|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Quyết định 2386/QĐ-UBND 2022 Đề án bảo vệ phát triển nguồn lợi thủy sản Đắk Lắk
Số hiệu:
|
2386/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Đắk Lắk
|
|
Người ký:
|
Nguyễn Tuấn Hà
|
Ngày ban hành:
|
20/10/2022
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2386/QĐ-UBND
|
Đắk Lắk, ngày 20
tháng 10 năm 2022
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỢI THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2021-2025 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK LẮK
CHỦ TỊCH
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật Tổ chức
chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Căn cứ Luật Thủy sản
ngày 21/11/2017;
Căn cứ Nghị định số
26/2019/NĐ-CP ngày 08/03/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Thủy sản;
Căn cứ Thông tư số
05/2013/TT-BKHĐT ngày 31/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc
hướng dẫn tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và công bố Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch ngành, lĩnh vực sản phẩm chủ
yếu;
Căn cứ Quyết định số
2950/QĐ-UBND, ngày 25/10/2021 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Đề cương dự toán
Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021-2025 và định hướng
đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
Theo đề nghị của Giám
đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Tờ trình số 186/TTr-SNN ngày 07/10/2022;
Báo cáo số 262/BC-SNN ngày 03/10/2022 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
về Kết quả thẩm định Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai
đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Phê
duyệt kèm theo Quyết định này Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Điều 2. Giao
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các sở, ban,
ngành, địa phương trong tỉnh chỉ đạo thực hiện các nội dung trong Đề án và chịu
trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện về UBND tỉnh.
Điều 3. Chánh
Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc các Sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Công Thương, Tài nguyên và
Môi trường; Hội Nông dân tỉnh; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các
Đoàn thể; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố và Thủ trưởng các cơ quan,
đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này, kể từ ngày ký ban
hành./.
Nơi nhận:
-
Như
Điều 3;
- CT, các PCT UBND tỉnh;
- Lãnh đạo VP UBND tỉnh;
- Các phòng, TT: NNMT, TH, CC&CTTĐT;
- Lưu: VT, NNMT (Q-07b).
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Tuấn Hà
|
ĐỀ
ÁN
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN GIAI
ĐOẠN 2021-2025 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 2386/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 của UBND tỉnh)
PHẦN MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY
DỰNG ĐỀ ÁN
Đắk Lắk có hệ thống
sông suối phong phú cùng hàng trăm các hồ chứa và hồ tự nhiên lớn nhỏ với tổng
diện tích hơn 42.000 ha, phân bố tương đối đồng đều trên địa bàn toàn tỉnh là
điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thủy sản nói chung và nghề khai thác
thủy sản nội địa nói riêng. Trong các lưu vực sông, đáng chú ý nhất là lưu vực
sông Srêpôk chảy qua địa bàn tỉnh được xem là nơi có nguồn lợi thủy sinh vật tự
nhiên phong phú bậc nhất của hệ thống sông Mêkông ở Tây Nguyên (Lưu vực sông
Mêkông là vùng có đa dạng sinh học cao với quần thể động, thực vật phong phú,
nơi đây cũng là khu vực có nghề cá nội đồng lớn nhất khu vực, đặc biệt là nghề
khai thác thủy sản nội địa). Bên cạnh hệ thống sông, suối là hệ thống công
trình hồ chứa (thủy lợi, thủy điện) đã và đang được xây dựng trong tương lai là
tiềm năng to lớn để phát triển nghề cá nội địa ở tỉnh Đắk Lắk.
Qua kết quả điều tra
phân loại của Trường Đại học Tây Nguyên về thành phần giống, loài khu hệ cá
nước ngọt nói chung đã thu thập được 201 loài cá tự nhiên, trong đó đa số tập
trung ở sông suối và hồ chứa, hồ tự nhiên thuộc tỉnh Đắk Lắk. Bộ cá chép chiếm
số lượng loài lớn nhất khoảng 120 loài chiếm 60%, các bộ có ít loài là bộ cá
thát lát, bộ lươn, bộ cá chình, bộ cá nheo, bộ mang liền .... mỗi bộ có một vài
loài. Phần lớn các loài phân bố theo mùa, nhiều loài cá có giá trị cao phân bố
tự nhiên trong các sông, suối, hồ, ruộng. Trên địa bàn tỉnh, có 201 loài cá
phân bố, trong đó có 32 loài có giá trị kinh tế, 5 loài trong sách đỏ Việt Nam,
2 loài trong sách đỏ của IUCN (baodaklak.vn).
Tuy nhiên, trong thời
gian vừa qua cùng với áp lực gia tăng dân số và việc khai thác bằng các ngư cụ
trái pháp luật (kích điện, thuốc nổ, thuốc độc, ngư cụ có kích thước mắt lưới
nhỏ…) và khai thác thủy sản không đúng mùa vụ (khai thác vào mùa sinh sản của
thủy sản) trên các thủy vực, bên cạnh đó hiện nay việc làm các công trình thủy
điện chắn dòng ảnh hưởng đến quá trình di cư sinh sản của các đối tượng đã làm
sản lượng khai thác sụt giảm nghiêm trọng.Theo số liệu báo cáo của Dự án quản
lý nghề cá lưu vực sông Mê Kông và số liệu thống kê của các đơn vị liên quan hiện
nay sản lượng khai thác cá chỉ bằng 25% so với sản lượng khai thác cách đây 10-15
năm, ví dụ: theo báo cáo của Hội nghề cá Hồ Lắk tại thủy vực hồ Lắk có diện
tích hơn 700 ha cách đây khoảng 15 năm sản lượng riêng cá Thác Lác các thành
viên trong Hội khai thác được 150kg/ngày để làm chả cá nhưng hiện nay sản lượng
khai thác tổng số không được 30 kg/ngày, bên cạnh đó một số loài đang có dấu
hiệu giảm rõ rệt như cá trà sóc, cá leo nước ngọt, cá mõm trâu, cá thát lát,
các loài cá lăng, cá lóc. Chính vì vậy để khôi phục lại nguồn lợi thủy sản đa
dạng phong phú, đồng thời nâng cao sản lượng khai thác trong thời gian tới góp
phần ổn định đời sống người dân sống xung quanh các thủy vực nội địa trên cả
nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, Bộ Nông nghiệp và PTNT
đã ban hành Thông tư 19/2018/TT-BNNPTNT ngày 15/11/2018 về việc hướng dẫn bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; Ngày 14/6/2021 UBND tỉnh đã cho phép chủ
trương lập Đề án “Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021-2025
và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. Quyết định này thể hiện
rõ mức độ cần thiết phải lập Đề án với mục tiêu là khôi phục lại nguồn lợi thủy
sản tại các thủy vực, đồng thời quản lý phát triển một cách bền vững.
