CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 591/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 22
tháng 10 năm 2023
|
BÁO CÁO
SƠ KẾT VIỆC THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT SỐ 119/2020/QH14 NGÀY 19/6/2020 CỦA QUỐC HỘI VỀ THÍ ĐIỂM TỔ CHỨC MÔ
HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ VÀ MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ PHÁT TRIỂN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
Kính gửi: Quốc hội;
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị quyết số 119/2020/QH14
ngày 19/6/2020 về thí điểm tổ chức mô hình
chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà
Nẵng (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 119/2020/QH14). Tại Nghị quyết số 119/2020/QH14
đã giao Chính phủ chậm nhất trong quý IV năm 2023 báo cáo sơ kết việc
thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính
sách đặc thù tại thành phố Đà Nẵng trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội
xem xét, quyết định.
Thực hiện nhiệm vụ Quốc hội giao tại Nghị quyết số 119/2020/QH14, Chính
phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Thành phố Đà Nẵng và các
Bộ, ngành liên quan tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14
và xây dựng Báo cáo của Chính phủ sơ kết việc thực hiện thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù tại thành phố Đà
Nẵng trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội theo quy định.
Thực kiện ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật tại văn bản số 2253/BC-UBPL
ngày 16/10/2023 và Thông báo số 2896/TB-TTKQH ngày 19/10/2023 của Tổng
Thư ký Quốc hội, Chính phủ báo cáo Quốc hội sơ kết việc thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển
thành phố Đà Nẵng với những nội dung cụ thể sau:
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
1. Đặc điểm tình hình
1.1. Khái quát chung thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại
I trực thuộc Trung ương[1] và là trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ của khu vực miền Trung
- Tây Nguyên. Theo số liệu niên giám thống kê
năm 2022, thành phố Đà Nẵng có 1.284,7 km2 diện tích tự nhiên[2]; dân số trung
bình là 1.220,2 nghìn người; có 08 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 06 quận, 02 huyện) và 56 đơn vị hành
chính cấp xã (gồm 45 phường và 11 xã).
1.2. Bối cảnh thực hiện thí điểm tổ chức mô
hình chính quyền đô thị
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 của
Quốc hội, thành phố Đà Nẵng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như: Thiên
tai, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở khu vực đô thị của thành phố có bước phát triển
nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng bộ, quy mô kinh tế của
thành phố chưa đạt kỳ vọng.
Tuy nhiên, với sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và sự lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt của Thành ủy Đà Nẵng, UBND thành phố Đà Nẵng đã tập trung chỉ
đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt triển khai đồng bộ
các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện hiệu quả việc thí điểm tổ chức mô hình chính
quyền đô thị, góp phần sớm kiểm soát, khống chế dịch bệnh Covid-19, từng bước ổn
định, phục hồi tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu
đạt kết quả tốt[3],
tiến độ các công trình động lực, trọng điểm được đẩy nhanh. Các chương trình an
sinh xã hội được duy trì thực hiện tốt, trong đó có chính sách hỗ trợ
các đối tượng bị ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19. An ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn thành phố được bảo đảm.
2. Việc ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển
khai thực hiện
2.1. Ở trung ương
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số
119/2020/QH14 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2021/NĐ-CP
ngày 29/3/2021 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số
119/2020/QH14. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 675 biên chế công chức của 45
phường của thành phố Đà Nẵng chuyển thành biên chế công chức thuộc quận tại
Quyết định số 1575/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
biên chế công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước của các cơ
quan hành chính nhà nước và biên chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động
trong phạm vi cả nước năm 2022.
Các Bộ, cơ quan trung ương theo chức năng, thẩm quyền đã có các
văn bản hướng dẫn trong quá trình triển khai thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng theo Nghị quyết của Quốc
hội và Nghị định của Chính phủ.
2.2. Ở địa phương
- Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TU ngày
10/8/2020, Nghị quyết số 342/NQ-HĐND ngày 09/12/2020 tổ chức triển khai thực hiện
Nghị quyết số 119/2020/QH14.
- UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành Kế hoạch số 6499/KH-UBND ngày
01/10/2020 về triển khai Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội và Chỉ thị số
41-CT/TU của Thành ủy; Kế hoạch số 70/KH-UBND ngày 14/4/2021 về
triển khai Nghị định số 34/2021/NĐ-CP của Chính phủ; ban hành Bộ tiêu chí và
quy trình theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm mô hình tổ
chức chính quyền đô thị[4] và
các văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện về tổ chức bộ máy, quản lý cán bộ,
công chức, viên chức phù hợp[5]
với thực tế tại địa phương.
Thường trực Thành ủy và chính quyền thành phố Đà Nẵng đã làm việc trực
tiếp với 06/06 quận về tình hình thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị. Sở Tài chính thành phố Đà Nẵng chủ trì phối hợp Sở Nội vụ kiểm tra,
theo dõi tình hình thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính
quyền đô thị tại các quận trên địa bàn thành phố và xử lý, kịp thời hướng dẫn
giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện liên quan đến quản
lý ngân sách.
Nhìn chung, công tác ban hành văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn triển khai thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị đã được Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan trung ương, các cấp ủy đảng và chính
quyền thành phố triển khai nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ và nhận được sự ủng hộ, đồng
thuận của cán bộ, công chức, viên chức và người dân trên địa bàn thành phố[6].
3. Công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền và tổ
chức sơ kết
3.1. Công tác phổ biến, quán triệt và tuyên truyền
- Về thực hiện công tác phổ biến, quán triệt
Thành ủy Đà Nẵng đã tổ chức Hội nghị phổ biến, quán triệt
Nghị quyết số 119/2020/QH14 và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP đến cán bộ chủ
chốt các cấp.
Ban Tuyên giáo Thành ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố,
các tổ chức chính trị - xã hội, các sở, ban, ngành thành phố tuyên truyền, phổ
biến thường xuyên nội dung Nghị quyết số 119/2020/QH14, Nghị định số 34/2021/NĐ-CP
trong cán bộ đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân.
Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của thành phố biên soạn,
phát hành 5.000 cuốn Sổ tay hỏi - đáp về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng,
biên soạn và phát hành gần 10.000 tờ gấp, tờ rơi cấp phát đến tổ
dân phố, cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBMTTQVN) thành phố
phát hành 1.500 cuốn sổ tay hướng dẫn công tác giám sát, phản biện xã hội của
MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Sở Nội vụ in tập tài liệu gồm hệ thống các văn bản triển khai thí điểm
chính quyền đô thị gửi các cơ quan, đơn vị. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao,
các cơ quan chuyên môn của UBND thành phố đã tổ chức các lớp tập huấn chuyên
sâu để triển khai thực hiện thí điểm theo lĩnh vực chuyên ngành.
- Về thực hiện công tác tuyên truyền
Ban Tuyên giáo Thành ủy đã đưa nội dung tuyên truyền về thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị trong các hội nghị giao ban báo chí định kỳ,
giao ban công tác tuyên giáo định kỳ hằng quý, các bản tin thông tin nội bộ hằng
tháng; đồng thời chỉ đạo các cơ quan báo, đài thành phố mở các chuyên trang,
chuyên mục phản ánh kịp thời hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành
trong quá trình thực hiện.
Các cơ quan báo chí, Đài Phát thanh - Truyền hình thành phố đã tập
trung công tác tuyên truyền, thường xuyên phổ biến về việc thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị[7];
Trang thông tin điện tử của các sở, ngành, quận, phường và Đài phát thanh quận,
phường đăng tải Nghị quyết số 119/2020/QH14, Nghị định số 34/2021/NĐ-CP và các
văn bản triển khai thực hiện.
Các quận, phường thông báo trên nền tảng mạng xã hội facebook, zalo và
tuyên truyền cổ động trực quan trên các trục đường chính của quận, phường; tổ
chức nhiều Hội thi trực tuyến tìm hiểu về chính quyền đô thị thu hút hàng
trăm lượt cán bộ, công chức, viên chức tham gia. Các phường phổ
biến các chủ trương, quy định về thí điểm chính quyền đô thị thông qua các cuộc
họp của cấp ủy chi bộ, ban công tác mặt trận và tổ dân phố ở
khu dân cư.
Kết quả khảo sát tháng 7/2023 cho thấy, nhờ làm tốt công tác
phổ biến, quán triệt, tuyên truyền nên 100% cán bộ, công chức, viên chức và 83,3% người
dân đã nắm được chủ trương, quá trình thành phố Đà Nẵng thực
hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị[8]
(tăng 3% so với khảo sát năm 2022).
3.2. Công tác sơ kết của chính quyền địa phương
Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức Hội nghị sơ kết 01 năm thực hiện thí điểm
tổ chức mô hình chính quyền đô thị vào tháng 8/2022, trên cơ sở đó, thành phố đã
ban hành Kế hoạch số 11/KH-UBND ngày 17/01/2023 triển khai nhiệm vụ theo dõi,
đánh giá và tổ chức sơ kết thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị
và một số cơ chế, chính sách đặc thù tại thành phố Đà Nẵng năm 2023. Theo đó,
các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân (UBND) các quận, huyện đã tổ chức sơ kết
trước ngày 01/3/2023. Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức khảo sát ý kiến
của cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố và
người dân về kết quả thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị trên
địa bàn thành phố.
Thường trực HĐND thành phố tiến hành đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố và đánh
giá kết quả giám sát, phản hiện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính
trị - xã hội các cấp của thành phố trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị từ ngày
01/7/2021. Ban Thường trực UBMTTQVN thành phố đánh giá kết quả giám sát,
phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
các cấp của thành phố trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình
chính quyền đô thị từ ngày 01/7/2021. Trên cơ sở đó thành phố Đà Nẵng đã
hoàn thiện dự thảo Báo cáo sơ kết và tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện thí
điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng vào đầu tháng 7/2023, phối hợp
với Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện thí
điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù
phát triển thành phố Đà Nẵng vào ngày 30/8/2023.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ
1. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương thành phố
1.1. Tổ chức và hoạt động của HĐND thành phố
a) Về số lượng, cơ cấu đại biểu HĐND; cơ cấu của Thường trực
HĐND, các Ban của HĐND
Số lượng đại biểu HĐND thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2021-2026 là 52 đại
biểu[9].
Cơ cấu Thường trực HĐND thành phố thực hiện theo Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, gồm có Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 04 Trưởng Ban. Các Ban
HĐND thành phố thực hiện theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 (quy định Ban của HĐND
thành phố có không quá 02 Phó Trưởng ban là đại biểu hoạt động
chuyên trách), theo đó có tổng số 12 lãnh đạo Ban là đại biểu hoạt
động chuyên trách (gồm 04 Trưởng Ban và 08 Phó Trưởng Ban). Các đại biểu
HĐND thành phố chia làm 07 tổ đại biểu phụ trách, theo dõi 07 quận, huyện. Số
lượng, cơ cấu thành viên của các Ban đảm bảo về chuyên
môn, nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định
của pháp luật.
HĐND thành phố đã ban hành Quy chế hoạt động của HĐND thành phố[10], ký kết Quy chế
phối hợp giữa 4 cơ quan: Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND thành phố,
UBND thành phố, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố. Ban
Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quy chế phối hợp giữa Đảng đoàn HĐND thành phố với
Ban Thường vụ các quận ủy, huyện ủy trong công tác lãnh đạo và
giám sát thực hiện nhiệm vụ theo quy định, phù hợp với tình hình thực hiện thí điểm
tổ chức mô hình chính quyền đô thị[11], trong đó đã quy định rõ phạm
vi, nguyên tắc, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan.
b) Về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND thành phố
HĐND thành phố đã thực hiện đúng, đầy đủ các nhiệm vụ được bổ sung, điều
chỉnh theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 trong việc quyết toán ngân sách, phân bổ
ngân sách; giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và việc thực hiện nghị
quyết của HĐND thành phố trên địa bàn quận, phường; giám sát hoạt động của UBND
quận, UBND phường, Tòa án nhân dân (TAND) quận, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
quận...
HĐND thành phố đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-HĐND ngày 14/7/2022 quy
định một số hoạt động, giám sát của Thường trực HĐND thành phố, các
Ban HĐND thành phố, Tổ đại biểu HĐND thành phố và đại biểu HĐND
thành phố khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị;
xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát theo đúng quy định của pháp luật, có
trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với đặc điểm và yêu cầu trong tình hình thực hiện
thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị.
- Về giám sát hoạt động UBND quận, UBND phường:
Thường trực HĐND thành phố, các Ban HĐND thành phố, các Tổ đại biểu HĐND thành
phố và đại biểu HĐND thành phố đã xây dựng kế hoạch giám sát ngay từ đầu
năm, trong đó xác định rõ nội dung giám sát chuyên đề, nội dung chất vấn,
nội dung giải trình, thời gian thực hiện, đối tượng giám sát,... đảm bảo nội
dung giám sát là những vấn đề dân sinh bức xúc; các tồn tại,
hạn chế trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được đông đảo nhân dân quan tâm; những
vấn đề phát hiện qua hoạt động giám sát, khảo sát của các
Ban, qua thông tin báo chí, dư luận xã hội và kết luận, chỉ đạo của Thường
trực, Thường vụ Thành ủy.
Hình thức giám sát được thực hiện linh hoạt và đa dạng, phù hợp với thực
tiễn, nhất là giai đoạn thực hiện phòng chống dịch, cụ thể là: Tăng
cường giám sát chuyên đề; kết hợp giám sát trực tiếp và giám sát qua báo cáo, giám sát
thường kỳ và giám sát đột xuất, tổ chức giám sát theo từng nhóm
đối tượng, mở rộng hoạt động giám sát xuống tới cơ sở, nhất là ở
các địa bàn không tổ chức HĐND, đẩy mạnh việc tổ chức giám sát tới tận thôn, tổ
dân phố, trực tiếp tới từng công trình, dự án cụ thể. Kết luận của nhiều cuộc giám sát,
khảo sát được sử dụng làm căn cứ để Thường trực HĐND tổ chức chất vấn, giải
trình, làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, xác định giải pháp, lộ
trình khắc phục, xử lý tồn tại, hạn chế, vướng mắc.
