ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
1458/QĐ-UBND
|
Quảng
Ngãi, ngày 25 tháng 10 năm 2022
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN CỦNG CỐ, NÂNG CAO VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG
NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2022 - 2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NGÃI
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính
phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Căn cứ Luật Hợp tác xã ngày
20/11/2012;
Căn cứ Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Căn cứ Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới;
Căn cứ Nghị định số 193/2013/NĐ-CP
ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã
và Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã;
Căn cứ Nghị định số 98/2018/NĐ-CP
ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác,
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
Căn cứ Quyết định số 263/QĐ-TTg
ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025;
Căn cứ Quyết định số 1804/QĐ-TTg
ngày 13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển
kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025;
Căn cứ Thông tư số 124/2021/TT-BTC
ngày 30/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính, quản lý,
sử dụng kinh phí chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai
đoạn 2021 - 2025 ban hành kèm theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của
Thủ tướng Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số 455/QĐ-UBND
ngày 26/3/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ,
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi;
Căn cứ Quyết định số 705/QĐ-UBND
ngày 18/5/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt danh sách Hợp tác xã
tham gia Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu
quả trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021-2025; Quyết định số
1254/QĐ-UBND ngày 14/9/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc điều chỉnh nội dung
tại Phụ lục kèm theo Quyết định số 705/QĐ-UBND ngày 18/5/2021 của Chủ tịch UBND
tỉnh;
Căn cứ Quyết định số 995/QĐ-UBND
ngày 07/7/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi;
Căn cứ Quyết định 1296/QĐ-UBND
ngày 27/8/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch phát triển kinh
tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 147/QĐ-UBND ngày
18/02/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch tái cơ cấu ngành
nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tại các Tờ trình: số 2793/TTr-SNNPTNT ngày
16/8/2022 và số 3485/TTr-SNNPTNT ngày 06/10/2022.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án Củng cố,
nâng cao và phát triển hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 2022 - 2025, định hướng
đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Điều 2. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Sở, ban ngành, cơ quan, đơn vị, địa
phương có liên quan tổ chức triển khai thực hiện Đề án đạt kết quả.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
ký.
Điều 4. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Thủ trưởng các sở,
ban ngành, các đơn vị trực thuộc UBND tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã,
thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- CT, PCT UBND tỉnh;
- UB MTTQVN tỉnh;
- VPUB: PCVP, KTTH, CB-TH;
- Lưu: VT, KTN (lnphong378)
|
CHỦ
TỊCH
Đặng Văn Minh
|
ĐỀ ÁN
CỦNG CỐ, NÂNG CAO VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2022 -
2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
(Kèm theo Quyết định số 1458/QĐ-UBND ngày 25/10/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh
Quảng Ngãi)
Phần I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Phát triển kinh
tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX) là chủ trương nhất quán và xuyên
suốt của Đảng ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định:
“Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp
tác xã là nòng cốt”, “kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Trên cơ sở đó, các cấp, các
ngành đã quan tâm, ban hành các chính sách hỗ trợ cho khu vực KTTT, HTX nói
chung và hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) nói riêng phát triển.
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT và 10
năm thi hành Luật HTX 2012, HTXNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từng bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng, dần dần khẳng định vị trí, vai trò của
KTTT, HTX trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa
đói giảm nghèo cho các thành viên, đảm bảo an sinh, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội. Đồng thời, việc phát triển HTX có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới góp phần
thực hiện hoàn thành 02 tiêu chí (tiêu chí số 10 về thu nhập và tiêu chí số 13
về tổ chức sản xuất) trong 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh
vực KTTT, HTX trong nông nghiệp cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
nói riêng, đang đứng trước những thách thức, khó khăn cả về khách quan lẫn chủ
quan. Về khách quan, đó là sự bất ổn
ở nhiều khu vực trên thế giới; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch
bệnh, đặc biệt là dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp. Về chủ quan, đó
là năng lực nội tại hạn chế; số HTX quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả còn ít; lợi
ích đem lại cho thành viên chưa nhiều; đóng góp của lĩnh vực KTTT, HTX chiếm tỷ
trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội,... Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với lĩnh vực
HTX là phải phát huy nội lực vươn lên thoát khỏi những tồn tại yếu kém căn bản,
đổi mới phương thức quản lý kinh doanh; ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật,
công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế và đảm
nhiệm tốt vai trò nền tảng vững chắc trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo mạnh
để cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác.
Trong những năm qua, tỉnh đã ban hành
nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho HTXNN phát triển. Tuy nhiên,
các cơ chế, chính sách này đã hết hiệu lực vào cuối năm 2020, trong khi HTXNN vẫn
còn những hạn chế, yếu kém cần tiếp tục quan tâm hỗ trợ phát triển trong giai
đoạn tới. Đồng thời, ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới, tiếp tục khẳng
định quan điểm: “Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế quan trọng, phải được củng
cố và phát triển cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.”, trong các hình thức tổ chức của kinh tế tập thể thì “hợp
tác xã là nòng cốt”.
Từ thực trạng nêu trên, việc xây dựng
và ban hành “Đề án Củng cố, nâng cao và phát triển hợp tác xã nông nghiệp giai
đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi”, nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh, từ đó góp phần thực
hiện thành công tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới là hết sức
cần thiết.
II. CĂN CỨ PHÁP LÝ
1. Văn bản Trung ương
Luật Hợp tác xã ngày 20/11/2012;
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới;
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày
21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; Nghị
định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ;
Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày
05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, liên
kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày
13/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển
kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025;
Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày
03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng
mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 -
2025;
Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày
12/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế tập
thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2030;
Quyết định số 1318/QĐ-TTg ngày
22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế tập
thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025;
Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày
22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025;
Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày
28/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội
nghị;
Thông tư số 36/2018/TT-BTC ngày
30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và
quyết toán kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức;
Thông tư số 124/2021/TT-BTC ngày
30/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính, quản lý, sử dụng
kinh phí chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn
2021 - 2025 ban hành kèm theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của Thủ
tướng Chính phủ.
2. Văn bản địa phương
Quyết định số 455/QĐ-UBND ngày
26/3/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ, phát
triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi;
Quyết định số 705/QĐ-UBND ngày
18/5/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt danh sách Hợp tác xã tham
gia Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021 - 2025; Quyết định số 1254/QĐ-UBND
ngày 14/9/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc điều chỉnh nội dung tại Phụ lục
kèm theo Quyết định số 705/QĐ-UBND ngày 18/5/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh;
Quyết định số 995/QĐ-UBND ngày
07/7/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi;
Quyết định số 1296/QĐ-UBND ngày
27/8/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi;
Quyết định số 147/QĐ-UBND ngày
18/02/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch tái cơ cấu ngành
nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025;
Nghị quyết số 46/2017/NQ-HĐND ngày
29/9/2017 của HĐND tỉnh về việc ban hành quy định mức công tác phí, chi hội nghị
áp dụng đối với các cơ quan, đơn vị của tỉnh Quảng Ngãi;
Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐND ngày
10/4/2019 của HĐND tỉnh về việc quy định mức chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Phần II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HTX NÔNG
NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2016 - 2021
I. CÔNG TÁC CHỈ
ĐẠO, BAN HÀNH VĂN BẢN TRIỂN KHAI THỰC HIỆN VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HTXNN
1. Công tác chỉ
đạo, ban hành văn bản triển khai thực hiện
1.1. Trung ương
Trên cơ sở Luật HTX năm 2012 được Quốc
hội thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII ngày 20/11/2012, có hiệu lực
từ 01/7/2013; Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều Luật HTX; Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày
21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật HTX, trong giai đoạn
2016 - 2020, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã ban hành văn bản triển khai
thực hiện:
- Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày
15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp
tác giai đoạn 2015 - 2020;
- Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày
28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Tái cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư;
- Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày
27/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển 15.000 hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020;
- Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày
29/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài
chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ
phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020;
- Thông tư 15/2016/TT-BNNPTNT ngày
10/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn điều
kiện và tiêu chí thụ hưởng hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với hợp
tác xã nông nông nghiệp.
1.2. Tỉnh
Ngoài việc thực hiện các cơ chế,
chính sách hỗ trợ HTXNN theo quy định của Trung ương, tỉnh ban hành và thực hiện
đồng bộ chính sách khuyến khích hỗ trợ HTX phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm
vụ phát triển HTX trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, cụ thể như sau:
- Quyết định số 31/2014/QĐ-UBND ngày
24/6/2014 về việc ban hành quy định chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp
tác xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2014 - 2020;
- Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND ngày
27/7/2015 về việc ban hành Quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển HTX dịch
vụ và khai thác hải sản xa bờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2015 -
2020;
- Quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày
10/8/2015 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Phát triển kinh tế tập thể tỉnh Quảng
Ngãi;
- Quyết định số 159/QĐ-UBND ngày
29/3/2016 về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã tỉnh;
- Quyết định số 2815/QĐ-UBND ngày
30/12/2016 về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát
triển Hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi;
- Quyết định số 488/QĐ-UBND ngày
06/6/2018 phê duyệt danh sách hợp tác xã nông nghiệp thực hiện thí điểm mô hình
đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX;
- Kế hoạch số 128/KH-UBND ngày
17/10/2018 triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27/4/2018 của Thủ
tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
2. Công tác quản
lý nhà nước đối với HTXNN
Cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ
quan đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, HTX; Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
HTXNN trên địa bàn tỉnh. Ở tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo Phát triển kinh tế tập
thể, HTX tỉnh do Liên minh HTX tỉnh làm cơ quan thường trực.
Cấp huyện, đầu mối quản lý nhà nước về
kinh tế tập thể, HTX giao cho Phòng Tài Chính - Kế hoạch huyện và các Phòng:
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kinh tế, Kinh tế và hạ tầng nông thôn tham
mưu giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về HTXNN trên địa bàn
huyện.
Cấp xã, hầu như chưa có bộ phận theo
dõi hoạt động của các HTX.
II. TÌNH HÌNH
PHÁT TRIỂN HTXNN
1. Thông tin
chung
1.1. Về số lượng HTXNN: đến thời điểm 31/12/2021 trên địa bàn tỉnh có 231 HTXNN, tăng 65 HTX
so với thời điểm 31/12/2016. Trong đó, có: 84 HTX thành lập mới; 15 HTX đã giải
thể; 32 HTX hợp nhất thành 10 HTX.
Trong đó: 05 HTX trồng trọt, 02 chăn
nuôi, 02 lâm nghiệp, 11 thủy sản (04 nuôi trồng, 07 khai thác), 02 diêm nghiệp
và 209 HTX tổng hợp.
1.2. Địa bàn hoạt động: tại 13 huyện, thị xã, thành phố (huyện Bình Sơn 37 HTX; huyện Sơn Tịnh
13 HTX; TP Quảng Ngãi 34 HTX; huyện Tư Nghĩa 25 HTX; huyện Nghĩa Hành 16 HTX;
huyện Mộ Đức 35 HTX; thị xã Đức Phổ 20 HTX; huyện Trà Bồng 07 HTX; huyện Sơn Hà
17 HTX; huyện Sơn Tây 09 HTX; huyện Minh Long 06 HTX; huyện Ba Tơ 11 HTX; huyện
Lý Sơn 01 HTX).
2. Tình hình
chuyển đổi, đăng ký lại HTX theo Luật HTX năm 2012
Hầu hết các HTXNN trên địa bàn tỉnh
đã tổ chức chuyển đổi, đăng ký theo Luật HTX 2012, còn 03 HTX chưa chuyển đổi:
TP. Quảng Ngãi (02): HTXNN Đông Hà, HTXNN Tây Hà; huyện Mộ Đức (01): HTXNN Đồng
Cát.
3. Kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các HTXNN
3.1. Nội dung hoạt động sản xuất
kinh doanh của HTXNN
Trong 162 HTXNN được xếp loại từ tốt
đến trung bình, có khoảng: 70 HTX đảm nhận 5 đến 7 dịch vụ, chiếm 43%; 52 HTX đảm
nhận 3 đến 4 dịch vụ, chiếm 32%; còn lại thực hiện 1 - 2 dịch vụ.
Cơ cấu ngành nghề kinh doanh dịch vụ
trong 162 HTXNN, có khoảng: 147 HTX làm dịch vụ thủy lợi (chiếm 91%); 30 HTX
làm dịch vụ cung ứng giống (chiếm 19%); 30 HTX làm dịch vụ cung ứng vật tư,
phân bón (chiếm 19%); 50 HTX làm dịch vụ sản xuất, cung ứng giống (chiếm 31%);
35 HTX làm dịch vụ tín dụng nội bộ (chiếm 22%); 30 HTX làm dịch vụ làm đất (chiếm
19%).
Ngoài ra, một số HTXNN còn đảm nhận
các dịch vụ như: trồng rừng, môi trường nông thôn, xây dựng, chế biến sản phẩm,
dịch vụ hậu cần, dịch vụ khuyến nông, bảo vệ đồng ruộng,...
3.2. Doanh thu, lợi nhuận
- Về doanh thu: đến năm 2020, tổng
doanh thu HTXNN khoảng trên 140 tỷ đồng, doanh thu bình quân của HTX đạt khoảng
820 triệu đồng/HTX/năm. So với thời điểm năm 2016, doanh thu HTXNN chỉ tăng nhẹ
nhưng doanh thu bình quân của HTXNN có xu hướng giảm.
- Về lợi nhuận: lợi nhuận bình quân của
HTXNN năm 2020 khoảng 45 triệu đồng/năm, giảm so với năm 2016 (năm 2016: lợi
nhuận đạt khoảng 50 triệu đồng/năm/HTX).
3.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động
Kết quả xếp loại năm 2021 theo quy định
tại Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn như sau:
- 205/231 HTXNN thực hiện xếp loại,
trong đó, có: 08 HTX xếp loại tốt, tỷ lệ 3,9%; 58 HTX khá, tỷ lệ 28,29%; 120
HTX trung bình, tỷ lệ 58,54%; 19 HTX yếu, tỷ lệ 9,27%;
- 26/231 HTXNN không xếp loại, trong
đó: có 15 HTX thành lập mới trong năm 2021 (theo quy định Thông tư số
09/2017/TT-BNNPTNT chưa thực hiện xếp loại); 11 HTX không thực hiện xếp loại,
ngừng hoạt động, chờ giải thể.
Như vậy, số lượng HTXNN hoạt động hiệu
quả năm 2021 (tốt, khá) là 66 HTXNN, chiếm tỷ lệ 32,2% trong tổng số HTX thực
hiện xếp loại.
4. Năng lực nội
tại của các HTXNN
4.1. Bộ máy quản lý, điều hành,
chuyên môn của HTXNN
Bộ máy quản lý, điều hành, chuyên môn
của HTX có trên 970 người, mỗi HTX có từ 5 - 7 người, trong đó:
- Về trình độ: thạc sĩ: 07 người, chiếm
0,72%; đại học: 187 người, chiếm 19,26%; cao đẳng: 98 người, chiếm 10,09%;
trung cấp: 240 người, chiếm 24,72%; Sơ cấp: 214 người, chiếm 22,04%; chưa qua
đào tạo: 225 người, chiếm 23,17%.