II. CÁC CĂN CỨ PHÁP
LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.
Văn bản của Trung ương
- Luật Thủy sản năm
2017;
- Luật Tài nguyên
nước 2012;
- Công ước Đa dạng
sinh học, 1992, BRAXIN - “Chương trình hành động thế kỷ 21 về bảo tồn Đa dạng
sinh học”;
- Luật Đa dạng sinh
học năm 2008;
- Luật Đất đai năm
2013;
- Luật Đa dạng sinh
học năm 2008 được sửa đổi bổ sung bởi Luật Quy hoạch năm 2018 và được lập thành
văn bản hợp nhất số 32/VBHN-VPQH ngày 10/12/2018 của Văn phòng Quốc hội;
- Luật Thủy lợi, Nghị
định số 67/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thủy lợi;
- Nghị định số 26/2019/NĐ-CP
ngày 08/03/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Thủy sản;
- Nghị định số
65/2010/NĐ-CP ngày 11/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học;
- Thông tư số
19/2018/TT-BNNPTNT ngày 15/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
về việc hướng dẫn bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản;
- Quyết định số
339/QĐ-TTg , ngày 11/3/2021 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược
phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
- Chỉ thị số
01/1998/CT-TTg ngày 02/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm các
hành vi khai thác thủy sản hủy diệt;
- Chỉ thị số 19/CT-TTg
ngày 30/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực
hiện Chỉ thị số 01/1998/CT-TTg ngày 02/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
nghiêm cấm các hành vi khai thác thủy sản hủy diệt;
- Quyết định số
1960/QĐ-BNN-TCTS ngày 06/5/2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành Kế hoạch hành động thực hiện Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045;
- Quyết định số
1151/QĐ-BNN-TCTS ngày 19/3/2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê
duyệt Kế hoạch quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường trong nuôi trồng thủy
sản giai đoạn 2021-2025.
- Quyết định số
1095/QĐ-BNN-TCTS ngày 15/3/2021 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về việc phê duyệt kế hoạch ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ phục
vụ tái cơ cấu ngành thủy sản giai đoạn 2021-2025.
2.
Văn bản của Tỉnh Đắk Lắk
- Quyết định số
38/2020/QĐ-UBND ngày 17/12/2020 của UBND tỉnh về quy định khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản tại khu bảo
vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Công văn số
5216/UBND-NNMT ngày 14/6/2021 của UBND tỉnh về việc cho chủ trương lập Đề án
Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021- 2025 và định hướng đến
năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kế hoạch số 6377/KH-UBND
ngày 01/8/2018 của UBND tỉnh về việc tổ chức triển khai, thi hành Luật Thủy sản
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kế hoạch số 5899/KH-UBND
ngày 02/7/2021 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số
38/2020/QĐ-UBND , ngày 17/12/2020 về quy định khu vực cấm khai thác thủy sản có
thời hạn; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản tại khu bảo vệ nguồn lợi
thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Quyết định số
2950/QĐ-UBND ngày 25/10/2021 của UBND tỉnh Đắk Lắk về phê duyệt đề cương dự
toán Đề án Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021-2025 và định
hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Quyết định số
323/QĐ-UBND tỉnh ngày 08/02/2021 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt Đề án
phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.
Phương pháp luận xây dựng đề án
- Phương pháp chuyên
gia: tổ chức các Hội thảo để lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia khoa học,
để có đánh giá khách quan về các kết quả đạt được và thảo luận về các nội dung
trong bản dự thảo đề án. Kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm của các chuyên
gia, các nhà quản lý về sinh thái học, đa dạng sinh học, thủy sinh vật học, môi
trường, hệ thống thông tin địa lý, địa mạo, quản lý, bảo tồn, kinh tế, xã hội,
du lịch,... và kinh nghiệm của địa phương được vận dụng và phát huy tối đa để
xây đề án.
- Hồi cứu và kế thừa
tài liệu: sử dụng để tổng hợp, thống kê các kết quả nghiên cứu liên quan ở các
hệ sinh thái, đa dạng sinh học khu vực nghiên cứu; kế thừa các kết quả nghiên
cứu về điều kiện địa lý, khí tượng thủy văn, địa hình, địa mạo,.... sử dụng để
tổng hợp, thống kê các kết quả nghiên cứu tương tự và các nghiên cứu khoa học
liên quan trực tiếp đến khu vực nghiên cứu hoặc gần khu vực vực nghiên cứu
trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
- Khảo sát và điều
tra thực địa tại các thủy vực.
- Trực tiếp đến làm
việc lấy ý kiến và thu thập thông tin tài liệu tại: từ các Sở ban ngành liên
quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố. Sau khi xây dựng xong Dự thảo báo
cáo Đề án, đã tổ chức hội thảo tại địa phương để lấy ý kiến đóng góp rộng rãi
của địa phương, với sự tham gia của các sở, ban, ngành có liên quan của tỉnh
Đăk Lăk và UBND cấp huyện.
