Kính gửi:
|
- Viện kiểm sát quân sự trung ương;
- Các đơn vị thuộc VKSND tối cao;
- VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Thực hiện Công văn số 393/VKSTC-VP ngày 16/12/2022
của VKSND tối cao, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ 14) đã rà soát, tổng hợp
những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp trong
03 năm (năm 2020 - 2022) để giải đáp một số nội dung liên quan trách nhiệm của
Vụ 14, cụ thể như sau:
I. Về khó khăn, vướng mắc và kiến
nghị, đề xuất thuộc lĩnh vực hình sự
1. Hướng dẫn tình tiết “gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong các vụ án về tội
phạm xâm phạm sở hữu... (VKSND tỉnh Đắk Nông - năm 2020).
Trả lời:
Hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ
thể tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”
trong các vụ án về tội phạm xâm phạm sở hữu. Theo quan điểm của Vụ 14 thì tình
tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong các
vụ án về tội phạm xâm phạm sở hữu là hậu quả của hành vi xâm phạm sở hữu (cướp
tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản,
công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản) mà
người phạm tội thực hiện dẫn đến phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội một cách
nghiêm trọng khiến cho một bộ phận không nhỏ người dân mất niềm tin, gây hoang
mang lo lắng cho nhân dân, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Hậu
quả này phải là hậu quả trực tiếp từ hành vi xâm phạm sở hữu. Ví dụ: Đối tượng
thường xuyên trộm cắp tài sản là vật nuôi tại khu dân cư[1],... Ngoài ra, các đơn vị có
thể tham khảo thêm hướng dẫn về tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật
tự, an toàn xã hội” nêu tại Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 về
hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng
và tội phạm khác về chức vụ.
2. Khoản
1 Điều 475 BLTTHS quy định thời hạn giải quyết khiếu
nại của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, kể
cả ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật. Quy định như vậy là không bảo đảm thời hạn giải
quyết, nhất là những vụ việc phức tạp vì cần phải rút hồ sơ, nghiên cứu, kiểm
tra, phối hợp với các đơn vị (VKSND tỉnh Hưng Yên, thành phố Đà Nẵng - năm
2020).
Trả lời:
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng, kịp thời xem xét, xử lý, đối với các quyết định, hành vi tố tụng
trái pháp luật, khoản 1 Điều 475 và các quy định khác của
BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu thường là 07
ngày và thời hạn giải quyết lần hai là 03 ngày là hợp lý, đòi hỏi cơ quan giải
quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại cần nhanh chóng xem xét, giải quyết.
Đây là kiến nghị đề nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS
năm 2015. Do vậy, đề nghị các đơn vị, VKS các cấp tiếp tục tổng hợp các khó
khăn, vướng mắc khác trong quá trình thi hành BLTTHS năm 2015 để Vụ 14 tổng hợp
chung, tham mưu Lãnh đạo VKSND tối cao báo cáo cơ quan có thẩm quyền trong quá
trình sơ kết, tổng kết BLTTHS năm 2015.
3. Quy định nhận dạng, nhận
biết giọng nói chỉ được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy
nhiên, tại khoản 2 Điều 14 Thông tư số 28/2020/TT-BCA
ngày 26/3/2020 lại quy định được thực hiện trong quá
trình giải quyết nguồn tin tội phạm. Như vậy, dẫn đến mâu thuẫn, áp dụng không
thống nhất (VKSND các tỉnh: Lâm Đồng, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bến Tre - năm
2020). Đề nghị sửa đổi khoản 3 Điều 147 BLTTHS theo hướng bổ sung một số biện pháp điều tra có thể
áp dụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, như: đối chất, nhận dạng,
thực nghiệm điều tra, để đảm bảo việc giải quyết nguồn tin về tội phạm có đủ
căn cứ và đúng quy định của pháp luật, đồng thời tránh mâu thuẫn, chồng chéo với
các điều luật khác. Vì giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đã quy định
là một giai đoạn tố tụng hình sự thì không cần hạn chế biện pháp điều tra mà cần
áp dụng các biện pháp điều tra phù hợp để chứng minh được có hay không có tội
phạm và người phạm tội bởi vì đây là giai đoạn quan trọng để điều tra tránh
oan, sai (VKSND tỉnh Gia Lai - năm 2020).
Trả lời:
Khoản 3 Điều 147 BLTTHS năm 2015
quy định:
“3. Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
b) Khám nghiệm hiện trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản”.
Như vậy, ngoài 04 hoạt động cụ thể (khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản) thì
khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm
quyền có quyền tiến hành hoạt động mang tính chất chung (thu thập thông
tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra,
xác minh nguồn tin).
Ngoài ra, theo quy định tại điểm d
khoản 3 Điều 83 BLTTHS năm 2015 thì: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền: d) Có mặt
khi đối chất; nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14
Thông tư số 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định
trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân thì “Khi thực hiện việc
thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân cỏ liên quan
để kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm được quy định tại khoản
3 Điều 147 BLTTHS được thực hiện cụ thể như sau: ....2. Tiến hành đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động khác thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình theo sự phân công của cấp trưởng cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trừ biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt quy định tại Chương XVI BLTTHS năm 2015)”.
Do vậy, mặc dù không được quy định cụ thể tại Điều 147 BLTTHS
năm 2015 nhưng khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói với tính chất để kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, không được hiểu là những biện pháp điều tra theo các quy
định của BLTTHS năm 2015[2]
trong giai đoạn điều tra.
4. Cách tính thời gian có hiệu
lực thi hành của quyết định tha tù trước thời hạn giữa Tòa án và VKS chưa thống
nhất (VKSND tỉnh Tây Ninh - năm 2020).
Trả lời:
Căn cứ khoản 2 Điều 337 BLTTHS năm
2015 quy định về thời hạn kháng nghị: “Thời hạn kháng nghị của VKS cùng
cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực
tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định”.
Căn cứ Điều 343 BLTTHS năm 2015
quy định về hiệu lực của bản án, quyết định số thẩm của Tòa án không có kháng
cáo, kháng nghị: “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị”.