Để tăng hiệu quả
các cuộc giám sát, thành phần mời
dự được mở rộng, gồm đại diện cơ quan cấp trên, các cơ quan chuyên môn, các
chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực thực hiện giám sát. Quy trình giám sát
đảm bảo theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015. Điểm mới trong hoạt động giám sát của Thường trực HĐND thành
phố từ đầu nhiệm kỳ đến nay là hàng quý tổ chức tiếp xúc cử tri chuyên đề (đã tổ
chức 02 cuộc), phiên giải trình giải quyết đơn thư (đã tổ chức 03 phiên đối với 13 trường hợp)
và chương trình “HĐND với cử tri” (đã tổ chức 04 chương trình). Các thành viên
trong Thường trực HĐND thành phố được phân công theo dõi hoạt động của các Tổ đại
biểu, đồng thời theo dõi địa bàn để kịp thời báo cáo tình hình, qua đó các Tổ đại biểu, đại
biểu HĐND thành phố tăng cường hơn hoạt động của mình tại đơn vị bầu cử theo quy
định.
Thường trực và các Ban của HĐND thành phố đã tăng cường các hoạt động giám sát,
khảo sát chuyên đề giữa 2 kỳ họp; duy trì các phiên họp thường kỳ hàng tháng,
hàng tuần nhằm giám sát tiến độ triển khai thực hiện nghị quyết của
HĐND thành phố, việc thực hiện cam kết tại phiên chất vấn và
trả lời chất vấn, việc giải quyết các ý kiến, kiến
nghị của cử tri và các kiến nghị qua giám sát. Thường trực và các Ban của HĐND
thành phố đã tổ chức nhiều đoàn giám sát làm việc với các quận, phường về tình
hình thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với việc triển khai thí điểm mô hình tổ
chức chính quyền đô thị nhằm kịp thời đôn đốc, chỉ đạo giải quyết những
vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Từ tháng 7/2021 đến nay, Thường trực và các Ban của HĐND thành phố đã tổ chức
02 đoàn, 12 tổ để thực hiện giám sát đối với 5/6 quận và tất cả 45 phường
trên địa bàn thành phố.
- Về giám sát hoạt động VKSND và TAND quận:
HĐND, Thường trực và các Ban của HĐND thành phố đã tổ chức giám sát hoạt
động của VKSND quận và TAND quận theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2
Nghị quyết số 119/2020/QH14. Qua công tác giám sát cho thấy VKSND các quận
tiếp tục tăng cường, thực hành tốt quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp ở địa phương; TAND quận thực hiện tốt chức năng xét
xử sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; bảo đảm thực hiện các yêu
cầu về chế độ thông tin, báo cáo kết quả công tác cho HĐND thành phố, Quận ủy,
UBND các quận, qua đó giúp các cơ quan kịp thời chỉ đạo, giám sát
đối với các cơ quan này khi thực hiện thí điểm tổ chức mô
hình chính quyền đô thị.
Hằng năm, Ban Pháp chế HĐND thành phố tổ chức giám sát hoạt động của
VKSND, TAND đối với ít nhất 02 quận, huyện và thực hiện
giám sát qua báo cáo. Trong năm 2023, Ban Pháp chế HĐND thành phố đã tổ chức
giám sát chuyên đề công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn về
lĩnh vực tư pháp tại 7 đơn vị[12]
trên địa bàn thành phố.
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của VKSND và TAND các quận đã có
nhiều đổi mới, chỉ tiêu nghiệp vụ đều đạt và vượt so với kế hoạch khi thực hiện
thí điểm mô hình chính quyền đô thị.
- Về công tác tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn
thư:
HĐND thành phố đã đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong việc theo dõi, giám sát, đôn đốc giải
quyết đơn thư, kiểm soát công việc; triển khai phần mềm cơ sở dữ liệu tiếp công
dân, giải quyết đơn thư dùng chung trên địa bàn thành phố, giúp cho công tác tiếp nhận,
theo dõi xử lý và giám sát giải quyết đơn, thư của công dân được
thuận lợi, đảm bảo đúng quy trình và thời gian quy định.
HĐND thành phố đã ban hành Quy định về
tiếp công dân và xử lý đơn của HĐND thành phố, tạo hành lang pháp lý cho việc
liếp nhận, xử lý, giải quyết đơn thư của công dân, tổ chức và hoạt động
giám sát trong công tác tiếp dân, xử lý đơn thư. Định kỳ hàng tháng, đại biểu
HĐND thành phố tham gia tiếp dân định kỳ tại các Tổ Đại biểu HĐND tại
địa bàn ứng cử đảm bảo đúng quy định.
1.2. Tổ chức và hoạt động của UBND, Chủ
tịch UBND thành phố
a) Cơ cấu tổ chức của UBND thành phố
Cơ cấu tổ chức của UBND thành phố Đà Nẵng gồm Chủ tịch, 04 Phó Chủ tịch
(hiện đang khuyết 01 Phó Chủ tịch) và 21 Ủy viên UBND (trong đó có 19 Ủy viên
là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố, 01 Ủy viên là
Giám đốc Công an thành phố, 01 Ủy viên là Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự
thành phố; hiện đang khuyết 01 Ủy viên là Giám đốc Sở Y tế).
b) Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND, Chủ tịch
UBND thành phố; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của UBND thành phố đối với UBND quận.
UBND, Chủ tịch UBND thành phố đã thực hiện nghiêm túc, đầy đủ
các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định
khác của pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định tại Nghị quyết số 119/2020/QH14.
- Chủ tịch UBND thành phố chỉ đạo toàn bộ hoạt động của UBND thành phố và hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật, cùng tập
thể Thành ủy chỉ đạo UBND thành phố xây dựng bộ máy chính quyền địa
phương trong sạch, vững mạnh và hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cụ thể
hóa, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết
định của cấp ủy, HĐND thành phố và các bộ, cơ quan trung ương về kinh tế - xã hội,
quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Chủ tịch
UBND thành phố đã ban hành các Quyết định bổ nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND
của tất cả các quận, huyện trên địa bàn.
- UBND thành phố ban hành chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật (VBQPPL) hàng năm, chương trình công tác hàng
tháng, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành, các địa phương và giao chỉ
tiêu kế hoạch nhà nước. Trên cơ sở đó, các sở, ngành, quận, huyện chủ động
triển khai thực hiện. Đối với những công việc có liên quan đến nhiều cơ quan
khác nhau, UBND thành phố quy định rõ đơn vị chủ trì và đơn vị phối
hợp, quy định việc lấy ý kiến[13].
Đối với những vấn đề vượt quá thẩm quyền và khả năng giải
quyết hoặc những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau giữa lãnh đạo các sở, ngành, chính quyền địa phương thì báo
cáo Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND thành phố giải quyết. Đối với những vấn đế quan
trọng liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương, Chủ tịch UBND thành phố
thành lập các tổ chức tư vấn giải quyết. Điều
này thể hiện sự đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành của UBND thành phố.
- Trong chỉ đạo, điều hành, UBND thành phố đã chỉ đạo kịp thời, sâu sát
từng trường hợp cụ thể, tình huống đột xuất. Vì vậy,
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, thẩm quyền của UBND, Chủ tịch UBND và các
thành viên UBND thành phố trên các lĩnh vực đạt nhiều kết quả, vừa làm tốt công
tác kiểm tra nắm bắt tình hình tại cơ sở, vừa tập trung cải thiện lề lối làm
việc, thể hiện sự quyết tâm của chính quyền thành phố trong lãnh đạo, điều
hành, đổi mới, sáng tạo để thúc đẩy thành
phố phát triển nhanh và bền vững.
- UBND thành phố phối hợp với các Ban của HĐND thành phố để triển
khai kịp thời nghị quyết của HĐND thành phố; định kỳ hàng tháng, Thường trực
HĐND thành phố; Chủ tịch, các Phó chủ tịch UBND thành phố và Ban
Thường trực UBMTTQ thành phố tổ chức họp để thống nhất quan điểm thực
hiện đối với những vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp HĐND. Những
nhiệm vụ, quyền hạn được điều chỉnh, bổ sung theo Nghị quyết số 119/2020/QH14
được UBND thành phố thực hiện thuận lợi, đầy đủ và đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
- Để tăng tính chủ động, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và chính
quyền địa phương, thành phố đã đẩy mạnh thực hiện phân cấp, ủy
quyền, tạo điều kiện để các quận thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ khi không tổ
chức HĐND quận. Mục tiêu là thực hiện cải cách hành chính, rút ngắn quy
trình, thủ tục, giảm khâu trung gian, giảm thời gian giải quyết, nâng cao
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, đề cao vai trò quản lý trực tiếp của cơ
quan chuyên môn và chính quyền địa phương ở quận, phường. Công tác chỉ đạo, điều hành của
UBND cấp trên đối với cấp dưới đảm bảo thông suốt, nâng cao tính chủ động
của cơ quan hành chính và trách nhiệm người đứng đầu.
- UBND thành phố đã đẩy mạnh, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong giải quyết công việc và phối hợp công tác, kiểm soát tiến độ thực hiện
nhiệm vụ và cập nhật thường xuyên trên phần mềm Quản lý theo dõi công việc nhằm
chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính; thái độ, tinh thần,
trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ, công
chức, viên chức.
c) Về kết quả thực hiện việc quyết định chủ trương đầu tư chương
trình, dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn đầu tư công thuộc
quận, phường quản lý theo quy định của Luật Đầu tư công.
Theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 thì thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư chương
trình, dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn đầu tư công thuộc quận, phường quản
lý theo quy định của Luật Đầu tư công được giao cho UBND thành phố; quận không
còn thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư và trực tiếp giao danh mục chi tiết
các dự án được bố trí kế hoạch vốn đầu tư công hàng năm trên
cơ sở tổng số vốn phân cấp được HĐND thành phố giao (cấp quận không còn là một
cấp ngân sách nên không còn vốn phân cấp và thay thế là vốn bố trí cho các công
trình dân sinh). Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thành phố đã thực hiện
ủy quyền cho UBND các quận quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án dân
sinh được thực hiện theo danh mục công trình cụ thể đã được HĐND thành
phố thông qua và UBND thành phố giao tại Quyết định giao kế hoạch vốn hàng năm.
Việc ủy quyền đó đã nhận được đồng thuận cao và tạo sự thuận lợi, chủ động
cho UBND các quận trong việc triển khai thủ tục chuẩn bị đầu tư, thực hiện các
dự án trên địa bàn các quận được Thành ủy, HĐND và UBND thành phố giao, phù hợp
với điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành
phố.
d) Về số lượng, tổ chức và hoạt động của các cơ quan
chuyên môn, cơ quan hành chính khác và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
UBND thành phố.
- Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thực hiện
theo quy định của Chính phủ. Hiện nay, số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố
Đà Nẵng là 19 cơ quan. Cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn từng bước được
sắp xếp hợp lý, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định; đảm bảo tinh gọn,
hiệu quả, có sự phối hợp giữa các phòng ban trong đơn vị, tránh tình trạng chồng
chéo chức năng và phù hợp với tính chất quản lý ở khu vực đô thị.
Cơ quan chuyên môn của UBND thành phố thực hiện phối hợp thường xuyên
với UBND quận, huyện, đảm bảo chỉ đạo kịp thời về công tác chuyên môn.
- Các cơ quan chuyên môn đã tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện tốt chức
năng quản lý nhà nước, quản lý ngành, lĩnh vực được giao, thực
hiện có hiệu quả những nhiệm vụ được phân cấp, ủy quyền, giúp UBND thành phố quản
lý nhà nước trên các lĩnh vực và chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng một cách hiệu quả.
đ) Đánh giá hiệu quả việc giải quyết và thực hiện thủ tục hành chính giữa
UBND thành phố với UBND quận.
- Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được duy trì có hiệu quả, đồng bộ
cả ba cấp thành phố và 100% quận, huyện và phường, xã. Thành phố Đà Nẵng đã triển
khai Đề án thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên địa
bàn thành phố cho bưu điện, theo đó tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của
UBND quận, huyện có các công chức thuộc Văn phòng, các phòng chuyên môn và nhân viên bưu
điện được cử đến làm việc. Thực hiện Quyết định
số 1291/QĐ-TTg ngày 07/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ, Công
an quận, huyện đã bố trí nhân sự để tiếp nhận và trả kết quả trên lĩnh vực hộ khẩu,
chứng minh nhân dân tại Bộ phận một cửa UBND các quận, huyện.
- Thực hiện quy định Luật Cư trú và Nghị định số 104/2022/NĐ-CP ngày
21/12/2022 của Chính phủ, UBND thành phố đã ban hành các văn bản chỉ đạo
các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai sử dụng thông tin tại Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư khi thực hiện tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính,
không được yêu cầu người dân cung cấp, xuất trình sổ hộ khẩu giấy, giấy tạm
trú, kể cả xác nhận nơi cư trú khi đã có thông tin, dữ liệu
tra cứu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
- UBND thành phố đã ban hành văn bản triển khai thực hiện Công văn
số 165/TTg-KSTT ngày 20/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về cắt giảm, đơn giản
hóa quy định kinh doanh, phân cấp giải quyết thủ tục hành
chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ để cải thiện môi
trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Những năm gần
đây, chỉ số cải cách hành chính của thành phố luôn nằm tốp đầu
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (năm 2020 xếp thứ 6, năm
2021 xếp thứ 3 và năm 2022 xếp thứ 5).
2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở quận
2.1. Cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương ở
quận
- Theo Nghị quyết số 119/2020/QH14, chính quyền địa phương ở quận là
UBND quận, UBND quận là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, làm việc theo chế độ
thủ trưởng. UBND quận gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và công
chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận. Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND quận,
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc
UBND quận là công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của UBND quận. Tuy nhiên, theo
Nghị định số 34/2021/NĐ-CP thì trong cơ cấu tổ chức của UBND quận bao gồm cả
Trưởng Công an quận và Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự
quận. Quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cần phải bảo đảm sự lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác đảm bảo
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được thống nhất,
hiệu quả.
Thực tế trong thời gian thực hiện thí điểm tổ chức
chính quyền đô thị, việc thực hiện cơ cấu tổ chức của UBND quận theo quy định của
Nghị định số 34/2021/NĐ-CP với sự tham gia của Trưởng Công
an quận, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận vào Ban Thường vụ, cấp ủy,
chính quyền quận đã góp phần bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện,
kịp thời của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc phát hiện, giải quyết
các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự từ sớm, từ xa được thống
nhất, hiệu quả. Đồng thời bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa UBND quận và người đứng đầu cơ
quan công an, quân sự để thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng an
ninh, trật tự trên địa bàn.
