 BLTTHS chỉ quy định “trong thời hạn
03 ngày kể từ ngày nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung” mà không có quy định
thời hạn bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của VKS khi xét phê chuẩn quyết định khỏi
tố bị can; (3) Trong việc số hóa hồ sơ, như: Thời điểm số hóa hồ sơ chưa có sự
thống nhất như số hóa hồ sơ án hình sự bắt đầu từ thời điểm nào là thích hợp để
hồ sơ số hóa được đánh bút lục một cách đầy đủ theo trình tự của hồ sơ vụ
án,... (VKSND các tỉnh: Sơn La, Lai
Châu, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Khánh Hòa,
Tây Ninh)
Trả lời:
(1) Thời hạn điều tra của vụ án sau khi được tách ra sẽ được
tính theo thời hạn điều tra quy định tại Điều 172 BLTTHS kể
từ khi khởi tố vụ án cũ. Trường hợp tách vụ án hình sự để điều tra theo quy định
tại Điều 170 BLTTHS, thì thời hạn điều tra của vụ án sẽ là
thời hạn điều tra theo tội danh bị tách ra tính từ khi khởi tố vụ án hình sự
cũ.
(2) Quy định tại đoạn 2 khoản 3 Điều 179
BLTTHS nhằm tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong quá trình bổ sung tài liệu, chứng cứ. Khi trả lại để bổ sung là trả cả hồ
sơ vụ án nên không cần quy định thời hạn (miễn là trong thời hạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự).
(3) Pháp luật tố tụng hình sự không quy định về thời điểm số
hóa hồ sơ. Đối với các hướng dẫn về trình tự, thủ tục số hóa hồ sơ trong ngành
KSND, đề nghị VKS địa phương trao đổi thêm với Cục 2 VKSND tối cao.
VKS địa phương có thể
tham khảo quy định về lập, quản lý, sử dụng hồ sơ kiểm sát bản điện tử tại Quy
định về lập, quản lý, sử dụng hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong ngành KSND (Ban
hành kèm theo Quyết định số 264/QĐ-VKSTC ngày 05/10/2022 của Viện trưởng VKSND
tối cao).
3.3. Công tác giám định
chậm, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án (Cục 1; VKSND các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Điện Biên, Phú Thọ,
Hòa Bình, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Kon
Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, An Giang, Cà Mau)
Trả lời:
- Điều
26a Luật Giám định tư pháp quy định thời hạn giám định tư pháp trong trường
hợp trưng cầu giám định[3]. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy việc giám định, nhất là trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất
đai... vẫn thường bị kéo dài. Đây là khó khăn chung trong thực tiễn công tác giải
quyết các vụ án, vụ việc nói chung, vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nói
riêng.
- Để khắc phục khó khăn
này, VKS cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra thường xuyên đôn đốc, trao
đổi với tổ chức, người giám định để nắm bắt tiến độ, thời hạn, những khó khăn,
vướng mắc phát sinh trong quá trình giám định để có biện pháp tháo gỡ, kịp thời
đẩy nhanh tiến độ giám định. Trường hợp tổ chức, người giám định không kết luận
theo yêu cầu hoặc đùn đẩy, né tránh, từ chối ra kết luận thì VKS thực hiện quyền
yêu cầu ra kết luận, giải thích kết luận hoặc yêu cầu bổ sung kết luận rõ về nội
dung giám định; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, người giám định
thực hiện đúng quy định của BLTTHS và Luật Giám định tư pháp. Nếu có dấu hiệu cố
ý vi phạm, cản trở các hoạt động tố tụng thì kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có
biện pháp xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
4. Những
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất còn chưa rõ
4.1. Việc áp dụng pháp
luật trong định tội danh liên quan đến tội Làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu
giả của cơ quan tổ chức còn nhiều vướng mắc do có quan điểm xử lý khác nhau,
chưa thống nhất, mặc dù đã có văn bản hướng dẫn nhưng chưa cụ thể, dẫn đến khó
khăn trong xử lý tội phạm thực hiện chuỗi hành vi làm giả tài liệu của cơ quan
tổ chức và sử dụng tài liệu này để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mặt khác, liên
ngành Trung ương cũng chưa thống nhất hướng dẫn cụ thể về một số hành vi, như:
Hành vi làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả thực hiện hành
vi trái pháp luật; còn vướng mắc trong giải quyết hành vi làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức, thiệt hại về tài sản cần định giá để xác định khấu
hao tài sản.
