Mục đích khảo sát
|
Cỡ lớn nhất của mắt
lưới
|
Độ sâu tối thiểu
khuyến cáo của lưới, d
|
Nhận xét
|
Monitoring sinh học chung/ định kỳ: dữ liệu
dùng cho khảo sát có sử dụng thang điểm/ chỉ số sinh cảnh.
|
0,5 đến 0,75
|
400
|
Có thể không lấy được hầu hết động vật
không xương sống đáy đang trong giai đoạn phát triển còn nhỏ.
|
Đối với các khảo sát cần có nhiều số liệu hoàn
chỉnh hơn về các đơn vị phân loại hiện có.
|
0,5
|
450
|
Có thể không lấy được hầu hết côn trùng ở
thời kỳ lột xác sớm.
|
Đối với các khảo sát đặc biệt yêu cầu có
danh mục các đơn vị phân loại hoàn chỉnh.
|
0,25
|
550
|
Đảm bảo lấy được hết tất cả côn trùng ở
thời kỳ lột xác sớm và các loại động vật rất nhỏ mà chúng có thể có giá trị trong
quá trình xác định chất lượng nước.
|
5 Phương pháp lấy mẫu
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn phương
pháp lấy mẫu bao gồm:
a) đối tượng lấy mẫu – có thể là danh mục bao
hàm toàn diện các loài ở hiện trường và/ hoặc sự phong phú về mối quan hệ họ
hàng của các đơn vị phân loại trong sinh cảnh đã chọn;
b) đặc điểm của hiện trường – bao gồm độ sâu,
tốc độ dòng chảy, kiểu nền đáy và số lượng thực vật;
c) các điều kiện an toàn lao động - độ sâu
của nước, tốc độ dòng chảy và độ ổn định của nền đáy. Không nên làm việc một
mình.
Không có phương pháp lấy mẫu nào là thích hợp
cho tất cả các loại nước và cần phải mô tả một số các phương pháp lấy mẫu để
đáp ứng các yêu cầu khác nhau. Nỗ lực lấy mẫu cần phù hợp với mục đích và hiện
trường, do vậy sẽ căn cứ vào khoảng cách phù hợp, khu vực hoặc thời gian. Khi
có ý định lấy càng nhiều loài càng tốt, cần kết hợp các phương pháp lấy mẫu
theo 5.1 đến 5.3. Điều đó hiển nhiên là khi nghiên cứu toàn bộ tất cả các dạng
nền đáy theo phương pháp lấy mẫu này thì phải bao gồm cả quét, chải các đám
thuỷ thực vật và các hệ rễ của thực vật nhô, treo trong nước.
Trừ khi ở vùng nước sâu hoặc vùng nước đứng
(nước tù) hoặc khi cào (quét) lưới qua thuỷ thực vật hoặc trên bề mặt của lớp
mùn đáy hoặc cặn bùn, đặt vợt cầm tay lên bề mặt của nền đáy, tiến hành lấy mẫu
bằng cách hướng mặt mở của vợt ngược dòng chảy và các loại động vật sẽ từ từ
chui vào lưới. Phải tiến hành lấy mẫu theo hướng ngược dòng chảy để tránh làm
xáo trộn các điểm còn chưa được lấy mẫu.
5.1 Lấy mẫu ở vùng nước nông và chảy bằng tay
Giữ mép thấp và thẳng của vợt đối diện với
nền đáy, rồi ngay lập tức dùng tay lật ngược những viên sỏi đá trong vùng nước
chảy. Dòng nước sẽ đưa các sinh vật sống ở đáy bị tung ra vào trong lưới. Kiểm
tra các viên đá, nhặt thêm các loại động vật dính bám trên đó và gộp thêm chúng
vào mẫu. Làm xáo trộn lớp mỏng bề mặt của nền đáy và tách bắt thêm các loài
động vật. Lặp lại quá trình này ở vài điểm theo mặt cắt sông để thu được các
môi trường sống nhỏ ở các chỗ nông gần đó. Phương pháp này cũng thích hợp khi
lấy mẫu các môi trường sống theo tỷ lệ.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
5.2 Lấy mẫu ở vùng nước sâu bằng chân
ở nơi mà quần thể động vật có thể bị nghi ngờ
là thưa thớt hoặc ở nơi nước quá sâu không thể lấy mẫu bằng tay, việc lấy mẫu
bằng chân có thể được dùng và nhìn chung là rất hiệu quả. Lấy mẫu bằng chân
cũng có thể được tiến hành ở vùng nước nông, giữa các điểm có độ sâu khác nhau
hoặc các điểm mà sự thay đổi độ sâu không cho phép lấy mẫu bằng tay.
Giữ lưới vợt thẳng vuông góc với đáy sông dưới
chân theo dòng nước. Dùng ngón chân hoặc gót chân khua động mạnh lớp bề mặt đáy
và lùa những động vật bị rời ra vào trong lưới.
Có thể lấy mẫu ở nhiều môi trường sống khác
nhau khi tiến hành lấy mẫu ngang qua sông. Cũng có thể lựa chọn biện pháp này
bởi vì có ít động vật dính vào hơn. ở những nơi có thể tiến hành phương pháp
này, nhặt một số hòn sỏi/đá lên để kiểm tra xem có động vật bám dính vào không.