- Thu thập, tổng hợp
và phân tích các tài liệu, đặc biệt là tài liệu về đa dạng sinh học và đánh giá
tác động của các dự án phát triển lên môi trường và đa dạng sinh học tại khu
vực nghiên cứu.
- Phương pháp điều
tra kinh tế - xã hội: phương pháp phỏng vấn, đánh giá nông thôn có sự tham gia
của cộng đồng (PRA). Các chuyên gia tư vấn sẽ tiến hành phỏng vấn người dân,
đại diện chính quyền địa phương, các cán bộ quản lý để thu thập thông tin và
các số liệu cần thiết. Dựa vào cộng đồng để điều tra bổ sung về đang dạng sinh
học, điều kiện môi trường các hệ sinh thái cửa sông.
- Xây dựng và sắp xếp
ưu tiên các dự án được đề xuất bằng phương pháp đối chiếu so sánh và theo tiếp cận
phân tích khung logic (LFA - Logical Framework Analysis).
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH
TẾ - XÃ HỘI
I.
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.
Vị trí địa lý hành chính
Đắk Lắk là tỉnh nằm ở
Trung tâm cao nguyên Trung bộ, là vùng đất nổi tiếng về cà phê, cao su. Diện
tích tự nhiên là: 13.125,37 km2, dân số hơn 1,8 triệu người gồm 49
dân tộc anh em sinh sống. Các đơn vị hành chính gồm: Thành phố Buôn Ma Thuột,
Thị xã Buôn Hồ và 13 huyện: Ea H’Leo, Ea Sup, Krông Năng, Krông Buk, Buôn Đôn,
Cư M’gar, Ea Kar, M’Drắk, Krông Pắc, Krông Ana, Krông Bông, Lắk, Cư Kuin. Toạ
độ địa lý:
Từ 12°10’00” đến 13°24’59”
Vĩ độ Bắc
Từ 107°20’03” đến 108°59’43”
Kinh độ Đông
Vị trí địa lý của
tỉnh Đắk Lắk được xác định như sau: phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp
tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà và
phía Tây giáp Vương quốc Campuchia.
Thành phố Buôn Ma
Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh và cả vùng Tây
Nguyên. Trung tâm thành phố là điểm giao cắt giữa quốc lộ 14 (chạy xuyên suốt
tỉnh theo chiều từ Bắc xuống Nam) với quốc lộ 26 và quốc lộ 27 nối Buôn Ma
Thuột với các thành phố Nha Trang (Khánh Hoà), Đà Lạt (Lâm Đồng) và Pleiku (Gia
Lai). Hiện nay, đường Hồ Chí Minh qua địa bàn tỉnh đang được hoàn thiện, cùng
với đường cao tốc Buôn Ma Thuột - Khánh Hòa sắp tới được khởi công xây dựng (giai
đoạn 2023-2026), bên cạnh đó đường hàng không đã được nâng cấp nên Đắk Lắk sẽ
là đầu mối giao lưu rất quan trọng nối liền các trung tâm kinh tế của cả nước
như: Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ... Đây là động lực lớn,
thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh cũng như toàn vùng Tây Nguyên phát triển.
2.
Đặc điểm các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1. Khí hậu
Do đặc điểm vị trí
địa lý, địa hình nên khí hậu ở Đắk Lắk vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt
đới gió mùa, vừa mang tính chất của khí hậu cao nguyên mát dịu. Song chịu ảnh
hưởng mạnh nhất chủ yếu vẫn là khí hậu Tây Trường Sơn, đó là nhiệt độ trung
bình không cao, mùa hè mưa nhiều ít nắng bức do chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây
Nam, mùa đông mưa ít. Vùng phía Đông và Đông Bắc thuộc các huyện M’Đrắk, Ea
Kar, Krông Năng là vùng khí hậu trung gian, chịu ảnh hưởng khí hậu Tây và Đông
Trường Sơn.
Nhìn chung, thời tiết
chia làm 2 mùa khá rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 kèm theo gió Tây Nam
thịnh hành, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7, 8, 9, lượng mưa chiếm
80 - 90% lượng mưa năm. Riêng vùng phía Đông do chịu ảnh hưởng của Đông Trường
Sơn nên mùa mưa kéo dài hơn tới tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió Đông Bắc thổi mạnh, bốc hơi lớn, gây khô hạn
nghiêm trọng.
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình ở
độ cao 500 - 800m dao động từ 22 - 23°C, vùng có độ cao thấp như Buôn Ma Thuột
nhiệt độ trung bình 23,7°C, M’Drắk nhiệt độ 24°C.
Tổng nhiệt độ năm cũng giảm dần theo độ cao, ở độ cao <800m tổng nhiệt độ
năm đạt 8000 - 9500°C, độ cao >800m có
tổng nhiệt độ giảm xuống chỉ còn 7500 - 8000°C. Biên độ nhiệt trong ngày lớn, có ngày biên
độ đạt 20°C, biên độ nhiệt giữa
các tháng trong năm không lớn, tháng giêng có nhiệt độ trung bình thấp nhất ở
Buôn Ma Thuột 18,4°C, ở M’Drắk 20°C, tháng có nhiệt độ
cao nhất là tháng 4 ở Buôn Ma Thuột 26,2°C, ở Buôn Hồ 27,2°C.