- Cơ cấu nhân sự của UBND quận phù hợp với cơ chế làm việc
theo chế độ thủ trưởng, phát huy vai trò của người đứng đầu;
tổ chức của UBND quận gọn nhẹ hơn, hoạt động nhanh nhạy, thông suốt, tích cực,
chủ động điều hành, quyết định nhanh chóng những vấn đề cấp bách của
địa phương trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của mỗi trị
trí việc làm, giảm thời gian giải quyết công việc.
2.2. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND quận
- UBND quận thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại
Điều 5 Nghị quyết số 119/2020/QH14, Theo đó, chức năng, nhiệm
vụ của UBND quận được điều chỉnh phù hợp, chưa phát sinh những khó khăn, vướng
mắc lớn. UBND các quận đã triển khai thực hiện trình tự xây dựng, tổ chức
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và phê duyệt kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của phường trực thuộc.
- Nghị quyết số 119/2020/QH14 quy định bổ sung chức năng, nhiệm
vụ đã tạo điều kiện cho UBND quận quản lý, điều hành kịp thời các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phát huy vai trò của người đứng đầu. Quá
trình chỉ đạo, điều hành của UBND quận hiệu quả trong điều kiện không tổ chức
HĐND. Trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch UBND quận được nâng cao. Các kế hoạch, chương
trình sau khi thành phố phê duyệt được triển khai thực hiện đúng quy trình, thời
gian; có sự giám, sát, chỉ đạo từ thành phố, đảm bảo đúng thẩm quyền. Việc điều
chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND quận cho HĐND thành phố, UBND
thành phố và UBND quận cơ bản phù hợp.
- UBND quận đã ban hành quy chế hoạt động phù hợp chế độ thủ trưởng;
phân công trách nhiệm cho từng thành viên phụ trách công việc một cách cụ
thể; quy định quan hệ phối hợp giải quyết công việc giữa các cơ quan chuyên
môn. Các phòng chuyên môn chủ động tham mưu giải quyết công việc được phân công, đáp ứng
được yêu cầu của công dân, tổ chức.
2.3. Về cơ chế làm việc của UBND
quận, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND
quận
- Quy định UBND quận làm việc theo chế độ thủ trưởng bảo đảm phù hợp với
chức năng là cơ quan hành chính tại quận, đồng thời đề cao vai trò, trách nhiệm, phát huy
năng lực, tinh thần chủ động của người đứng đầu là Chủ tịch UBND quận.
UBND quận đã ban hành Quy chế làm việc phù hợp với mô hình mới, củng cố các
cơ quan chuyên môn, phân công nhiệm vụ cụ thể. Chủ tịch UBND quận là người đứng
đầu UBND quận, chịu trách nhiệm trước HĐND, UBND, Chủ tịch
UBND thành phố và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
UBND quận. Chủ tịch UBND quận bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân
chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác đối với Chủ
tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND phường và người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu
cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận; tuyển dụng, quản lý công chức, viên chức thuộc phạm
vi quản lý theo quy định của pháp luật; ký các văn bản của
UBND quận.
- Thực hiện làm việc theo chế độ thủ trưởng nhưng hoạt động của UBND,
Chủ tịch UBND quận được đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự kiểm tra, giám
sát của các cơ quan có thẩm quyền và sự giám sát của người dân nên vẫn duy trì được cơ chế
kiểm soát quyền lực đối với cơ quan, chức danh này.
2.4. Đánh giá việc tổ chức hội nghị đối
thoại, hoạt động tiếp công dân của Chủ tịch UBND quận
- Việc đối thoại, tiếp nhận và giải quyết ý kiến của người dân được thực
hiện đúng quy định tại Điều 9 Nghị định số 34/2021/NĐ-CP. Trên cơ
sở các quy định của Thành ủy về tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với
người dân và xử lý đơn, thư và và hướng dẫn của HĐND thành phố, UBND các quận đã
cụ thể hóa, ban hành văn bản triển khai thực hiện, quy định rõ nguyên
tắc đối thoại với Nhân dân, trách nhiệm tổ chức hội nghị đối thoại, nội
dung và hình thức đối thoại.
- Qua hơn 02 năm thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị,
công tác đối thoại với Nhân dân của Chủ tịch UBND quận được thực hiện theo quy
định, góp phần phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân. Qua đối thoại với Nhân
dân, Chủ tịch UBND quận đã trực tiếp lắng nghe và tiếp thu những ý kiến, kiến
nghị của người dân đóng góp xây dựng chính quyền; giúp Chủ tịch UBND
quận chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kịp thời xử lý, giải quyết các vấn đề
bức xúc của người dân. Theo kết quả tổng hợp từ 01/7/2021 đến 31/3/2023, UBND quận
đã tiếp nhận 1.189 ý kiến, đề xuất của người dân và tỷ lệ giải quyết trên 85%.
Chủ tịch UBND quận đã tổ chức 48 cuộc đối thoại với 4.479 người tham gia (cả trực
tiếp và trực tuyến). Các buổi đối thoại được tổ chức chất lượng, hiệu
quả. Thông qua đối thoại trực tiếp với Nhân dân đã kịp thời xử lý, giải quyết
các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của
người dân; tiếp thu các ý kiến, phản ánh và đóng góp của người dân
trong xây dựng Đảng, chính quyền.
2.5. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của UBND quận đối với
UBND phường trực thuộc; hiệu quả giải quyết, thực hiện thủ tục hành chính giữa
UBND quận với UBND phường
- Công tác chỉ đạo của UBND quận đối với UBND các phường trực thuộc
được thực hiện đúng quy định, tăng cường hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm tính thống
nhất, thông suốt của của hệ thống hành chính nhà nước từ quận đến cơ sở.
- Tại khoản 7 Điều 7 Nghị định số 34/2021/NĐ-CP quy
định khi cần thiết, Chủ tịch quận ủy quyền cho Phó Chủ tịch quận, người đứng
đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận và Chủ tịch phường để giải
quyết một hoặc một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của UBND quận. Theo đó, Chủ tịch
UBND quận đã thực hiện ủy quyền cho Chủ tịch UBND phường một số nội dung trong
hoạt động quản lý, điều hành, góp phần tạo điều kiện thuận lợi và chủ động
hơn cho Chủ tịch UBND phường trong việc giải quyết thủ tục
hành chính cho các tổ chức, đơn vị và người dân tại địa phương, rút ngắn thời gian
giải quyết, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, bảo đảm cung ứng các dịch
vụ công cơ bản, thiết yếu cho người dân. Đồng thời, việc ủy quyền
cho Chủ tịch UBND phường cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các phường trong
việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực
kinh tế - xã hội trên địa bàn theo phân cấp, ủy quyền của chính quyền đô thị, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của dân cư đô thị.
2.6. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Quận ủy đối với UBND
quận
- Ban Thường vụ quận ủy đã chỉ đạo tiến hành rà soát sửa đổi, bổ sung
quy chế hoạt động của cấp ủy đảng các quận, phường phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quận, phường được quy định tại Nghị
quyết số 119/2020/QH14; sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền, quy trình công
tác cán bộ ở quận, phường phù hợp với thẩm quyền công tác cán bộ của Chủ tịch
UBND quận trong mô hình chính quyền đô thị. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát theo
quy định đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng,
người đứng đầu chính quyền các cấp; hướng dẫn cấp ủy đảng các quận,
phường xây dựng quy chế hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy và Ủy ban kiểm
tra cấp ủy, quy chế phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra với các cơ
quan có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật Đảng trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ chức
mô hình chính quyền đô thị. Hướng dẫn thực hiện và tăng cường kiểm tra, giám
sát của cấp ủy gắn với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính chủ động trong
quản lý, điều hành của chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát, xây dựng chính quyền.
- UBND quận vẫn đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo và báo cáo xin ý kiến của
cấp ủy cùng cấp trước khi triển khai các chủ trương công tác lớn hoặc
công việc có liên quan đến đông đảo
Nhân dân, bảo đảm sự thống nhất trong lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chỉ
đạo của chính quyền cấp trên.
2.7. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của UBND
quận đối với UBND phường trực
thuộc; mối quan hệ phối hợp trong công tác giữa UBND quận với
các cơ quan, UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội quận
- UBND quận thường xuyên chỉ đạo UBND phường thực hiện các nhiệm vụ về
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương thông qua các hình thức
giao ban trực tiếp hoặc chỉ đạo, hướng dẫn bằng văn bản, đồng thời chỉ
đạo các phòng chuyên môn phối hợp với chính quyền địa phương ở phường
cùng giải quyết những vấn đề dân sinh, các kiến nghị, bức xúc của người dân địa
phương. Việc chỉ đạo, điều hành này được thực hiện đúng quy định, linh hoạt, đảm
bảo tính thông suốt, rút ngắn quy trình trong việc giải quyết công việc của
địa phương.
- UBND quận thường xuyên phối hợp với UBMTTQVN và các tổ chức chính trị
- xã hội trong việc vận động Nhân dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế
- xã hội, công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương; xây dựng Quy chế phối hợp
hoạt động với UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Thông qua các cuộc họp
liên tịch, họp UBND định kỳ cùng như hội nghị sơ kết, tổng kết, UBMTTQ
và các tổ chức chính trị - xã hội ở quận đã tích cực tham gia
xây dựng chính quyền, kịp thời tổng hợp các kiến nghị, phản ánh của cử tri gửi
UBND quận giải quyết theo thẩm quyền và đã giám sát việc thực hiện các
công việc của địa phương.
2.8. Về các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND quận
Số lượng và tên gọi cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận thực
hiện theo quy định của Chính phủ. Theo đó, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận
được tổ chức ổn định 12 phòng như trước khi thực hiện thí điểm, bảo đảm sự thống
nhất quản lý của địa phương và sự hướng dẫn trực tiếp của cơ quan chuyên môn cấp
trên; riêng Văn phòng HĐND và UBND quận đổi tên thành Văn phòng
UBND quận. Tuy nhiên, do việc tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận phải đảm
bảo đúng tên gọi, số lượng theo quy định hiện hành của Chính phủ nên
chưa tạo được sự linh hoạt trong việc thực hiện cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận theo hướng tinh gọn, hiệu quả phù hợp
với tình hình thực tiễn. Cụ thể, việc thực hiện sáp nhập các phòng chuyên môn
có chức năng tương đồng (Phòng Quản lý đô thị và Phòng Tài nguyên và Môi trường)
hoặc thành lập phòng chuyên môn phù hợp với thực tiễn quản lý đô thị tại thành
phố Đà Nẵng (Phòng Du lịch) chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện.
3. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở phường
3.1. Về cơ cấu tổ chức của
UBND phương
- Theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 thì chính quyền địa
phương ở phường là UBND phường, UBND phường là cơ quan hành chính
nhà nước ở phường. UBND phường gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch
và các công chức khác của phường. Chủ tịch, Phó
Chủ tịch UBND phường là công chức
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của UBND phường, được Chủ tịch UBND quận bổ nhiệm,
miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, tạm đình
chỉ công tác.
- Công chức của UBND phường thuộc biên chế công chức của UBND quận
và do UBND quận quản lý, sử dụng. Biên chế công chức
bình quân làm việc tại UBND phường là 15 người. Đây là cơ chế, chính sách
mới, tạo cơ sở cho việc chuẩn hóa đội ngũ công chức phường theo hướng
chuyên nghiệp; tạo sự chủ động, linh hoạt, đơn giản hóa thủ tục
hành chính trong công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, điều
động công chức giữa quận và phường.
- Tổ chức bộ máy chính quyền phường được tổ chức tinh gọn,
hoạt động thông suốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, không làm gián đoạn và ảnh hưởng
đến việc thực hiện nhiệm vụ của chính quyền phường. Tuy nhiên, tương tự như quy
định về cơ cấu tổ chức của UBND quận, tại Nghị định số 34/2021/NĐ-CP cũng quy định
trong cơ cấu tổ chức của UBND phường có thêm chức danh Trưởng Công an
phường.
Quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn chính quyền địa phương ở phường
cần phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy, chính
quyền địa phương đối với công tác đảm bảo an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn phường được thống nhất, hiệu quả. Trong thực tiễn thực hiện cho thấy cơ cấu tổ
chức của UBND phường theo quy định của Nghị định số 34/2021/NĐ-CP với sự tham
gia của Trưởng Công an phường, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự phường vào
Ban Thường vụ, cấp ủy, chính quyền địa phương ở phường đã góp phần bảo đảm sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, kịp thời của cấp ủy, chính quyền địa
phương trong việc phát hiện, giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh, trật
tự từ sớm, từ xa được thống nhất, hiệu quả; đồng thời bảo đảm sự phối hợp chặt
chẽ giữa UBND phường và người đứng đầu cơ quan công an, quân sự đã thực
hiện tốt các nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự
trên địa bàn.
3.2. Về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của UBND phường
- UBND phường thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều
7 Nghị quyết số 119/2020/QH14. Chức năng, nhiệm vụ của UBND phường đã được điều
chỉnh phù hợp, chưa phát sinh những khó khăn, vướng mắc lớn trong quá trình triển
khai thực hiện. Quá trình chỉ đạo, điều hành của UBND phường bảo đảm thông
suốt, hiệu lực, hiệu quả trong điều kiện không tổ chức HĐND phường.
- Hoạt động của UBND phường chịu sự giám sát của Nhân dân; phát huy quyền
làm chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; đáp ứng
sự hài lòng của người dân; tuân thủ trình tự, thủ tục, thẩm quyền được giao, theo
đúng quy định của pháp luật và Quy chế làm việc của UBND phường.
Tuy nhiên, cũng giống như UBND quận, việc quy định UBND phường là đun vị
dự toán ngân sách nên không còn nguồn tăng thu, kết dư như một cấp ngân sách
(nhu trước khi thực hiện thí điểm), theo đó đã phần nào hạn chế tính
chủ động trong việc cân đối thêm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ tại địa
phương.
3.3. Về cơ chế làm việc của UBND
phường theo chế độ thủ trưởng
- UBND phường làm việc theo chế độ thủ trưởng; Chủ tịch UBND phường là
người đứng đầu, lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc của UBND phường, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ và tuân thủ các quy định của pháp luật. Trên cơ sở
Quy chế làm việc mẫu do thành phố ban hành và hướng dẫn của UBND quận,
UBND các phường đã xây dựng và ban hành Quy chế làm việc mới thực hiện nguyên tắc
làm việc theo chế độ thủ trưởng. Quy chế làm việc đã xác định nguyên tắc, chế độ
trách nhiệm, lề lối làm việc, phương thức giải quyết công việc của
UBND phường, Chủ tịch UBND phường điều hành hoạt động của UBND phường trên cương vị là thủ
trưởng cơ quan hành chính, chịu trách nhiệm cá nhân trước UBND, Chủ tịch UBND
quận và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của UBND phường; quy định về mối quan hệ
công tác giữa UBND phường với các cơ quan, tổ chức liên quan; chế độ hội họp,
giải quyết công việc, quản lý văn bản của UBND phường; phân công nhiệm vụ đối với
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các công chức thuộc UBND phường, đảm bảo rõ
trách nhiệm đối với từng chức danh công chức trong thực hiện nhiệm vụ; đề cao và
phát huy vai trò, trách nhiệm cá nhân trong giải quyết công việc; sự phối hợp,
hỗ trợ, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc.