Như vậy, thời hạn thi hành quyết định tha tù trước
thời hạn có điều kiện được xác định là hết 15 ngày (sau 15 ngày), kể từ ngày
Tòa án ra quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.
5. Luật Thi hành án hình sự
năm 2019 chưa quy định rõ thời gian kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật thì Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định
kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; chưa quy định thời
gian trình Chủ tịch nước xét ân giảm án tử hình và thời gian Chủ tịch nước ký
Quyết định chấp thuận hoặc bác đơn đối với người bị kết án tử hình dẫn đến để
án kéo dài nhiều năm, gây khó khăn cho công tác quản lý giam giữ (VKSND tỉnh
Long An - năm 2020).
Trả lời:
5.1. Về thời hạn quyết định kháng nghị hoặc
không kháng nghị giám đốc thẩm
Nội dung này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
Thi hành án hình sự mà được quy định tại điểm c khoản 1 Điều
367 BLTTHS năm 2015, cụ thể như sau: “Trong thời hạn 02 tháng kể
từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao
phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm”.
5.2. Về thời gian Chủ tịch nước ký Quyết định chấp
thuận hoặc bác đơn đối với người bị kết án tử hình
Pháp luật về tố tụng, thi hành án và các văn bản
pháp luật hiện hành có liên quan không quy định thời hạn Chủ tịch nước xem xét
đơn xin ân giảm án tử hình. Để giúp Chủ tịch nước trong việc xét đơn xin ân giảm
án tử hình, Văn phòng Chủ tịch nước đã cùng với các cơ quan VKSND tối cao, TAND
tối cao ban hành quy chế phối hợp (Quy chế số 581QCPH/VPCTN-VKSNDTC ngày
14/4/2022, Quy chế số 582QCPH/VPCTN-TANDTC ngày 14/4/2022), trong đó có các nội
dung về trao đổi, phối hợp trong việc chuyển giao văn bản, tài liệu giữa Văn
phòng Chủ tịch nước với hai cơ quan để làm cơ sở, căn cứ giúp cho Chủ tịch nước
xem xét, quyết định việc ân giảm án tử hình.
6. Chưa có hướng dẫn đối với
những trường hợp bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo áp dụng trước khi BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực pháp luật nhưng vi phạm nghĩa
vụ thi hành án chưa có hướng dẫn việc bắt buộc phải chấp hành hình phạt tù của
bản án cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5
Điều 65 BLHS và Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (VKSND
tỉnh Tây Ninh - năm 2020).
Trả lời:
Căn cứ khoản 2 Điều 7 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), khoản 2 Điều 207 Luật Thi hành án
hình sự năm 2019 thì trường hợp bị kết án tù cho hưởng án treo áp dụng trước
khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực pháp luật nhưng vi phạm
nghĩa vụ thi hành án sẽ không áp dụng quy định tại khoản 5 Điều
65 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Thi hành án hình sự
năm 2019 để bắt buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.
7. Việc thông báo để nhận xác
đối với người nước ngoài khi thi hành án tử hình (VKSND tỉnh Quảng Ninh năm
- 2020).
Trả lời:
Vấn đề này đã được quy định tại các điều
10, 13, 14 và 20 của Thông tư liên tịch số 02/2020/TTLT-BCA-BQP-BYT-BNG-TANDTC-VKSNDTC
ngày 14/10/2020 quy định về việc phối hợp tổ chức thi hành án tử hình bằng hình
thức tiêm thuốc độc.
8. Hướng dẫn nêu tại Công văn
số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của VKSND tối cao mâu thuẫn với quy định tại
tiểu mục 6.2 Mục 6 và tiểu mục 7.3 Mục 7 Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm
về ma túy” của BLHS năm 1999 khi quy định “Người
nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt
tù 02 năm đến 07 năm”. Như vậy, bất kể người nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự
có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều là chủ thể của tội phạm,
không loại trừ trường hợp đó là người nghiện ma tuý (VKSND thành phố Hải
Phòng - năm 2021).
Trả lời:
Căn cứ Điều 25, khoản 4 Điều 154,
khoản 2 Điều 172 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, thì
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về
ma túy” của BLHS năm 1999 và Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm
của Thông tư liên tịch số 17/2007 không có giá trị hướng dẫn đối
với các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hướng dẫn Công văn số 5442/VKSTC-V14 nêu trên dựa
trên các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đồng thời, có
tham khảo hướng dẫn của TAND tối cao tại Công văn số 89/TAND-PC ngày 30/6/2020.
9. Hướng dẫn thực hiện
khoản 4 Điều 163 BLTTHS về nội dung
“Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can
có thẩm quyền điều tra hành vi của bị can xảy ra tại địa bàn huyện khác hoặc tỉnh
khác” tại Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05/12/2019 của VKSND tối cao gây
khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Đắk Nông khi phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử bị can vừa phạm tội ở tỉnh Đắk Nông vừa phạm tội ở tỉnh khác dẫn
đến bị VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm (Quyết
định kháng nghị số 191/QĐ/VC3-V1 ngày 22/7/2021 kháng nghị Bản án số
21/2020HS-ST ngày 24/6/2020 của TAND tỉnh Đắk Nông vì vi phạm khoản 4 Điều 163 BLTTHS). (VKSND
tỉnh Đắk Nông - năm 2021).
Trả lời:
Khoản 4 Điều 163 BLTTHS năm 2015
quy định: “Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội
phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều
nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều
tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư
trú hoặc bị bắt”. Do vậy, nội dung hướng dẫn tại Công văn số 5887/VKSTC-V14
là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 163 BLTTHS năm 2015
nêu trên, theo đó, Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm hoặc nơi bị can cư
trú hoặc nơi bị can bị bắt có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm
được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau.
10. Khó khăn khi thực hiện
Công văn số 3269/VKSTC-V14 ngày 29/7/2020 của VKSND tối cao với Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn về
hành vi đánh bạc, tại mục 4 Điều 1 khi xử lý hành vi đánh đề của một người trong 1 lần, 1
ngày với tổng số tiền đánh là 5 triệu đồng nhưng chia đều theo kết quả xổ số của
đài Miền Bắc, Miền Nam hoặc Miền Trung (VKSND tỉnh Đắk Nông - năm 2021).