b. Chế độ mưa
Lượng mưa trung bình
nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1.600 -1.800 mm, trong đó vùng có lượng mưa lớn nhất
là vùng phía Nam (1.950 - 2.000 mm); vùng có lượng mưa thấp nhất là vùng phía
Tây Bắc (1.500 - 1.550mm). Lượng mưa trong 6 tháng mùa mưa chiếm 84% lượng mưa
năm, mùa khô lượng mưa chiếm 16%, vùng Ea Sup lượng mưa mùa khô chiếm 10%, có
năm không có mưa. Các tháng có lượng mưa lớn là tháng 8, 9. Mùa mưa còn chịu
ảnh hưởng bởi bão. Mỗi năm trung bình có 2 cơn bão ảnh hưởng đến thời tiết Đắk
Lắk. Đáng chú ý là lượng mưa do bão gây ra khá lớn, trung bình mỗi cơn bão có
thể mưa từ 40 - 60mm. Lượng mưa lớn nhất 1 đợt bão ở các vùng khác nhau dao
động từ 150 - 500mm và lượng mưa lớn nhất trong 24 giờ đạt 100 - 250mm. Mưa lớn
trong điều kiện núi và địa hình của Đắk Lắk xen kẽ với các thung lũng dẫn đến
tình trạng xói mòn đất nghiêm trọng và lũ lụt ở những vùng thấp. Các tháng mưa
tập trung thường gây lũ lụt vùng Lắk - Krông Ana. Trong các tháng mùa mưa đôi
khi xảy ra tiểu hạn từ 15 - 20 ngày gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp.
c. Các yếu tố khí hậu
khác
- Độ ẩm không khí:
trung bình năm khoảng 82%, tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 9 trung bình 90%
tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 3 trung bình 70%.
- Lượng bốc hơi:
lượng bốc hơi các tháng 2, 3, 4 từ 150 - 200 mm. Tổng lượng bốc hơi trung bình
năm 1.300 - 1.500mm, bằng 70% lượng mưa năm.
- Chế độ nắng: tổng
số giờ nắng bình quân hàng năm khá cao khoảng 2139 giờ, năm cao nhất 2323 giờ,
năm thấp nhất khoảng 1991 giờ. Trong đó mùa khô số giờ nắng trung bình cao hơn
(1.167 giờ) so với mùa mưa (972 giờ).
- Chế độ gió: có 2
hướng gió chính theo 2 mùa, mùa mưa gió Tây Nam thịnh hành thường thổi nhẹ khoảng
cấp 2, cấp 3. Mùa khô gió Đông Bắc thịnh hành thường thổi mạnh cấp 3, cấp 4 có
lúc gió mạnh lên cấp 6, cấp 7. Mùa khô gió tốc độ lớn thường gây khô hạn.
Tóm lại khí hậu Đắk
Lắk vừa mang nét chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa vừa chịu ảnh hưởng của khí
hậu vùng cao nguyên nên phù hợp với nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, do chế độ
thời tiết có 2 mùa rõ rệt, mùa khô thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt, mùa
mưa lượng mưa lớn tập trung gây lũ lụt một số vùng. Lượng mưa lớn cũng gây xói
mòn và rửa trôi đất đai.
2.2. Tài nguyên nước
a. Nước mặt
* Sông suối
Tỉnh Đắk Lắk có nhiều
kiểu địa hình khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về sông suối, mật độ sông suối
bình quân khoảng 0,8 km/km2. Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh
thuộc 2 lưu vực chính: sông Srêpốk, sông Ba và EaHleo:
- Hệ thống sông
Srêpốk: chiều dài sông chính 315 km, diện tích lưu vực 30.100 km2 (trong phạm vi Đắk
Lắk 4.200 km2) là sự hợp thành của hai con sông lớn: Krông Knô và
Krông Ana:
+ Sông Krông Ana gồm
các nhánh chính hợp thành: suối Krông Buk bắt nguồn từ dãy núi Rồng thuộc cao
Nguyên Buôn Ma Thuột, suối Krông Pắc bắt nguồn từ dãy núi phía Tây tỉnh Khánh
Hoà và suối Krông Bông bắt nguồn từ dãy núi phía Đông Nam tỉnh. Sông chính chảy
theo hướng Đông - Tây với chiều dài 215 km, diện tích lưu vực 3.960 km2.
Dòng chảy bình quân 21 l/s/km2. Độ dốc lòng sông không đồng đều,
những nhánh lớn ở thượng nguồn 4 - 5%, đoạn hạ lưu thuộc Lắk - Buôn Trấp có độ
dốc 0,25%, dòng sông gấp khúc gây lũ lụt hàng năm trên phạm vi khá rộng, đồng
thời cũng bồi đắp phù sa tạo nên những cánh đồng màu mỡ ven sông. Đây là con
sông có ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh, nhất là cây lúa
nước.
+ Sông Krông Knô: Bắt
nguồn từ dãy núi cao Chư Jang Sin (2.442 m - có thể gọi là mái nhà của Tây
Nguyên) chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, toàn bộ lưu vực của sông hầu hết là
rừng núi, thượng lưu hẹp và dốc, bề rộng của dòng sông lớn dần từ thượng lưu
xuống hạ lưu. Tổng diện tích lưu vực sông là 3.920 km2 và chiều dài dòng
chính là 156 km, độ dốc trung bình của sông 6,8%. Dòng chảy bình quân trên toàn
lưu vực là 34 lít/s/km2. Mùa mưa lượng nước khá lớn gây lũ lụt và
bồi đắp phù sa cho các cánh đồng ven sông.
- Hệ thống sông Ba:
Lưu vực sông Ba nằm về phía Đông Bắc tỉnh với diện tỉnh khoảng 2.824 km2 và có hai thủy lưu chính
chảy trong phạm vi của tỉnh là: Ea Krông Hin và Ea Krông H’năng. Hai sông này
bắt nguồn từ dãy núi cao và chảy qua các vùng có lượng mưa lớn và phong phú.
+ Sông Krông H’năng:
bắt nguồn từ dãy núi Chư Tun có độ cao 1.200m, sông chảy theo hướng Bắc Nam đến
huyện Ea Kar chuyển hướng Tây - Đông sau đó chuyển hướng Nam - Bắc rồi nhập với
sông Ba ở vùng giáp giới giữa Gia Lai và Phú Yên có chiều dài 130 km, diện tích
lưu vực 1.840 km2. Dòng chảy phần lớn trong địa phận của Đắk Lắk với
diện tích lưu vực 1.542 km2, chiều dài sông chính 130 km, độ dốc
lòng sông 7,45% và mật độ lưới sông 0,54 km/km2.