Trả lời:
Đã giải đáp tại Mục 15 Công văn số 4962/VKSTC-V14 ngày 15/11/2023
của VKSND tối cao.
Hiện VKSND tối cao đang
tiến hành khảo sát, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các vụ án
về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội Sử dụng con dấu hoặc
tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (theo Kế hoạch số 65/KH-VKSTC ngày
30/3/2023). Do vậy, đề nghị địa phương nêu rõ và phản ánh nội dung khó khăn, vướng
mắc cụ thể liên quan đến việc xử lý tội phạm này tới Vụ 2 để giải quyết theo
đúng chức trách, nhiệm vụ.
4.2. Đề nghị VKSND tối
cao phối hợp liên ngành tư pháp Trung ương ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng
thống nhất những quy định còn bất cập (Vụ
2, Vụ 7, VC1, VKSND các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Yên Bái, Lạng Sơn, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hải Dương, Thanh Hóa,
Bình Định, Kon Tum, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang,...)
Trả lời:
- Việc ban hành các văn bản
hướng dẫn các vướng mắc về pháp luật nội dung thuộc thẩm quyền của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao, không thuộc thẩm quyền hướng dẫn của liên ngành.
- Đối với những khó khăn,
vướng mắc liên quan đến việc phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
trình tự, thủ tục tố tụng: đề nghị VKS địa phương phản ánh các khó khăn, vướng
mắc cụ thể để VKSND tối cao và các bộ, ngành có liên quan tổng hợp, nghiên cứu,
phối hợp hướng dẫn.
4.3. Đề nghị VKSND tối
cao phối hợp liên ngành tư pháp Trung ương ban hành văn bản giải đáp, hướng dẫn
áp dụng pháp luật, tổ chức hội nghị tập huấn, thông báo rút kinh nghiệm nghiệp
vụ, tổng hợp theo từng dạng vi phạm (Vụ
2, Vụ 7, VKSND các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Điện Biên, Đắk Nông,
Sóc Trăng)
Trả lời:
Đề nghị các VKS địa
phương đề xuất cụ thể về các nội dung cần tổ chức hội nghị tập huấn; các khó
khăn, vướng mắc cần giải đáp, hướng dẫn... để VKSND tối cao tập hợp, phối hợp với
liên ngành có kế hoạch, chuẩn bị nội dung, hình thức tổ chức tập huấn, giải
đáp, hướng dẫn... cho VKS địa phương bảo đảm hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm.
II.
KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT LIÊN QUAN ĐẾN DÂN SỰ, TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
CÁC LĨNH VỰC KHÁC
1.
Những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất Vụ 14 ghi nhận để tổng hợp,
nghiên cứu, tham mưu Lãnh đạo VKSND tối cao xem xét sửa đổi hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền trong việc xây dựng, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan (Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật Tổ chức VKSND)
1.1. Khoản
1, 2 Điều 161 BLTTDS quy định về nghĩa vụ chịu chi phí giám định "...
1. Người yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định, nếu kết
quả giám định chứng minh yêu cầu của người đó là không có căn cứ... 2. Người
không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự khác trong vụ án phải
nộp chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu
trưng cầu giám định là có căn cứ ...”. Trong thực tiễn giải quyết vụ án “Tranh
chấp xác định cha cho con” đã xảy ra trường hợp nguyên đơn (người mẹ) có
yêu cầu Tòa án giám định; bị đơn (bố đẻ nhưng không phải là chồng hợp pháp của
nguyên đơn) chấp nhận yêu cầu giám định của nguyên đơn; nhưng vụ án phải đưa ra
xét xử vì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (bố trên giấy khai sinh và
là chồng hợp pháp của người mẹ) vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ
án; như vậy thì ai sẽ là người phải chịu chi phí giám định này? Nếu như bị đơn
phải chịu toàn bộ chi phí giám định thì quyền lợi của bị đơn có được đảm bảo
không trong khi bị đơn đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và việc đưa vụ án ra
xét xử là do sự vắng mặt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Trong tình huống này đưa
ra cần chia hai trường hợp:
- Trường hợp 1: Nếu kết
quả giám định xác định bị đơn không phải là cha đẻ của con nguyên đơn thì theo
quy định tại khoản 1 Điều 161 BLTTDS thì nguyên đơn (tức
người mẹ) phải chịu chi phí giám định.