Trả lời:
Công văn số 3269/VKSTC-V14 ngày 29/7/2020 của VKSND
tối cao nêu quan điểm trao đổi về nhận thức pháp luật hướng dẫn
trong việc xác định số tiền đánh bạc 01 lần để xử lý hành vi đánh bạc dưới hình
thức chơi số đề dựa trên cơ sở vận dụng tinh thần của Nghị quyết
số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 và mang tính chất tham khảo bởi
VKSND tối cao không có thẩm quyền tự mình hướng dẫn chi tiết quy định của BLHS.
Do vậy, trong thời gian chưa có văn bản quy phạm hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền về vấn đề này, VKS các cấp cần chủ động phối hợp, thống nhất với Cơ quan
điều tra, Tòa án cùng cấp để xử lý, có thể vận dụng tinh thần Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 trong giải quyết vụ án, vụ việc cụ thể.
Về khó khăn, vướng mắc liên quan đến tội Đánh bạc,
Vụ 14 và Vụ 7 đã tham mưu cho Lãnh đạo VKSND tối cao ban hành Công văn của
VKSND tối cao gửi TAND tối cao về việc kiến nghị sửa đổi Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP (Công văn số 3687/VKSTC-V7 ngày 16/9/2021, Công văn số
3652/VKSTC-V14 ngày 29/8/2018). Qua trao đổi nắm được, hiện nay, các đơn vị có
trách nhiệm của TAND tối cao đang xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn về tội Đánh bạc. Để bảo đảm giải quyết kịp thời,
các khó khăn, vướng mắc phát sinh trên thực tiễn liên quan đến tội phạm này, Vụ
14 đã đề xuất Lãnh đạo VKSND tối cao giao Vụ 7 trên cơ sở rà soát, tổng hợp các
khó khăn, vướng mắc qua công tác nghiệp vụ của đơn vị, VKS các cấp tham mưu cho
Lãnh đạo VKSND tối cao có văn bản đề nghị TAND tối cao nghiên cứu, quy định giải
quyết đầy đủ những khó khăn, vướng mắc trong dự thảo Nghị quyết nêu trên.
11. Không lấy được lời khai
của người bị tố giác, lời khai của những người có liên quan đến vụ việc thì có
được xác định là “Đã yêu cầu cá nhân cung cấp tài liệu quan trọng có ý nghĩa
quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả”
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 148 BLTTHS để tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố hay không? (VKSND tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Tuyên
Quang, Yên Bái, Quảng Ngãi, Gia Lai - năm 2021)
Trả lời:
Việc không thể lấy lời khai của người bị tố giác hoặc
lời khai của người liên quan đến vụ việc không phải là căn cứ để tạm đình chỉ
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi hết thời hạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định tại khoản 1 Điều 148 BLTTHS, bởi vì, theo quy định của pháp luật[3], người tố giác,
cung cấp tin báo về tội phạm có quyền không cung cấp thông tin cá nhân
(bao gồm cả thông tin về địa chỉ thường trú). Trường hợp không biết người tố
giác, cung cấp tin báo về tội phạm đang ở đâu nhưng trong đơn tố giác, tin báo
về tội phạm đã có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có
tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để kiểm tra,
xác minh thì cơ quan có thẩm quyền vẫn phải tiếp tục xử lý theo quy định mà
không được ra quyết định tạm đình chỉ. Trường hợp không biết người tố giác,
cung cấp tin báo về tội phạm đang ở đâu và thông tin tố giác, tin báo không đủ
cơ sở để kiểm tra, xác minh, nếu xác định được có dấu hiệu tội phạm thì liên
ngành tố tụng ở địa phương phải phối hợp, đánh giá chứng cứ, xem xét, cân nhắc
để ra quyết định khởi tố vụ án, chuyển sang giai đoạn điều tra để có thể thực
hiện các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ; hoặc nếu không xác định được có
dấu hiệu tội phạm thì không khởi tố vụ án căn cứ theo quy định tại Điều 143 và Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự.
12. Đề nghị VKSND tối cao tiếp
tục quan tâm, chỉ đạo kịp thời đối với những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết
các vụ án giết người nhưng bị hại không chết, từ chối giám định tỷ lệ tổn
thương cơ thể; hướng dẫn về việc xác định như thế nào được xem là “bỏ trốn”,
trường hợp người bị hại cố tình trốn tránh việc dẫn giải và hướng dẫn cụ thể
vai trò giúp sức của đồng phạm trong các vụ án chiếm đoạt tài sản (VKSND các
tỉnh: Bắc Ninh, Vĩnh Long, Hậu Giang - năm 2021)
Trả lời:
12.1. Về khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết
các vụ án giết người những bị hại không chết, từ chối giám định tỷ lệ tổn
thương cơ thể, người bị hại cố tình trốn tránh việc dẫn giải
Hiện nay, Bộ Công an đã ban hành Công văn số
2854/CSĐT-C01 ngày 16/6/2021 (Mật) hướng dẫn về việc áp dụng biện pháp dẫn giải
quy định tại Điều 127 BLTTHS, trong đó đã hướng dẫn về việc
ra quyết định dẫn giải, những trường hợp có thể bị dẫn giải và việc tổ chức thi
hành dẫn giải.
12.2. Về việc xác định như thế nào được xem là
“bỏ trốn” (Nội dung câu hỏi không rõ)
Nội dung câu hỏi nêu trên chưa rõ. Tuy nhiên, các
đơn vị, VKS có thể tham khảo câu số 43.1 Phần I Cuốn giải đáp vướng mắc về pháp
luật và giải quyết các vụ án, vụ việc về tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy
đã giải đáp việc áp dụng tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) như sau: “Hiện nay, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng tình tiết “bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều
175 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, để có căn cứ xử lý đối với người phạm tội, cần
thu thập tài liệu chứng minh: người phạm tội đã nhận được tài sản nhưng sau đó
bí mật đi khỏi nơi đăng ký thường trú, nơi tạm trú, nơi làm việc mà không thông
báo cho chủ tài sản, những người sống cùng, làm việc cùng, người thân thiết biết.