+ Sông Krông Hin bắt
nguồn từ dãy Cư Mu với đỉnh cao 2.051 m, chiều dài sông chính 88 km, lưu vực
1.040 km2, sông có nhiều bậc thang, độ dốc lòng sông 15,5% và mật độ
lưới sông 0,53km/km2. Do lượng mưa phân bố không đều theo thời gian,
theo vùng và địa hình chia cắt phức tạp nên mùa mưa thường bị ngập úng cục bộ
tại một số vùng ven sông: Krông Nô, Krông Ana và Krông Pắc, mùa khô lại xảy ra
tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.
Hai dòng sông này có
tiềm năng thủy điện, còn khả năng cấp nước cho sản xuất không nhiều do địa hình
dốc và đất nông nghiệp ít.
- Hệ thống sông Ea
H’Leo
Sông Ea H’Leo bắt
nguồn từ độ cao 800 m trên địa phận xã Dliê Ya huyện Krông Năng có chiều dài
143 km, chạy qua 2 huyện Ea Hleo và Ea Sup trước khi hợp lưu với suối Ea Lốp
cách biên giới Việt Nam - Cam Pu Chia khoảng 1km rồi đổ vào sông Srêpok trên
đất Cam Pu Chia. Diện tích lưu vực của sông là 3.080 km2 nằm trên địa bàn 6
huyện thuộc 2 tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai. Sông Ea H’Leo có nhánh chính là suối
EaSup, diện tích lưu vực 994 km2 chiều dài 104 km. Trên dòng suối đã xây dựng
2 công trình thủy lợi lớn EaSup hạ và EaSup thượng để tưới cho vùng EaSup với
diện tích trên 10.000 ha. Đây là 2 công trình quan trọng có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống và sản xuất của nhân dân huyện EaSup. Đặc điểm nổi bật của thủy
văn Đắk Lắk là: lượng nước mùa lũ chiếm từ 70 - 80% lượng nước cả năm; lượng
nước tháng lớn nhất chiếm từ 20 - 29% lượng nước cả năm và lượng nước tháng
kiệt nhất chiếm từ 2 - 2,5% lượng nước cả năm,vùng phía tả sông Srêpốk và Ea
Sup nước không còn sau khi hết mưa.
* Hệ thống hồ đập:
Trên địa bàn tỉnh có
737 hồ tự nhiên và nhân tạo, độ sâu từ vài mét tới 25 m. Tổng dung tích các hồ
chứa 650 triệu m3 nước.
Đây có thể coi là kho chứa nước phục vụ cho các nhu cầu dân sinh, kinh tế: tưới
tiêu, du lịch tham quan, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường. Tổng diện tích
mặt nước, sông suối và hồ của Đắk Lắk có khả năng khai thác nuôi trồng thủy sản
là khoảng hơn 42.000 ha. Diện tích này đã được khai thác để nuôi trồng thủy sản
khoảng 8.310 ha, chiếm 20,8% tổng diện tích sông suối, ao hồ của tỉnh. Trong
tổng số hồ chứa trên địa bàn tỉnh có 45 hồ chứa là có diện tích từ 50 ha trở
lên, đây được xem như là những ngư trường khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Bảng
1. Diện tích những hồ chứa là ngư trường khai thác ở tỉnh Đắk Lắk
Diện
tích hồ chứa
|
Số
lượng (hồ)
|
Tổng
diện tích (ha)
|
Tỷ
lệ phần trăm (%)
|
Từ
50 - 100 ha
|
19
|
1654
|
14,82
|
Từ
101 - 300 ha
|
21
|
3905
|
35,00
|
Từ
301 - 500 ha
|
1
|
340
|
3,05
|
Từ
501 - 1000 ha
|
1
|
658
|
5,90
|
Trên
1000 ha
|
3
|
4600
|
41,23
|
|
45
|
11157
|
100,00%
|
(Nguồn
Chi cục Thủy lợi tỉnh Đắk Lắk, 2020)
b. Nước ngầm
Theo tài liệu nghiên
cứu thăm dò, đánh giá nước dưới đất của trung tâm nghiên cứu môi trường địa
chất Trường Đại học Mỏ-Địa chất: nước dưới đất có trữ lượng và chất lượng tốt,
thường tồn tại trong các khe nứt trong đá phun trào bazan. Đặc biệt ở đây có
hiện tượng mất nước (nước tầng trên chảy xuống tầng dưới), trong các trầm tích
bở rời Đệ Tứ, trầm tích Neogen, trầm tích Jura có mức chứa nước từ nghèo đến
trung bình, còn các tầng khác không đáng kể.
Chiều sâu nước thay
đổi lớn, theo bề mặt địa hình và thế nằm của tầng, biến đổi từ 4 - 57 m ở Buôn
Ma Thuột.
Nước ngầm trên địa
bàn tỉnh tương đối phong phú nhưng chỉ tập trung ở khối bazan Buôn Ma Thuột -
Krông Buk, các khối bazan khác có trữ lượng nước ngầm nhỏ hơn. Tại những khu
vực này có thể khai thác nước để phục vụ sinh hoạt, kinh tế vườn và tưới cho
cây trồng qua giếng đào, giếng khoan. Nhưng ở một số khu vực như M’Drắk, Krông
Bông, Ea Kar, phía Đông huyện Ea H’Leo lượng nước ngầm rất kém, việc đầu tư
khai thác đòi hỏi nguồn kinh phí lớn.