- Trường hợp 2: Nếu kết
quả giám định xác định bị đơn là cha đẻ của con nguyên đơn thì tại khoản 2 Điều 161 BLTTDS có quy định: “2. Người không chấp
nhận yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự khác trong vụ án phải nộp
chi phí giám định, nếu kết quả giám định chứng minh yêu cầu của người yêu cầu
trưng cầu giám định là có căn cứ …”. Tuy nhiên, theo tình huống đưa ra thì
bị đơn (người cha) chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định của nguyên đơn,
trong trường hợp này pháp luật chưa quy định rõ người phải chịu chi phí giám định.
Vụ 14 ghi nhận đây là khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành và sẽ tham mưu Lãnh đạo Viện để kiến
nghị đến cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn rõ về trường hợp nêu trên.
1.2. Đề nghị VKSND tối
cao phối hợp với liên ngành Trung ương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định
nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng của VKS trong quá trình giải quyết vụ
án, vụ việc dân sự, hành chính, như: Quy định VKS trực tiếp xác minh, thu thập
tài liệu, chứng cứ trong trường hợp đã yêu cầu nhưng Tòa án không thực hiện;
trước khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết,
định kỳ hàng tháng Tòa án phải chuyển tài liệu, hồ sơ thu thập bổ sung đến VKS;
Thời hạn gửi bài phát biểu sau khi kết thúc phiên tòa,... (VKSND các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng
Bình, Kon Tum, Đồng Nai, Bình Thuận, Tiền Giang)
Trả lời:
Hiện nay, TAND tối cao
đang chủ trì việc tổng kết việc thi hành BLTTDS và Luật Tố tụng hành chính năm
2015. Theo đề nghị của TAND tối cao, VKSND tối cao đã xây dựng Báo cáo tổng kết
việc thi hành BLTTDS và Luật Tố tụng hành chính trong ngành KSND, trong đó đã
ghi nhận các đề xuất của VKSND các cấp về đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một
số quy định nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng của VKS trong quá trình
kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính, trong đó có các vấn
đề như địa phương nêu.
2.3. Đề nghị sửa đổi,
bổ sung một số quy định của Luật Tổ chức VKSND (Thanh tra VKSND tối cao)
Trả lời:
Vụ 14 đã tham mưu Lãnh đạo
VKSND ban hành Kế hoạch số 105/KH-VKSTC ngày 15/5/2023 về sơ kết thực tiễn 08
năm thi hành và rà soát quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, trong đó có nội
dung rà soát các quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, các ý kiến đề xuất sửa
đổi, bổ sung Luật, Vụ 14 sẽ ghi nhận, tổng hợp và báo cáo Ban cán sự đảng, Lãnh
đạo VKSND tối cao xem xét, chỉ đạo, định hướng cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung
Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
2.
Những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất Vụ 14 trả lời
2.1. Khi Tòa án đã ban
hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong khoảng thời gian từ khi ban hành quyết
định xét xử đến ngày xét xử, các đương sự đã thỏa thuận được với nhau. Đến ngày
xét xử, trước khi mở phiên tòa, đương sự giao nộp văn bản công nhận sự thỏa thuận
cho Tòa án. Như vậy, trong trường hợp này thì án phí được tính như thế nào
(100% hay 50%)? (VKSND thành phố Hải
Phòng)
Trả lời:
- Khoản 7
Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: "Các bên
đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa
án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí,
kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch.”.
- Mục 3
Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND tối cao có giải thích: “Vậy
đến ngày mở phiên tòa đã được coi là “tại phiên tòa” hay chưa? Mục
2 Chương XIV BLTTDS quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa. Theo quy định tại
Mục này thì phiên tòa bắt đầu bằng thủ tục “Khai mạc phiên tòa” (Điều
239). Do đó, đến ngày mở phiên tòa (được triệu tập) nhưng chưa khai mạc
phiên tòa thì chưa coi là “bắt đầu phiên tòa”, chưa coi là “tại phiên tòa”...”.
Căn cứ các quy định và giải thích nêu trên thì trường đến ngày mở phiên tòa (được
triệu tập) nhưng chưa khai mạc phiên tòa mà đương sự giao nộp văn bản công nhận
sự thỏa thuận cho Tòa án thì phải chịu 50% mức án phí kể cả đối với các vụ án
không có giá ngạch.