Người phạm tội cắt đứt liên lạc với chủ sở hữu tài sản như thay đổi, chặn số điện
thoại, địa chỉ email, mạng xã hội,...”.
12.3. Về vai trò giúp sức của đồng phạm trong
các vụ án chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 1 và khoản
3 Điều 17 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì đồng phạm là trường
hợp có 02 người trở lên cố ý thực hiện tội phạm; người giúp sức là người tạo điều
kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về vai
trò giúp sức của đồng phạm trong các vụ án chiếm đoạt tài sản. Tùy từng vụ án cụ
thể mà các cơ quan có thẩm quyền phải đánh giá tính chất, mức độ hành vi của
người giúp sức để xác định việc tạo những điều kiện vật chất hay tinh thần
cho việc thực hiện tội phạm như: giúp sức về vật chất là các trường hợp cung cấp
tiền bạc, công cụ, phương tiện, khắc phục những trở ngại... nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho người thực hành thực hiện tội phạm; giúp sức về tinh thần
là các trường hợp như: chỉ dẫn, cung cấp tình hình, cổ vũ, kích động, ủng hộ
tinh thần, góp ý, vạch kế hoạch, cách thức thực hiện tội phạm, hoặc hứa
hẹn che giấu, không tố giác, hứa hẹn nuôi dưỡng người thân sau khi phạm tội, hoặc
tạo dựng cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó đối với người thực hiện
tội phạm... để đánh giá về vai trò giúp sức của đồng phạm trong các vụ án chiếm
đoạt tài sản.
13. Hướng dẫn tại
mục 3, phần I, Công văn số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của VKSND tối cao về việc áp dụng tình tiết “Xúi giục
người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o
khoản 1 Điều 52 BLHS đối với người xúi giục
là người dưới 18 tuổi còn chưa thống nhất, bởi có trường hợp người xúi giục còn
ít tuổi hơn người bị xúi giục (VKSND tỉnh Hòa Bình - năm 2022).
Trả lời:
Vụ 14 đã có nguyên quan điểm nêu tại Công văn số
5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của VKSND tối cao, theo đó: Phần
thứ nhất và Chương XII của BLHS năm 2015 không có quy định
loại trừ việc áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm
tội” đối với người xúi giục là người dưới 18 tuổi, do đó, nếu người dưới 18
tuổi có hành vi xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội thì vẫn có thể bị xem xét
áp dụng tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Tuy
nhiên, khi áp dụng tình tiết này, cần bảo đảm nguyên tắc xử lý đối với người dưới
18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 91 BLHS. Bởi, theo
quy định tại Điều 90 BLHS thì: “Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo nhũng quy định của Chương XII; theo quy định khác của Phần thứ nhất
của BLHS năm 2015 mà không trái với quy định của Chương này”.
14. Thường xuyên mở lớp tập
huấn, đào tạo, bồi dưỡng để các cán bộ, kiểm sát viên của đơn vị được tham gia
học tập, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được nhu cầu
công việc và nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và Ngành giao phó, trong đó có tập huấn
cho người tiến hành tố tụng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người
tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (VKSND các tỉnh: Bắc Ninh, Long An,
Thái Bình, Khánh Hòa - năm 2022).
Trả lời:
Thực hiện sự phân công của Lãnh đạo VKSND tối cao,
trong năm 2022, Vụ 14 đã phối hợp với các đơn vị, cơ quan, tổ chức có liên quan
tổ chức một số lớp tập huấn cho người tiến hành tố tụng về kỹ năng giải quyết
các vụ án hình sự có người tham gia là người dưới 18 tuổi như: phối hợp với Vụ
2 tổ chức Hội nghị triển khai Thông tư liên tịch số
01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa
các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại
tình dục người dưới 18 tuổi; phối hợp với Dự án EUJULE tổ chức tập huấn cho Kiểm
sát viên và Giảng viên nguồn về kỹ năng tố tụng thân thiện với người chưa thành
niên khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục có nạn nhân là người chưa thành
niên. Trong thời gian tới, Vụ 14 sẽ hoàn thiện tài liệu tập huấn nêu trên để
chuyển giao cho trường Đại học kiểm sát để tổ chức giảng dạy (nếu được sự cho
phép của cấp có thẩm quyền); hoàn thiện sổ tay Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án, vụ việc có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi để tăng cường hơn nữa năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của Kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án này.
II. Về khó khăn, vướng mắc và kiến
nghị, đề xuất thuộc lĩnh vực dân sự, hành chính và những việc khác theo quy định
của pháp luật
1. BLTTDS không quy định Tòa án
phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp khi gửi thông báo trả
lại đơn khởi kiện (VKSND các tỉnh: Nghệ An, Gia Lai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền
Giang, Hậu Giang, Khánh Hòa - năm 2020).
Trả lời:
Để khắc phục khó khăn do BLTTDS năm 2015 quy định
Tòa án chỉ gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho VKS mà không gửi kèm theo hồ
sơ, tài liệu liên quan, Điều 21 TTLT số 02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND
trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS đã quy định VKS có quyền yêu
cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được yêu cầu của VKS,
Toà án giao cho VKS văn bản cần sao chụp tại trụ sở Tòa án. Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được văn bản cần sao chụp, VKS trả lại văn bản
cho Tòa án. Do thời gian rất ngắn nên Kiểm sát viên có thể trao đổi trước với
Tòa án để khi mang văn bản yêu cầu đến Tòa, Tòa có thể giao tài liệu cho Kiểm
sát viên sao chụp ngay. Trường hợp Tòa án không thực hiện đúng quy định về thời
hạn nêu trên thì VKS kiến nghị với Tòa án.