c. Khả năng cung cấp
nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp
Hiện nay trên địa bàn
tỉnh có 737 công trình, gồm: 575 hồ chứa, 103 đập dâng, 59 trạm bơm tưới và 01
hệ thống đê bao (chưa bao gồm các công trình có diện tích tưới không đáng kể);
kiên cố hóa kênh mương các loại được 600 km/1.782,6 km (kênh chính 396,3 km,
kênh nhánh 246,1 km). Các công trình thủy lợi đang tưới với tổng diện tích
khoảng 230 nghìn ha, trong đó lúa Đông Xuân 30 nghìn ha, lúa vụ Mùa 53,4 nghìn
ha, cà phê 132,3 nghìn ha, hoa màu và cây khác 14,6 nghìn ha và đáp ứng được
gần 76% diện tích cây trồng có nhu cầu tưới. Tuy nhiên, nguồn nước từ công
trình thủy lợi phục vụ tưới cho hoa màu và các loại cây trồng khác còn ở mức
thấp. Kết quả quy hoạch thủy lợi cho tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 như sau: số công
trình nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới là 536 công trình các loại để đảm bảo
diện tích tưới tăng thêm 261,7 nghìn ha, trong đó tưới lúa 61,4 nghìn ha, màu
và cây công nghiệp là 200,3 nghìn ha.
2.3. Tài nguyên đất
Theo Báo cáo đầu kỳ
quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050 đánh giá thực hiện
quy hoạch đất thời kỳ 2011 - 2020, có thể rút ra đánh giá tiềm năng đất đai như
sau:
Tiềm năng đất đai năm
2020 bằng tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, theo kết quả thống kê là 1.307.041
ha, trong đó:
Đất nông nghiệp
1.189.057 ha (90,97%);
Đất phi nông nghiệp
96.303 ha (7,37%);
Đất chưa sử dụng
21.681 ha (1,66%);
Tiềm năng cho lĩnh
vực đất nông nghiệp khá cao, trong những năm tới cần chuyển đổi cơ cấu cây
trồng cho phù hợp với thổ nhưỡng, tăng hệ số sử dụng đất, cần tạo ra các vùng
sản xuất nông nghiệp và phát huy những lợi thế để đạt hiệu quả năng suất cao.
Cơ cấu sử dụng đất
của tỉnh đang chuyển dịch theo hướng phù hợp với điều kiện tự nhiên, phù hợp
với điều kiện phát triển của tỉnh, đã đáp ứng cơ bản yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội.
Cơ cấu hợp lý được
thể hiện trên các mặt như: Quỹ đất đai của tỉnh ngày càng được khai thác, sử
dụng triệt để, tỷ lệ đất đã đưa vào khai thác, sử dụng cho các mục đích dân
sinh kinh tế ngày càng tăng, diện tích đất chưa sử dụng giảm dần. Trong những
năm qua, cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm
tỷ trọng nông nghiệp - thủy sản; cơ cấu sử dụng các loại đất trên địa bàn tỉnh
đã có những thay đổi đáng kể so với tổng diện tích tự nhiên. để phù hợp với mức
độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Mức độ thích hợp của
từng loại đất là đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, sắp xếp bố
trí phù hợp với địa hình và nông hóa thổ nhưỡng của từng loại đất.
Qua kinh nghiệm sản
xuất hàng năm cho thấy đất đai của tỉnh phù hợp với nhiều loại cây trồng cho
năng suất cao, nhiều mô hình trang trại đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Đất nông nghiệp là
nguồn dự trữ dồi dào về số lượng để cung cấp cho các ngành như: Công nghiệp,
dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống và các cơ sở
hạ tầng phục vụ sinh hoạt văn hoá cũng như khám chữa bệnh của nhân dân.
Đất phát triển hạ
tầng có cơ cấu hợp lý so với yêu cầu phát triển kinh tế, tuy nhiên một số loại
đất như: đất chợ, bưu chính viễn thông, thể thao còn chiếm tỷ lệ nhỏ, vì vậy
trong tương lai cần phải dành quỹ đất thích hợp cho các công trình phục vụ đời
sống dân sinh, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội.
Quỹ đất dành cho các
lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao và các công trình phúc lợi
khác cũng được đầu tư mở rộng đáng kể góp phần nâng cao chất lượng đào tạo,
chất lượng khám chữa bệnh và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Đất chưa sử dụng, chủ
yếu là đất với diện tích nhỏ, không tập trung, khó khai thác để đưa vào sử
dụng.
Như vậy, trong những
năm qua việc sắp xếp, phân bố sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý là một
trong những nhân tố quan trọng mang lại tốc độ tăng trưởng nhanh góp phần để
Đắk Lắk đạt và vượt các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
(Nguồn:
Báo cáo đầu kỳ quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn đến 2050
- Tháng 9/2021)
2.4. Môi trường sinh
thái và cảnh quan thiên nhiên
Điều kiện sinh thái
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk rất đặc trưng cho vùng đất cao nguyên của Tây Nguyên,
trong đó các tài nguyên động vật trên cạn và thủy sinh vật khá đa dạng. Môi
trường đất như ở Đắk Lắk được đánh giá là thuận lợi, có tiềm năng khá lớn cho
phát triển nông nghiệp cả trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra, cảnh quan của tỉnh
là điều kiện thuận lợi cho phép hình thành và phát triển nông nghiệp gắn với du
lịch sinh thái vườn, đây cũng là thế mạnh trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, cũng như đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ở nông thôn. Bên cạnh các
yếu tố môi trường đất thuận lợi cho phát triển cây trồng, động vật nuôi trên
cạn, Môi trường nước tại các thủy vực sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh cũng
tương đối thuận lợi để phát triển thủy sản:
Độ pH: Qua thống kê
số liệu quan trắc môi trường nhiều năm cho thấy độ pH tại các thủy vực trung
bình đạt bình quân 6-8 giá trị này nằm trong khoảng thích hợp đối với các đối
tượng nuôi thủy sản.
Chất rắn lơ lửng và
độ đục: Hàm lượng các chất rắn lơ lửng trên hệ thống sông Srêpôk và các con
sông khác dao động 11- /l và cao vào mùa mưa, dẫn đến độ đục nước sông cũng
tăng theo.