- Về độ tuổi: dưới 40 tuổi: 331 người,
chiếm 34,09%; từ 40 - 60 tuổi: 361 người, chiếm 37,18%; trên 60 tuổi: 279 người,
chiếm 28,73%.
Cán bộ HTX có độ tuổi cao và trình độ
chuyên môn còn thấp, gần 29% cán bộ trên 60 tuổi và 70% cán bộ có trình độ dưới
cao đẳng, hơn 45% cán bộ HTX trình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo. Đa số cán bộ
làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm, thiếu tính nhạy bén, ít năng động, khó khăn
trong tiếp cận khoa học, kỹ thuật mới, hạn chế trong việc xây dựng kế hoạch sản
xuất kinh doanh, liên kết sản xuất; thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để
tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật cho các thành viên và nông dân.
Kết quả rà soát, hầu hết là cán bộ chủ
chốt ở HTX có độ tuổi trên 60, giữ các vị trí là Chủ tịch hội đồng quản trị,
Giám đốc, Trưởng ban kiểm soát. Đây là hạn chế lớn trong công tác xây dựng và
phát triển HTX.
4.2. Về thành viên, lao động
Về thành viên: Có trên 120.100 thành
viên, bình quân có khoảng 600 thành viên/HTX; số lượng thành viên bình quân HTX
giảm so với năm 2016 (năm 2016 khoảng 846 thành viên/HTX), nguyên nhân: các
HTXNN đã tổ chức rà soát lại thành viên của HTX, chỉ giữ lại các thành viên thực
sự tâm huyết, góp vốn, gắn bó và có nhu cầu sử dụng chung các dịch vụ của HTX;
quá trình đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm dần tỷ lệ lao động nông
nghiệp nên số lượng người dân sản xuất nông nghiệp giảm; đồng thời, số lượng
HTX thành lập mới nhiều nhưng số thành viên của HTX thành lập mới rất thấp; HTX
có số lượng thành viên cao nhất là 7.749 thành viên; thấp nhất là 07 thành
viên.
Về lao động: số lao động làm việc
trong HTXNN tăng dần qua các năm, năm 2016 khoảng trên 1.200 người, đến nay số
lao động làm việc tại HTX khoảng trên 2.100 người do số lượng HTX thành lập mới
tăng qua các năm.
4.3. Vốn quỹ, tài sản
Vốn quỹ bình quân của mỗi HTXNN có từ
0,9 - 1,2 tỷ đồng/HTX.
Vốn điều lệ của HTXNN: chủ yếu hình
thành từ tài sản của HTX cũ chuyển sang. Thành viên tham gia vào HTX phần lớn không
đóng góp vốn, mà chỉ quy đổi từ vốn tích lũy của HTX cũ thành vốn góp của thành
viên khi đăng ký lại theo Luật HTX 2012. Do vậy, nhiều HTX không có vốn để đầu
tư phát triển, lúng túng trong việc xác định nội dung hoạt động sản xuất kinh
doanh, đồng thời chưa mạnh dạn trong phát triển, mở rộng dịch vụ của HTX.
Tổng tài sản cố định của HTXNN: sau
khi được đánh giá lại từ HTX cũ chuyển sang HTX mới, tài sản chủ yếu của HTX là
công trình thủy lợi, hệ thống kênh mương nội đồng, trụ sở làm việc và sân kho được
xây dựng từ những năm 1980, nay đã hư hỏng, xuống cấp. Năm 2019, sau khi Nhà nước
có chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg
ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển
hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, cơ sở hạ tầng của một số HTX trên địa bàn tỉnh
được xây dựng mới, tuy nhiên chỉ hỗ trợ các hạng mục như: nhà kho, sân phơi, của
hàng vật tư, kênh mương, ...; không được hỗ trợ nhà làm việc HTX.
5. Những chuyển
biến của HTXNN
5.1. Về phương thức hoạt động
Nhiều địa phương đã chủ động thực hiện
hợp nhất các HTXNN quy mô thôn, liên thôn hoạt động kém hiệu quả thành HTXNN
quy mô toàn xã để có điều kiện hoạt động tốt hơn; đã mạnh dạn giải thể một số
HTXNN yếu kém, chỉ tồn tại trên hình thức, nhiều HTXNN được củng cố, kiện toàn
lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới. HTXNN là đầu mối quan trọng
trong việc tổ chức thực hiện dồn điền đổi thửa, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất, thực hiện chuyển đổi mùa vụ, cây trồng theo định hướng cơ cấu lại
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Thông qua các hoạt động dịch vụ, nhiều
HTXNN đã tác động tích cực đến sự phát triển của kinh tế hộ thành viên, tạo điều
kiện cho kinh tế hộ phát triển; vai trò của HTXNN đối với kinh tế hộ càng rõ
hơn khi sản xuất gặp khó khăn như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, ...; những HTXNN
có dịch vụ vật tư, tín dụng nội bộ đã góp phần hạn chế tình trạng tín dụng đen ở
nông thôn.
5.2. Tình hình ứng dụng công nghệ
cao, cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản và tham
gia Chương trình OCOP của HTXNN
a) Về ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất, chế biến của HTXNN: ứng dụng công nghệ cao
là giải pháp then chốt trong phát triển nông nghiệp hiện nay. Tuy nhiên, ứng dụng
công nghệ cao, công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm
chưa được phổ biến trong giai đoạn trước 2020, chỉ có 02 HTXNN có ứng dụng công
nghệ cao vào trong canh tác, nuôi trồng rau, tảo xoắn. Một vài HTX khác có ứng
dụng kỹ thuật vào sản xuất, chế biến trồng rau, nấm.
b) Về cơ giới hóa trong nông nghiệp
Về máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất
nông nghiệp: có 637 máy làm đất, 1.379 máy phun thuốc BVTV, 969 máy gặt đập
liên hợp. Tỷ lệ cơ giới hóa các khâu trong sản xuất: làm đất 90%, phun thuốc
BVTV 45%, thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp 70%.
Về bảo quản, chế biến nông sản: Có
5.571 cơ sở ngành nghề nông thôn hoạt động sản xuất, kinh doanh trong bảo quản,
chế biến sản phẩm nông nghiệp. Các cơ sở ngành nghề đã ứng dụng công nghệ, máy
móc, thiết bị vào sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản.
c) Về tham gia Chương trình OCOP
Đến nay, toàn tỉnh có 61 sản phẩm đạt
OCOP cấp tỉnh, trong đó có 04 sản phẩm đạt 4 sao và 57 sản phẩm đạt 3 sao, đặc
biệt có một điểm du lịch cộng đồng được công nhận là 3 sao và một điểm du lịch cộng
đồng được công nhận là 4 sao. Trong đó, có 08 doanh nghiệp với 22 sản phẩm đạt
OCOP, có 12 HTX với 24 sản phẩm đạt OCOP và 11 cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh với
15 sản phẩm đạt OCOP.
5.3. Đóng góp của HTXNN tới kinh tế
hộ thành viên, xây dựng nông thôn mới
Đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có 93 xã
và 02 huyện là Nghĩa Hành và Tư Nghĩa đạt chuẩn nông thôn mới, trong các xã đạt
chuẩn nông thôn mới đều có HTX tham gia thực hiện đạt tiêu chí số 13 về tổ chức
sản xuất, HTX hoạt động có hiệu quả và theo đúng Luật HTX năm 2012.
Thực tiễn xây dựng nông thôn mới thời
gian qua cho thấy, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTXNN là chủ thể không thể
thiếu trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Hoạt động của các HTXNN đã đảm bảo
khâu dịch vụ đầu vào lẫn đầu ra mà hộ nông dân cá thể không làm được hoặc làm
nhưng không hiệu quả. Cụ thể như: cung ứng vật tư nông nghiệp; chuyển giao khoa
học kỹ thuật; liên kết trong sản xuất; chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho thành
viên. Ngoài ra, một số HTXNN cùng với chính quyền địa phương tham gia thực hiện
một số chương trình trên địa bàn như: cải tạo quy hoạch đồng ruộng, xây dựng cơ
sở hạ tầng, cơ giới hóa đồng ruộng, ... tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tổ chức, sắp xếp lại hình thức sản xuất nông nghiệp, góp phần tích cực
thực hiện tiêu chí 13 trong xây dựng nông thôn mới.
Đi cùng với đóng góp của HTX đối với
kinh tế hộ, HTX cũng đã thúc đẩy kinh tế hộ phát triển với qui mô lớn hơn, hình
thành nên kinh tế trang trại. Đến nay, cả tỉnh có 110 trang trại trên địa bàn
09 huyện, thị xã, thành phố.
5.4. Một số mô hình HTXNN nổi bật,
điển hình với cách làm mới
a) Mô hình hợp nhất quy mô thôn
thành quy mô xã
Điển hình HTX Dịch vụ nông nghiệp Tịnh
Thọ, xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh, được hình thành trên cơ sở hợp nhất từ 5 HTX
trên địa bàn xã. Trong đó có 04 HTXNN hoạt động yếu kém (HTXNN: Thọ Đông, Thọ
Nam, Thọ Bắc, Thọ Tây) và 01 HTX dịch vụ Thọ Trung hoạt động có hiệu quả thành
1 HTX quy mô toàn xã vào năm 2016.
HTX có 2.524 thành viên; lao động thường
xuyên là 11 người. Sau khi chuyển đổi, ngoài việc thực hiện tốt các dịch vụ
truyền thống như thủy lợi, tín dụng nội bộ, lâm nghiệp, HTX còn thực hiện thêm
dịch vụ mới là: Liên kết với thành viên HTX sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu
thụ các loại sản phẩm nông nghiệp điển hình là sản phẩm dầu lạc, khoai lang Nhật.
Nhờ đó, doanh thu của HTX Tịnh Thọ tăng đều qua mỗi năm, từ 2,4 tỷ đồng (năm
2016) lên 4,1 tỷ đồng (năm 2020). Lợi nhuận sau thuế là 752 triệu đồng; thu nhập
bình quân 4,3 triệu đồng/người lao động/tháng.
HTX Dịch vụ nông nghiệp Tịnh Thọ đã
phát huy được vai trò tập hợp, đoàn kết thống nhất nội bộ, thay đổi cách nghĩ,
cách làm, vận động và hướng dẫn thành viên áp dụng các phương pháp tiến bộ khoa
học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất và nhất là thể hiện ở việc thực hiện tốt
các hoạt động dịch vụ đã tạo điều kiện cho thành viên chuyển dịch cơ cấu cây trồng
vật nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm như: cung ứng các loại vật tư
nông nghiệp, hỗ trợ vốn kịp thời. HTX có các chính sách khuyến khích thành viên
sử dụng dịch vụ của HTX, trả lãi sử dụng dịch vụ, bao tiêu sản phẩm đầu ra cho
thành viên. Để đáp ứng nhu cầu của thành viên, đối với những hộ khó khăn được
HTX hỗ trợ vốn để mua vật tư. Với cách tổ chức và làm ăn của HTX đã tạo được niềm
tin của thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, ổn định chính trị tại địa phương.
b) Mô hình HTX vừa sản xuất, vừa
tiêu thụ sản phẩm
Điển hình là HTX Sản xuất và kinh
doanh nấm Đức Nhuận, xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức. HTX được thành lập từ năm
2011. Với số lượng thành viên là 19 khi mới thành lập, đến nay đã có 19 thành
viên góp vốn và 20 thành viên liên kết. Năm 2021, HTX thành lập 1 tổ hợp tác chế
biến có 11 thành viên và dự kiến phát triển lên thành doanh nghiệp trực thuộc
HTX.
Hiện nay, HTX đảm nhận 2 dịch vụ
chính gồm: Sản xuất bịch phôi để cung cấp cho thành viên và bao tiêu sản phẩm.
Sơ chế, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nấm bào ngư và nấm linh chi.
Điểm nổi bật của HTX: HTX thực hiện
các chính sách đối với người lao động; ký hợp đồng cung cấp nguyên liệu, hướng
dẫn kỹ thuật, cũng như bao tiêu sản phẩm; đóng góp vốn điều lệ theo quy định,
do vậy thành viên của HTX hàng năm đều tăng.
HTX đã được hưởng hỗ trợ: hướng dẫn
xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
dây chuyền đồng bộ sản xuất trà túi lọc nấm Linh Chi, cơ sở hạ tầng, nhờ đó HTX
ngày càng phát triển. HTX đã sản xuất thành công các sản phẩm như: Nấm Linh
chi, nấm Bào ngư và chế biến các sản phẩm từ Nấm: Trà Linh chi túi lọc, rượu
Linh chi, bột nêm nấm Bào ngư, .... các sản phẩm của HTX được đánh giá phân hạng
OCOP 4 sao cho nấm Linh chi và 5 sản phẩm 3 sao.
5.5. Một số mô hình HTX sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
- 11 HTX tham gia chuỗi giá trị cây
lâm nghiệp: HTXNN Hành Dũng, HTXNN Hành Nhân, HTXNN Bình Hiệp, HTXNN Bình
Trung, HTXNN Bình Khương, HTXNN Bình Thanh Đông, ...
- HTXNN Bình Dương với sản phẩm ớt
trái, tạo kết nối với các nhà tiêu thụ và tổ chức sản xuất cho thành viên.
- HTXNN Phổ Châu với sản phẩm rượu nếp
ngự Sa Huỳnh.
Ngoài ra, một số HTX mới thành lập
như: HTX chăn nuôi thỏ Quảng Ngãi và một số HTX ở huyện Sơn Hà đã xây dựng được
chuỗi liên kết sản xuất với BigC (rau rừng, gà kiến, ...), cung cấp thỏ vào các
nhà hàng, ... Đây còn là những mô hình khởi nghiệp của nhiều bạn trẻ ở nông
thôn.
(Phụ
lục số: I)
III. KẾT QUẢ TRIỂN
KHAI THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ, ƯU ĐÃI NHÀ NƯỚC VỀ HTXNN
1. Chính sách
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu Quốc
gia xây dựng nông thôn mới và vốn ngân sách tỉnh được UBND tỉnh phân bổ hàng
năm, đã thực hiện bồi dưỡng nguồn nhân lực theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày
15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ với kinh phí thực hiện từ 2017 - 2020 gần
3.600 triệu đồng cho trên 2.800 lượt người (trong đó có thí điểm mô hình đưa 05
cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học về làm việc có thời hạn ở 05 HTX theo Quyết định
số 488/QĐ-UBND ngày 06/6/2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi với tổng kinh phí hơn
500 triệu đồng). Ngoài ra, theo Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 13/01/2014 của
UBND tỉnh, đã đào tạo đại học cho cán bộ HTX và hỗ trợ 500 ngàn đồng/tháng cho
hơn 30 cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học về làm việc tại HTX.