- Qua hơn 02 năm thực hiện thí điểm, cơ chế làm việc theo chế độ thủ
trưởng đã đề cao trách nhiệm cá nhân, phát huy năng lực, tính
chủ động, sáng tạo của Chủ tịch UBND phường; công tác chỉ đạo, điều hành của
chính quyền địa phương ở phường thông suốt, hiệu quả hơn. Mặc dù làm việc theo chế độ thủ trưởng
nhưng hoạt động của UBND, Chủ tịch UBND phường được đặt dưới sự lãnh đạo của
đảng ủy phường, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền và sự giám
sát của người dân nên vẫn duy trì được cơ chế kiểm soát quyền lực đối
với cơ quan, chức danh này.
- Mối quan hệ công tác giữa UBND, Chủ tịch UBND phường với Đảng ủy, Bí thư Đảng ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường được quy
định cụ thể, bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp,
giám sát của UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường
và của người dân trên địa bàn trong hoạt động của UBND phường.
- UBND các phường duy trì chế độ họp giao ban hàng tuần giữa Chủ
tịch với các Phó Chủ tịch và công chức phường; giao ban với tổ dân phố
để thông tin về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn, nắm bắt và xử lý
các vấn đề phát sinh; phối hợp với UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở
phường trong công tác chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích của Nhân dân. Đối với những
vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường, Chủ tịch UBND phường
tổ chức họp để thảo luận tập thể, đồng thời mời đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch
UBMTTQ phường tham dự và góp ý theo quy chế làm việc của UBND phường. Các cuộc
họp có các nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân đều được
thông tin trên các hệ thống thông tin của phường như niêm yết
tại trụ sở UBND phường, Bảng tin Nhà văn hóa và hệ thống loa truyền
thanh phường,...
- Phương thức làm việc theo chế độ thủ trưởng đã đảm bảo tính kịp thời,
nhanh nhạy của chính quyền phường khi giải quyết các nhiệm vụ phát sinh đột xuất,
nhất là trong công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 vừa qua. Việc giải quyết
các ý kiến, kiến nghị của cử tri; giải quyết các thủ tục hành chính; đảm bảo
an sinh xã hội và thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật trên địa bàn. Trách nhiệm của Chủ tịch UBND phường được nâng lên; việc quyết
định các chủ trương, biện pháp được triển khai thực hiện nhanh hơn nhưng vẫn đảm
bảo được nguyên tắc tập trung dân chủ, tuân thủ các quy định của pháp
luật. Đồng thời, giúp lãnh đạo chính quyền cấp trên có điều kiện đánh giá thực
chất năng lực công tác của Chủ tịch UBND phường trong điều hành, tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ.
3.4. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy phường đối với UBND
phường; công tác phối hợp giữa UBND phường với MTTQ và các tổ chức chính trị -
xã hội phường
a) Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy phường
đối với UBND phường
- Ban Thường vụ Đảng ủy các phường đã thực hiện sửa đổi, bổ sung quy chế
hoạt động của cấp ủy đảng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương ở phường được quy định tại Nghị quyết 119/2020/QH14;
tăng cường kiểm tra, giám sát theo quy định đối với việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của UBND, Chủ tịch UBND phường; xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát của
cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra cấp ủy, quy chế phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng
trong điều kiện thực hiện tổ chức chính quyền đô thị; tăng cường
kiểm tra, giám sát gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính chủ động
trong quản lý, điều hành của chính quyền, phát huy vai trò của MTTQ và tổ chức
chính trị - xã hội trong việc giám sát, xây dựng chính quyền.
- Đảng ủy các phường đã bổ sung, hoàn thiện Quy chế
làm việc của Đảng ủy phường, trong đó quy định rõ vai trò lãnh đạo của cấp
ủy đảng và mối quan hệ phối hợp công tác giữa chính quyền với UBMTTQ, các tổ chức
chính trị - xã hội và người đứng đầu các tổ chức trong
hệ thống chính trị; quy định rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân của
Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường chịu trách nhiệm trước Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ và Bí thư Đảng ủy về toàn bộ hoạt động
của UBND phường và các lĩnh vực được phân công trực tiếp phụ trách theo quy định
của Đảng, các quy định pháp luật có liên quan; thực hiện chế độ thông tin
báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, hoạt động của UBND phường; về việc phân
công nhiệm vụ cho các Phó Chủ tịch UBND phường, Trưởng công an phường, Chỉ huy
trưởng Ban chỉ huy quân sự phường và công chức khác làm
việc tại UBND phường, người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ trưởng tổ
dân phố.
- Theo Quy chế của Đảng ủy, hàng tháng Đảng ủy các phường ban hành nghị
quyết thường kỳ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng ở địa phương. Quá trình thực hiện nghị quyết đều có kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện để kịp thời xử lý các vấn đề đột xuất phát sinh
về kinh tế - xã hội, an ninh trật tự trên địa bàn phường.
Quá trình thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị, đảng ủy
các phường đã làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo UBND phường, Chủ tịch UBND phường
thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng được
giao, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
b) Về quan hệ phối hợp công tác với UBMTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội phường:
Quy chế hoạt động của UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường
đã được rà soát, sửa đổi cho phù hợp với mô hình chính quyền đô
thị, nâng cao chất lượng, đổi mới hình thức hoạt động để tăng cường vai trò của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát, xây dựng chính quyền
theo quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước trong điều kiện thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị.
Trong mô hình chính quyền đô thị, không còn tổ chức HĐND phường thì việc
thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
ở phường đặt ra yêu cầu cao hơn. Theo đó, UBMTTQ ở phường đã tăng cường công tác phối hợp
với các tổ chức thành viên triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát,
phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở, ban
hành quy chế phối hợp trong công tác giám sát, xây dựng chính quyền giữa MTTQ
với các tổ chức thành viên trong điều kiện không tổ chức HĐND phường nhằm đảm bảo quyền
làm chủ của Nhân dân được phát huy tối đa.
- UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường đã
phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội; phối hợp chặt chẽ với
UBND phường trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, như:
Tuyên truyền chính sách, pháp luật, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tuyên
truyền vận động người dân chấp hành quy định của pháp luật, chăm lo đời sống và
bảo vệ lợi ích của Nhân dân. Kết quả phối hợp đã góp phần
tích cực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của chính quyền địa phương ở phường,
cấp ủy, chính quyền địa phương đảm bảo kinh phí hoạt động và tạo các điều kiện
thuận lợi để UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường hoạt động hiệu
quả[14].
Thực tiễn triển khai cho thấy hoạt động của UBMTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội ở phường được thực hiện tốt, có hiệu quả, phát huy được
vai trò giám sát, phản biện xã hội trong điều kiện không tổ
chức HĐND phường, chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích của Nhân dân.
3.5. Đánh giá hiệu quả giải quyết và thực
hiện thủ tục hành chính của UBND phường
- Thực hiện quy định Chủ tịch phường được ủy quyền cho công chức Tư
pháp - Hộ tịch ký chứng thực, đến nay trên địa bàn thành phố đã có 42/45 phường
thực hiện. Số lượng chứng thực do công chức Tư pháp - Hộ tịch của
các phường thực hiện từ thời điểm được ủy quyền đến ngày 07/7/2023 là 1.253.890
văn bản. Việc thực hiện quy định này đã tạo sự hài lòng cho tổ chức, công dân
do công việc được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian,
góp phần cải cách thủ tục hành chính, tăng trách nhiệm cá nhân của công chức Tư pháp -
Hộ tịch, đồng thời đã triển khai cung cấp dịch vụ chứng thực
điện tử bản sao từ bản chính, đến nay đã có 48.964 bản sao điện tử được thực hiện
thành công trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
- Thực hiện quy định Luật Cư trú và Nghị định 104/2022/NĐ-CP ngày
21/12/2022 của Chính phủ, 100% phường trên địa bàn thành phố đã thực hiện kết nối
và sử dụng thông tin khai thác trên hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để tiếp
nhận, giải quyết thủ tục hành chính theo quy định, không yêu cầu người dân cung
cấp, xuất trình sổ hộ khẩu giấy, giấy tạm trú (kể cả xác nhận nơi cư trú) khi đã
có thông tin, dữ liệu tra cứu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
- Hiện nay, UBND các phường đang triển khai các công tác chuẩn bị tiếp
nhận và tuyên truyền phục vụ cho “3 trong 1” thủ tục: Khai sinh, đăng ký thường
trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế và khai tử, xóa thường trú, hỗ trợ mai táng phí theo Đề án 06
của Chính phủ về Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện
tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến
năm 2030.
- Đối với công tác tuyên truyền về cải cách hành chính, nhiều đơn vị đã
áp dụng những hình thức tuyên truyền hiệu quả, triển khai rộng rãi thủ tục hành
chính như thông qua nhiều kênh khác nhau như treo panô, sử dụng mạng xã hội.
Qua đó, công dân và các tổ chức nắm được cơ bản các thủ tục hành chính và dễ
dàng hơn trong việc tiếp cận các thông tin liên quan đến các thủ tục hành chính
của địa phương. Thành lập Tổ tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ và xử lý phản ánh
liên quan đến thủ tục hành chính cho công dân trong việc giải quyết thủ tục
hành chính tại phường, theo đó 100% các phường trên địa bàn đã triển khai thành
lập Tổ công nghệ số cộng đồng gắn với triển khai thực hiện Đề án 06 trên địa
bàn thành phố.
- Việc tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện theo cơ
chế một cửa, một cửa liên thông theo đúng quy trình áp dụng chung toàn
thành phố trên phần mềm một cửa điện tử dùng chung 3 cấp.
3.6. Về số lượng, chức danh, việc tuyển dụng, sử dụng,
quản lý công chức phường
- Trong mô hình chính quyền đô thị, các chức danh công chức phường bao gồm Chủ tịch
UBND phường, Phó Chủ tịch UBND phường và các chức danh công chức khác. Công chức
phường được xác định thuộc biên chế công chức của UBND quận, do UBND quận quản
lý, sử dụng. Số lượng biên chế công
chức làm việc tại UBND phường bình quân là 15 người/phường,
số bình quân này được tính cho tổng số phường của một quận. UBND thành phố
trình HĐND thành phố quyết định số lượng biên chế công chức của UBND phường
ở từng quận. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ của từng phường, UBND quận sẽ
quyết định cụ thể số lượng công chức làm việc tại UBND của từng phường trực thuộc.
- Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức phường được thực hiện như
đối với công chức quận trở lên theo Nghị định số 138/2020/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Thành phố đã quan tâm đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường,
xã. Vì vậy, đến nay 100% cán bộ, công chức phường, xã đạt chuẩn theo quy định.
- Thành phố đã có nhiều giải pháp chú trọng nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức phường, như: quy định rõ tiêu chuẩn
về trình độ chuyên môn của các vị trí chức danh; đào tạo, bồi dưỡng, thu
hút nguồn nhân lực về công tác tại phường. Năm 2022, UBND các quận đã xây dựng
đề án vị trí việc làm của công chức làm việc tại tất cả
các phường trên địa bàn thành phố để trình UBND thành phố thẩm định
và phê duyệt. Việc ban hành Đề án vị trí việc làm của UBND các phường đã chuẩn
hóa về trình độ đào tạo và chuyên ngành; khung năng lực, định mức biên chế để
phục vụ công tác tuyển dụng, quản lý, sử dụng công chức phường khi thực hiện
thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị.
4. Việc thực hiện quyền đại diện và quyền làm chủ của
nhân dân trên địa bàn quận, phường.
Khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, quyền dân chủ,
quyền đại diện của người dân tiếp tục được duy trì và phát huy thông qua nhiều
kênh như: Đại biểu Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội; Thường trực HĐND thành
phố, các Ban, Tổ đại biểu, đại biểu HĐND thành phố, UBMTTQ, đoàn thể chính trị
- xã hội các cấp và đặc biệt là sự phản ánh của tổ dân phố và ý kiến trực tiếp của
người dân thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và Ban công tác mặt trận
ở khu dân cư.
4.1. Sự tham gia trực tiếp của Nhân dân trong quản lý Nhà nước ở địa phương
a) Tham gia thông qua Hội nghị đối thoại với Nhân dân của
lãnh đạo chính quyền địa phương
- Việc tổ chức Hội nghị đối thoại giữa Chủ tịch quận, phường với Nhân
dân được thực hiện đúng quy định tại Điều 9, Điều 18 Nghị định số
34/2021/NĐ-CP, đảm bảo thời gian và nội dung, phát huy vai trò
làm chủ của Nhân dân. Chủ tịch quận, phường đã trực tiếp lắng nghe và tiếp
thu những ý kiến, kiến nghị của người dân đóng góp xây dựng chính quyền; giúp
Chủ tịch quận, phường chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng cũng như kịp thời xử
lý, giải quyết các vấn đề bức xúc của người dân. Theo kết quả tổng hợp
từ 01/7/2021 đến 31/3/2023, UBND quận đã tiếp nhận 1.189 ý kiến, đề xuất của người
dân, UBND phường đã tiếp nhận 2.358 kiến nghị, đề xuất của người dân và tỷ lệ
giải quyết trên 85% đối với quận và 96% đối với phường. Chủ tịch quận đã tổ chức
48 cuộc đối thoại với 4.479 người tham gia (cả trực tiếp và trực tuyến), Chủ tịch
phường đã tổ chức 169 cuộc đối thoại với 15.426 người tham gia. Các buổi đối thoại được tổ
chức chất lượng, hiệu quả.
- Bên cạnh đó, Chủ tịch HĐND thành phố, Chủ tịch UBND thành phố,
Chủ tịch UBND quận, phường đã tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp để nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng cũng như kịp thời xử lý, giải quyết các vấn đề bức
xúc của người dân. Qua công tác tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đại biểu HĐND
thành phố và UBND các cấp đã trực tiếp lắng nghe, tiếp thu những ý kiến, kiến
nghị của người dân đóng góp xây dựng chính quyền.
b) Tham gia thông qua hoạt động giám sát
Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng từng bước củng
cố, hoạt động có hiệu quả[15].