Sau đó, chuyển các động vật này vào hộp đựng mẫu như đã mô tả ở 5.1.
5.3 Lấy mẫu ở vùng nước chảy chậm và vùng nước
tĩnh
ở vùng nước tĩnh, phương pháp lấy mẫu bằng
vợt cầm tay có thể không phải là phương pháp lấy mẫu thích hợp nhất. Cần cân
nhắc để chọn sử dụng rây, gầu đáy, lưới cào, thuổng, dụng cụ lấy mẫu bằng ống
xi phông hoặc lấy mẫu tập đoàn.
Một số môi trường sống như bờ đá ở hồ, có thể
sử dụng phương pháp lấy mẫu bằng tay (5.1) tuy nhiên hiệu quả của lấy mẫu có
thể thấp hơn. Cách tốt nhất trong trường hợp này là chuyển dịch các viên đá, sỏi
cẩn thận và lắc, xóc thật mạnh chúng trong lưới, sau đó dùng tay nhặt tất cả
động vật rơi ra.
Khi lấy mẫu ở môi trường sống vùng nước chảy
chậm hoặc vùng nước tĩnh, việc không có hoặc giảm chuyển động của nước đòi hỏi
biện pháp khác với biện pháp được sử dụng trong nước chảy, nơi mà dòng chảy được
dùng có lợi cho việc dồn các loài động vật bám dính vào trong lưới. Trong vùng
nước tĩnh, người thao tác cần tạo ra sự vận động qua lại của quần thể động vật
và lưới. Dùng chân khuấy động lớp bề mặt đáy, sau đó dùng lưới vợt liên tục
vùng nước sát phía trên đáy để bắt các sinh vật đáy bị xáo trộn tung ra. ở
những vùng nước tĩnh có độ sâu lớn hơn, nơi bề mặt của đáy có thể có bùn hoặc
phù sa, kéo hoặc đẩy vợt hoặc rây qua lớp bề mặt, tốt nhất là qua một khoảng
cách hoặc diện tích đã xác định trước.
6 Đánh giá sự phong
phú của mối quan hệ họ hàng
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Vì vậy, tốt nhất là chỉ một thao tác viên thực
hiện một khảo sát đơn lẻ. Thậm chí các điều kiện khác nhau như tốc độ dòng
chảy, độ sâu, nhiệt độ (đối với lấy mẫu bằng tay) và đặc điểm của lớp nền đáy
cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả lấy mẫu. Việc lấy mẫu bằng chân (5.2) trong
thời gian dài ở dòng sông có quần thể động vật đáy phong phú có thể dẫn đến
việc thu được quá nhiều mẫu để xử lý và khi lập lại công việc này thường xuyên
ở cùng một khu vực thì có thể gây tác dụng bất lợi cho cộng đồng thuỷ sinh.
7 Tính đúng đắn của
phương pháp
Phương pháp lấy mẫu bằng vợt cầm tay được sử
dụng rộng rãi trong lấy mẫu định tính động vật không xương sống đáy cỡ lớn và
cho các kết quả như nhau, khi được lặp lại nhiều lần ở cùng một điểm lấy mẫu.
Tuy nhiên, những quan sát này chưa đủ để khẳng định giá trị của phương pháp.
Các dụng cụ lấy mẫu hình vuông để đánh giá
định lượng sự phong phú của động vật không xương sống đáy cỡ lớn đã được chấp
nhận rộng rãi. Chính phương pháp này cung cấp kỹ thuật hữu ích cho việc đánh
giá tính đúng đắn của vợt cầm tay vì có thể so sánh những mặt định tính của kết
quả thu được của phương pháp lấy mẫu “phẫu diện ô vuông” với các kết quả thu được
từ phương pháp lấy mẫu bằng vợt cầm tay.
So sánh các dữ liệu thu được từ các mẫu lấy
bằng phương pháp phẫu diện ô vuông với các dữ liệu thu được bằng vợt cầm tay từ
hai con sông chính ở nước Anh và các nhánh phụ của chúng. Lập các biểu đồ dựa
trên số lượng các loài thu thập được ở một số điểm lấy mẫu sử dụng dụng cụ lấy
mẫu “phẫu diện ô vuông” và số lượng các loài thu được bằng phương pháp lấy mẫu
bằng vợt cầm tay ở cùng các điểm lấy mẫu đó. Cả hai loại mẫu lấy theo hai phương
pháp trên đều cùng do một nhóm thao tác viên thực hiện.
Phân tích này cho thấy rõ mối tương quan cao
và chặt chẽ (p < 0,001) giữa các loài thu được bằng lưới của vợt cầm tay và
các loài thu được bằng các dụng cụ lấy mẫu định lượng “phẫu diện ô vuông” (xem
hình 3).
Hình 1 – Vợt cầm tay
thông thường
Kích thước tính bằng
milimét
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
a) 2 lưới hình chóp
làm từ vật liệu khổ rộng 1 m
b) Lưới dạng túi làm
từ vật liệu khổ 1 m
Hình 2 – Một số kiểu
lưới
Hình 3 – So sánh số
đơn vị phân loại thu được bằng lưới và dụng cụ lấy mẫu phẫu diện ô vuông ở điểm
lựa chọn trên các sông khác nhau