Các đối tượng trong HTX tham gia đào
tạo, bồi dưỡng gồm các chức danh trong hội đồng quản trị, giám đốc, ban giám đốc,
ban kiểm soát, kế toán; cán bộ chuyên môn, kỹ thuật, thành viên của HTX. Cán bộ
quản lý, kỹ thuật đang công tác tại các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Nội dung các lớp đào tạo, tập huấn: kỹ
năng nghiệp vụ tổ chức, quản lý HTX, tâm lý quản lý và nghệ thuật lãnh đạo HTX,
xây dựng chiến lược và lập kế hoạch kinh doanh đa dịch vụ trong HTX, quản trị
tài chính và nghệ thuật huy động vốn trong HTX, nghiệp vụ tài chính - kế toán,
phân tích thị trường nông sản - liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, vai trò của
HTX trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, xây dựng Phương án sản xuất kinh
doanh,... đã góp phần nâng cao trình độ, kiến thức và năng lực quản lý cho đội
ngũ cán bộ quản lý HTX.
Đặc biệt, lớp bồi dưỡng giám đốc
HTXNN: có 45 học viên thuộc 37 HTXNN ở trên địa bàn 8 huyện và thành phố Quảng
Ngãi, với độ tuổi dưới 45, trình độ cao đẳng trở lên tham gia. Lớp bồi dưỡng đã
trang bị cho học viên hệ thống kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực tế về quản
lý, điều hành HTX một cách toàn diện, làm nền tảng cho tư duy phát triển HTX của
cá nhân học viên; ngoài ra, các học viên đã trao đổi, tương tác về các hoạt động
dịch vụ của chính HTX mình, cùng sẻ chia một số kinh nghiệm, kiến thức trong
phát triển HTX với nhau, tạo tiền đề cho sự liên kết, hỗ trợ giữa các HTX.
Mặc dù chính sách đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực cho HTXNN đã có nhiều chuyển biến nhưng số lượng cán bộ, thành viên
HTX được đào tạo, bồi dưỡng còn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số cán bộ, thành
viên HTX cả tỉnh, trong khi nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng còn rất lớn.
Ngoài ra, việc thực hiện thí điểm mô
hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở
HTXNN đã giúp các HTX thực hiện tốt công tác về kế toán, kỹ thuật, hướng dẫn
thành viên áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật qua đó nâng cao chất lượng hoạt động
của HTX. Tuy nhiên, hoạt động hỗ trợ thí điểm này chỉ diễn ra trong thời gian
ngắn, ít HTXNN được hỗ trợ so với nhu cầu thực tế. Sau khi kết thúc hỗ trợ thí
điểm, một số HTX không đủ kinh phí trả lương như ngân sách Nhà nước đã hỗ trợ,
môi trường HTX chưa đủ sức hút cho cán bộ trẻ, có năng lực gắn bó lâu dài, chưa
tạo đòn bẩy hỗ trợ cho các HTX nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như thay đổi tư
duy, cách làm mới và tạo cơ hội để thế hệ trẻ gắn bó với sản xuất nông nghiệp,
nông thôn.
2. Chính sách
duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động HTXNN
Thực hiện Kế hoạch số 128/KH-UBND
ngày 17/10/2018 của UBND tỉnh Quảng Ngãi. Trong giai đoạn 2019 - 2020 đã hỗ trợ
tập huấn, tư vấn cho 54 HTX với tổng kinh phí trên 3.600 triệu đồng, trong đó:
- Hỗ trợ, tư vấn củng cố, tổ chức lại
HTX nhằm duy trì, nâng cao chất lượng của các HTX đang hoạt động yếu, kém để đạt
tiêu chí có hiệu quả. Có 6 HTX được tư vấn hỗ trợ với kinh phí 983 triệu đồng.
- Tập huấn, hướng dẫn và hỗ trợ các
HTX rà soát, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trong đó tập
trung vào các nội dung: mở rộng một số dịch vụ có thế mạnh ở địa phương để nâng cao hiệu quả hoạt động; Đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa, lựa chọn cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao đưa vào sản xuất;
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là sản xuất và tiêu thụ
theo chuỗi giá trị. Có 48 HTX được hỗ trợ với kinh phí trên 2.600 triệu đồng.
Qua quá trình hướng dẫn, tuyên truyền,
tập huấn về các quy trình xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, cán bộ quản
lý HTX và phần đông thành viên đã hiểu rõ hơn sự khác biệt giữa HTX “kiểu cũ”
và HTX “kiểu mới”, bản chất của mô hình HTX “kiểu mới” là liên kết sản xuất dựa
trên nền tảng kinh tế hộ gia đình, góp phần gia tăng giá trị kinh tế hộ gia
đình, chứ không triệt tiêu vai trò của kinh tế hộ. Hiểu rõ vai trò của thành
viên trong việc xây dựng và phát triển HTX của chính mình, do mình đồng sở hữu,
quyền lợi luôn gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của thành viên. Từ đó, thành
viên hiểu rõ hơn về thực trạng HTX của mình, hiểu được vai trò, trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ đối với HTX.
Kết quả rà soát cho thấy, hầu hết
HTXNN được hỗ trợ duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động đã áp dụng những kiến
thức đã được tập huấn, tư vấn, hướng dẫn, tự lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
ngắn hạn cho HTX, từng bước nâng cao năng lực về công tác tổ chức điều hành,
kinh doanh hiệu quả, cải thiện chất lượng HTX yếu kém, trung bình, nâng số lượng
HTX khá tốt với mô hình HTX đa dạng, ngành nghề kinh doanh phù hợp, đáp ứng nhu
cầu thị trường.
Mặc dù công tác hỗ trợ duy trì nâng
cao chất lượng hoạt động của HTX trong thời gian qua đạt được một số kết quả nhất
định, tuy nhiên, việc hỗ trợ duy trì nâng cao chất lượng hoạt động HTX vẫn còn
ít so với nhu cầu của HTX, số lượng HTX hoạt động trung bình và yếu vẫn còn nhiều
(120 HTX trung bình, tỷ lệ 58,54%; 19 HTX yếu, tỷ lệ 9,27%).
3. Chính sách ứng
dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới
Năm 2020, thực hiện chương trình phát
triển ngành nghề nông thôn, đã thực hiện hỗ trợ các dây chuyền, thiết bị đồng bộ
sản xuất cho 05 HTX: rượu nếp ngự Sa Huỳnh (HTXNN Phổ Châu, thị xã Đức Phổ);
trà túi lọc nấm linh chi (HTX sản xuất và kinh doanh nấm Đức Nhuận, huyện Mộ Đức);
tỏi bóc vỏ (HTXNN Sinh thái Lý Sơn, huyện Lý Sơn); ép dầu phụng (HTX DVNN Phổ
Nhơn, thị xã Đức Phổ và HTXNN Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh) với tổng kinh phí 974
triệu đồng.
Mặc dù cơ chế, chính sách về khoa học,
kỹ thuật và công nghệ cơ bản đầy đủ nhưng chưa có chính sách đặc thù đối với
HTX, các HTX được thụ hưởng giống như các thành phần kinh tế khác nên số lượng
HTX được hưởng chính sách này còn ít. Nguồn ngân sách hỗ trợ HTX trong lĩnh vực
này còn hạn chế.
4. Quỹ hỗ trợ
phát triển HTX
Năm 2016, UBND tỉnh đã thành lập Quỹ
hỗ trợ phát triển HTX nhằm mục đích trợ giúp HTX, thành viên HTX có vốn để hoạt
động và phát triển sản xuất kinh doanh. Tổng số vốn đã bố trí là 19.000 triệu đồng,
đã có 01 HTXNN Hòa Phú Thịnh vay được số tiền gần 1.500 triệu đồng. Hiện Quỹ
đang tiếp nhận hồ sơ và giải quyết cho vay đối với các HTX có nhu cầu.
5. Chính sách tạo
điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội
Hằng năm, ngân sách tỉnh đã cân đối
kinh phí để xây dựng, sửa chữa một số công trình hạ tầng trong nông nghiệp,
nông thôn và UBND một số xã đã tạo điều kiện thuận lợi cho một số HTX thi công
các công trình bê tông hóa giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương nội đồng.
Tổng kinh phí đã thực hiện là 10.700 triệu đồng.
6. Chính sách hỗ
trợ thành lập mới HTX
Bằng nguồn vốn Chương trình Tái cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư
theo Quyết định 923/QĐ-TTg ngày 28/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ và Chương
trình MTQG xây dựng nông thôn mới đã quan tâm, hỗ trợ thành lập mới một số HTX,
với tổng kinh phí: 563 triệu đồng. Nội dung cơ bản của hỗ trợ thành lập mới:
cung cấp thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về phát triển HTX; hướng dẫn, vận động người dân tham gia thành lập mới các HTX
trên cơ sở xác định những tiềm năng, lợi thế của địa phương, ngành nghề sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, hướng dẫn cho các sáng lập viên trong công tác chuẩn bị để
hình thành HTX.
Trong giai đoạn 2016 - 2021 số lượng
HTX thành lập tăng hơn so với giai đoạn trước (84 HTX). Một số HTX thành lập mới
hoạt động có hiệu quả. Thông qua HTX, đời sống của thành viên và người lao động
trong HTX được tăng lên đáng kể, từng bước cải thiện kinh tế hộ thành viên, góp
phần xóa đói, giảm nghèo tại cộng đồng, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của
HTX đối với nông dân.
Tuy nhiên, các HTX phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, đa số HTX thành lập với quy mô nhỏ, năng lực nội tại
yếu, không đóng góp vốn điều lệ theo quy định hoặc đóng góp không đủ, khó khăn
về cơ sở vật chất, dẫn đến khó đáp ứng được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
HTX. Vẫn còn nhiều HTX thành lập hình thức, không xuất phát từ nhu cầu thực tế
của người dân và địa phương, còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước,
không chú trọng đến việc tư vấn, vận động thành viên tham gia vào HTX, số lượng
thành viên tham gia vào HTX ít (có 18 HTX có 07 thành viên), chưa thể hiện được
tính cộng đồng.
7. Chính sách hỗ
trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
Tổng kinh phí đã hỗ trợ đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng là 45.883,944 triệu đồng cho 33 HTXNN, trong đó:
- Ngân sách tỉnh: năm 2017, đã hỗ trợ
cho 02 HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ (Phổ Quang và Phổ Thạnh, huyện
(nay là thị xã) Đức Phổ) theo Quyết định số 33/2015/QĐ-UBND ngày 27/7/2015 của
UBND tỉnh, với tổng kinh phí: 1.739,944 triệu đồng.
- Ngân sách Trung ương: hỗ trợ theo
Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ, đã hỗ trợ
cho 31 HTXNN, với tổng mức đầu tư: 55.180 triệu đồng, trong đó, ngân sách Trung
ương hỗ trợ 80%: 44.144 triệu đồng. Đến nay, đã hoàn thành đưa vào sử dụng 09
nhà kho (1.400 m2), 09 sân phơi (3.400 m2), 05 cửa hàng vật
tư (860 m2), 04 xưởng sơ chế (1.200 m2), 24,831 km kênh
mương, 06 trạm bơm và 01 đập tưới cho 410 ha, 01 công trình cấp nước cho 600 hộ,
....
Tuy nhiên, chính sách này chậm triển
khai trong thực tế do thiếu nguồn vốn đầu tư (Quyết định số 2261/QĐ-TTg được
ban hành ngày 15/12/2014 nhưng đến năm 2019 mới được bố trí kinh phí hỗ trợ). Số
lượng HTX được thụ hưởng chính sách rất ít, các dự án hỗ trợ có quy mô nhỏ. Nguồn
vốn được bố trí từ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới nên rất hạn chế về
nguồn vốn.
8. Chính sách
giao đất, cho thuê đất
Chính sách giao đất, cho thuê đất, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất cho HTXNN để xây dựng trụ sở, sân phơi, nhà kho; xây dựng các cơ sở dịch
vụ trực tiếp (trạm bơm, kênh mương, điện, đường, khu để máy móc thiết bị) phục
vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; thuê đất để
sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh được triển khai thực hiện. Đến năm
2019, có khoảng 130 HTXNN đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
9. Chính sách ưu
đãi về tín dụng
Chính sách hỗ trợ tín dụng thực hiện
theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn và Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/09/2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi
nhánh Quảng Ngãi dư nợ cho vay đối với HTXNN còn rất ít, đến cuối tháng 8/2021
có 02 HTX được vay vốn Ngân hàng với tổng dư nợ là 3.072 triệu đồng, chiếm
0,0054% tổng dư nợ toàn tỉnh. Nguyên nhân: quy mô hoạt động của HTX nhỏ, thường
sử dụng vốn tự có là chủ yếu, không có nhu cầu vay vốn tín dụng để phục vụ sản
xuất, đối với các HTX có nhu cầu vay thì tổ chức bộ máy chưa được hoàn chỉnh,
không có tài sản đảm bảo thế chấp, phương án sản xuất kinh doanh thiếu tính khả
thi, hiệu quả.
Ngoài ra, thông qua Chính sách hỗ trợ
phát triển hợp tác xã dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi, năm 2018 ngân sách tỉnh đã hỗ trợ tín dụng cho 01 HTX (HTX dịch vụ và
khai thác hải sản xa bờ xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ (nay là thị xã Đức Phổ)) với
số tiền lãi suất vay là: 226,55 triệu đồng.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Kết quả đạt
được
Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương,
UBND tỉnh đã ban hành các quy định, chính sách, hướng dẫn thực hiện nhằm hỗ trợ,
tạo điều kiện cho HTX phát triển.
Nhận thức của hệ thống chính trị và
người dân về HTX kiểu mới từng bước được nâng lên, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, xã hội và chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. HTX đã có bước phát triển mới về chất và lượng, đã khắc phục được
tình trạng yếu kém kéo dài và ngày càng khẳng định được tiềm năng, triển vọng
phát triển.
Việc chuyển đổi, tổ chức lại các HTX
theo quy định của Luật HTX 2012 cơ bản được hoàn thành. Qua củng cố, tổ chức lại
nhiều HTX đã được kiện toàn lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới; một
số HTX đã được mở rộng thêm nhiều dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của thành viên trong
một số khâu dịch vụ đầu vào của sản xuất. Các HTX đã rà soát lại thành viên,
xác định lại vốn góp và huy động thêm được vốn góp mới của thành viên. Số HTX sản
xuất, kinh doanh có lãi tăng, số HTX yếu kém giảm. Bên cạnh việc chuyển đổi, tổ
chức lại HTX, công tác vận động hướng dẫn thành lập mới HTX cũng có kết quả nhất
định, nhiều HTX được thành lập mới.
Nhiều địa phương đã chủ động thực hiện
hợp nhất HTX quy mô thôn hoạt động kém hiệu quả thành HTX có quy mô toàn xã để
có điều kiện hoạt động tốt hơn; đã mạnh dạn giải thể một số HTX yếu kém, chỉ tồn
tại trên hình thức. Qua tổ chức lại, nhiều HTXNN trên địa bàn tỉnh đã được củng
cố, kiện toàn lại bộ máy quản lý để phù hợp với tình hình mới.