UBND quận, phường đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia xây dựng
chính quyền, cụ thể như: Phân công cán bộ, công chức phường tham gia các cuộc họp
của tổ dân phố, thôn[16]; qua
hòm thư góp ý hoặc sổ góp ý; nghe nhân dân trao đổi, phản
ánh ý kiến trực tiếp trong các cuộc họp hoặc gửi phiếu xin ý kiến về các công trình
thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; góp ý các quy ước, công việc nội bộ khu
dân cư. Trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, phường, đối với một số công việc
quan trọng, UBND phường đã thông qua tổ dân phố và Ban công tác Mặt trận các khu dân cư để nhân
dân tham gia ý kiến trước khi quyết định; lập sổ theo dõi phản ánh, kiến nghị
của các tổ trưởng tổ dân phố để kịp thời giải quyết.
4.2. Việc giám sát và phản biện xã hội của UBMTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội
- Về việc ban hành văn bản, quy chế phối hợp
Thành ủy đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TU
ngày 30/11/2021 về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội và
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ, các tổ chức chính
trị - xã hội và Nhân dân trên địa bàn thành phố; Quyết định số 2838-QĐ/TU ngày
24/12/2021 ban hành Quy chế thực hiện giám sát, phản biện xã hội của MTTQ, các
tổ chức chính trị - xã hội các cấp và Nhân dân thành phố trong điều
kiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị.
Ban Thường trực UBMTTQVN thành phố đã phối hợp ban hành Quy chế phối hợp
số 01/QCPH ngày 20/7/2021 giữa Thường trực HĐND, UBND và Ban Thường
trực UBMTTQ thành phố về việc phối hợp tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND
thành phố và Quy chế số 02/QCPH ngày 19/10/2021 về phối hợp
công tác giữa Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, UBND và Ban Thường
trực UBMTTQ thành phố để làm cơ sở và nâng cao chất lượng
giám sát của MTTQ trong thực hiện thí điểm mô hình
chính quyền đô thị.
- Về kết quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Trong thời gian thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị,
trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh Covid-19, Ban Thường trực UBMTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp đã triển khai thực hiện 340 cuộc giám sát với
246 chuyên đề. Riêng UBMTTQ thành phố đã thực hiện 17 cuộc giám sát đối với 8 chuyên đề, qua
đó gửi 31 kiến nghị đến cơ quan, đơn vị được giám sát và các cơ quan liên
quan; cử đại diện tham gia 15 đoàn giám sát chuyên đề17, trong
đó có chuyên đề về thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại các
phường trên địa bàn thành phố. UBMTTQ các cấp đã tổ chức 93 hội nghị phản biện
xã hội liên quan đến các chương trình, dự án quy hoạch trên địa bàn mà nhân dân
thành phố quan tâm18, trong đó có 03 hội nghị phản biện do
UBMTTQ thành phố chủ trì liên quan đến các dự án19 được
dư luận đánh giá cao. Việc lựa chọn nội dung phản biện xã hội đảm bảo chất lượng,
sát thực tiễn, đúng những vấn đề mà dư luận và nhân dân quan tâm. Các ý kiến,
kiến nghị, đề xuất sau phản biện được tổng hợp đầy đủ, chất
lượng, kịp thời gửi đến các cơ quan được để tiếp thu, điều chỉnh
phù hợp, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng, tạo được sự đồng thuận cao trong các
tầng lớp Nhân dân.
Nhìn chung, UB MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội các cấp ở thành phố đã tích cực phối hợp tham gia, hỗ trợ các hoạt động
giám sát với các cơ quan Nhà nước các cấp; tổ chức giám sát và tham gia góp ý
nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống
nhân dân và cộng đồng dân cư; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát
và phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội,
phát huy dân chủ của Nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
thành phố.
4.3. Về công khai, minh bạch các chế độ,
chính sách
- Thực hiện quy định về công khai, minh bạch thông tin quản lý nhà nước
và chế độ, chính sách đến nhân dân tại khoản 6 Điều 7 và khoản 7
Điều 16 Nghị định số 34/2021/NĐ-CP, UBND quận, phường thường xuyên cập nhật,
niêm yết công khai các chủ trương, chính sách, các văn bản của cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên và của địa phương như: Quy hoạch khu dân cư,
khu sản xuất kinh doanh, thương mại, khu vui chơi giải trí, quy hoạch các tuyến đường,
các dự án sử dụng đất, các công trình phúc lợi liên quan đến địa phương; kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các thủ tục, quy trình, thời gian, lệ phí
trong thực hiện thủ tục hành chính; công khai các khoản đóng góp
của nhân dân; công khai mức thuế đối với từng hộ gia đình.
- Hình thức công khai được thực hiện đa dạng như: Niêm yết
bằng văn bản tại trụ sở UBND các cấp để tổ chức, công dân tiện tra cứu; in sao
gửi đến từng hộ gia đình; phổ biến trong cuộc họp tổ dân phố,
thôn; thông báo trên đài truyền thanh, đăng tin trên trang thông tin điện tử của quận,
phường. Qua đó, nhân dân trong quận, phường đều được tiếp cận thông tin về chế
độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4.4. Tình hình tiếp dân, tiếp xúc cử
tri và tiếp nhận thông tin, giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân, cử
tri
a) Về thực hiện việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo
- Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quy định số 2780-QĐ/TU ngày
23/11/2021 về tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với người dân và xử lý đơn,
thư và chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng quy định cụ thể hóa để
triển khai thực hiện.
- UBND thành phố đã chỉ đạo rà soát các trụ sở tiếp công dân, phòng
tiếp công dân từ thành phố đến các phường, xã để đảm bảo nơi tiếp dân được
bố trí thuận lợi cho người dân đến phản ánh, kiến nghị hoặc khiếu nại,
tố cáo; nội quy, quy chế tiếp dân, lịch tiếp dân của lãnh đạo được
niêm yết công khai, các quy trình, thủ tục hành chính về tiếp dân và các
vấn đề liên quan đến công dân đều được phổ biến tại trụ sở
tiếp công dân và thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Cán bộ tiếp công dân đã được tăng cường về chất lượng và số lượng. Thành ủy,
UBND thành phố đã chỉ đạo xây dựng cơ chế ràng buộc, xử lý trách nhiệm của người
đứng đầu, của các cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết đơn, thư, nhất
là các ngành, lĩnh vực có nhiều đơn, thư như tài nguyên, môi trường,
xây dựng và các quận, huyện; xem xét trách nhiệm đối với
người để xảy ra việc tham mưu không đúng quy định. Việc giải quyết đơn thư,
khiếu nại tố cáo được UBND thành phố quan tâm giải quyết. Sau
khi có kết quả giải quyết đơn của công dân thì UBND thành phố đều kịp
thời công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Các báo và Đài
Phát thanh - Truyền hình thành phố. Tại Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng đã tạo
riêng một chuyên mục để thường xuyên đăng tải kết quả giải quyết, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân.
- Thành ủy, HĐND, UBND thành phố chỉ đạo sát sao, quyết liệt công tác
tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo. UBND thành phố đã
chỉ đạo Thanh tra thành phố chủ động phối hợp tháo gõ khó khăn, vướng
mắc trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung rà soát, phối hợp để giải quyết dứt điểm
các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Theo đó, việc tiếp
nhận, thụ lý và giải quyết đơn thư đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật, chất lượng giải quyết các vụ việc ở cơ sở được nâng lên; tỷ lệ
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền trong năm 2022 đạt
69,47% (tăng 12,33% so với năm 2021); việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực
hiện khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công dân, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự
của địa phương.
b) Công tác tiếp xúc cử tri trên địa bàn quận, phường
HĐND thành phố đã tăng điểm tiếp xúc, rút ngắn thời gian đại biểu
báo cáo, dành nhiều thời gian để cử tri phản ánh tâm tư, nguyện vọng;
mở rộng thành phần mời tiếp xúc có lãnh đạo quận, phường,
hoặc có sự tham gia của lãnh đạo các sở, ngành, tổ chức, đơn vị liên quan.
Thường trực HĐND, các Ban và tổ đại biểu HĐND thành phố đã chủ động phối hợp chặt
chẽ với UBMTTQ các cấp để thực hiện việc tiếp xúc cử tri và giám sát
hoạt động của UBND quận, UBND phường.
5. Hiệu lực, hiệu quả, tính thống nhất, thông suốt của
bộ máy hành chính các cấp khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô
thị
5.1. Về phân cấp, ủy
quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
và Chủ tịch UBND thành phố, quận, phường
- Thực hiện Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 của Chính phủ về đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và triển
khai thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết số
119/2020/QH14, UBND thành phố đã ban hành “Đề án phân cấp, ủy quyền quản lý nhà nước gắn với
thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn
2021-2026”20. Đề án đã đưa ra nguyên tắc và nội
dung phân cấp trên 05 lĩnh vực trọng tâm: Tổ chức bộ máy, nhân sự, quản lý đầu
tư, quản lý đô thị, quản lý tài nguyên - môi trường và quản
lý ngân sách. Kết quả hơn 01 năm triển khai Đề án đã hoàn thành
16/18 nội dung phân cấp; đồng thời bổ sung mới và hoàn thành 02 nội dung
phân cấp. Quá trình triển khai được thực hiện đúng quy định, đảm bảo chặt chẽ về
pháp lý và đạt được kết quả bước đầu tích cực.
- Đến thời điểm hiện nay, UBND thành phố, Chủ tịch UBND
thành phố đã ban hành các quyết định ủy quyền đối với 73/73 thẩm quyền, hoàn
thành nội dung ủy quyền theo Đề án số 7796/ĐA-UBND và hoàn thành ủy
quyền thêm 10 thẩm quyền cho các sở, ngành, quận, huyện.
- UBND thành phố đã chỉ đạo các ngành, các cấp thường xuyên rà soát,
tham mưu xem xét điều chỉnh hoặc bổ sung các nội dung phân cấp, ủy quyền đảm bảo
theo quy định pháp luật và phù hợp tình hình thực tiễn tại các địa phương, đơn
vị. Theo kết quả khảo sát, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp của
thành phố đánh giá cao về việc đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền khi thực hiện thí điểm
mô hình chính quyền đô thị so với trước đây21.
- Trong quá trình thành phố thực hiện phân cấp, ủy quyền có một số hạn
chế, khó khăn, như: Đối với một số nội dung phân cấp, do quy định của pháp luật
chuyên ngành, cần phải xin ý kiến của các cơ quan Trung ương (nhất là phân cấp về đầu
tư, đất đai) và thực hiện quy trình của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
nên thời gian tham mưu ban hành Quyết định phân cấp mất nhiều thời gian
hơn so với dự kiến; một số nội dung ủy quyền trong quá trình thực hiện thì pháp
luật chuyên ngành có quy định điều chỉnh về thẩm quyền nên các đơn vị phải báo
cáo UBND thành phố, Chủ tịch UBND thành phố điều chỉnh thực hiện ủy quyền so với
phê duyệt Đề án22.
5.2. Đánh giá việc thực hiện cơ chế bổ nhiệm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch UBND quận, phường
- Trên cơ sở quy định hiện hành của Đảng và pháp luật, Ban Thường vụ
Thành ủy đã chỉ đạo sửa đổi quy chế, quy trình về công tác cán bộ
cho phù hợp với mô hình chính quyền đô thị. UBND các quận hướng dẫn về quy
trình công tác cán bộ đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường khi thực hiện
thí điểm mô hình chính quyền đô thị kể từ ngày 01/7/202123. Khi bắt
đầu thực hiện thí điểm tổ chức mô hình tổ chức chính quyền
đô thị, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đã
ban hành và công bố quyết định bổ nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các quận,
huyện thuộc thành phố Đà Nẵng. Các quận đã hoàn thành việc công bố quyết
định bổ nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các phường. Việc bổ nhiệm
các chức danh này bảo đảm thực hiện đúng quy định về quy trình, thủ tục
về công tác cán bộ theo phân cấp quản lý và bắt đầu vận hành từ ngày 01/7/2021.
- Cơ chế Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp bổ nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND cấp dưới đã tạo ra sự thống nhất, thông suốt và chặt chẽ giữa chính quyền
cấp trên với chính quyền cấp dưới, tạo động lực cho công chức được bổ nhiệm trong việc
nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân khi giải quyết công việc, đồng thời ràng buộc trách
nhiệm công chức khi không hoàn thành tốt nhiệm vụ đều có thể bị xem xét miễn nhiệm,
thay thế (không qua bầu cử). Do đó, cơ chế bổ nhiệm người đứng
đầu chính quyền quận, phường thay cho việc HĐND cùng cấp bầu đã giảm được một số
khâu, một số thủ tục mặc dù công tác cán bộ vẫn do cấp ủy Đảng trực tiếp và thống nhất
quản lý. Việc thực hiện bổ nhiệm, miễn nhiệm linh hoạt hơn, góp phần
tạo thuận lợi khi thực hiện chủ trương người được bổ nhiệm không nhất thiết là
người của địa phương.
5.3. Về việc sắp xếp tổ chức bộ máy,
bố trí đội ngũ cán bộ, công chức và giải quyết chế độ, chính sách đối với những
người dôi dư
Thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, số lượng cán bộ
chuyên trách HĐND ở các quận, phường đều đã được bố trí công tác mới
phù hợp với năng lực quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ24 hoặc
giải quyết chính sách tinh giản biên chế, nghỉ hưu, thôi việc theo nguyện vọng cá nhân
và hưởng chế độ, chính sách theo quy định25. Việc sắp xếp, bố trí
các chức danh thường trực HĐND quận, phường phù hợp với
trình độ chuyên môn và cơ bản đáp ứng nguyện vọng của từng cán
bộ nên đa số cán bộ được sắp xếp, bố trí lại đều yên tâm công tác và thực
hiện tốt nhiệm vụ mới.