2. Một số vụ án VKS yêu cầu
Tòa án xác minh, thu thập các nội dung yêu cầu thuộc lĩnh vực UBND huyện quản
lý, cần phải đợi kết quả trả lời của UBND huyện, dẫn đến vụ án hết hạn phải tạm
đình chỉ vì luật không quy định cụ thể thời hạn UBND huyện phải trả lời kết quả
(VKSND Hưng Yên - năm 2020).
Trả lời:
Khoản 3 Điều 106 BLTTDS quy định:
“Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét
thay cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản
lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu
giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo
yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu;
hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của
Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và
nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án
mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử
phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ
cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án”.
Như vậy, Điều 106 BLTTDS năm 2015
đã quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ khi Tòa án có yêu cầu
trong thời hạn 15 ngày mà cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu
cung cấp tài liệu, chứng cứ của Toà án mà không có lý do chính đáng thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khoản 1 Điều 495 BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài liệu, chủng cứ
mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị Tòa án xử
phạt hành chính theo quy định của pháp luật”. Điều 48
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Pháp
lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 về việc xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi cản trở hoạt động tố tụng đã quy định cụ thể về thẩm quyền, mức xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền của TAND. Như vậy, trường
hợp đã hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu mà cơ quan, tổ chức,
cá nhân được yêu cầu không trả lời thì Tòa án có quyền xem xét xử phạt hành
chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020) và Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15.
3. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 220 BLTTDS thì sau khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải gửi ngay hồ sơ vụ án cho VKS
nghiên cứu, trong thời hạn 15 ngày VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa
án là quá ngắn, không được trừ ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật, ngày nghỉ lễ, tết
là không phù hợp, nhất là đối với các vụ án phức tạp (VKSND các tỉnh: Điện
Biên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Trà Vinh, Lâm Đồng - năm 2020).
Trả lời:
Quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS là 15
ngày đã được kế thừa từ các pháp lệnh, bộ luật về tố tụng dân sự trước đó[4], quy định này vẫn
không thay đổi.
Trường hợp gần hết thời hạn 15 ngày mà Kiểm sát
viên chưa nghiên cứu xong hồ sơ thì Kiểm sát viên có thể photo tài liệu trong hồ
sơ để tiếp tục đọc, nghiên cứu còn hồ sơ phải trả lại Tòa án đúng thời hạn theo
quy định của BLTTDS. Ngoài ra, VKS cần tạo quan hệ phối hợp tốt với Tòa án để
có thể được cho mượn hồ sơ cho đến gần ngày mở phiên tòa trong những trường hợp
cần thiết do vụ án phức tạp.
4. Thời hạn kháng nghị của
VKS để tham gia phiên tòa, phiên họp không trừ ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật,
ngày nghỉ lễ, tết là không phù hợp (VKSND Lâm Đồng - năm 2020).
Trả lời:
Điều 280 BLTTDS quy định “Thời
hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của VKS cùng cấp là 15
ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng
nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 10
ngày kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được quyết định”.
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm nêu trên tương tự quy
định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm tại BLTTHS năm 2015 (Điều
337) và Luật TTHC năm 2015 (Điều 213). Về mặc nguyên tắc,
các thời hạn dùng cho các hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố
tụng đều không được pháp luật cho phép trừ ngày nghỉ, lễ, tết để bảo đảm việc
giải quyết vụ án, vụ việc được khẩn trương, kịp thời, không xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.
Kiểm sát viên đã kiểm sát việc giải quyết vụ án dân
sự từ khi thụ lý, đã nghiên cứu hồ sơ, tham gia tất cả các phiên tòa nên nắm rõ
các tình tiết, nội dung vụ án, quá trình giải quyết của Tòa án nên việc phát hiện
vi phạm và tiến hành kháng nghị ngang cấp là không quá khó khăn. Trường hợp dự
liệu được thời hạn kháng nghị dành cho VKS cùng cấp không đủ thì kịp thời báo
cáo VKS cấp trên trực tiếp để kháng nghị.
5. Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm
sát viên đề nghị tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ
nhưng Tòa án vẫn xét xử thì Kiểm sát viên có phát biểu quan điểm về việc giải
quyết vụ án không? (VKSND Trà Vinh năm 2020).
Trả lời:
Điểm b khoản 2 Điều 30 Quy định về
hoạt động của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm (được ban hành
kèm theo Quyết định số 458/QĐ- VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng VKSND
tối cao) đã hướng dẫn: “Trường hợp tại phiên tòa, vụ án phát sinh các tình
tiết cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ nhưng Hội đồng xét
xử vẫn tiến hành xét xử mà không tạm ngừng phiên tòa thì Kiểm sát viên đề nghị
Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa và tự chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.
Khi Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng
phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà Hội đồng xét xử
không chấp nhận, vẫn tiến hành xét xử thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên
tòa, phát biểu quan điểm của VKS nêu rõ việc chưa có đủ cơ sở để giải quyết vụ
án vì thiếu những chứng cứ mà Kiểm sát viên đã yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập
bổ sung”.
6. Khoản
3 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia
có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ quy định về giám hộ trong BLDS,
Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để
giải quyết việc ly hôn”, Như vậy, trong vụ án ly hôn mà một bên vợ hoặc chồng
là người bị tâm thần thì vụ án được giải quyết như thế nào? (VKSND tỉnh Gia
Lai - năm 2020).
Trả lời:
6.1. Trường hợp chưa có quyết định của Tòa án
tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự thì tham khảo câu số 6 mục IV Giải
đáp số 01/GĐ- TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND tối cao về giải đáp một số vấn đề
nghiệp vụ, có nêu: Trong vụ án dân sự, đương sự có dấu hiệu tâm thần
nhưng chưa có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân
sự thì Tòa án giải quyết như thế nào? TAND tối cao giải đáp:
“...khi có chủ thể cho rằng một người là đương sự trong vụ án mất năng lực hành
vi dân sự thì Tòa án phải giải thích, hướng dẫn để họ thực hiện quyền yêu cầu
tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự theo quy định ...; trường hợp họ
có yêu cầu và Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu này thì Tòa án áp dụng điểm d khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 để tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự; trường hợp họ không yêu cầu thì Tòa án giải quyết vụ án
dân sự theo thủ tục chung”.