Thông qua các hoạt động dịch vụ, nhiều
HTXNN đã tác động tích cực đến sự phát triển của kinh tế hộ thành viên, tạo điều
kiện cho kinh tế hộ phát triển; vai trò của HTXNN đối với kinh tế hộ càng rõ
hơn khi sản xuất gặp khó khăn như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, ... HTXNN là đầu
mối quan trọng trong việc tổ chức thực hiện dồn điền đổi thửa, ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện chuyển đổi mùa vụ, cây trồng theo định hướng
cơ cấu lại nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Đã xuất hiện một số mô hình HTX kiểu
mới, hoạt động có hiệu quả, có liên kết sản xuất và là mô hình khởi nghiệp của
thanh niên ở nông thôn.
2. Tồn tại, hạn
chế
2.1. Về pháp luật, cơ chế, chính
sách
Sự quan tâm, vào cuộc hỗ trợ KTTT,
HTX của cấp ủy, chính quyền ở một số địa phương chưa cao; một số cơ chế chính
sách để phát triển KTTT, HTX được trung ương, tỉnh ban hành chưa đến được các
HTX.
Luật HTX năm 2012, các cơ chế, chính
sách về HTX đã ban hành, song việc tiếp cận các chính sách còn hạn chế như
chính sách về tín dụng, đất đai hoặc chậm được tiếp cận như chính sách hỗ trợ đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của
Thủ tướng Chính phủ, đến 2019 HTX mới được hỗ trợ.
Việc phân loại, đánh giá HTX hiện nay
chưa thống nhất, địa phương còn lúng túng trong cách triển khai thực hiện.
Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc phân
loại, đánh giá đối với HTXNN. Cụ thể Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày
17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thông tư số
01/2020/TT-BKHĐT ngày 19/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn
phân loại, đánh giá HTX (bao gồm HTXNN), hai Thông tư này đưa ra các tiêu chí
không đồng nhất, cách thức đánh giá và thời gian thực hiện không giống nhau.
2.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật,
cơ chế, chính sách
HTXNN chưa thoát khỏi cơ chế quản lý,
điều hành theo mô hình HTX kiểu cũ, việc thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật Hợp
tác xã 2012 chậm thay đổi về chất, chưa thay đổi được bản chất của HTX.
Luật HTX 2012 đã có hiệu lực thi hành
nhưng các Bộ, ngành trung ương thể chế hóa còn chậm dẫn đến hiệu lực thi hành
Luật chưa cao.
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với
tổ chức HTX chưa đáp ứng với nhu cầu hỗ trợ của HTX; nhiều chính sách chậm triển
khai thực hiện, chưa có tính khả thi cao và chưa tạo động lực thúc đẩy HTX phát
triển.
2.3. Về thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về HTX
Việc quản lý nhà nước về kinh tế tập
thể, HTX đôi lúc còn chồng chéo: ở tỉnh giữa Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn và Liên minh HTX tỉnh; ở huyện giữa phòng Tài Chính - Kế hoạch và Phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ở xã, hầu như chưa có bộ phận theo dõi hoạt
động của các HTX trên địa bàn.
Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về
HTX còn thiếu và yếu, phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi nên
khó khăn trong công tác tích lũy kiến thức chuyên ngành về HTX, cũng như bồi dưỡng
nghiệp vụ quản lý nhà nước về HTX. Hệ thống số liệu cơ bản về HTX chưa đầy đủ
và chính xác, độ tin cậy chưa cao nên hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về
HTX còn nhiều bất cập. Mặt khác, do thiếu cán bộ chuyên trách mà công tác phối
hợp hoạt động hỗ trợ cho HTX giữa các cơ quan quản lý nhà nước gặp khó khăn, không
kịp thời.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất, thậm chí có nơi, có lúc chưa đúng về
bản chất của tổ chức HTX, vai trò và tính tất yếu khách quan của phát triển HTX
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều đó dẫn
đến tình trạng buông lỏng quản lý hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động và
quan hệ nội bộ của HTX, chưa nhìn nhận HTX là tổ chức kinh tế tự chủ của người
dân, vẫn xem HTX là công cụ của chính quyền địa phương trong các hoạt động hành
chính và xã hội. Những can thiệp hành chính sai luật đã làm HTX mất tính chủ động,
linh hoạt trong sản xuất, dịch vụ, mở rộng những hoạt động sản xuất phục vụ
thành viên, HTX không còn là tổ chức kinh tế tự chủ như quy định của Luật HTX.
2.4. Về bản thân HTX
Nhiều HTXNN chưa thực hiện đầy đủ quy
định của Luật Hợp tác xã năm 2012 và hoạt động theo đúng bản chất của HTX; vẫn
còn nhiều HTX không tổ chức đại hội thường niên, đại hội nhiệm kỳ theo đúng quy
định.
Năng lực nội tại của hợp tác xã còn yếu
hiệu quả hoạt động chưa cao, mô hình tổ chức lỏng lẻo, chưa phù hợp. Phần lớn
HTXNN có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, năng lực cạnh tranh, lợi
ích mang lại cho thành viên thấp; tính liên kết trong nội bộ HTX còn rất yếu; vấn
đề nợ của HTX, tình trạng chiếm dụng vốn chưa được xử lý dứt điểm. Tài sản, vốn
quỹ của HTX ít được đầu tư, bổ sung, vốn lưu động của các HTX chiếm tỷ trọng thấp,
hầu hết các HTX chưa tiếp cận được vốn tín dụng thương mại; cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ sản xuất - kinh doanh không còn phù hợp với tình hình mới, thiếu
điều kiện nâng cấp hoặc đầu tư xây dựng mới.
Đa số cán bộ quản lý, điều hành HTX
tương đối lớn tuổi, công tác điều hành HTXNN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và chỉ
đạo của chính quyền địa phương nên đôi khi hoạt động của HTX thiếu tính chủ động,
tự chủ. Tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo còn nhiều, thường xuyên biến động do bị
điều động công tác của chính quyền địa phương hoặc chuyển qua làm ở các thành
phần kinh tế khác.
Công tác chuyển đổi Luật HTX năm 2012
còn nhiều hình thức, nhiều hợp tác xã chuyển đổi, tổ chức lại mang tính hình thức,
chưa thực sự chuyển biến về chất. Một số HTX tổ chức và hoạt động chưa tuân thủ
đầy đủ các quy định của Luật HTX; các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối
trong nhiều HTX chưa đúng quy định. Một số HTX chuyển đổi còn hình thức, chưa đảm
bảo đầy đủ yêu cầu của Luật HTX và đòi hỏi phát triển của HTX; nhiều HTX không
huy động được nguồn lực từ chính thành viên của mình; tính bền vững và ổn định
trong HTX chưa cao. Đồng thời, một số HTXNN thành lập không đúng bản chất HTX
theo luật quy định, chủ yếu là để hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Phần lớn HTXNN chưa thay đổi phương
thức hoạt động, tư duy còn nặng về hành chính, bao cấp. Đa số HTXNN mới tập
trung cho dịch vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như: thủy lợi nội đồng, cung
ứng giống, vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật, .... Nhiều dịch vụ quan trọng
khác như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm. Việc liên kết
và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân gặp nhiều khó khăn. HTX gặp khó khăn trong định
hướng sản xuất kinh doanh; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên nên
hiệu quả hoạt động của HTXNN còn nhiều hạn chế, lợi ích mang lại cho thành viên
chưa cao nên người nông dân chưa nhiệt tình tham gia, chưa coi HTX là “nhà của
mình”. Người nông dân đa số vẫn phải “tự làm, tự bán”, dẫn đến rủi to cao trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Việc liên kết giữa nông dân, HTX,
doanh nghiệp để tổ chức sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiêu thụ
sản phẩm nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, số HTX tham gia liên kết sản xuất
theo chuỗi giá trị với doanh nghiệp còn ít. Trong khi đó, nhu cầu doanh nghiệp
liên kết với HTX là rất lớn, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn phải liên kết trực tiếp
với các chủ trang trại, hộ nông dân để thu mua, tiêu thụ nông sản.
Việc củng cố, phát triển hoặc giải thể
các HTX hoạt động yếu kém cũng chưa được thực hiện triệt để và hiệu quả. Một số
địa phương đã thực hiện chuyển đổi và đăng ký lại hoạt động của các HTX nhưng kết
quả không được như mong muốn. Ngoài tiến độ chậm vẫn còn tình trạng thực hiện
đăng ký lại hoạt động của các HTX một cách hình thức nên tình trạng "bình
mới, rượu cũ" vẫn tiếp tục diễn ra.
Số HTX thành lập không hoạt động hoặc
hoạt động kém hiệu quả còn khá phổ biến, số HTX yếu kém giảm chậm, tỷ lệ HTX hoạt
động sản xuất kinh doanh có lãi tăng nhưng mức lãi thấp và không có khả năng
tích lũy và không huy động được vốn góp từ thành viên của mình, do vậy không có
khả năng tích lũy để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhiều HTX
hoạt động cầm chừng, nguồn thu không đáng kể, không đủ chi phí cho bộ máy quản
lý HTX.
Môi trường hoạt động của HTX không
thu hút được cán bộ giỏi, cán bộ trẻ. Dẫn đến HTX còn nhiều lúng túng trong tổ
chức quản lý, điều hành và xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, hạn chế
trong việc tiếp cận thị trường, số HTX có mối liên kết sản xuất, tiêu thụ với
các doanh nghiệp còn ít. Đây là những lực cản nội lực rất lớn, hạn chế sự phát
triển của HTX.
Công tác kế toán, tài chính của HTX
chưa được thực hiện nghiêm túc, do đó chế độ báo cáo của HTX chưa được thường
xuyên và đúng quy định; việc xây dựng báo cáo tài chính và phương án sản xuất
kinh doanh nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2016 -
2021, số lượng HTXNN được thành lập mới tăng mạnh, tuy nhiên đa số các HTX được
thành lập ở địa bàn các huyện miền núi, với đặc thù địa hình, phong tục và điều
kiện kinh tế còn khó khăn, khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến chủ
trương, chính sách phát triển HTX còn hạn chế. Nhiều HTX xây dựng phát triển
chưa quan tâm đến chiều sâu, theo các nguyên tắc của HTX. Phần lớn các HTX này
thành lập nhằm mục tiêu đạt tiêu chí 13 trong xây dựng nông thôn mới, số lượng
thành viên ít, tính cộng đồng chưa cao, Ban sáng lập viên chưa được tập huấn, bồi
dưỡng về công tác tuyên truyền vận động người dân tham gia HTX, khả năng xây dựng
phương án sản xuất kinh doanh còn hạn chế.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân khách quan
KTTT, HTX là tổ chức kinh tế hợp tác
tập hợp những thành viên đa số là những hộ nông dân cùng hợp tác tương trợ lẫn
nhau trong sản xuất kinh doanh mà kinh tế hộ đơn lẻ không thể làm được để nâng
cao khả năng cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong nền kinh tế thị trường. Bởi vậy,
HTX còn nhiều hạn chế về quy mô sản xuất kinh doanh, trình độ quản trị, trình độ
khoa học và công nghệ, vốn và thị trường nên rất cần có sự hỗ trợ của nhà nước
để đảm bảo phát triển bền vững.
Cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh về
phát triển kinh tế HTX thời gian qua còn chưa đủ mạnh và HTX còn trông chờ, ỷ lại,
phần lớn chưa có phương án hoạt động, đầu tư hiệu quả để được hỗ trợ; tiềm lực
kinh tế của tỉnh còn hạn chế nên có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế HTX.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức về kinh tế KTTT, HTX của một
số cán bộ, đảng viên và người dân chưa thống nhất, còn tâm lý mặc cảm với HTX
kiểu cũ, thiếu tin tưởng vào sự phát triển của HTX kiểu mới, chưa thấy hết vai
trò quan trọng của khu vực kinh tế HTX, thậm chí chưa hiểu đúng bản chất, vị
trí, vai trò, nguyên tắc hoạt động của HTX. Một số địa phương thiếu quan tâm
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế HTX gắn với phát triển
kinh tế địa phương.
Chính sách hỗ trợ phát triển HTX của
trung ương, của tỉnh chưa thực hiện đầy đủ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của HTX. Nguồn kinh phí đầu tư hỗ trợ phát triển HTX còn thấp.
Sự hỗ trợ của nhà nước chưa đủ mạnh để thúc đẩy kinh tế HTX phát triển.
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
HTX từ tỉnh đến xã đa số cán bộ làm kiêm nhiệm, do vậy công tác tham mưu cho
UBND tỉnh xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch về phát triển kinh tế HTX
chưa đáp ứng yêu cầu. Các sở, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức trong việc
bố trí biên chế thực hiện nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực kinh tế HTX.
Trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực
tiễn của cán bộ quản lý HTX còn nhiều hạn chế. Đa số cán bộ quản lý HTX chưa
qua đào tạo, một số cán bộ có trình độ chuyên môn còn hạn chế về năng lực thực
tiễn, năng lực triển khai.
Các HTX chưa có giải pháp khắc phục
khó khăn, phát huy nội lực, bổ sung vốn hoạt động, để vươn lên, chưa đổi mới nhận
thức về HTX kiểu mới, còn nặng tư duy HTX kiểu cũ, tư tưởng còn trông chờ sự hỗ
trợ của Nhà nước, thành viên HTX chưa hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm trong
công việc xây dựng, phát triển HTX.
4. Bài học kinh
nghiệm
Một là,
nhận thức đúng, thống nhất về vị trí, vai trò, bản chất, nguyên tắc hoạt động của
kinh tế HTX có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế HTX. Thực tế cho thấy,
những nơi làm tốt đều xuất phát từ việc nhận thức rõ về vị trí, vai trò của
kinh tế HTX thông qua việc quán triệt quan điểm đến việc triển khai hành động.
Hai là,
có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, nhất
là vai trò của người đứng đầu. Thực tế cho thấy, những địa phương có kinh tế
HTX phát triển đều có sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính
quyền địa phương.
Ba là, tỉnh
có cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh để hỗ trợ phát triển kinh tế HTX. Trên cơ
sở thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ HTX do trung ương quy định, những năm
qua tỉnh đã ban hành nhiều chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển HTX, nhờ đó
kinh tế HTX trên địa bàn tỉnh không ngừng được củng cố và phát triển, ngang tầm
với các tỉnh bạn trong cả nước.
Bốn là,
phát triển kinh tế HTX phải phù hợp với điều kiện thực tiễn và nhu cầu hợp tác ở
từng địa phương, tôn trọng các quy luật khách quan, không gò ép nhưng cũng
không buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện; chú trọng tổng kết
nhân rộng mô hình hiệu quả nhưng không rập khuôn máy móc.