5.4. Đánh giá tính thống nhất, thông suốt của bộ máy nhà nước
các cấp khi thực hiện tổ chức chính
quyền đô thị
Qua hơn 02 năm triển khai thực hiện thí điểm tổ chức mô
hình chính quyền đô thị, cơ quan hành chính quận, phường đổi mới
cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và điều chỉnh chức năng, nhiệm
vụ theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP
của Chính phủ. Kết quả đã phát huy tính chủ động,
tăng thẩm quyền và chế độ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu quận,
phường và được đánh giá là hợp lý26. Công tác quản lý, điều hành của UBND
quận, phường ổn định, thông suốt, hiệu quả27. Theo kết quả khảo sát
cho thấy 62,6% cán bộ, công chức, viên chức các cấp đánh giá tính thống nhất,
thông suốt, hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành từ UBND thành phố đến
UBND quận và UBND phường là tốt hơn
5.5. Đánh giá công tác quản lý tài chính ngân sách
- Việc quản lý, điều hành ngân sách được thực hiện theo quy định; các khoản chi
tiêu được thực hiện đảm bảo đúng định mức, chế độ, tiết kiệm
ngân sách (tiết kiệm các khoản chi hoạt động đối với HĐND quận,
phường28); các khoản thu trên địa bàn quận, phường
được chuyển về ngân sách thành phố quản lý đã tạo được nguồn lực lớn cho ngân
sách thành phố chủ động cân đối, triển khai thực hiện các nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách.
- HĐND thành phố đã ban hành Nghị quyết số 13/2021/NQ-HĐND ngày
25/6/2021 sửa đổi Nghị quyết quy định về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ
chi; thực hiện quyết toán thu, chi ngân sách quận (bao gồm cả ngân sách
phường) 06 tháng đầu năm 2021 trình HĐND thành phố thông qua; điều chỉnh
giao dự toán 6 tháng cuối năm 2021; giao dự toán năm 2022, năm 2023. Thành
phố kịp thời bổ sung dự toán cho các quận (bao gồm nhiệm vụ chi của phường) để
thực hiện các nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, các chế độ chính sách
phát sinh như kinh phí phòng chống dịch Covid-19,
kinh phí thực hiện chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ các đối tượng khó khăn
theo quy định.
- Bên kết quả đạt được, khi UBND quận, phường là đơn vị
dự toán ngân sách đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện,
như: Việc bố trí, thực hiện kinh phí thi đua khen thưởng (quận,
phường là đơn vị dự toán nên không có quy định về kinh phí thi đua khen thưởng như
đối với cấp ngân sách29; UBND quận không được chi ngân sách bằng
Lệnh chi tiền cho Quận ủy như một cấp ngân sách30. Sở Tài
chính đã kịp thời tham mưu UBND thành phố
trình HĐND thành phố ban hành nghị quyết quy định một số giải
pháp góp phần khắc phục phần nào hạn chế, khó khăn trong quá trình thực hiện
quản lý, điều hành ngân sách tại các quận, phường như: Phân
bổ chi thường xuyên khác cho đơn vị dự toán quận, phường để thực
hiện các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách phát sinh (bao gồm kinh phí khen thưởng)31,
Sở Tài chính thực hiện chi ngân sách bằng Lệnh chi tiền cho các Quận ủy.
- UBND quận, UBND phường là đơn vị dự toán ngân sách nên không còn nguồn
tăng thu, kết dư như một cấp ngân sách, đã hạn chế tính chủ động
trong việc cân đối thêm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ tại địa
phương; toàn bộ các khoản thu ngân sách quận,
phường được chuyển về ngân sách thành phố quản lý nên khó tạo động lực để các quận,
phường phấn đấu thực hiện tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn,
khó khăn trong việc xem xét hỗ trợ số tăng thu ngân sách cho
địa phương (nếu có) theo quy định Luật Ngân sách nhà nước.
- Thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, huyện Hòa Vang
và các xã thuộc huyện vẫn là một cấp ngân sách. Từ đó, trong công tác quản lý
tài chính, ngân sách tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố được quy định
theo 02 mô hình khác nhau dẫn đến khó khăn hơn cho cơ quan tài chính trong
công tác tham mưu, tổng hợp, đánh giá.
5.6. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
Trong quá trình thực hiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị, với
sự chủ động, quyết liệt triển khai thực hiện các nhiệm vụ đề ra, tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đạt nhiều kết quả quan trọng, cụ thể
là:
a) Về các chỉ tiêu chủ yếu
Du lịch, dịch vụ, thương mại phục hồi mạnh, tạo động lực để kinh tế
thành phố lấy lại đà tăng trưởng; các chỉ tiêu kinh tế - xã hội tăng trưởng khá32,
đặc biệt quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 124.436 tỷ đồng,
tăng 13.250 tỷ đồng (so với năm 2019 thời điểm trước dịch Covid-19).
b) Về văn hóa - xã hội
- Công tác quản lý, khai thác và đầu tư mạng lưới thiết chế văn hóa, thể
thao cơ sở ở các cấp có nhiều chuyển biến tích
cực. Việc phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể được quan tâm triển khai dưới
nhiều hình thức nhằm giới thiệu rộng khắp giá trị di sản đến với đông đảo người
dân địa phương, du khách.
- Các chính sách an sinh xã hội được duy trì triển khai thực hiện,
thành phố đã ban hành hành nhiều chương trình, cơ chế, chính sách
để triển khai thực hiện những chủ trương lớn hướng đến các mục tiêu
an sinh xã hội bền vững, như: Chương trình “Thành
phố 5 Không”, “Thành phố 3 Có”, “Thành phố 4 An”33; nâng
mức hỗ trợ thường xuyên, đột xuất đối với người có công với
cách mạng mắc bệnh hiểm nghèo, có hoàn cảnh khó khăn34.
- Thành phố đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong giải quyết thủ tục hành chính, điều hành hoạt động của các cơ quan
hành chính; tăng cường mở rộng áp dụng các tiện ích hỗ trợ người dân trong việc
thực hiện các dịch vụ công, tạo sự hài lòng cao nhất của người
dân, doanh nghiệp đối với các dịch vụ công mà các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
thành phố cung ứng. Các sở, ngành, địa phương thuộc thành phố cũng có nhiều
sáng kiến, cách làm mới liên quan đến cải cách hành chính, chuyển đổi số góp phần
triển khai Đề án xây dựng thành phố thông minh đảm bảo tiến độ; đưa vào sử dụng các
ứng dụng thông minh hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đời sống người
dân.
c) Về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
Việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quy định tại Điều
31 và Điều 32 Nghị định 34/2021/NĐ-CP chưa có vướng mắc, phát sinh lớn làm ảnh
hưởng hay cản trở đến công tác quản lý, điều hành của chính quyền
các cấp; trong quá trình thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị, công tác quốc phòng, an ninh luôn được quan tâm, thực
hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu đề ra, như: Quản lý chặt chẽ tình
hình địa bàn, phối hợp tuần tra giữa các lực lượng; tổ chức giao quân đạt
100% chỉ tiêu; làm tốt công tác chuẩn bị và thực hành diễn tập khu vực phòng thủ
đối với quận Hải Châu, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ đạt kết quả cao; làm tốt công tác
chính sách hậu phương quân đội, phụng dưỡng mẹ Việt Nam Anh hùng,... từ đó xây
dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc gắn với
nền quốc phòng toàn dân, đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự xã hội; chưa để xảy ra các vụ việc phức tạp ảnh
hưởng đến công tác triển khai thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô
thị.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC
THÙ
1. Về điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị theo
quy định tại Điều 8 Nghị quyết số 119/2020/QH14
1.1. Về điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị
- Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
05/2021/QĐ-TTg ngày 08/02/2021 Quy định về trình tự, thủ tục điều
chỉnh cục bộ quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở đó, UBND thành phố ban hành Công văn số 1448/UBND-ĐTĐT ngày
16/3/2021 để triển khai thực hiện.
- Thành phố đã chỉ đạo Sở Xây dựng ban hành văn bản số
2222/SXD-PTĐT ngày 06/4/2021 để triển khai các nội dung tại Quyết định số
359/QĐ-TTg và 05/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó nêu rõ: “...đề nghị
trong thực tế xây dựng, phát triển đô thị, phát triển kết cấu
hạ tầng phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực theo Điều chỉnh
quy hoạch chung được duyệt, trường hợp có phát sinh các bất
cập, đáp ứng một trong các điều kiện điều chỉnh quy định
tại khoản 1, Điều 2, Quyết định 05/QĐ-TTg; các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan báo cáo UBND thành phố xem xét, giao các Ban Quản lý
dự án tổ chức lập các thủ tục điều chỉnh cục bộ theo trình tự, thủ tục quy định
nêu trên, gửi Sở Xây dựng tổ chức thẩm định trình UBND thành
phố phê duyệt”.
Hiện nay, căn cứ trình tự, thủ tục được quy định tại Quyết định số
05/2021/QĐ-TTg , thành phố đã tổ chức lập, lấy ý kiến, thẩm định, phê duyệt điều
chỉnh cục bộ quy hoạch chung về các nội dung: (1) phân bổ dân số tại
một số phân khu trên địa bàn quận Liên Chiểu và Làng Vân tại Quyết định số
812/QĐ-UBND ngày 18/4/2023; (2) khu vực Cảng biển Liên Chiểu và Làng Vân tại
Quyết định số 841/QĐ-UBND ngày 22/4/2023.
1.2. Về điều chỉnh, sửa đổi Nghị định số
144/2016/NĐ-CP
- Thực hiện Nghị quyết số 119/2020/NQ14, nhằm tiếp
tục tạo cơ chế đặc thù cho thành phố Đà Nẵng tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy thành phố phát triển,
tháo gỡ kịp thời các khó khăn, thách thức về công tác quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực; đẩy mạnh công tác phân cấp quản lý, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của địa phương, tăng cường năng lực chuyên môn của các Sở chuyên
ngành của thành phố. Thành phố Đà Nẵng đã phối hợp với các Bộ: Tài chính, Xây dựng,
Lao động - Thương binh và Xã hội, Tư pháp tham mưu trình Chính phủ ban
hành Nghị định số 40/2022/NĐ-CP ngày 20/6/2022 về sửa đổi, bổ sung
một số điều Nghị định số 144/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số cơ chế đặc
thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với
thành phố Đà Nẵng. Trong đó, quy định: “Căn cứ Quy hoạch chung,
Quy hoạch phân khu, Chương trình phát triển đô thị được duyệt, Ủy ban nhân dân
thành phố quyết định Khu vực phát triển đô thị trên địa bàn thành phố, sau khi
có ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng và báo cáo Thủ tướng
Chính phủ kết quả thực hiện. Căn cứ Quy hoạch chung, Quy hoạch phân khu, Chương
trình phát triển đô thị được duyệt, Ủy ban nhân dân thành
phố quyết định cụ thể những khu vực được thực hiện chuyển
quyền sử dụng đất đã được đầu tư hạ tầng cho người dân
tự xây dựng nhà ở theo quy hoạch chi tiết của
dự án đã được phê duyệt, đảm bảo phù hợp với quy định của
pháp luật về đất đai; định kỳ hàng năm tổng hợp báo cáo Bộ Xây dựng”.
- Để triển khai Nghị định số 40/2022/NĐ-CP nêu trên, thành phố Đà Nẵng đã
ban hành Nghị quyết số 78/NQ-HĐND về việc điều chỉnh Chương trình phát triển đô
thị thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021-2030, Quyết định số 3431/QĐ-UBND
ngày 30/12/2022 về việc điều chỉnh Chương trình phát triển đô thị thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2021-2030. Hiện nay, căn cứ Chương trình Phát triển đô thị được
phê duyệt, thành phố đang triển khai các thủ tục để tổ chức lập, thẩm
định Khu vực Phát triển đô thị.
Bên cạnh đó, thành phố đã có văn bản đề nghị Bộ Xây dựng sớm nghiên cứu, tham
mưu Chính phủ có cơ chế phù hợp, ban hành các quy định sửa
đổi, bổ sung theo hướng tiếp tục ủy quyền cho thành phố Đà Nẵng thẩm
định các dự án đầu tư xây dựng thuộc thẩm quyền của Bộ Xây dựng.
2. Về quản lý tài chính - ngân sách nhà nước
theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết số 119/2020/QH14
2.1. Về tỷ lệ điều tiết cho ngân sách thành phố
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 40/2021/QH15, trong đó quyết
nghị tỷ lệ % phân chia các khoản thu cho năm 2022 giữa ngân sách trung ương là
9% và ngân sách thành phố được hưởng 91%. Đối với giai đoạn 2023-2025 thực hiện
theo Nghị quyết số 70/2022/QH15 ngày 11/11/2022 của Quốc hội thì tỷ lệ % phân
chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương là 17% và ngân sách thành phố được
hưởng 83% (tỷ lệ được hưởng giai đoạn 2017-2021 là 68%).
Theo quy định tại khoản 8 Điều 9 của Luật Ngân sách nhà
nước thì “Sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương phải tăng khả năng tự
cân đối, phát triển ngân sách địa phương,... tăng tỷ lệ phần trăm (%) nộp về
ngân sách cấp trên đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách để tăng nguồn
lực cho ngân sách cấp trên”.
Nhờ có cơ chế, chính sách đặc thù như trên nên mặc dù thu ngân
sách giai đoạn này còn nhiều khó khăn nhưng dự toán chi trung ương giao cho thành
phố tăng so với giai đoạn trước, cụ thể dự toán chi đầu tư phát triển từ nguồn tập trung kế hoạch năm 2023
trung ương giao cho thành phố Đà Nẵng là 4.209 tỷ đồng (bằng 208% so với dự toán trung
ương giao năm 2021), dự toán chi thường xuyên năm 2023 trung ương giao là 8.455 tỷ đồng
(bằng 116% dự toán trung ương giao năm 2021). Trên cơ sở đó, giúp Thành
phố có thêm nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đảm bảo thực hiện
phòng chống dịch bệnh Covid-19 và hỗ trợ người dân gặp khó khăn, phục
hồi và phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
Như vậy, so với giai đoạn trước đây, theo Nghị quyết số 119/2020/QH14,
Quốc hội và các cơ quan Trung ương đã quan tâm quyết định tỷ lệ điều tiết phù hợp
cho ngân sách thành phố Đà Nẵng để đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế -
xã hội của thành phố.
2.2. Về thực hiện cơ chế
tạo nguồn cải cách tiền lương (CCTL) và sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn
dư của ngân sách thành phố
Thành phố Đà Nẵng thực hiện cơ chế tạo nguồn cải cách tiền
lương theo quy định; sau khi ngân sách thành phố bảo đảm đủ nguồn cải cách tiền
lương và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho cả thời kỳ ổn định ngân
sách theo quy định của cấp có thẩm quyền, HĐND thành phố được quyết định sử dụng
nguồn cải cách tiền lương còn dư của ngân sách thành phố để đầu tư cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố.