6.2. Trường hợp đã có quyết định của Tòa án
tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự thì theo khoản 2,
khoản 3 Điều 53 BLDS năm 2015, người giám hộ đương nhiên cho người vợ (chồng)
mất năng lực hành vi dân sự trong trường hợp trên lần lượt là: người con cả hoặc
người con tiếp theo hoặc cha, mẹ của người bị mất năng lực hành vi dân sự. Nếu
không có người giám hộ đương nhiên thì Tòa án đề nghị UBND cấp xã nơi cư trú của
người được giám hộ cử người giám hộ theo Điều 54 BLDS năm 2015
để làm người đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly hôn
nêu trên.
7. Trong vụ án hôn nhân và
gia đình, nguyên đơn có yêu cầu người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có mặt theo giấy
triệu tập của Tòa án nên Tòa án không xác minh được thu nhập của bị đơn thì việc
cấp dưỡng nuôi con giải quyết như thế nào? (VKSND tỉnh Gia Lai - năm 2020).
Trả lời:
7.1. Việc giải quyết yêu cầu cấp dưỡng cho
con trong vụ án hôn nhân và gia đình cần lưu ý các quy định sau đây:
- Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 quy định: “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng
và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ
vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết”.
Như vậy, khi quyết định mức cấp dưỡng nuôi con, Tòa
án phải căn cứ vào cả hai yếu tố: (1) thu nhập, khả năng thực tế của người
có nghĩa vụ cấp dưỡng; (2) việc cấp dưỡng phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người được cấp dưỡng.
- Khoản 1, khoản 2 Điều 16 Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “khả năng thực tế của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng” được hiểu là “người đó có thu nhập thường xuyên hoặc tuy
không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí
thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”.
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 có hướng dẫn như sau: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao
gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các
bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng
trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi
con cho hợp lý”.
- Tham khảo Mục 2 Phần III của Công
văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TAND tối cao: “Tòa án phải xem
xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng
góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của
người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối
thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại
thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con” để làm căn cứ giải quyết.
- Các quy định, hướng dẫn có liên quan khác.
7.2. Trong tình huống nêu trên, bị đơn vắng
mặt tại phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ theo các điềm b và c khoản 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS. Nếu nguyên đơn
không thể cung cấp được tài liệu, chứng cứ về thu nhập của bị đơn thì có quyền
yêu cầu Tòa án thu thập. Tòa án có thể tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS (cần đợi cơ quan, tổ chức cung
cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án).
Trường hợp Tòa án đã áp dụng biện pháp thu thập chứng
cứ cần thiết mà không thể thu thập được thì Tòa án giải quyết yêu cầu trên cơ sở,
tài liệu chứng cứ đã có; nếu vẫn không có đủ cơ sở giải quyết (không thể xác định
được thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng) thì Tòa án
đình chỉ giải quyết yêu cầu cấp dưỡng của nguyên đơn.
8. Điều
42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về
các trường hợp việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị
vô hiệu nhưng không quy định ai là người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu
và hậu quả pháp lý nếu thỏa thuận đó bị vô hiệu? (VKSND tỉnh Gia Lai - năm
2020).
Trả lời:
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu có thể là vụ án dân sự hoặc việc dân sự, có thể
coi là các tranh chấp, yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật
theo khoản 8 Điều 28, khoản 11 Điều 29 BLTTDS.
Việc xác định ai là người có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu phải
căn cứ vào khoản 2 Điều 68 (nếu là vụ án dân sự) hoặc khoản 5 Điều 68 BLTTDS (nếu là việc dân sự).
- Nếu thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân bị Tòa án tuyên vô hiệu thì hậu quả pháp lý là tài sản
được chia lại trở thành tài sản chung của vợ, chồng như trước kia. Nếu người được
nhận tài sản theo thỏa thuận trước đó đã làm cho tài sản không còn hoặc bị sụt
giảm giá trị thì tùy từng trường hợp cụ thể phải thay thế bằng tài sản khác
cùng loại hoặc số tiền tương đương.
9. VKSND tối cao phối hợp với
TAND tối cao sớm có văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn, giải đáp vướng mắc
trong việc áp dụng pháp luật để tránh tình trạng mâu thuẫn về quan điểm, đường
lối giải quyết giữa hai ngành đối với các vấn đề pháp luật còn chưa điều chỉnh
hoặc quy định không rõ ràng (năm 2021).
Trả lời:
Đối với việc hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật
dân sự, hành chính thời gian qua, VKSND tối cao đã tích cực phối hợp với TAND tối
cao trong việc ban hành nhiều án lệ. Trong thời điểm từ 2017 đến 2021, đã phối
hợp với TAND tối cao xem xét, thẩm định và thông qua 36 án lệ về dân sự,
hành chính[5] nhằm
hướng dẫn các nội dung mà pháp luật chưa rõ, còn có cách hiểu khác nhau, có giá
trị hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử,... Bên cạnh đó, VKSND
tối cao đã tích cực phối hợp xây dựng nhiều Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán,
Thông tư liên tịch[6],
liên quan đến việc hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật[7].
VKSND tối cao cũng đã tổng hợp những vướng mắc liên
quan đến BLTTDS, Luật TTHC năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành trong 02
Báo cáo sơ kết 05 năm BLTTDS và Luật TTHC[8] và kiến nghị đến TAND tối cao, các cơ quan
có thẩm quyền nhằm phối hợp, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung quy định liên quan.
Thời gian tới, VKSND tối cao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với TAND tối cao
trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật dân sự,
hành chính. Đối với những quy định pháp luật còn chưa điều chỉnh hoặc quy định
không rõ ràng, đề nghị VKS các cấp phản ánh cụ thể thông qua văn bản thỉnh thị
hoặc báo cáo gửi tới VKSND tối cao để nắm thông tin và có phương án giải quyết
phù hợp.