Năm là,
phát triển HTX phải dựa vào nội lực của thành viên là chính. Mỗi HTX, mỗi thành
viên cần nỗ lực, học hỏi, liên kết và hợp tác, tìm hướng đi mới, phù hợp với bối
cảnh mới. Cán bộ HTX cần tuân thủ đúng các nguyên tắc hoạt động, tạo được lòng
tin đối với thành viên và người lao động. Những HTX có đội ngũ cán bộ giỏi,
năng động, tâm huyết, nhiệt tình; biết chủ động xây dựng phương án, kế hoạch sản
xuất kinh doanh khả thi sẽ phát huy được nội lực, huy động được vốn góp thành
viên, HTX đó sẽ hoạt động hiệu quả. HTX nào hoạt động hiệu quả, đời sống thành
viên ngày càng được nâng lên, thì đó là biện pháp tuyên truyền vận động hiệu quả
nhất để đông đảo nhân dân tham gia vào HTX của mình.
Phần III
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN HTXNN GIAI ĐOẠN 2022 - 2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
I. QUAN ĐIỂM
1. Tiếp tục khẳng định KTTT, nòng cốt
là HTX là một trong bốn thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế tập thể không ngừng được củng cố, phát triển, góp phần phát triển nhanh
và bền vững trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Xác định phát triển HTXNN phải dựa
vào nội lực là chính, nhà nước hỗ trợ về mặt thể chế, cơ chế chính sách và một
phần ngân sách Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho HTX phát triển. Đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các HTX, liên kết rộng rãi các hộ nông
dân, người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; bảo đảm lợi ích của thành viên.
Khuyến khích phát triển HTXNN một cách vững chắc, hiệu quả, bảo đảm vai trò làm
chủ thực sự của thành viên và hoạt động vì lợi ích của thành viên; hoạt động
theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi
và quản lý dân chủ, giải tỏa tâm lý e ngại về mô hình HTXNN kiểu cũ.
3. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của HTXNN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. HTXNN cần nắm bắt cơ hội,
chủ động nâng cao năng lực quản lý; HTXNN quy mô nhỏ thì kết nạp thêm thành
viên, tăng cường khả năng huy động vốn để tạo ra quy mô lớn hơn hoặc các HTXNN
nhỏ liên kết hay hợp nhất lại với quy mô lớn hơn để tạo ra sức mạnh tập thể, đẩy
mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới có đủ năng lực tham gia vào chuỗi giá trị
nông sản, giúp cho kinh doanh của các HTXNN hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn.
4. Phát triển HTXNN phù hợp với quy
luật khách quan, quan tâm đổi mới sáng tạo và đẩy mạnh chuyển đổi số. Chuyển đổi
số được xác định là xu hướng tất yếu để các HTXNN phát triển theo hướng bền vững,
hiệu quả. Thông qua việc sử dụng mạng xã hội, xây dựng website, tham gia vào
sàn giao dịch thương mại điện tử, ... các HTXNN sẽ có nhiều cơ hội để quảng bá,
giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình.
5. Kiên quyết giải thể dứt điểm các
HTXNN yếu kém; khuyến khích hợp nhất, sáp nhập những HTXNN quy mô thôn thành
quy mô toàn xã; phát triển, hình thành các HTXNN kiểu mới gắn với chuỗi giá trị,
phù hợp với cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển thế mạnh
ở địa phương theo Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), phát triển du lịch cộng
đồng....
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển KTTT nói chung, HTXNN nói
riêng trong thời gian tới là sớm khắc phục các yếu kém, hạn chế hiện nay, tiếp
tục củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN góp phần tạo việc
làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an
sinh xã hội, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của KTTT, HTXNN trong nền kinh
tế. Thu hút đại bộ phận nông dân tham gia HTXNN và huy động ngày càng nhiều các
tổ chức, doanh nghiệp tham gia liên kết với HTXNN. Tăng cường hoạt động hỗ trợ
các HTXNN nhằm nâng cao năng lực sản xuất, sức cạnh tranh và khả năng thích
nghi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ 4
và biến đổi khí hậu.
Phát triển đa dạng các mô hình HTXNN
phù hợp với đặc thù, điều kiện của địa phương, trình độ phát triển và nhu cầu của
nông dân; không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; tập trung làm tốt các dịch
vụ đầu vào, nhưng quan trọng là phải thực hiện được dịch vụ đầu ra phục vụ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên. Ưu tiên phát triển các HTXNN
quy mô lớn gắn với vùng nguyên liệu và liên kết chuỗi giá trị ngành hàng nông sản;
sản xuất kinh doanh sản phẩm OCOP, các sản phẩm đặc trưng của địa phương; ứng dụng
các tiêu chuẩn, quy chuẩn sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông
minh; đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh củng cố, nâng cao năng lực tổ
chức và hoạt động của lĩnh vực HTXNN trên địa bàn tỉnh; tập trung các nguồn lực
hỗ trợ nhằm nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm của HTXNN; tăng cường năng lực
của các tổ chức HTXNN nhằm phát huy hơn nữa vai trò liên kết, hợp tác đa dạng.
2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025
- Thành lập mới 30 - 40 HTXNN; thu
hút thêm khoảng 8.000 thành viên tham gia vào tổ chức HTXNN; thành lập mới 01
liên hiệp HTXNN.
- Phấn đấu tăng số HTXNN hoạt động hiệu
quả (tốt, khá) đạt khoảng 60% trên tổng số HTXNN của tỉnh.
- Phấn đấu 40% cán bộ HTXNN có trình
độ cao đẳng trở lên; 60% cán bộ HTX tham gia khóa đào tạo sơ cấp nghề giám đốc;
phấn đấu 20% HTXNN sử dụng công nghệ số, áp dụng phần mềm trong kế toán, quản
trị, bán hàng.
- Tăng cường hỗ trợ đưa người lao động
có trình độ cao đẳng trở lên về làm việc ở HTXNN, phấn đấu trong giai đoạn đưa
30 người về làm về tại HTXNN trong tỉnh.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao
trong lĩnh vực nông nghiệp, phấn đấu đến năm 2025 cả tỉnh có 5% HTXNN ứng dụng
công nghệ cao vào sản xuất.
- Tăng cường liên kết theo chuỗi giá
trị giữa doanh nghiệp và hợp tác xã, phấn đấu có 15% HTXNN tham gia liên kết với
doanh nghiệp theo chuỗi giá trị.
- Phấn đấu doanh thu bình quân của
HTXNN đạt khoảng 1.200 triệu đồng/HTX/năm, lợi nhuận bình quân đạt khoảng 80 -
100 triệu đồng/HTX/năm.
- Xử lý dứt điểm các HTXNN đã ngừng
hoạt động và chưa chuyển đổi, tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012; củng cố kiện
toàn các HTXNN yếu kém, hoạt động không hiệu quả.
III. ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 2030
1. Phát huy vai trò chủ đạo của KTTT,
HTXNN trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Phát triển
liên hiệp hợp tác xã trong nông nghiệp để phát huy thế mạnh của từng hợp tác xã
trong hỗ trợ các hợp tác xã khác và liên kết với doanh nghiệp, hướng đến tiêu
thụ sản phẩm ra các địa phương trong cả nước và xuất khẩu.
2. Ưu tiên ngân sách Nhà nước hỗ trợ
kết cấu hạ tầng cho các HTXNN. Nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành,
hiệu quả hoạt động, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền trên đất của các hợp tác xã, tạo điều kiện tăng khả năng tiếp
cận vốn vay ngân hàng.
3. Khuyến khích HTXNN tổ chức sản xuất
nông nghiệp gắn với sơ chế, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho thành
viên tạo thành chuỗi giá trị khép kín.
4. Phát triển các mô hình KTTT trong
lĩnh vực trồng trọt (lúa gạo, trái cây, rau màu), chăn nuôi (gia súc, gia cầm
các loại), lâm nghiệp, thủy sản (nuôi trồng, khai thác), diêm nghiệp gắn với
tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển các sản phẩm chủ lực của tỉnh.
5. Tuyên truyền, vận động thành lập mới
HTXNN ở các địa bàn, lĩnh vực nông nghiệp mà các sản phẩm chủ lực còn ít hoặc
chưa có hợp tác xã; phát triển quy mô thành viên trong các hợp tác xã, bảo đảm
các địa bàn sản xuất nông nghiệp đều có hộ nông dân tham gia hợp tác xã.
IV. MỘT SỐ NỘI
DUNG THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN HTX, LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN
2022 - 2025
1. Công tác
tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về KTTT, HTX
Tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị,
tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, học tập kết hợp tham quan mô hình, điển hình thực
tế; tuyên truyền phổ biến rộng rãi về kiến thức và kinh nghiệm trong việc hỗ trợ
phát triển KTTT, HTX trong nông nghiệp.
Tổ chức đối thoại với Lãnh đạo các cấp,
ngành, HTXNN và nông dân toàn tỉnh; tổ chức các diễn đàn, câu lạc bộ khác nhau
liên quan đến phát triển HTX, liên kết sản xuất trong nông nghiệp để có cái
nhìn khái quát về sự đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động, giải pháp duy trì,
phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho HTXNN theo hướng đa
ngành, đa lĩnh vực và ngày càng phát triển nhằm đạt mục tiêu.
Phối hợp với các cơ quan truyền thông
đăng tải bài viết về HTXNN, phóng sự tuyên truyền và xuất bản tài liệu hướng dẫn
tuyên truyền về Luật HTX, cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển HTXNN, các mô
hình HTXNN kiểu mới, mô hình liên kết có hiệu quả; tuyên truyền về nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa hiện đại, sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, sản xuất
sản phẩm với số lượng lớn, chế biến sâu, chất lượng cao, áp dụng tiến bộ khoa học
và xây dựng được thương hiệu sản phẩm chủ lực của tỉnh.
2. Thành lập mới,
củng cố tổ chức HTXNN, Liên hiệp HTXNN
2.1. Nội dung thực hiện
Cung cấp thông tin, tư vấn, tập huấn,
phổ biến quy định pháp luật về HTX cho các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác
có nhu cầu tham gia HTX, căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh, sản phẩm của
địa phương, xác định mục tiêu, sản phẩm và dịch vụ của HTX rõ ràng và thực tế.
Hướng dẫn sáng lập viên vận động các
cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nhu cầu tham gia HTX.
Tư vấn xây dựng dự thảo điều lệ HTX,
phương án sản xuất kinh doanh theo đúng quy định.
Tập huấn, hướng dẫn tổ chức quản lý
hoạt động của HTX cho cán bộ quản lý HTX sau khi Đại hội.
2.2. Quy mô thực hiện: Mỗi năm, hỗ trợ thành lập khoảng 12 HTXNN; tổ chức củng cố lại khoảng
25 HTXNN. Cả giai đoạn thành lập 01 liên hiệp HTXNN.
3. Giải thể HTX
Việc giải thể HTX thực hiện theo quy
định của các văn bản: Điều 54 của Luật HTX năm 2012; Điều 19 của Nghị định số
193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định về giải thể hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã; Thông tư số 31/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành từ nhiều nguồn vốn khi hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã giải thể, phá sản. Các văn bản điều chỉnh, bổ sung,
thay thế (nếu có) và các hướng dẫn liên quan.
Riêng đối với 07 HTX ngừng hoạt động
lâu ngày trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tính đến tháng 10/2021, gồm: huyện Bình
Sơn (01 HTX): HTX Nuôi trồng thủy sản xã Bình Phú (nay là xã Bình Tân Phú);
thành phố Quảng Ngãi (03 HTX): HTX Dịch vụ hậu cần đánh bắt xa bờ Tịnh Hòa, xã Tịnh Hòa; HTX Đóng sửa tàu thuyền và chế
biến hải sản Tịnh Phát, xã Tịnh Kỳ; HTXNN Hòa Vinh, xã Tịnh Hòa; huyện Mộ Đức
(02 HTX): HTX Chuyên canh mía và chăn nuôi Tú Sơn, xã Đức Lân; HTX Công nghệ
cao Hòa Phát, huyện Đức Phổ (01 HTX): HTX Nuôi trồng thủy sản Phổ Minh, xã Phổ
Minh tiếp tục thực hiện theo Quyết định số 1699/QĐ-UBND ngày 28/10/2021 UBND tỉnh
Quảng Ngãi Phương án giải thể các HTX không hoạt động trên địa bàn tỉnh.
4. Nâng cao
năng lực, nhận thức cho HTX
4.1. Bồi dưỡng kiến thức đối với
cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX
a) Nội dung thực hiện
Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cập nhật
kiến thức về KTTT, HTXNN cho đội ngũ cán bộ, quản lý nhà nước các cấp về các nội
dung như: cơ chế chính sách hỗ trợ; mô hình HTXNN kiểu mẫu, hoạt động hiệu quả;
tư vấn, hỗ trợ phát triển HTX; tổ chức học tập thực tế, chia sẻ kinh nghiệm, đặc
biệt là đề ra các hướng giải quyết các khó khăn và tồn đọng của khu vực HTXNN
hiện nay.
Hướng dẫn việc rà soát, bố trí lại
nhân sự có kiến thức, kinh nghiệm và am hiểu về KTTT, HTXNN vào các vị trí quản
lý nhà nước về KTTT, HTXNN.
b) Quy mô thực hiện: mỗi năm tổ chức 01 - 02 lớp, với khoảng 80 lượt người tham dự, thời
gian mỗi lớp 07 ngày (dự kiến cả giai đoạn, tổ chức 6 lớp, khoảng 240 lượt người
tham dự)
4.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho HTX
a) Nội dung thực hiện
Các nội dung về tài chính, kế toán, tổ
chức quản lý HTXNN, hướng dẫn xây dựng kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh;
hướng dẫn hợp nhất, sáp nhập; HTXNN phát triển sản phẩm OCOP; khởi nghiệp bằng
mô hình HTXNN, ....
Tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn
cho các chức danh hội đồng quản trị (HĐQT), ban giám đốc, kiểm soát, kế toán và
các cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ về các nội dung quản trị HTXNN, lập kế hoạch
kinh doanh, tín dụng nội bộ, maketing, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, nghiệp
vụ kế toán cho HTXNN, nghiệp vụ về kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong HTXNN, ...
Tổ chức các khóa bồi dưỡng, tập huấn
nâng cao trình độ công nghệ thông tin và kỹ năng chuyển đổi số cho giám đốc, kế
toán, kỹ thuật, nhân viên bán hàng của HTX, trong đó cập nhật, phổ biến những
xu thế ứng dụng công nghệ số mới trong điều hành, quản lý tài chính và sản xuất,
kinh doanh để hỗ trợ các HTXNN chuyển đổi số. Tổ chức các hoạt động tham quan,
học tập mô hình chuyển đổi số hiệu quả từ những HTXNN đã thực hiện chuyển đổi số
hiệu quả, sử dụng phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ: kế toán, bán hàng, sản xuất, ...
Tổ chức các Ịớp đào tạo sơ cấp nghề giám
đốc HTXNN.
b) Quy mô thực hiện
Về bồi dưỡng:
- Lớp tập huấn, bồi dưỡng lập phương
án SXKD, marketing, kế toán, kiểm toán, thuế, nghiệp vụ bán hàng, tín dụng nội
bộ, kiểm soát,...: mỗi năm tổ chức khoảng 06 lớp cho khoảng 100 - 300 người đang
làm việc tại HTXNN được tham dự các lớp bồi dưỡng ngắn hạn với thời gian mỗi lớp
khoảng 07 ngày (kể cả lý thuyết thực hành và nghiên cứu học tập thực tế).