Hàm lượng BOD, COD và
DO: Giá trị BOD và COD có xu hướng tăng. Giá trị BOD5 dao động từ 3-7 mg/l
nằm trong khoảng phù hợp đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản. Giá trị COD5
đạt khá cao, trung bình 7-21 mg/l. Hàm lượng DO khá cao và phù hợp với các đối
tượng nuôi thủy sản.
Hàm lượng các chất
dinh dưỡng: Các chất dinh dưỡng như nitrit, nitrat, amonia và phosphat đều nằm
trong khoảng cho phép đối với các hoạt động nuôi trồng thủy sản và thậm chí đối
với sinh hoạt (trừ vào những ngày mưa lũ).
Các chất kim loại
nặng: Các kim loại nặng như sắt tổng số, chì, thủy ngân, cadmin, arsen trong
các thủy vực vẫn nằm trong khoảng giá trị cho phép đối với hoạt động sinh hoạt
của người dân và cho nuôi trồng thủy sản.
Hàm lượng coliform:
dao động từ 4.300-275.667 MPN/100ml và vượt tiêu chuẩn chất lượng nước cho sinh
hoạt
2.5. Đặc điểm các hệ
sinh thái trong môi trường nước tại các thủy vực sông, hồ chứa trên địa bàn
tỉnh
* Thực vật phù du:
đây là nguồn thức ăn tự nhiên của các đối tượng thủy sản. Qua số liệu thu thập
được, trên địa bàn tỉnh đã phân loại được 128 loài thực vật nổi phân bố ở hồ
chứa, thuộc 33 họ và 6 ngành (24 loài thuộc ngành Cyanophyta, 16 loài thuộc
ngành Euglenophyta, 5 loài thuộc ngành Dinophita, 21 loài thuộc ngành
bacillariophyta, 42 loài thuộc ngành Chlorophyta và 20 loài thuộc ngành
Charophyta). Riêng các loài thực vật nổi phân bố ở hồ Ea Kao 47 loài, hồ Ea Súp
46 loài và 77 loài phân bố ở hồ Lắk.
* Động vật phù du:
cũng giống như thực vật phù du, đây là nguồn thức ăn tự nhiên của các đối tượng
thủy sản. Qua số liệu thu thập được, trên địa bàn tỉnh đã phân loại được 2 nhóm
Cladocera và Copepoda, trong đó ấu trùng muỗi và ấu trùng chuồn chuồn có mật độ
tương đối nhiều. Số lượng động vật nổi trung bình 37 con/m3. Đối với
hồ chứa có 63 loài thuộc 4 nhóm: Rotifera (45 loài), Cladocera (11 loài),
Copepoda (6 loài) và Ostracoda (1 loài). Riêng hồ Ea Hao có 32 loài động vật
nổi, 31 loài ở hồ Ea Súp và 54 loài ở hồ Lắk.
* Động vật đáy: hiện
nay mới chỉ khảo sát được ở các suối thuộc thành phố Buôn Ma Thuột, theo thống
kê của trường Đại học Tây Nguyên về động vật đáy cỡ lớn có 40 loài. Trong các
mẫu thu được nhóm côn trùng chiếm ưu thế, 26 họ (khoảng 62% tổng số họ thu
được). Các họ chiếm ưu thế ở các suối Thành phố Buôn Ma Thuột là Protoneuridae,
Chironomidae, Dixidae; các họ còn lại tần số gặp ít, chỉ một vài đến vài
chục cá thể trong một điểm thu mẫu.
Số lượng thực vật phù
du đối với hồ tự nhiên cao hơn rất nhiều so với một số hồ nhân tạo. Riêng Hồ
Lắk hàm lượng thực vật phù du đạt bình quân 9.136 tế bào/ml, trong khi đó đối
với hồ nhân tạo đạt 246 tb/ml (Ea Kao) và 189 tb/ml (Ea Súp). Tương tự như thế
đối với động vật phù du đạt 216 tb/ml (hồ Lắk), 80 tb/ml (hồ Ea Kao) và 72
tb/ml (hồ Ea Súp)…
2.6. Đa dạng khu hệ
sinh vật
a) Khu hệ thủy sinh
* Khu hệ cá
Cho đến nay đã phân
loại được 201 loài cá ở khu hệ cá tỉnh Đắk Lắk, trong đó có 32 loài có giá trị
kinh tế, 5 loài trong sách đỏ Việt Nam, 2 loài trong sách đỏ của IUCN. Có nhiều
loài cá có giá trị kinh tế như cá Ngựa xám, cá Trà sóc, cá Thát lát, cá Lăng
nha, cá Còm, cá Lóc ... hiện nay sản lượng khai thác giảm sút nghiêm trọng.