10. VKSND tối cao cần phối hợp
với TAND tối cao nghiên cứu sửa đổi Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và
TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS và Thông tư liên tịch số
03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và
TAND trong việc thi hành một số quy định của Luật TTHC, theo hướng: cần có những
quy định cụ thể về thời gian đối với việc Tòa án chuyển hồ sơ vụ án cho VKS có
văn bản yêu cầu và điều chỉnh thời gian Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu
ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án cho phù hợp với tình hình thực tế như
trên; đề xuất đối với các vụ án, vụ việc có
tính chất phức tạp cần tăng thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS; cần có chế tài xử
lý đối với Tòa án về vi phạm khi không gửi hay gửi chậm bản án, quyết định cho
VKS để hạn chế được tình trạng này tiếp diễn, kéo dài; quy định rõ những trường
hợp nào được xem là lý do khách quan kháng nghị quá hạn, từ đó tạo căn cứ pháp
lý cho Tòa án và VKS thống nhất trong áp dụng pháp luật, tạo tính khả thi cho
quy định về kháng nghị quá hạn; đưa ra chế tài hợp lý trong việc Tòa án tiếp tục
tái vi phạm sau khi Viện kiểm sát đã ban hành kiến nghị khắc phục vi phạm (năm
2021).
Trả lời:
02 Thông tư liên tịch nêu trên được ban hành có phạm
vi hướng dẫn quy định BLTTDS, Luật TTHC năm 2015 nên nội dung không nằm ngoài
và không được trái với các quy định của BLTTDS, Luật TTHC năm 2015. Do đó, những
kiến nghị, đề xuất nêu trên là những nội dung mới so với luật nên cần phải được
sửa đổi trong BLTTDS, Luật TTHC năm 2015. VKSND tối cao đã ghi nhận các đề xuất,
kiến nghị trên tại Báo cáo số 134/BC-VKSTC ngày 01/10/2021 về “Sơ kết 05 năm
thi hành Luật TTHC năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân dân (2016- 2020)”,
Báo cáo số 141/BC-VKSTC ngày 05/10/2021 về “Sơ kết 05 năm thi hành BLTTDS
năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân dân (2016-2020)” và kiến nghị đến TAND tối
cao, các cơ quan có thẩm quyền để phối hợp, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy
định này.
II. Đề nghị Vụ 14 nghiên cứu,
hướng dẫn bằng văn bản trong trường hợp kiến nghị của VKS không được chấp nhận,
thực hiện hoặc được chấp nhận nhưng thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ theo yêu cầu
của kiến nghị thì các biện pháp tiếp theo, VKS phải thực hiện gồm những biện
pháp như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiến nghị của VKS, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao chiến lược cải cách tư pháp (VKS tỉnh Lạng Sơn - năm 2021)
Trả lời:
Các nội dung kiến nghị, đề xuất nêu trên đã được hướng
dẫn, giải đáp tại Mục 8 Công văn số 1492/VKSTC-V14 ngày
17/4/2018 của VKSND tối cao về giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng
quy định của Luật TTHC năm 2015 và nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án
hành chính trong ngành Kiểm sát nhân dân và Mục 3 Công
văn số 2964/VKSTC-V14 ngày 19/7/2018 của VKSND tối cao về giải đáp
vướng mắc pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự, hành chính và những việc khác theo
quy định của pháp luật, đề nghị VKS các cấp nghiên cứu và thực hiện.
III. Về khó khăn, vướng mắc và
kiến nghị, đề xuất liên quan đến công tác nghiên cứu, quản lý khoa học
1. Giao nhiệm vụ, chỉ tiêu bắt
buộc khi nghiệm thu đề án, đề tài phải có kết quả nghiên cứu được đăng ở Tạp
chí Kiểm sát để công bố công khai rộng rãi kết quả nghiên cứu và chuyển 01 bộ đề
án, đề tài lưu ở Tạp chí Kiểm sát phục vụ cho việc nghiên cứu, trao đổi, đăng
bài viết (Tạp chí kiểm sát - năm 2021).
Trả lời:
Việc chuyển giao, phổ biến, triển khai ứng dụng kết
quả thực hiện các đề tài khoa học, đề án đã được quy định cụ thể tại Quy chế quản
lý đề tài khoa học, đề án của VKSND tối cao (được ban hành kèm theo Quyết định
số 108/QĐ-VKSTC ngày 26/3/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao) (viết tắt là
Quy chế số 108).
Ngay trong nội dung Hồ sơ thuyết minh chi tiết đề
tài khoa học, Điều 20, mẫu PL7-TMNV của Quy chế số 108 đã quy định cụ thể việc
Ban Chủ nhiệm phải thuyết minh về dự kiến sản phẩm chính của kết quả nghiên cứu,
trong đó, các bài báo, sách chuyên khảo và các sản phẩm khác được coi là một
dạng của sản phẩm nghiên cứu với các yêu cầu cụ thể: (1) ghi rõ tên sản phẩm;
(2) xác định các yêu cầu khoa học cần đạt; (3) Dự kiến nơi công bố (Tạp chí,
Nhà xuất bản). Như vậy, các bài báo đăng trên Tạp chí Kiểm sát cũng như trên
các ấn phẩm thông tin báo chí khác được khuyến khích và được coi là một dạng của
sản phẩm nghiên cứu. Tuy nhiên, khi đăng tải kết quả nghiên cứu trên Tạp chí Kiểm
sát cũng như các ấn phẩm thông tin báo chí khác, Ban chủ nhiệm đề tài, đề án cần
lưu ý tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến danh mục bí mật nhà nước
thuộc VKSND, của các bộ, ngành khác cũng như quy định về công tác của Nhà nước,
của Ngành.
Điều 45 Quy chế số 108 quy định: Sau khi hoàn thành
việc nghiên cứu, Báo cáo tổng thuật kết quả thực hiện đề tài, đề án phải được chuyển
giao cho Văn phòng (Phòng Lưu trữ) 02 bộ để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham khảo
của công chức, viên chức thuộc VKSND tối cao nói riêng và của ngành Kiểm sát
nhân dân nói chung; chuyển giao 01 cho Đại học Kiểm sát Hà Nội và 01 bộ cho Trưởng
Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh để phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy. Đồng thời, hàng năm, Vụ 14 đã phát hành 01 tập Thông
tin Khoa học kiểm sát phổ biến kết quả nghiên cứu, thực hiện các đề tài, đề án.