Dự kiến cả giai đoạn hỗ trợ khoảng 18 lớp, 900 lượt người tham dự.
- Lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyển đổi
số trong HTX: mỗi năm tổ chức 01 lớp cho khoảng 50 người và cả giai đoạn có khoảng
03 lớp tập huấn về chuyển đổi số cho khoảng 150 người, thời gian mỗi lớp 5 ngày
(kể cả lý thuyết thực hành và nghiên cứu học tập thực tế).
Về đào tạo: Mỗi năm tổ chức 01 lớp sơ
cấp nghề Giám đốc cho khoảng 50 Giám đốc HTX với thời hạn 03 tháng (giai đoạn:
hỗ trợ 3 lớp, khoảng 150 người tham dự).
5. Đưa lao động
trẻ về làm việc tại HTX
Hàng năm dự kiến thu hút khoảng 10
người có trình độ từ cao đẳng trở lên về làm việc tại các HTX (cả giai đoạn dự
kiến thu hút 30 người).
6. Xây dựng hệ
thống thông tin dữ liệu, tuyên truyền, hỗ trợ về HTX
Hỗ trợ xây dựng, vận hành và duy trì
trang điện tử (Website), trong đó: thông tin về thị trường, khoa học công nghệ;
trao đổi - tư vấn pháp luật, chính sách; quan hệ thông tin với các nước, các tổ
chức quốc tế liên quan; kết nối với các trang tin về đăng ký HTX, đào tạo trực
tuyến, sàn giao dịch điện tử.
Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về
HTX kết nối với hệ thống đăng ký kinh doanh, báo cáo tài chính và báo cáo kiểm
toán (nếu có).
7. Xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường
7.1. Nội dung thực hiện: Tổ chức cho các HTXNN tham gia các hội chợ, triển lãm, diễn đàn trong
nước.
7.2. Mức hỗ trợ: theo Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 29/12/2020 của UBND tỉnh Quảng Ngãi
ban hành quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại
tỉnh Quảng Ngãi.
7.3. Quy mô thực hiện: mỗi năm hỗ trợ khoảng 10 HTX tham gia hội chợ, (giai đoạn hỗ trợ khoảng
30 HTX).
8. Một số nội
dung khác
8.1. Khuyến khích HTXNN phát triển hợp
tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: tập trung phát
triển các ngành hàng, sản phẩm khuyến khích và ưu tiên hỗ trợ, thực hiện hỗ trợ
theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến
khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp.
8.2. Lựa chọn, hoàn thiện nhân rộng
mô hình HTXNN kiểu mới hiệu quả theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX
kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 - 2025 và Quyết
định số 705/QĐ-UBND ngày 18/5/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc
phê duyệt danh sách Hợp tác xã tham gia Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng
mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2021 - 2025; Quyết định số 1254/QĐ-UBND ngày 14/9/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh
Quảng Ngãi về việc điều chỉnh nội dung tại Phụ lục kèm theo Quyết định số
705/QĐ-UBND ngày 18/5/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh.
8.3. Đầu tư kết cấu hạ tầng và chế biến
sản phẩm: thực hiện theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13/11/2020 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
giai đoạn 2021 - 2025 và Quyết định số 455/QĐ-UBND ngày 26/3/2021 của Chủ tịch
UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ, phát triển kinh tế
tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
8.4. Khuyến khích HTX đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn: thực hiện hỗ trợ theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày
17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
và nông nghiệp, nông thôn; Nghị quyết số 07/2020/NQ-HĐND ngày 21/7/2020 của Hội
đồng nhân dân tỉnh quy định chính sách khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi.
8.5. Hỗ trợ phát triển ngành nghề
nông thôn: thực hiện theo Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn và Kế hoạch số 157/KH-UBND ngày
11/11/2021 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2021 - 2025.
8.6. Giao đất, cho thuê đất: các địa
phương căn cứ quỹ đất và kế hoạch sử dụng đất tạo điều kiện thuận lợi trong việc
giao, cho thuê đất đối với HTXNN có nhu cầu sử dụng đất để đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh. Thực hiện miễn tiền thuê đất cho cả thời hạn thuê đối với
HTXNN có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch
vụ trực tiếp phục vụ thành viên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản. Đồng thời, thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
Luật Đất đai.
V. DỰ KIẾN KINH
PHÍ VÀ NGUỒN KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Kinh phí:
Tổng kinh phí (sự nghiệp):
17.191,2 triệu đồng
Trong đó:
- Ngân sách Trung ương: 5.680 triệu đồng
- Ngân sách tỉnh: 11.511,2 triệu đồng
Phân theo từng năm:
- Năm 2023: 5.525,2 triệu đồng
+ Ngân sách Trung ương: 2.360 triệu đồng
+ Ngân sách địa phương: 3.165,2 triệu
đồng
- Năm 2024: 5.530,4 triệu đồng
+ Ngân sách Trung ương: 1.660 triệu đồng
+ Ngân sách địa phương: 3.870,4 triệu
đồng
- Năm 2025: 6.135,6 triệu đồng
+ Ngân sách Trung ương: 1.660 triệu đồng
+ Ngân sách địa phương: 4.475,6 triệu
đồng
2. Nguồn kinh phí
Kinh phí được bố trí từ Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn
mới; Chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi)
và các Chương trình khác.
(Phụ
lục số II)
VI. MỘT SỐ GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN HTXNN GIAI ĐOẠN 2022 - 2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
1. Tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về HTXNN
Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với
HTXNN, dự báo xu hướng phát triển, huy động các nguồn lực để hỗ trợ phát triển
HTXNN; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; có tinh thần động viên, khen thưởng,
phổ biến, nhân rộng mô hình HTXNN kiểu mới tiêu biểu, hoạt động hiệu quả.
Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên
truyền về bản chất, khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HTXNN
trong điều kiện mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ
chức và người dân; tránh tình trạng nhận thức không thống nhất, không đầy đủ, bị
chi phối, ảnh hưởng bởi định kiến về mô hình HTXNN kiểu cũ; xác định rõ phát
triển HTXNN là xu thế tất yếu để phát triển kinh tế nông nghiệp, coi đây là nhiệm
vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của các cấp, các ngành.
Nâng cao nhận thức, làm rõ nội hàm
phát triển HTXNN là công cụ, giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu tái
cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Phối hợp với các cơ quan báo chí, Đài
Phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Quảng Ngãi để đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
thúc đẩy, lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong HTX.
2. Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung
pháp lý, cơ chế, chính sách nhằm phát triển HTXNN. Đề xuất sửa đổi Luật HTX năm
2012, cần cụ thể trong Luật các Chương, Điều quy định riêng cho phát triển
HTXNN.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân
lực nhất là thu hút đào tạo cán bộ, nhân lực trẻ đã qua đào tạo về làm việc cho
HTXNN theo Chương trình đào tạo nghề giám đốc HTXNN (cấp chứng chỉ nghề quốc
gia); hợp tác, liên kết đưa lao động HTXNN đi học tập, lao động nước ngoài.
Xây dựng và triển khai các chương
trình, đề án liên quan đến phát triển HTXNN của Bộ như: Đề án phát triển các
vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và tiêu thụ nông, lâm sản giai đoạn 2021 -
2025; Chương trình chuyển đổi số ngành nông nghiệp; các chương trình, đề án
trong khuôn khổ các Chương trình Mục tiêu quốc gia như Chương trình OCOP, du lịch
nông nghiệp, nông thôn.
Rà soát, kiến nghị với các Bộ, ngành
để hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc, tạo điều kiện để HTXNN phát triển bền vững, phù hợp với xu thế phát triển
HTX trên địa bàn tỉnh trong mỗi giai đoạn phát triển.
Các sở, ngành có liên quan, UBND các
huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch, đề án phát triển HTXNN giai đoạn
2022 - 2025 và định hướng đến năm 2030; tham mưu UBND tỉnh cân đối, bố trí kinh
phí thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước đối với HTX phù hợp với
khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và điều kiện cụ thể của tỉnh theo giai
đoạn đoạn 2022 - 2025 và định hướng đến năm 2030.
3. Tư vấn, vận
động và tạo điều kiện cho các HTXNN, liên hiệp HTXNN thành lập mới trong giai
đoạn hoạt động có hiệu quả
Tuyên truyền, vận động thành lập mới
HTXNN, nhân rộng các mô hình HTXNN kiểu mới phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của
địa phương, dựa trên nhu cầu hợp tác tự nguyện của các thành viên, vì lợi ích của
thành viên, HTXNN và cộng đồng; Khuyến khích thành lập mới HTXNN với quy mô
thành viên lớn; kiên quyết tránh tình trạng thành lập vì lợi ích nhóm, nhằm cơ
hội thụ hưởng chính sách, chạy theo thành tích để hoàn thành tiêu chí số 13 về
đích nông thôn mới.
Phát triển các mô hình HTXNN, dịch vụ
nông nghiệp gắn với chương trình OCOP, các sản phẩm ngành nghề nông thôn đặc
trưng, các sản phẩm chủ lực của địa phương gắn với du lịch cộng đồng; HTX thu
mua, chế biến thủy, hải sản, lâm nghiệp bền vững; khu vực miền núi, phát huy lợi
thế về văn hóa dân tộc đặc sắc, du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng; khuyến khích
phát triển HTXNN ứng dụng công nghệ cao tổ chức sản xuất gắn với sơ chế, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho thành viên và tạo thành chuỗi giá trị khép
kín, có khả năng thích nghi trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư (4.0), dịch bệnh và biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển mở rộng quy mô
thành viên trong hợp tác xã, bảo đảm các địa bàn sản xuất nông nghiệp đều có hộ
nông dân tham gia hợp tác xã.
Lựa chọn các tổ hợp tác đang hoạt động
có hiệu quả để vận động nâng lên HTXNN hoạt động có hiệu quả; vận động những chủ
trang trại, gia trại, tổ hợp tác, hộ kinh doanh có sản xuất kinh doanh các sản
phẩm OCOP, ngành nghề nông thôn có quy mô sản xuất tương đối lớn để tuyên truyền
cùng nhau thành lập HTXNN hoặc đăng ký tham gia vào HTXNN. Tìm kiếm, lựa chọn,
đề xuất những người sản xuất kinh doanh giỏi có kinh nghiệm, có uy tín với cộng
đồng (có thể là các trưởng thôn, bản, ...) làm sáng lập viên để tuyên truyền, vận
động thành lập HTXNN.
Ngoài ra, để xây dựng phát triển
HTXNN, rất cần cán bộ quản lý hợp tác xã có trình độ, năng lực chuyên môn, tâm
huyết với phong trào hợp tác xã, có ý thức trách nhiệm với tập thể, thành viên
thì hợp tác xã đó phát triển.
4. Tập trung rà
soát, phân theo loại hình HTXNN để củng cố, tổ chức lại nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động của các HTXNN hoạt động chưa hiệu quả để đạt hiệu quả hơn.
4.1. Củng cố và đổi mới các HTXNN
hiện có
Xây dựng kế hoạch rà soát, phân loại tình
hình hoạt động, những vướng mắc, khó khăn của các HTXNN trung bình, yếu và số
HTXNN mới thành lập trong giai đoạn 2016 - 2020 và năm 2021; từ đó có các biện
pháp cụ thể giúp các HTXNN nâng cao chất lượng hoạt động nhằm đạt tiêu chí hiệu
quả, theo hướng:
a) Đối với nhóm các HTXNN xếp loại
tốt, khá: Duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động của
các HTX: Hỗ trợ HTX mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có;
tìm kiếm, nghiên cứu thị trường để phát triển thêm các dịch vụ, ngành nghề mới,
từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của hợp tác xã trong cơ chế thị trường;
củng cố mối quan hệ với các doanh nghiệp hiện có; đẩy mạnh hợp tác, mở rộng quy
mô liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm.
b) Đối với nhóm các HTXNN xếp loại
trung bình
Tập trung tư vấn hỗ trợ củng cố, tổ
chức lại HTX nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
- Hướng dẫn rà soát lại thành viên
HTX.
+ Đối với những HTX có số lượng thành
viên lớn, tổ chức rà soát lại theo hướng mỗi HTX chỉ từ 100 đến dưới 1.000
thành viên, nhưng phải thật sự tâm huyết, gắn bó và cam kết sử dụng dịch vụ của
HTX, bổ sung vốn góp vào HTX theo nhu cầu vốn của phương án sản xuất kinh doanh
mới; khuyến khích và cho ra khỏi HTX những thành viên không sử dụng dịch vụ của
HTX, không góp vốn theo quy định hoặc những thành viên chỉ có tên trên hình thức.
+ Đối với những HTX có số lượng thành
viên ít, tổ chức tuyên truyền vận động thêm thành viên theo hướng mỗi HTX tối
thiểu 20 thành viên trở lên, lựa chọn những thành viên tâm huyết, gắn bó và sử
dụng dịch vụ của HTX, bổ sung vốn góp vào HTX theo nhu cầu vốn của phương án sản
xuất kinh doanh mới.
- Kết hợp tư vấn xây dựng, bổ sung
phương án sản xuất kinh doanh gắn với đào tạo nghề cho thành viên HTX, hỗ trợ
ngành nghề nông thôn, máy móc cơ giới hóa, tự động hóa trong sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng hiệu quả các hoạt động hiện có gắn với sản xuất sản phẩm, hàng
hóa đặc trưng là tiềm năng thế mạnh kinh tế của địa phương và nhu cầu của thị
trường từ đó dần mở rộng quy mô, nhất là tăng khả năng đáp ứng nhu cầu về dịch
vụ của thành viên đồng thời mở thêm các dịch vụ, ngành nghề mới; chủ động tìm
kiếm thị trường, đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp từng bước thực hiện việc
liên doanh, liên kết để tổ chức cho thành viên và nông dân sản xuất gắn với
tiêu thụ sản phẩm chủ lực tại địa phương.
- Tổ chức phân loại ngành nghề của từng
HTX theo nhóm ngành, nghề như: phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và sản phẩm
từ gia súc, gia cầm đặc trưng (trâu, bò, heo, gà, ...), nuôi trồng và chế biến
thủy sản đặc trưng, cây ăn quả (mít, bưởi, ổi, ...), phát triển, nhân rộng vùng
sản xuất và chế biến các sản phẩm từ rau, màu nổi tiếng (ớt xiêm rừng, rau rừng,
...), sản xuất, chế biến các sản phẩm từ cây dược liệu, cây trồng đặc trưng (khổ
qua rừng, gừng gió, sâm, quế, chè); các HTX đánh bắt và khai thác hải sản xa bờ
gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên địa bàn tỉnh.
- Khuyến khích các HTXNN cùng ngành
nghề sáp nhập, liên kết thành Liên hiệp HTXNN để tăng quy mô về vốn, gia tăng
thị phần, tạo điều kiện phát triển kinh doanh và dịch vụ, mở rộng ngành nghề mới.