Tại Hội nghị lần thứ 13 khóa XII của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tán
thành thời điểm thực hiện chế độ tiền lương mới kể từ ngày 01/7/2022 theo Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018. Theo Nghị quyết số 75/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc
hội có quyết nghị đối với lĩnh vực nội vụ “...trong năm 2023, trình cấp
có thẩm quyền lộ trình thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo yêu cầu tại
Nghị quyết số 27-NQ/TW...”. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, trung ương chưa
ban hành chế độ tiền lương mới theo Nghị quyết số 27-NQ/TW. Do đó, thành phố
chưa đủ cơ sở để dự kiến nhu cầu sử dụng nguồn CCTL cho cả thời kỳ
ổn định ngân sách nên thành phố chưa ban hành sử dụng nguồn
CCTL còn dư cho đầu tư phát triển theo chính sách đặc thù quy định tại
Nghị quyết số 119/2020/QH14.
2.3. Về điều chỉnh mức
hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí; quyết định áp dụng phí, lệ
phí chưa được quy định trong Danh mục ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí và
NSĐP được hưởng 100% số thu tăng thêm từ
các khoản thu này
Năm 2021, thành phố chỉ đạo các sở, ngành, địa phương căn cứ
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực mình phụ trách để đề xuất phí, lệ phí phát sinh theo
Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội. Trên cơ sở đăng ký của các sở,
ngành thành phố dự kiến ban hành trong năm 2021 gồm 06 loại phí, lệ phí.
Tuy nhiên, tại Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 12/8/2021 của Chính phủ về phiên họp
Chính phủ trực tuyến toàn quốc với các địa phương về tình hình kinh tế -
xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2021 có chỉ đạo: Yêu cầu Cấp ủy, chính
quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục quán triệt và
quyết liệt thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong những tháng cuối
năm 2021, trong đó có nhiệm vụ chưa ban hành các loại phí, lệ phí mới đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay (điểm d, khoản 21). Theo đó, Thành phố đã ban
hành văn bản số 5465/UBND-STC ngày 23/8/2021 chỉ đạo do tình hình dịch bệnh
Covid-19 diễn biến phức tạp, nên chưa ban hành danh mục phí, lệ phí theo Nghị quyết
số 119/2020/QH14.
Năm 2022, thành phố đã ban hành văn bản số 5685/UBND-STC ngày
17/10/2022 giao Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Sở: Du lịch, Giao thông Vận
tải, Tài nguyên và Môi trường và Ban Quản lý An toàn thực phẩm báo cáo UBND thành phố
trình Thường trực HĐND thành phố quyết định danh mục phí, lệ phí theo Nghị quyết
số 119/2020/QH14 để làm cơ sở thực hiện các bước tiếp theo, theo
đúng quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các Sở, ngành, địa phương
căn cứ nhiệm vụ thuộc lĩnh vực mình phụ trách tiếp tục đề xuất các loại
phí, lệ phí phát sinh theo quy định nêu trên.
Đến nay, HĐND Thành phố đã ban hành 01 loại phí tại
Nghị quyết số 100/2022/NQ-HĐND ngày 15/12/2022 quy định mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin biện
pháp ngăn chặn trên hệ thống cơ sở dữ liệu công chứng trên địa
bàn thành phố, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2023) theo Nghị quyết số
119/2020/QH14.
Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực HĐND thành phố (tại
Công văn số 319/HĐND-KTNS ngày 29/12/2022) và ý kiến chỉ đạo của UBND thành phố
(tại Công văn số 32/UBND-NC ngày 04/01/2023), Sở Tư pháp có Công văn số
2425/STP-XDKTVB ngày 23/5/2023 gửi Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố lấy kiến
đối với hồ sơ trình ban hành danh mục nghị quyết của HĐND thành phố
quy định chi tiết khoản 3 Điều 9 Nghị quyết số 119/2020/QH14,
trong đó danh mục dự kiến trình Thường trực HĐND gồm 03 loại phí, đó là: (1)
Phí các loại phương tiện cơ giới tham gia giao thông vào khu vực trung tâm
thành phố của Sở Giao thông vận tải; (2) Phí cấp bản sao bằng tốt nghiệp Trung
học cơ sở, Trung học phổ thông từ sổ gốc của Sở Giáo dục và Đào tạo;
(3) Mức giảm phí, lệ phí đối với việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng của Sở Thông tin và Truyền thông.
Như vậy, do ảnh hưởng của tình hình dịch bệch Covid-19, từ năm 2020 đến
nay, Trung ương có nhiều văn bản chỉ đạo các địa phương thực hiện miễn giảm các
loại phí, lệ phí để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác, Thành phố đã ban hành
Nghị quyết miễn một số loại phí, lệ phí như phí tham quan, phí thư
viện... Năm 2023, Bộ Tài chính tiếp tục ban hành Thông tư số
44/2023/TT-BTC ngày 29/6/2023 quy định giảm mức thu một số khoản phí, lệ
phí nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, trong đó quy định giảm mức thu từ
10-50% đối với 36 khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ cho người dân và doanh
nghiệp, thời gian thực hiện kể từ ngày 01/7/2023 đến hết 31/12/2023.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đã đạt được
- Công tác quán triệt được tổ chức kịp thời, chặt chẽ, nghiêm túc và đúng
quy định, đảm bảo việc triển khai đúng tiến độ đề ra, tạo được sự đồng thuận của
các cấp, các ngành trong toàn hệ thống chính trị35.
- Với sự quyết tâm chính trị của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp của
thành phố Đà Nẵng đã lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên trong việc chủ
động, kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa triển khai thực hiện Nghị quyết
119/2020/QH14 và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP, thường xuyên quan tâm công tác tuyên truyền
phổ biến để nâng cao nhận thức, làm tốt công tác tư tưởng
và phát huy trách nhiệm của cán bộ công chức trong hệ thống
chính trị thành phố, sự đồng thuận của nhân dân, đặc biệt là hệ thống chính trị
cơ sở.
- Thường xuyên chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn, khảo
sát nắm bắt tình hình thực hiện, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc. Nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan đơn vị địa phương, phát
huy tính sáng tạo chủ động trong công tác quản lý điều hành, thường xuyên
bám sát chương trình, kế hoạch và các văn bản quy định, chỉ đạo, hướng dẫn
trong quá trình thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị.
- Thành ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN thành phố đã chủ động ban hành đồng bộ
các văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện, tạo cơ sở pháp
lý trong quá trình thực hiện thí điểm. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát được các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận
và các tổ chức chính trị - xã hội triển khai nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ ở
các cấp, kịp thời có các biện pháp xử lý những khó khăn, vướng mắc khi thực
hiện, nhất là liên quan đến quản lý tài chính ngân sách.
- Công tác bố trí, sắp xếp cán bộ khi triển khai thí điểm mô hình tổ chức
chính quyền đô thị đảm bảo theo đúng tiến độ, quan tâm giải quyết chế độ,
chính sách đối với cán bộ dôi dư. Tổ chức bộ máy tinh gọn, thủ tục hành chính
được cắt giảm, tạo thuận lợi cho tổ chức, nhân dân trong giải quyết
các thủ tục hành chính. UBND quận, phường hoạt động theo cơ chế thủ trưởng
đã phát huy tính chủ động trong hoạt động điều hành của chính quyền, tăng
cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính cấp quận,
phường, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước. Chế độ công vụ mới công chức
phường thuộc biên chế và quản lý như công chức quận tạo cơ sở cho việc chuẩn
hóa đội ngũ công chức phường theo hướng chuyên nghiệp, tạo sự chủ động, linh
hoạt, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác cán bộ giữa quận,
phường.
- Phân cấp, phân quyền tạo sự linh hoạt trong triển khai, nâng cao
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, tổ chức bộ máy tinh gọn, rút ngắn quy trình,
bớt khâu trung gian, giảm bớt thủ tục và thời gian giải quyết công việc
cho người dân và doanh nghiệp. Đối với kết quả phân cấp tại thành phố ước tổng thời
gian giảm của 89 nội dung phân cấp, ủy quyền là 233 ngày36. Đặc
biệt, việc Chủ tịch UBND phường ủy quyền cho công chức giữ chức
danh Tư pháp - Hộ tịch phường thực hiện ký chứng thực đã tạo sự hài lòng cho tổ
chức, công dân, giải quyết nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được
thời gian của nhân dân, góp phần cải cách thủ tục hành chính đồng thời
tăng trách nhiệm cá nhân cho công chức giữ chức danh Tư pháp - Hộ tịch
phường.
- Tổ chức điều hành phát triển kinh tế - xã hội của UBND thành phố, quận,
phường ổn định, thông suốt, quốc phòng, an ninh chính trị được đảm bảo. Khi thực
hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, các khoản thu trên địa bàn quận,
phường được chuyển về ngân sách thành phố quản lý đã tạo được nguồn lực lớn
cho ngân sách thành phố chủ động cân đối triển khai thực hiện
các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Việc quản lý, điều hành ngân sách được quản lý chặt chẽ;
thực hiện tiết kiệm chi và sử dụng có hiệu quả các nguồn thu góp phần
bảo đảm nguồn lực cho thành phố thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội, các chính sách an sinh xã hội và phòng chống dịch bệnh
Covid-19.
- Khi không còn HĐND quận, phường, quyền dân chủ của người dân tiếp tục
phát huy và tăng cường. HĐND thành phố tiếp tục đổi mới phương thức hoạt
động theo hướng mở rộng phạm vi, nâng cao chất lượng, tính chuyên
nghiệp, hiệu quả hoạt động, phù hợp với đặc điểm của mô hình
chính quyền đô thị. Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp
nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội về
cả tính chuyên môn và chuyên nghiệp với 340 cuộc giám sát và 93 hội
nghị phản biện xã hội. Việc đối thoại với nhân dân được quan tâm tổ chức có chất
lượng, hiệu quả và kịp thời giải quyết các phản ánh, kiến nghị của người
dân.
- Việc phân cấp cho thành phố thực hiện điều chỉnh cục bộ quy hoạch
chung thành phố rút ngắn trình tự, thời gian, tạo sự chủ động cho địa
phương trong việc triển khai công tác quy hoạch, đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu
tư và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các dự án trên địa bàn
thành phố, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
- Việc thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù như quyết định tỷ
lệ điều tiết phù hợp cho ngân sách thành phố; HĐND thành phố
quyết định phí, lệ phí, đã góp phần bảo đảm nguồn lực cho thành phố thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và các chính sách an sinh xã hội,
phòng chống dịch bệnh Covid-19 nói riêng.
Nhìn nhung, việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội cho thấy những kết
quả tích cực, bộ máy chính quyền thành phố gọn nhẹ, hoạt động nhanh nhạy,
thông suốt hơn, cơ quan hành chính tích cực, chủ động điều hành, giải quyết kịp
thời và hiệu quả những vấn đề cấp bách ở địa phương đã góp phần tích cực vào việc cải
cách hành chính, đem lại sự hài lòng cho người dân và doanh
nghiệp trên địa bàn.
2. Hạn chế, vướng mắc, bất cập
2.1. Về cơ cấu tổ chức của UBND quận, UBND phường
Nghị quyết số 119/2020/QH14 quy định cơ cấu tổ chức của UBND quận, phường không
có chức danh người đứng đầu cơ quan quân sự, công an. Tuy nhiên, để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn, quá trình xây dựng, ban hành các Nghị định của Chính phủ quy
định chi tiết và biện pháp thi hành các Nghị quyết của Quốc hội về tổ
chức mô hình chính quyền đô thị tại 03 thành phố (Hà Nội,
Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh) cho thấy cần thiết phải
quy định các chức danh này trong cơ cấu tổ chức UBND quận, phường nhằm bảo đảm
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy, chính
quyền địa phương đối với công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn được thống nhất, hiệu quả. Vì vậy,
Chính phủ đã thảo luận, thống nhất quy định trong cơ cấu tổ chức của UBND
quận, phường có người đứng đầu cơ quan cơ quan quân sự, công an cùng cấp. Do
đó, hiện nay đang có sự không thống nhất giữa Nghị
quyết của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ về vấn đề này.
2.2. Về thẩm quyền bãi bỏ văn bản
quy phạm pháp luật của HĐND quận, UBND phường ban hành trước
ngày 01/7/2021
Thực hiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị, không còn tổ chức HĐND quận,
phường và UBND phường không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy
nhiên, Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội và Nghị định số 34/2021/NĐ-CP của
Chính phủ chưa có quy định về việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của HĐND
quận, phường và UBND phường đã ban hành trước ngày 01/7/2021 (thời điểm
thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị) khi những văn bản này
không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hoặc trái pháp luật.
2.3. Về thẩm quyền thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND quận, phường theo quy định của pháp luật chuyên ngành
Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội đã quy định
việc điều chuyển một số nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND quận, HĐND phường khi thực
hiện thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị37. Tuy
nhiên, tại nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành về đất đai, xây
dựng38,... có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND quận, phường nhưng Nghị quyết số 119/2020/QH14 chưa có
quy định điều chuyển cho chủ thể khác thực hiện dẫn đến khó khăn trong thực tiễn
triển khai tại quận, phường khi thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị.
2.4. Cơ chế tài chính của UBND quận, phường
- UBND quận, phường không còn là cấp ngân sách mà thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của đơn vị dự toán ngân sách nên theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước không có dự phòng ngân sách, không còn nguồn tăng thu,
kết dư ngân sách nên hạn chế tính chủ động
trong việc cân đối thêm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ tại địa phương; khó
khăn trong việc đáp ứng kịp thời nguồn kinh phí
để xử lý các nhiệm vụ cấp bách, đột xuất phát sinh trên địa bàn như phòng, chống,
khắc phục thiên tai, dịch bệnh. Thực tế, UBND quận, phường vẫn là đơn vị
quản lý địa bàn dân cư nên phát sinh nhiều nhiệm vụ đột xuất mà không
thể dự kiến đầy đủ trong dự toán ngân sách hàng năm (khác với nhiệm
vụ, quyền hạn đơn vị dự toán ngân sách như sở, ngành). Trường hợp có phát
sinh nhiệm vụ cấp bách mà chưa được bố trí dự toán, UBND quận phải tổng hợp gửi Sở Tài chính
để báo cáo UBND thành phố trình Thường trực HĐND thành phố quyết định bổ sung, điều
chỉnh dự toán ngân sách cho các địa phương và báo cáo HĐND thành phố
theo quy định, dẫn đến thiếu tính kịp thời và chủ động thực hiện các nhiệm vụ
phát sinh.