2.2. Khoản
6 Điều 40 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Việc hòa giải,
đối thoại chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: ... 6. Người nộp
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện; đơn yêu cầu” và Khoản 2 Điều 41 “Xử lý việc chấm dứt hòa giải, đối thoại tại
Tòa án ... 2. Trường hợp người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 6 Điều 40 của Luật này
thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến
hành xem xét, giải quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết
...”. Như vậy, qua thực tế khi người yêu cầu rút đơn, Tòa án đã ra quyết định
đình chỉ công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án. Việc ra quyết định đình
chỉ như vậy là đã hợp lý chưa? Khi chưa có việc hòa giải thì việc đình chỉ công
nhận kết quả hòa giải là có đúng không? Quyết định này có phải chuyển VKS để tiến
hành kiểm sát không khi Luật Hòa giải đối thoại tại Tòa án không quy định rõ về
điều này? (VKSND thành phố Hải Phòng)
Trả lời:
Khoản 2 Điều
41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án về
“Xử lý việc chấm dứt hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định “... 2. Trường
hợp người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo
quy định tại khoản 6 Điều 40 của Luật này thì Hòa giải viên
chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải
quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết …”.
Căn cứ quy định nêu trên,
khi người yêu cầu rút đơn thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho
Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo quy định chung mà
không phải ra quyết định đình chỉ công nhận kết quả hòa giải.
2.3. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 71 BLDS quy định “Căn cứ vào các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều này Tòa án xác định ngày chết của
người bị tuyên bố là đã chết”. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau
trong việc xác định ngày chết, cụ thể như sau:
+ Quan điểm thứ nhất:
Xác định ngày chết là ngày cuối cùng theo thời hạn được quy định tại các điểm a, b, c, d quy định tại khoản 1 Điều 71
BLDS.
+ Quan điểm thứ hai:
Xác định ngày chết là ngày xảy ra sự việc. Ví dụ như: ngày chết là ngày mà người
bị tuyên bố là đã chết bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai; hoặc là ngày mà Tòa
án tuyên bố người đó mất tích mà 3 năm sau vẫn không có tin tức xác thực là còn
sống...
+ Quan điểm thứ ba:
Xác định ngày chết là ngày tiếp theo liền kề ngày xảy ra sự việc theo quy định
tại khoản 2 Điều 147 BLDS (VKSND các tỉnh: Phú Thọ, Quảng Ngãi)
Trả lời:
Nội dung này đã được
VKSND tối cao giải đáp tại Mục 15 Công văn số
2964/VKSTC-V14 ngày 19/7/2018 của VKSND tối cao, cụ thể:
“15. Xác định ngày
chết của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết theo Điều 71 BLDS
2015 như thế nào?
Trả lời:
Việc Tòa án xác định ngày
chết của một người khi có yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã
chết theo Điều 71 BLDS 2015 là xác định “ngày chết về
pháp lý” chứ không phải là “ngày chết thực tế”.
Khoản 1 Điều
71 BLDS 2015 quy định các trường hợp người
có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một
người là đã chết, có nghĩa là nếu yêu cầu đáp ứng đủ các điều kiện của một
trong các trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 71 thì Tòa án phải
thụ lý đơn yêu cầu.
Khoản 2 Điều
71 BLDS 2015 quy định: “Căn cứ vào các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định
ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết”. Như vậy, ngày chết của người bị
yêu cầu tuyên bố là đã chết được xác định là ngày đầu tiên kế tiếp ngày kết
thúc thời hạn của từng trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 71
(cụ thể là: ngày kết thúc thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất
tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật (điểm a); ngày kết
thúc thời hạn 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc (điểm b);
ngày kết thúc thời hạn 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm
dứt (điểm c); ngày kết thúc thời hạn 05 năm liền biệt tích
(điểm d)). Đối với thời hạn tính bằng năm thì xác định thời
điểm kết thúc thời hạn theo các khoản 4, 5 và 6 Điều 148 BLDS.
2.4. Luật Tổ chức
VKSND chưa có quy định về công tác thanh tra (Thanh tra VKSND tối cao)
Trả lời:
Điều 6
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về
các công tác của VKSND, bao gồm: (1) Các công tác thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố; (2) Các công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp;
(3) Các công tác khác. Trong đó, thanh tra thuộc lĩnh vực các công tác khác.
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 6 không thể liệt kê cụ thể hết các
công tác khác của VKSND, nên thanh tra là công tác được ghi nhận trong quy định
mang tính bao quát tại điểm b “các công tác khác để xây
dựng VKSND”.