Ưu tiên hỗ trợ HTXNN gắn với chuỗi giá trị, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
và có tác động đến thành viên và cộng đồng.
c) Đối với nhóm các HTXNN xếp loại
yếu, kém: Tổ chức lại hoạt động HTX theo hướng đơn giản,
đảm bảo đáp ứng được các dịch vụ cơ bản, nhất là các dịch vụ đầu vào như: cung ứng
giống, vật tư, ... Tăng cường củng cố mối quan hệ giữa HTX với thành viên qua
chế độ quản lý tài chính, công khai minh bạch sổ sách kế toán để huy động thêm
vốn góp, mở thêm các dịch vụ mới. Hợp nhất, sáp nhập các HTX hoạt động kém hiệu
quả vào các HTX trên cùng địa bàn; đối với những HTX yếu kém kéo dài, ngừng hoạt
động, tồn tại trên hình thức không thể tổ chức củng cố, duy trì hoạt động thì
kiên quyết giải thể dứt điểm.
4.2. Hướng dẫn giải quyết dứt điểm
những vấn đề còn tồn đọng của HTXNN
Tập trung giải quyết dứt điểm nợ tồn
đọng kéo dài trong HTXNN (nợ Nhà nước, nợ ngân hàng, nợ các tổ chức kinh tế
khác, nợ thành viên,...)
Giải quyết rõ ràng, minh bạch các
quan hệ về tài sản của HTX cũ, đặc biệt là những tài sản liên quan đến đất đai.
5. Đẩy mạnh
nâng cao năng lực, đổi mới phương thức quản lý, điều hành của tổ chức HTXNN
Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0, đòi hỏi các HTX sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp phải nhanh chóng thay đổi để phù hợp với sự phát triển của xã
hội. Cần quan tâm, tạo điều kiện công tác chuyển đổi số trong HTX.
Đẩy mạnh đào tạo và thu hút cán bộ có
trình độ về công tác tại HTXNN, nhất là HTXNN ở nông thôn, miền núi. Có cơ chế
ưu đãi và quy định, cụ thể để giữ lại được những cán bộ giỏi, có năng lực quản
lý và tâm huyết đối với HTX. Tiếp tục hỗ trợ cho các HTXNN có nhu cầu và đủ điều
kiện thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ HTX.
Tăng cường năng lực quản trị HTXNN
theo hướng công khai, minh bạch thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà
nước; củng cố bộ máy kế toán; bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực quản lý,
kinh tế, thương mại, công nghệ cho thành viên, những người tham gia kinh tế
HTXNN. Tạo điều kiện cho HTXNN tham gia thực hiện các chương trình, dự án phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Song song đó, quan tâm, đổi mới nâng
cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN có chiều hướng phát triển; Tăng cường ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất ở các
HTXNN; đẩy mạnh kết nối tiêu thụ nông sản và công tác tuyên truyền, vận động
phát triển mới HTXNN gắn với chuỗi giá trị hàng hóa chủ lực quy mô có sức lan tỏa;
tổng kết và nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới, điển hình tiên tiến và xem
phát triển HTXNN là một trong những nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển KT - XH của
địa phương.
6. Đầu tư, hỗ
trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho sản phẩm của các liên hiệp
HTXNN, HTXNN
Hỗ trợ xây dựng, thiết kế bao bì,
nhãn mác, nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm; ứng dụng nền tảng sàn thương mại điện
tử; tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm; hỗ trợ quảng bá, giới thiệu, tiêu thụ sản
phẩm của các HTXNN, đặc biệt trong Chương trình OCOP, từng bước đưa nông sản sạch
vào siêu thị.
Tổ chức hệ thống thông tin về các thị
trường tiêu thụ hàng hóa nông sản, góp phần định hướng sản xuất hàng hóa nông sản.
Thực hiện việc hỗ trợ cung cấp thông tin về thị trường cho HTXNN để giúp chủ động
trong sản xuất kinh doanh.
Hỗ trợ và tạo điều kiện các HTXNN
tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, trưng bày sản phẩm tại các Hội
chợ triển lãm; Hội nghị kết nối cung - cầu hàng hóa; xây dựng và phát triển
nhãn hiệu hàng hóa; quảng bá thông tin, hình ảnh sản phẩm, ngành nghề, dịch vụ
HTXNN trên website, sàn giao dịch thương mại điện tử.
Hỗ trợ hàng nông sản sản xuất theo
tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và các tiêu chuẩn khác tham gia kết nối vào hệ thống
phân phối hiện đại, các siêu thị trên địa bàn tỉnh, thành phố, các hệ thống chợ
truyền thống.
7. Xây dựng, đổi
mới và phát triển chuỗi liên kết một số sản phẩm chủ lực
Cần tập trung phát triển nông, lâm
nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh đổi mới hình thức tổ chức
sản xuất, gắn với chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; nền tảng dữ liệu
số nông nghiệp; nền tảng tối ưu hóa chuỗi cung ứng; xây dựng thương hiệu trong
lĩnh vực nông, lâm nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, HTXNN, THT
và trang trại, hộ gia đình tham gia đầu tư phát triển sản xuất, liên doanh,
liên kết hình thành chuỗi giá trị, tập trung phát triển các loại sản phẩm chủ lực
có giá trị kinh tế cao theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, sản phẩm gắn với
Chương trình OCOP và Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập
trung một hay một nhóm sản phẩm nông nghiệp cùng loại có quy mô phù hợp với từng
loại hình sản xuất và điều kiện của mỗi địa phương có liên kết gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Rà soát phân loại các sản phẩm chủ lực,
ngành hàng cần khuyến khích của từng HTXNN để hỗ trợ xây dựng, hình thành chuỗi
giá trị: khuyến khích xây dựng chuỗi liên kết ngang: các hộ sản xuất liên kết với
hộ sản xuất; HTX liên kết với HTX mua chung, bán chung nhằm tạo ra sản phẩm đủ
lớn để ký kết hợp đồng tiêu thụ trên thị trường, đồng thời giảm các chi phí
trong HTX; hợp đồng bao tiêu sản phẩm được bảo vệ bởi pháp luật Nhà nước tạo niềm
tin lẫn nhau trong xây dựng chuỗi giá trị nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích các bên
tham gia trên cơ sở thống nhất, chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi nghĩa vụ và rủi
ro; xây dựng hình thành mối liên kết giữa các hộ sản xuất, HTX, cơ sở thu mua
và công ty, doanh nghiệp có tiêu thụ sản phẩm hình thành mối liên kết dọc trên
cơ sở xác định nhu cầu tiêu thụ của thị trường, thời vụ sản xuất, thu hoạch làm
căn cứ quan trọng để xây dựng kế hoạch liên kết sản xuất, tiến độ cung ứng,
tiêu thụ sản phẩm, để cùng sản xuất tiêu thụ sản phẩm tạo sự bình đẳng, hợp tác
cùng có lợi, tránh sự cạnh tranh, tranh mua, tranh bán không lành mạnh, tạo sự
hoạt động ổn định bền vững của chuỗi.
8. Tiếp tục củng
cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về HTXNN
8.1. Tiếp tục củng cố bộ máy quản
lý nhà nước về HTXNN
Ở cấp tỉnh: rà soát, đánh giá bộ máy để
bố trí cho phù hợp lực lượng cán bộ thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh
quản lý nhà nước về HTXNN trên địa bàn. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
để hoàn thành nhiệm vụ.
Ở cấp huyện: phân công và nâng cao chất
lượng, trách nhiệm của tổ chức, cán bộ tham mưu phụ trách công tác quản lý nhà
nước về HTXNN trên địa bàn, đảm bảo nắm chắc tình hình hoạt động và tham mưu giải
quyết kịp thời các việc liên quan đến hoạt động của HTXNN.
Ở cấp xã: phải quan tâm thực hiện tốt
nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTXNN theo quy định; tạo điều kiện cho các HTXNN
trên địa bàn hoạt động đúng luật và có hiệu quả; phối hợp với các cơ quan cấp
trên trong việc thực hiện các thủ tục hỗ trợ cho HTX trên địa bàn.
8.2. Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra hoạt động của tổ chức HTXNN
Các cơ quan được phân công nhiệm vụ
quản lý Nhà nước về HTXNN phải đưa công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của
HTXNN thành nhiệm vụ công tác thường xuyên; hàng năm, chủ trì phối hợp với các
cơ quan liên quan (cơ quan thuộc UBND cùng cấp, thuế, ...) có kế hoạch cụ thể để
tiến hành kiểm tra, rà soát định kỳ để kịp thời đánh giá tình hình hoạt động, động
viên khen thưởng những mô hình HTXNN hoạt động có hiệu quả tốt, phát hiện và chấn
chỉnh các vi phạm.
9. Phát huy mạnh
mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các đoàn thể, hội
trong phát triển tổ chức HTXNN
Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị
- xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về HTXNN gắn với thực
hiện cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới - Đô thị văn
minh” và phong trào “Đoàn kết, sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, hội nhập quốc tế” trong giai đoạn hiện nay. Qua đó, tích cực vận động người
dân tham gia vào HTXNN; tham gia tư vấn, hỗ trợ, thành lập mới HTXNN và xây dựng
các mô hình HTX kiểu mới.
10. Tăng cường hợp
tác quốc tế về phát triển HTXNN
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực xã hội
để phát triển HTXNN bao gồm nguồn lực trong nước, phát triển hợp tác quốc tế về
HTXNN. Tranh thủ nguồn lực quốc tế để hỗ trợ các HTXNN, khuyến khích tạo điều
kiện hợp tác quốc tế trong phát triển HTXNN nhất là việc tiếp thu kinh nghiệm của
các nước, vùng lãnh thổ có phong trào HTXNN mạnh. Tiếp thu các hỗ trợ phát triển
trong việc thành lập và nâng cao năng lực HTXNN ...
11. Về xây dựng
chương trình, dự án mang tính đột phá
Chuyển đổi số được xác định là một
trong các trụ cột thực hiện phát triển nhanh và bền vững là một trong các khâu
đột phá, góp phần bức phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả. HTXNN, doanh nghiệp,
chủ trang trại, hộ gia đình, ... ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin quản lý
và sản xuất, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng, ... Chuyển đổi số là giải
pháp hữu hiệu để khắc phục điểm yếu cố hữu là sản xuất manh mún, nhỏ lẻ và thiếu
liên kết.
Việc ứng dụng chuyển đổi số là những
giải pháp tổng thể góp phần nâng cao năng suất, tạo hiệu quả trong đột phá nhằm
phát triển nhanh, bền vững nông nghiệp.
Giải pháp chiến lược phát triển nông
nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; kế hoạch cơ
cấu lại nông nghiệp 2021 - 2025 và chiến lược phát triển Chính phủ điện tử, hướng
tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, cần phải tập trung đẩy mạnh chuyển đổi
số, coi đây là giải pháp đột phá cao, tạo động lực mới trong phát triển của
ngành, trọng tâm là xây dựng nền nông nghiệp thông minh, minh bạch thông tin,
có trách nhiệm với người sản xuất và người tiêu dùng. Các cấp, các ngành của tỉnh
cần có những giải pháp đột phá hơn nữa. Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông
nghiệp, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh, sản xuất các sản phẩm chủ
lực theo hướng liên doanh, liên kết. Để làm được điều này, cần rà soát, điều chỉnh
bổ sung hoàn thiện quy hoạch chi tiết các loại cây chủ lực, các lĩnh vực có tiềm
năng, lợi thế, từ đó xác định vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
cho từng loại cây trồng, vật nuôi.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các HTXNN
tham gia vào các chương trình, dự án sản xuất, kinh doanh và đầu tư bằng nhiều
hình thức như xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phục vụ sản xuất,
bảo vệ môi trường trong sản xuất nông, lâm, thủy sản, ... Thực hiện lồng ghép,
kết hợp các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phát triển KT - XH ở địa
phương nhằm thu hút các nguồn lực phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp
tác, liên kết.
12. Đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước do các cấp, các ngành phát động
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
trong lĩnh vực HTXNN, xây dựng các điển hình tiên tiến; kịp thời biểu dương,
khen thưởng các tập thể, cá nhân xuất sắc trong phong trào thi đua phát triển HTXNN.
Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, đặc biệt là người đứng đầu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện Nghị quyết về phát triển HTXNN. Đưa nhiệm vụ phát triển HTXNN là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
VII. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
Làm đầu mối chủ trì, phối hợp với các
Sở, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan tổ chức triển khai thực hiện các
nội dung của Đề án.
Hàng năm, tổng hợp nhu cầu và xây dựng
kế hoạch hỗ trợ các nội dung của Đề án gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính
tổng hợp; hướng dẫn tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTXNN và
kinh phí đã được phân bổ.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm
tra, giám sát; tổng hợp đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết những vướng mắc
trong quá trình thực hiện; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện theo định kỳ hàng năm và báo cáo Trung ương khi
có nhu cầu, thực hiện sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Đề án.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư
Phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thị xã, thành phố và các cơ
quan, đơn vị có liên quan tổng hợp nhu cầu kinh phí hỗ trợ để thực hiện Đề án.
Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính
tham mưu UBND tỉnh cân đối, bố trí vốn đầu tư phát triển từ ngân sách để thực
hiện Đề án.
Hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và đôn
đốc các Sở, ngành liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện Đề
án; hàng năm tổng hợp, tham mưu UBND tỉnh báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính kết quả thực hiện Đề án.
3. Sở Tài chính
Hàng năm phối hợp với Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu cấp có thẩm
quyền bố trí kinh phí theo khả năng cân đối ngân sách để thực hiện Đề án.
4. Sở Tài nguyên và Môi trường
Theo chức năng, nhiệm vụ phối hợp với
các cơ quan, đơn vị có liên quan hướng dẫn, tham mưu thực hiện các thủ tục về
thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, môi trường khi nhận được đề
nghị của các HTXNN và các nội dung khác thuộc chức năng, nhiệm vụ.
5. Sở Công Thương
Theo chức năng, nhiệm vụ hướng dẫn, hỗ
trợ các HTXNN tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.
6. Sở Khoa học và Công nghệ
Theo chức năng, nhiệm vụ tham mưu
UBND tỉnh về các Dự án khoa học - công nghệ có tác động nhanh đến phát triển
nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, đặc biệt là các Dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của HTXNN.
7. Sở Nội vụ
Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, UBND các huyện, thị xã, thành phố hướng dẫn, tham mưu cấp có
thẩm quyền về công tác cán bộ, củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về
lĩnh vực HTXNN ở các cấp theo quy định của pháp luật.
8. Sở Thông tin và Truyền thông
Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và các cơ quan liên quan hướng dẫn các HTXNN ứng dụng bưu
chính, viễn thông và công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh và
quản trị của HTX. Đề nghị các cơ quan báo chí, hệ thống thông tin cơ sở tuyên
truyền, phổ biến kiến thức liên quan đến HTXNN.