Theo đó, việc quy định lưu trữ đề tài, đề án mang tính chất bắt buộc tại Tạp
chí Kiểm sát là không phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của Tạp chí Kiểm sát là
đơn vị thông tin, tuyên truyền.
2. Kinh phí dành cho công tác
nghiên cứu khoa học hạn chế. Hàng năm, trên cơ kinh phí nghiên cứu khoa học được
giao, VKSND tối cao dành 15 - 20% phân bổ cho Trường để triển khai các nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học phục vụ ngành Kiểm sát và phục vụ công tác xây dựng nội
dung đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo đại học, sau đại học. (T2, T3 - năm 2022).
Trả lời:
- Hằng năm, VKSND tối cao (Vụ 14) luôn phối hợp chặt
chẽ với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc đề nghị cấp kinh phí chi sự nghiệp
khoa học công nghệ cho ngành Kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở kinh phí được cấp, Vụ
14 đã tham mưu lãnh đạo VKSND tối cao xây dựng, ban hành Quyết định phân bổ
kinh phí khoa học và công nghệ đảm bảo đúng quy định pháp luật, bám sát Quyết định
của Bộ Tài chính về việc giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước, Kế hoạch
khoa học và công nghệ, định hướng nghiên cứu khoa học của ngành Kiểm sát nhân
dân được Viện trưởng VKSND tối cao phê duyệt và căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của
Ngành; cũng như cân nhắc đề xuất, đăng ký thực hiện đề tài, đề án của các đơn vị.
Năm 2022, thực hiện chủ trương “hướng về cơ sở”, VKSND tối cao đã triển khai
nghiên cứu đề tài, đề án đến các VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện nhằm nâng cao
năng lực nghiên cứu của các VKSND cấp dưới và phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa
phương liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của VKSND (năm 2022 có 02 đề
án và 07 đề tài khoa học cấp cơ sở được giao cho VKSND cấp dưới nghiên cứu).
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của VKSND cấp tỉnh,
VKSND cấp huyện đã góp phần quan trọng vào hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của VKSND các cấp, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn tại địa phương.
- Nhìn chung, kinh phí được cấp cho hoạt động
nghiên cứu khoa học của ngành Kiểm sát nhân dân có xu hướng tăng qua các năm[9], tuy nhiên, mức
kinh phí được cấp vẫn còn hạn chế so với nhu cầu nghiên cứu thực tế của Ngành
và đề xuất của VKSND tối cao. Riêng đối với các đơn vị T2 và T3, trong các năm
qua, với điều kiện kinh phí còn hạn hẹp nhưng VKSND tối cao luôn quan tâm phân
bổ kinh phí nghiên cứu khoa học cho T2 và T3 trên cơ sở đăng ký của các Trường,
tập trung phục vụ cho việc xây dựng các Giáo trình công tác kiểm sát[10]. Bên cạnh đó,
T2 và T3 còn có nguồn kinh phí tự chủ cho sự nghiệp khoa học và công nghệ, do
đó, T2 và T3 cần chủ động phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí
này cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của các đơn vị này.
Trên đây là giải đáp những khó khăn, vướng mắc, kiến
nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp trong năm 03 năm (năm 2020 - 2022) của
Vụ 14, kính gửi các đơn vị, Viện kiểm sát các cấp./.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Đ/c Viện trưởng VKSTC (để báo cáo);
- Các đồng chí Phó Viện trưởng VKSTC (để báo cáo);
- Lưu: VT, V14.
|
TL. VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ PHÁP CHẾ VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC
Hoàng Thị Quỳnh Chi
|
[1] Vụ 14 cũng đã có ý kiến trao đổi tại câu số
39 Phần I.I cuốn sách “Giải đáp vướng mắc về pháp luật và giải quyết các vụ
án, vụ việc về tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy” do Văn phòng - Vụ 14,
VKSND tối cao phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2019.
[2] Vụ 14 cũng đã có ý kiến trao đổi tại câu số
10 phần II Công văn số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020.
[3] Điều 25 Luật Tố cáo năm 2018, khoản 3 và khoản
7 Điều 5 Thông tư số 28/2020/TT-BCA
[4] Nội dung này đã được quy định từ khi Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (khoản 4 Điều 47), rồi đến BLTTDS
năm 2004, BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015.
[5] Trên tổng số 43 án lệ đã được Tòa án công bố.
[6] Thông tư số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày
31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Thông tư số 03/2016/TTLT- VKSNDTC-TANDTC
ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một
số quy định của Luật Tố tụng hành chính,
[7] Nghị quyết Hướng dẫn thi hành một số quy định
của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của quốc hội về việc thi hành bộ
luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội
về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật phá sản; Nghị quyết số 04/2016/NQ-HDTP Hướng
dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố
tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ
và cấp, tống đạt, Thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử; Nghị Quyết
04/2017/NQ-HĐTP Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật
Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện
lại vụ án; Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của
khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết
01/2020/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong
giải quyết tranh chấp về tài sản chung của dòng họ; Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP
về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Bộ luật Tố tụng dân sự...
[8] Báo cáo số 134/BC-VKSTC ngày 01/10/2021 về “Sơ
kết 05 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân
dân (2016-2020)”, Báo cáo số 141/BC-VKSTC ngày 05/10/2021 về “Sơ kết 05
năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong ngành Kiểm sát nhân dân
(2016-2020)”.
[9] Năm 2021 được cấp 4.210 triệu đồng, năm 2022
được cấp 4.210 triệu đồng, năm 2023 được cấp 4.800 triệu đồng...
[10] Năm 2021 T2 được giao nghiên cứu 03
đề tài khoa học cấp bộ, T3 được giao nghiên cứu 01 đề tài khoa học cấp bộ;
năm 2022 T2 được giao nghiên cứu 02 đề tài khoa học cấp bộ, T3 được giao
nghiên cứu 01 đề tài khoa học cấp bộ.