Trên đây là giải đáp khó
khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp trong năm 2023
thuộc trách nhiệm của Vụ 14, kính gửi các đơn vị, VKS các cấp./.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Đ/c Viện trưởng VKSTC (để báo cáo);
- Các đ/c PVT VKSTC (để báo cáo);
- Lưu: VT, V14.
|
TL. VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ PHÁP CHẾ VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC
Hoàng Thị Quỳnh Chi
|
[1] Vụ 14 đã tham
mưu giúp Lãnh đạo VKSND tối cao ban hành Công văn số 3652/VKSTC-V14 ngày
29/8/2018 đề nghị TAND tối cao hướng dẫn những quy định của BLHS còn chưa cụ thể,
chưa rõ ràng, trong đó có tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội” tại khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017); tuy nhiên đến nay, TAND tối cao vẫn chưa ban hành văn bản nào để hướng dẫn
về vấn đề này.
[2] Như: Thông tư
số 20/2022/TT-BNNPTNT ngày 22/12/2022 quy định về giám định tư pháp trong lĩnh
vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; Thông tư số 13/2022/TT-BCA ngày
30/11/2022 ban hành Quy trình, biểu mẫu giám định pháp y, thời hạn, nhân lực thực
hiện giám định pháp y; Thông tư số 23/2022/TT-BLĐTBXH ngày 25/11/2022 quy định
về giám định tư pháp theo vụ việc trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp; Thông tư số 40/2022/TT-BTC ngày 29/6/2022 quy định về giám định tư pháp
trong lĩnh vực tài chính; Thông tư số 03/2022/TT-BKHCN ngày 20/4/2022 quy định
về giám định tư pháp trong hoạt động khoa học và công nghệ; Thông tư số
01/2022/TT-BCA ngày 01/01/2022 ban hành 17 quy trình giám định kỹ thuật hình sự;
Thông tư số 04/2021/TT-BVHTTDL ngày 08/6/2021 quy định một số nội dung về giám
định tư pháp trong lĩnh vực văn hóa; Thông tư số 03/2021/TT-BVHTTDL ngày
01/6/2021 bổ sung một số điều của các Thông tư quy định quy trình giám định tư
pháp trong lĩnh vực văn hóa; Thông tư số 01/2021/TT-BCT ngày 31/3/2021 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2016/TT-BCT ngày 13/12/2016 quy định về
giám định tư pháp trong lĩnh vực công thương; Thông tư số 33/2021/TT-BCA ngày
29/3/2021 ban hành 34 quy trình giám định kỹ thuật hình sự; Thông tư số
14/2020/TT-NHNN ngày 16/11/2020 quy định về giám định tư pháp trong lĩnh vực tiền
tệ và ngân hàng; Thông tư số 23/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 ban hành Quy trình
giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y tâm thần;
Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương
cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
[3] 1. Thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày cá nhân, tổ
chức được trưng cầu giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định và kèm
theo đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần
thiết cho việc giám định.
Trong quá trình thực hiện
giám định, trường hợp cần phải bổ sung thêm hồ sơ, tài liệu làm cơ sở cho việc
giám định thì cá nhân, tổ chức được trưng cầu có văn bản đề nghị người đã trưng
cầu giám định bổ sung hồ sơ, tài liệu. Thời gian từ khi cá nhân, tổ chức được
trưng cầu giám định có văn bản đề nghị đến khi nhận được hồ sơ, tài liệu bổ
sung không tính vào thời hạn giám định.
2. Thời hạn giám định tư
pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
3. Thời hạn giám định tư
pháp đối với các trường hợp không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này tối đa là
03 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng
công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 04 tháng.
Bộ, cơ quan ngang bộ quản
lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối
đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định
tư pháp cho từng loại việc cụ thể. Thời hạn giám định tư pháp có thể được gia hạn
theo quyết định của cơ quan trưng cầu giám định nhưng không quá một phần hai thời
hạn giám định tối đa đối với loại việc đó.
4. Người trưng cầu giám định
có thể thống nhất về thời hạn giám định với cá nhân, tổ chức được trưng cầu
giám định trước khi trưng cầu giám định tư pháp nhưng không được vượt quá thời
hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
5. Trường hợp có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở cho
rằng vụ việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn thì cá nhân, tổ chức
thực hiện giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người
trưng cầu giám định và thời gian dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định.