9. Liên minh Hợp tác xã tỉnh
Phối hợp cùng các sở, ban, ngành địa
phương thực hiện tổ chức tuyên truyền sâu rộng các nội dung của Đề án.
Thực hiện tuyên truyền, vận động, tư
vấn, hỗ trợ phát triển HTXNN: đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho việc
hình thành và phát triển của HTXNN; hỗ trợ tư vấn thành lập mới HTXNN; thực hiện
các Chương trình, dự án, dịch vụ công được giao và nhiệm vụ ủy thác hỗ trợ phát
triển HTXNN từ cơ quan quản lý nhà nước. Vận động HTXNN tổ chức sản xuất theo
chuỗi giá trị, nâng cao chất lượng và tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Ưu
tiên nguồn kinh phí cho HTXNN vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, đặc biệt các
HTXNN tham gia ứng dụng công nghệ cao.
Hàng năm Liên minh HTX tỉnh xây dựng
kế hoạch kinh phí thực hiện nhiệm vụ theo chức năng gửi các Sở Tài chính, Kế hoạch
và Đầu tư. Đồng thời, gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp chung
vào thời điểm làm dự toán hàng năm.
Phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, tổng hợp đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết những vướng mắc
trong quá trình thực hiện Đề án.
10. Hội Nông dân tỉnh
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các
nội dung trong Đề án đến với người nông dân nói chung và các thành viên của
HTXNN nói riêng. Vận động các chủ trang trại, nông dân sản xuất giỏi là Hội
viên của Hội nông dân tham gia tích cực vào phong trào phát triển HTXNN. Ưu
tiên nguồn kinh phí cho vay từ Quỹ hỗ trợ nông dân để giúp các thành viên HTXNN
là hội viên Hội nông dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập.
11. Ngân hàng nhà nước - Chi nhánh
tỉnh Quảng Ngãi
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa
bàn tỉnh tiếp tục triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của
Chính phủ, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về
chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn; dành nguồn vốn phù hợp cho
hoạt động tín dụng phục vụ cho hỗ trợ phát triển HTX; ngân hàng thương mại,
chính sách xã hội, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh tập trung tháo gỡ khó
khăn trong việc tiếp cận vốn cho HTXNN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
HTXNN tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng và các nguồn quỹ
tín dụng khác.
12. Tỉnh đoàn
Tăng cường công tác tuyên truyền vận
động đoàn viên, thanh niên trên địa bàn tỉnh tích cực tham gia các hoạt động
phát triển kinh tế gia đình, sáng tạo trong lao động sản xuất và liên kết thành
lập các mô hình HTXNN, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho các đoàn viên,
thanh niên; góp phần thể hiện vai trò của tổ chức Đoàn trong thực hiện chương
trình đồng hành với thanh niên trong khởi nghiệp, lập nghiệp; đồng thời có những
đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Phối hợp với các Sở, ngành, đơn vị
liên quan hỗ trợ các thanh niên khởi nghiệp được tuyên truyền, tập huấn, cung cấp
thông tin về sản phẩm, thị trường, hợp tác, liên kết, ...; được tiếp cận các
nguồn lực để hỗ trợ phát triển các HTXNN, hướng dẫn các HTX này sử dụng đúng mục
đích, hiệu quả các kinh phí hỗ trợ.
13. Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội khác
Tăng cường công tác tuyên truyền về
HTXNN; phối hợp tổ chức xây dựng các mô hình HTXNN điển hình; tập hợp các hội
viên có khả năng sáng lập HTX để vận động thành lập các HTXNN.
14. Trường Chính trị
Trường Chính trị tỉnh và các đơn vị
liên quan phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh HTX tỉnh
thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức về kinh tế tập thể cho cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở và cán bộ chủ chốt của HTX.
15. UBND các huyện, thị xã, thành
phố
Xây dựng kế hoạch triển khai Đề án
trên địa bàn, lập dự toán kinh phí thực hiện Đề án hàng năm gửi các Sở: Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp.
Phát triển các mô hình chuỗi liên kết
gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản thông qua các hợp đồng kinh tế.
Tập trung củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn. Thực
hiện quy hoạch các vùng chuyên canh về trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm,
nuôi trồng thủy sản từ đó tạo ra nguồn hàng nông sản lớn, đảm bảo chất lượng,
an toàn vệ sinh thực phẩm.
Rà soát, đánh giá đúng thực chất,
toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các HTXNN, từ đó có kế hoạch
giải thể dứt điểm các HTXNN yếu kém, hoạt động hình thức hoặc hợp nhất, sáp nhập
những HTXNN quy mô thôn thành quy mô toàn xã.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các HTXNN để có biện pháp phù hợp nhằm chấn
chỉnh, hướng dẫn, hỗ trợ cho HTX hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và chấp
hành đúng các quy định của pháp luật. Kịp thời phổ biến, nhân rộng các mô hình
HTX kiểu mới, hiệu quả.
Kiện toàn Ban chỉ đạo đổi mới, phát
triển kinh tế tập thể, HTX; bố trí công chức chuyên trách hoặc kiêm nhiệm quản
lý, kiểm tra, đánh giá và hỗ trợ HTX; chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch
phát triển HTXNN hằng năm ở từng địa phương.
Phối hợp với các Sở, ngành, Liên minh
HTX tỉnh để hỗ trợ HTXNN phát triển; tập trung củng cố và thành lập mới HTX tại
địa phương theo nội dung Đề án.
Xây dựng phương án giải thể hoặc chuyển
sang loại hình kinh tế khác đối với các HTXNN đã ngừng hoạt động do phòng Tài
chính - Kế hoạch huyện cấp giấy chứng nhận thành lập.
Lựa chọn các sản phẩm đặc trưng, có lợi
thế cạnh tranh của địa phương để thúc đẩy việc thành lập HTX chuyên ngành nhằm
tổ chức lại sản xuất tập trung, quy mô lớn.
Chỉ đạo UBND xã, phường, thị trấn tạo
điều kiện HTXNN tham gia các chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại địa
bàn và quản lý, vận hành sau khi công trình hoàn thành.
Tổng hợp kết quả thực hiện của các
HTXNN, báo cáo UBND tỉnh (thông qua Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
theo định kỳ hàng năm./.
PHỤ LỤC I
TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG HTX NN TOÀN TỈNH BIẾN ĐỘNG
QUA CÁC NĂM
(Kèm theo Quyết định số: 1458/QĐ-UBND ngày 25/10/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh
Quảng Ngãi)
TT
|
Huyện
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
Tổng
|
Chưa
đăng ký chuyển đổi, tổ chức lại theo Luật
|
Ngừng
hoạt động, dự kiến giải thể
|
1
|
Huyện Bình Sơn
|
39
|
37
|
37
|
34
|
38
|
37
|
|
|
1
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
|
|
|
4
|
|
4
|
|
|
|
- Số HTX giảm
|
|
2
|
|
3
|
|
1
|
6
|
|
|
|
+ Do hợp nhất, sáp nhập HTX
|
|
|
|
2
|
|
|
2
|
|
|
|
+ Do giải thể HTX
|
|
2
|
|
1
|
|
1
|
4
|
|
|
2
|
Huyện Sơn Tịnh
|
11
|
11
|
11
|
11
|
11
|
13
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
|
|
|
|
2
|
2
|
|
|
|
- Số HTX giảm
|
13
|
|
|
|
|
|
13
|
|
|
|
+ Do hợp nhất, sáp nhập HTX
|
13
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
TP Quảng Ngãi
|
26
|
27
|
28
|
27
|
33
|
34
|
|
2
|
4
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
1
|
2
|
1
|
6
|
4
|
14
|
|
|
|
- Số HTX giảm
|
1
|
0
|
1
|
2
|
0
|
3
|
7
|
|
|
|
+ Do giải thể HTX
|
1
|
|
1
|
2
|
|
3
|
7
|
|
|
4
|
Huyện Tư Nghĩa
|
24
|
24
|
24
|
25
|
25
|
25
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
|
|
1
|
|
|
1
|
|
|
5
|
Huyện Nghĩa Hành
|
15
|
15
|
16
|
16
|
16
|
16
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
1
|
|
1
|
|
|
|
2
|
|
|
6
|
Huyện Mộ Đức
|
30
|
31
|
32
|
33
|
35
|
35
|
|
1
|
3
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
1
|
2
|
1
|
2
|
|
6
|
|
|
|
- Số HTX giảm
|
|
|
1
|
|
|
|
1
|
|
|
|
+ Do giải thể HTX
|
|
|
1
|
|
|
|
1
|
|
|
7
|
Thị xã Đức Phổ
|
22
|
22
|
21
|
20
|
20
|
20
|
|
|
1
|
|
- Số HTX giảm
|
6
|
|
1
|
1
|
|
|
8
|
|
|
|
+ Do hợp nhất, sáp nhập HTX
|
2
|
|
|
1
|
|
|
1
|
|
|
|
+ Do giải thể HTX
|
|
|
1
|
|
|
|
1
|
|
|
8
|
Huyện Trà Bồng
|
0
|
0
|
1
|
3
|
5
|
7
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
|
1
|
2
|
2
|
2
|
7
|
|
|
9
|
Huyện Sơn Hà
|
0
|
2
|
4
|
15
|
16
|
17
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
2
|
2
|
11
|
1
|
1
|
17
|
|
|
10
|
Huyện Sơn Tây
|
0
|
0
|
1
|
2
|
5
|
9
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
0
|
1
|
1
|
3
|
4
|
9
|
|
|
11
|
Huyện Minh Long
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
1
|
6
|
|
|
12
|
Huyện Ba Tơ
|
0
|
2
|
4
|
6
|
9
|
11
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
2
|
2
|
2
|
4
|
3
|
13
|
|
|
|
- Số HTX giảm
|
|
|
|
|
1
|
1
|
2
|
|
|
|
+ Do giải thể HTX
|
|
|
|
|
1
|
1
|
2
|
|
|
13
|
Huyện Lý Sơn
|
0
|
0
|
0
|
1
|
1
|
1
|
|
|
|
|
- Số HTX tăng do thành lập mới
|
|
|
|
1
|
|
|
1
|
|
|
|
Tổng
Cộng
|
168
|
173
|
182
|
197
|
219
|
231
|
|
3
|
9
|
PHỤ LỤC II
DỰ KIẾN PHÂN KỲ KINH PHÍ CHI TIẾT THỰC HIỆN
ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2022-2025
(Kèm theo Quyết định số: 1458/QĐ-UBND ngày 25/10/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh
Quảng Ngãi)
TT
|
Nội
dung
|
ĐVT
|
Năm
|
Giai
đoạn 2023-2025
|
Nguồn
kinh phí thực hiện
|
2023
|
2024
|
2025
|
NSTW
|
NS
tỉnh
|
|
Tổng
cộng
|
|
5.525,2
|
5.530,4
|
6.135,6
|
17.191,2
|
5.680
|
11.511,2
|
1
|
Nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về KTTT
|
Trđ
|
300
|
300
|
300
|
900
|
|
900
|
2
|
Thành lập mới, củng cố tổ chức lại
HTX, liên hiệp HTX
|
Trđ
|
1110
|
1160
|
1110
|
3.380
|
|
3.380
|
2.1
|
Thành lập mới HTX
|
Trđ
|
360
|
360
|
360
|
1.080
|
|
1.080
|
-
|
Số HTX dự kiến thành lập
|
HTX
|
12
|
12
|
12
|
36
|
|
|
2.2
|
Thành lập mới Liên hiệp HTX: Dự kiến
thành lập 01 LH HTX
|
Trđ
|
|
50
|
|
50
|
|
50
|
2.3
|
Củng cố, tổ chức lại HTX
|
Trđ
|
750
|
750
|
750
|
2.250
|
|
2.400
|
-
|
Số HTX dự kiến tổ chức củng cố lại
|
HTX
|
25
|
25
|
25
|
75
|
|
|
3
|
Nâng cao năng lực, nhận thức cho
khu vực HTX
|
|
2.430
|
2.430
|
2.430
|
7.290
|
4.290
|
3.000
|
3.1
|
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức đối với
cán bộ, công chức, viên chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX
|
Trđ
|
200
|
200
|
200
|
600
|
600
|
|
-
|
Số lớp dự kiến tổ chức
|
|
2
|
2
|
2
|
6
|
|
|
-
|
Số người tham dự
|
|
80
|
80
|
80
|
240
|
|
|
3.2
|
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho tổ chức HTX (cán bộ quản lý, thành viên HTX)
|
Trđ
|
2.230
|
2.230
|
2.230
|
6.690
|
3.690
|
3.000
|
3.2.1
|
Bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho tổ chức HTX
|
Trđ
|
1.230
|
1.230
|
1.230
|
3.690
|
3.690
|
|
-
|
Tổ chức tập huấn các chuyên đề: Lập
phương án SXKD, marketing, kế toán, kiểm toán, thuế, nghiệp vụ bán hàng, tín
dụng nội bộ, kiểm soát, ….
|
Trđ
|
1.080
|
1.080
|
1.080
|
3.240
|
3.240
|
|
+
|
Số lớp dự kiến tổ chức
|
Lớp
|
6
|
6
|
6
|
18
|
|
|
+
|
Số người tham dự
|
người
|
300
|
300
|
300
|
900
|
|
|
-
|
Tổ chức tập huấn chuyên đề: chuyển
đổi số
|
Trđ
|
150
|
150
|
150
|
450
|
450
|
|
+
|
Số lớp dự kiến tổ chức
|
Lớp
|
1
|
1
|
1
|
3
|
|
|
+
|
Số người tham dự
|
người
|
50
|
50
|
50
|
150
|
|
|
3.2.2
|
Đào tạo Sơ cấp nghề giám đốc HTX
|
Trđ
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
3.000
|
|
3.000
|
|
Số lớp dự kiến tổ chức
|
Lớp
|
1
|
1
|
1
|
3
|
|
|
|
Số người tham dự
|
người
|
50
|
50
|
50
|
150
|
|
|
4
|
Đưa lao động trẻ về làm việc tại
các tổ chức HTX
|
Trđ
|
655,2
|
1.310,4
|
1.965,6
|
3.931,2
|
|
3.931,2
|
-
|
Số người dự kiến hỗ trợ
|
người
|
10
|
20
|
30
|
30
|
|
|
5
|
Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu,
tuyên truyền hỗ trợ cho tổ chức HTX
|
Trđ
|
930
|
230
|
230
|
1.390
|
1.390
|
|
5.1
|
XD trang Website
|
Trđ
|
700
|
|
|
700
|
700
|
|
5.2
|
Chi phí vận hành trang Website
|
Trđ
|
80
|
80
|
80
|
240
|
240
|
|
5.3
|
Phần mềm báo cáo tài chính, kiểm
toán, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
|
Trđ
|
150
|
150
|
150
|
450
|
450
|
|
-
|
Số HTX dự kiến hỗ trợ
|
|
30
|
30
|
30
|
90
|
90
|
|
6
|
Xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường
|
|
100
|
100
|
100
|
300
|
|
300
|