- UBND quận, phường là đơn vị dự toán ngân sách nên việc áp dụng các
quy định pháp luật hiện hành về ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cơ quan tài chính
cùng cấp của UBND quận không còn là Phòng Tài chính - Kế hoạch quận nên không
được thực hiện chi ngân sách bằng Lệnh chi tiền cho các nhiệm vụ của
quận như chi bảo đảm hoạt động của Quận ủy, hỗ trợ các cơ quan, đơn vị theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước.
2.5. Việc quản lý, sử dụng đối với
cán bộ thuộc tổ chức Đảng, UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở
phường và cán bộ, công chức xã:
- Trong mô hình chính quyền đô thị thì cán bộ thuộc tổ chức
Đảng, UBMTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội ở phường vẫn là
cán bộ cấp xã, việc quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách thực hiện theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức cấp xã, trong khi đó công chức phường thuộc
biên chế công chức của UBND quận, được quản lý, sử dụng như công chức quận đã ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác quản lý cán bộ ở địa phương, gây tâm tư của cán bộ
thuộc tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội ở phường.
- Hiện nay, thành phố Đà Nẵng chỉ còn duy nhất 01 huyện Hòa Vang (huyện đảo
Hoàng Sa có đặc thù riêng) với 11 xã, nếu thực hiện 2 chế độ công
vụ khác nhau đối với công chức xã, cán bộ phường, xã và công chức phường như hiện
nay sẽ khó khăn cho thành phố trong việc thực hiện chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ, công chức ở phường, xã theo hướng chuyên nghiệp; bảo đảm thống
nhất trong hệ thống chính trị cấp xã cũng như trong công tác quản lý, sử dụng cán
bộ, công chức liên thông giữa các cơ quan đảng, MTTQ và các tổ chức chính trị -
xã hội với chính quyền và giữa cấp huyện và cấp xã; khó tạo sự
linh hoạt trong công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, điều
động cán bộ, công chức giữa các cơ quan tổ chức và giữa cấp huyện với cấp xã.
2.6. Về số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách của
HĐND thành phố
Thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị, không tổ chức
HĐND quận, phường thì quyền đại diện của người dân quận, phường được bảo đảm thực
hiện thông qua hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội của thành phố,
Thường trực HĐND, các Ban, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND thành
phố, UBMTTQ và các tổ chức chính trị xã hội các cấp. Chức năng, nhiệm
vụ của HĐND thành phố tăng lên do được điều chuyển một số nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND quận, HĐND phường. Trong khi đó số lượng đại biểu hoạt động chuyên
trách của HĐND thành phố theo quy định còn thấp, đã tạo áp lực cho HĐND
thành phố trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được
giao.
2.7. Về tổ chức bộ máy
Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận theo đúng số lượng,
tên gọi quy định hiện hành của Chính phủ nên chưa tạo được sự linh hoạt
trong việc thực hiện cơ cấu tổ chức, sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
quận theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn.
2.8. Về biên chế công chức phường:
Với quy định số lượng biên chế công chức phường bình quân là 15 người/phường, các
địa phương gặp nhiều khó khăn về việc bố trí số lượng biên chế công chức
phường tại những phường có quy mô dân số đông, áp lực công việc lớn.
2.9. Về khó khăn, vướng mắc khi thực hiện cơ chế
chính sách đặc thù
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên việc ban hành các loại phí, lệ phí
ngoài danh mục do trung ương quy định còn chưa triển khai được như kế hoạch.
Đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có chế độ tiền lương mới
theo Nghị quyết số 27-NQ/TW nên thành phố Đà Nẵng chưa đủ cơ sở để dự kiến nhu cầu sử dụng nguồn cải
cách tiền lương cho cả thời kỳ ổn định ngân sách, nên chưa thể đề xuất HĐND
thành phố sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư cho đầu tư phát triển theo
chính sách đặc thù quy định tại Nghị quyết số 119/2020/QH14.
3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất
cập
- Tình hình quốc tế, khu vực có nhiều biến động khó lường;
ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là tác động nặng nề của dịch
Covid-19.
- Việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị là mô hình mới, chưa
có tiền lệ nên bước đầu triển khai thực hiện còn gặp khó khăn, lúng
túng, nhất là cơ chế quản lý tài chính, ngân sách.
- Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
còn thiếu và chưa đồng bộ để có thể triển khai thông suốt các quy định thí điểm
chính quyền đô thị; cần thiết phải kịp thời điều chỉnh, bổ sung Nghị
định số 34/2021/NĐ-CP để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc thí điểm.
4. Đánh giá tổng thể về hiệu quả của mô hình tổ
chức chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng
Theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức chính
quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng thì ở quận và phường không tổ chức HĐND, mà
chỉ tổ chức UBND là cơ quan hành chính. Qua gần 02 năm thực hiện cho thấy những
ưu, nhược điểm cơ bản của mô hình này như sau:
a) Ưu điểm
- Với việc chỉ tổ chức một cấp chính quyền (có HĐND và UBND) ở cấp
thành phố đã bảo đảm sự tập trung, thống nhất trong việc quyết định các vấn đề về
quản lý đô thị, quy hoạch phát triển, kết cấu hạ tầng đô thị, phát triển
kinh tế - xã hội, hạn chế được tình trạng chia cắt, phân tán, manh mún
trong quản lý nhà nước ở khu vực đô thị.
- Phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước từ thành phố xuống phường theo hướng bảo đảm tính thống nhất, thông
suốt; đẩy mạnh cơ chế phân cấp, ủy quyền từ chính quyền thành phố cho chính quyền
quận, phường, giảm khâu trung gian, rút ngắn quy trình, thủ
tục, thời gian giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Với việc thực hiện cơ chế thủ trưởng hành chính ở UBND quận và phường
đã nâng cao và phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, tính linh hoạt và chủ động
của người đứng đầu cơ quan hành chính để kịp thời xử lý những vấn đề cấp bách
trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội ở quận và phường.
- Bảo đảm sự liên thông, thống nhất của chế độ công vụ từ thành phố xuống
phường khi công chức phường thuộc biên chế của UBND quận.
b) Nhược điểm
- Khi không tổ chức HĐND ở quận và phường nhưng tổ chức và hoạt động
của HĐND thành phố chưa có đổi mới căn bản về phương thức và cơ chế hoạt động,
nhất là hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với UBND quận, phường và Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân quận.
- Chưa xây dựng được cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu đối với chức
danh Chủ tịch UBND ở quận, phường khi được trao quyền là người đứng đầu cơ
quan hành chính ở quận, phường và trong điều kiện không còn tổ chức HĐND ở quận,
phường.
5. Một số kinh nghiệm rút ra qua thực hiện thí
điểm tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng
a) Thực hiện tổ chức chính quyền đô thị là chủ trương lớn đã được đề ra
tại các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến
pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, vì vậy cần có quyết tâm chính
trị cao, lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đổi mới phương thức vận hành và cơ chế
hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong toàn hệ thống
chính trị ở địa phương; công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức cần đồng bộ,
thống nhất trong toàn hệ thống chính trị của thành phố.
b) Hệ thống văn bản pháp luật cần được ban hành đầy đủ, tránh chồng
chéo; các chế độ, chính sách phải được ban hành kịp
thời, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn để giải quyết
tốt việc sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự. Coi trọng công tác đánh giá, lựa chọn, bố trí
cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhiệm các chức vụ người đúng đầu cơ quan
hành chính (Chủ tịch UBND) ở quận, phường.
c) Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về thực hiện tổ chức mô
hình chính quyền đô thị bằng nhiều hình thức; công khai, minh bạch
hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, cập nhật thông tin kịp thời, đầy đủ về
kết quả tổ chức thực hiện để tạo sự đồng thuận trong Nhân dân.
d) Bảo đảm cơ chế kiểm soát quyền lực, chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên và của
cấp ủy đảng cùng cấp; tạo điều kiện cho UBMTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
cùng cấp tham gia giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính (UBND) ở quận,
phường và Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân quận; bảo đảm và tăng cường
dân chủ trực tiếp của Nhân dân; thực hiện có hiệu quả Luật thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
đ) Cùng với việc thực hiện tổ chức chính quyền đô thị,
chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ở địa bàn.
e) Thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá
khách quan những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện tổ
chức chính quyền đô thị để kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung các
quy định có liên quan.
V. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện trong thời
gian tới
- Tiếp tục chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương triển khai thực hiện Nghị
quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn.
- Trên cơ sở kết quả sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14
của Quốc hội. Thành phố Đà Nẵng tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác tuyên
truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội với nhiều hình thức đa dạng,
phong phú và phù hợp với từng đối tượng, các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất
về nhận thức và đồng thuận của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính
trị và các tầng lớp nhân dân trong việc triển khai tổ chức mô hình
chính quyền đô thị và cơ chế, chính sách phát triển thành phố.
- Tiếp tục theo dõi và hướng dẫn thực hiện có hiệu quả “Đề án phân cấp,
ủy quyền quản lý nhà nước theo mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” nhằm
tăng tính chủ động, trách nhiệm trong thực hiện thí điểm mô hình chính
quyền đô thị.
- Căn cứ bộ tiêu chí theo dõi và đánh giá tình hình
thực hiện mô hình tổ chức chính quyền đô thị để theo dõi, đánh
giá, kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện.
- Tiếp tục rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung các nghị quyết
quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách, nguyên tắc
tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách địa phương
và tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền của
thành phố Đà Nẵng phù hợp với khả năng
cân đối ngân sách địa phương, gắn với thực hiện thí điểm tổ
chức mô hình chính quyền đô thị.
- Triển khai các nội dung chuyển đổi số gắn với các ứng dụng
chính quyền điện tử, thành phố thông minh để nâng cao hiệu quả quản lý, điều
hành nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác phục vụ
người dân, doanh nghiệp.
2. Đề xuất, kiến nghị của Chính phủ
2.1. Về mô hình chính quyền đô thị
Tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
được triển khai từ ngày 01/7/2021 nên tính đến nay thời gian thực hiện được hơn 02 năm.
Theo đó, quá trình thực hiện chưa đủ dài nên chưa thể so sánh, đánh giá toàn diện
về ưu, nhược điểm của từng mô hình chính quyền đô thị ở mỗi thành phố để xác định,
lựa chọn và đề xuất được mô hình chính quyền đô thị áp dụng
thống nhất trên cả nước.
Qua thực hiện tổ chức chính quyền đô thị ở 03 thành phố, bước đầu có thể
thấy mô hình tổ chức chính quyền đô thị đang thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh
có nhiều ưu điểm nổi trội hơn, phân định rõ hơn tổ chức và hoạt động của chính
quyền ở khu vực nội thành (đô thị) và ngoại thành (nông
thôn), bảo đảm phù hợp với đặc điểm đô thị của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc
tổ chức mô hình chính quyền đô thị cũng cần tính đến vị trí, vai
trò, quy mô của từng địa bàn, đặc thù và yêu cầu quản lý
phù hợp đối với mỗi địa phương. Do đó, Chính phủ đề xuất như sau:
a) Trước mắt, để tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức
chính quyền đô thị, kịp thời khắc phục, giải quyết các khó khăn, bất cập, vướng
mắc trong quá trình thực hiện, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép đưa vào chương trình
xây dựng pháp luật của Quốc hội năm 2024 dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị quyết số 119/2020/QH14 nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành
phố Đà Nẵng (các nội dung dự kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung nêu tại
Phụ lục số XVIII kèm theo, trong đó có đề xuất
về cơ cấu tổ chức của UBND quận có chức danh Trưởng công an quận,
Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận, cơ cấu tổ chức của UBND phường có chức
danh Trưởng công an phường).
b) Trong thời gian tới, trên cơ sở quá trình tổ
chức thực hiện mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hà Nội và thành phố Đà Nẵng theo các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ
sẽ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan tiến hành tổng kết, đánh giá
tổng thể, toàn diện về hiệu quả của từng mô hình tổ
chức chính quyền đô thị trên cơ sở so sánh, đối chiếu giữa các mô hình
đang được thực hiện ở các thành phố; chỉ ra ưu, nhược điểm của từng mô hình.
Hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng Đề án mô hình tổ chức chính quyền đô thị trực
thuộc cấp tỉnh và xây dựng Báo cáo rà soát, đánh giá tổng thể việc thực hiện Luật Tổ chức
chính quyền địa phương hiện hành. Trên cơ sở nội dung của Đề án, Báo cáo nêu
trên và kết quả thực hiện
mô hình tổ chức chính quyền đô thị
tại 03 thành phố để đề xuất mô hình tổ chức chính quyền phù
hợp với từng loại hình đô thị và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính
quyền địa phương hoặc xây dựng Luật Chính quyền đô thị để áp dụng thống nhất
trong phạm vi cả nước trình Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành
cùng với thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ của HĐND các cấp.
2.2. Về cơ chế, chính sách đặc thù
Nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ
Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc
Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 168/NQ-CP
ngày 29/12/2022 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên cơ sở sơ kết Nghị quyết số
119/2020/QH14, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép thành
phố Đà Nẵng nghiên cứu, tham khảo một số cơ chế, chính sách đặc
thù đã được Quốc hội thông qua của Thành phố Hồ Chí Minh và
của một số tỉnh, thành phố khác để kiến nghị xây dựng các cơ chế chính
sách đặc thù áp dụng cho thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới nhằm giải
quyết các khó khăn, vướng mắc trên các lĩnh vực, nhất là về quy hoạch,
đầu tư, đô thị, đất đai, tài nguyên, ngân sách... Chính phủ kiến nghị Quốc hội
cho phép xây dựng Nghị quyết về một số cơ chế chính sách đặc thù phát triển
thành phố Đà Nẵng và cho phép đưa vào chương trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2024.
Trên đây là báo cáo sơ kết thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14
ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị
và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Chính phủ trân trọng báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết
định.
(Kèm theo các Phụ lục số liệu và Bảng tổng hợp, tiếp thu, giải trình các
ý kiến góp ý./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- TTCP, Phó TTCP Lê Minh Khái;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (15 bản giấy);
- Văn phòng Quốc hội (15 bản giấy);
- Các Bộ: KHĐT (1 bản giấy), TP, NV, CA, QP,
TC, XD, LĐTBXH;
- Thành ủy UBND, Sở KHĐT TP Đà Nẵng;
- VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ: QHĐP,
KTTH, PL, TH;
- Lưu: VT, QHĐP ( ).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Nguyễn Chí Dũng
|