Bảng
2. Danh sách các loài cá kinh tế và quý hiếm của tỉnh Đắk Lắk
TT
|
Tên
địa phương
|
Tên
khoa học
|
Sách
đỏ VN
|
Sách
đỏ của IUCN
|
1
|
Cá Thát lát
|
Notopterus
notopterus (Pallas
1769)
|
|
|
2
|
Cá Nàng hai
|
Chitala blanci (d'Aubenton, 1965)
|
|
LR
|
3
|
Cá Còm
|
Chitala ornata (Gray, 1831)
|
VU
|
|
4
|
Cá Chình hoa
|
Anguilla marmorata Quoy and Gaimard, 1824
|
VU
|
|
5
|
Cá Chép
|
Cyprinus carpio Linnaeus 1758
|
|
|
6
|
Cá Diếc
|
Carasius auratus (Linnaeus, 1758)
|
|
|
7
|
Cá Trà sóc
|
Probarbus jullieni Sauvage 1880
|
VU
|
EN
|
8
|
Cá Ngựa xám
|
Tor tambroides (Bleeker 1854)
|
|
|
9
|
Cá Cóc
|
Cyclocheilichthys
enoplos Bleeker
1850
|
|
|
10
|
Cá Dảnh
|
Puntioplites proctozystron
(Bleeker,
1865)
|
|
|
11
|
Cá Mè vinh
|
Barbonymus
gonionotus (Bleeker
1850)
|
|
|
12
|
Cá Chài
|
Leptobabus hoevenii
(Bleeker,
1851)
|
|
|
13
|
Cá Ngựa nam
|
Hampala macrolepidota
(Valenciennes,
1842)
|
|
|
14
|
Cá Duồng
|
Cirrhinus
microlepis Sauvage,
1878
|
VU
|
|
15
|
Cá Mè lúi
|
Osteochilus hasseltii
(Valenciennes
1842)
|
|
|
16
|
Cá Chạch bùn
|
Misgurnus anguillicaudatus
(Cantor
1842)
|
|
|
17
|
Cá Lăng vàng
|
Hemibagrus nemurus (Valenciennes 1840)
|
|
|
18
|
Cá Lăng đuôi đỏ
|
Hemibagrus
wyckioides (Fang
& Chaux 1949)
|
|
|
19
|
Cá Trèn bầu
|
Ompok bimaculatus (Bloch 1794)
|
|
|
20
|
Cá Vồ đém
|
Pangasius larnaudii
(Bocourt,
1866)
|
|
|
21
|
Cá Chiên lăng
|
Bagarius yarrelli (Sykers, 1841)
|
VU
|
|
22
|
Cá Trê vàng
|
Clarias
macrocephalus Günther
1864
|
|
|
23
|
Cá Trê trắng
|
Clarias batrachus (Linnaeus 1758)
|
|
|
24
|
Lươn
|
Monopterus albus (Zuiew 1793)
|
|
|
25
|
Cá Chạch lá tre
|
Macrognathus
siamensis (Günther
1861)
|
|
|
26
|
Cá Chạch lấu
|
Mastacembelus favus
Hora
1924
|
|
|
27
|
Cá bống cát trắng
|
Glossogobius giuris
(Hamilton
1822)
|
|
|
28
|
Cá Bống tượng
|
Oxyeleotris
marmoratus (Bleeker,1852)
|
|
|
29
|
Cá Rô đồng
|
Anabas testudineus (Bloch 1792)
|
|
|
30
|
Cá Sặc rằn
|
Trichogaster
pectoralis (Regan,
1910)
|
|
|
31
|
Cá Lóc bông
|
Channa micropeltes (Cuvier 1831)
|
|
|
32
|
Cá Lóc
|
Channa striata (Bloch 1793)
|
|
|
(Nguồn
từ: Báo cáo điều tra khu hệ cá nước ngọt nội đồng khu vực Tây Nguyên-Phân Đinh
Phúc, 2018, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III- 2018)
Ghi chú: + Các thứ hạng và tiêu
chuẩn của IUCN cho sách đỏ:
- EN: Nguy cấp; VU:
Sẽ nguy cấp; - LR: ít nguy cấp.
+ Tên khoa học của
các loài cá có thể khác với các tài liệu đã xuất bản trước đây ở trong và ngoài
nước vì được chỉnh lý theo Fishbase (2010).
Dựa trên khả năng sử
dụng, ảnh hưởng của các loài này đến đời sống hàng ngày của người dân để đánh
giá tầm quan trọng và khả năng sử dụng làm đối tượng nuôi của cá nước ngọt, bao
gồm:
- Cá làm thực phẩm:
Các loài này đều có thịt thơm ngon, dễ hấp thụ và được thị trường ưa chuộng.
Một số trong chúng có thể chế biến thành những món ăn ngon, được sử dụng trong
các nhà hàng, khách sạn như: Cá Thát lát, cá Còm, cá Nàng hai, các loài cá
Lăng, cá Bống tượng, cá Chình hoa, Lươn, cá Trà sóc, cá Vồ dém, cá Chạch bùn,
cá Chiên lăng, cá Chạch lấu, cá Chạch lá tre, cá Trê, cá Lóc, cá Rô đồng. Nhiều
loài cá là nguồn thực phẩm thông dụng trong bữa ăn hàng ngày của người dân và
có giá trị kinh tế lớn, sản lượng cao như: Cá Thát lát, cá Chép, cá Lóc, cá
Ngựa nam, cá Lúi, cá Cóc, Lươn. Vào mùa khô, các loài cá Trê, cá Lóc, cá Rô
đồng, Lươn, cá Mè vinh vẫn được bán ở các chợ với số lượng lớn. Ngoài ra, các
sản phẩm phụ của cá còn làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
- Cá làm cảnh: Một số
loài cá không chỉ được sử dụng làm thực phẩm mà còn được dùng làm cá cảnh. Các
loài có màu sắc đẹp có thể nuôi trong nhà hoặc ngoài trời bao gồm: Cá Còm, cá
Nàng hai, cá Chép, cá Sặc rằn, cá Lăng, cá Chạch bùn...
- Cá xuất khẩu: Trong
số các loài cá kinh tế, một số đối tượng có khả năng làm mặt hàng xuất khẩu.
Những loài cá này có thịt thơm ngon, chế biến được nhiều món ăn, dễ vận chuyển,
và có thể chịu được môi trường thiếu thức ăn, như cá Thát lát, các loài cá Trê,
cá Lóc và Lươn.
- Cá góp phần phòng
dịch: Hai loài cá Rô đồng, cá Sặc rằn, cá Chạch bùn thuộc nhóm cá có khả năng
tiêu diệt các loại côn trùng gây bệnh cho con người - ấu trùng muỗi, do thức ăn
của chúng là ấu trùng côn trùng.
- Cá là mắt xích quan
trọng trong hệ sinh thái rừng Đắk Lắk: Hệ sinh thái rừng bao gồm rừng, sông,
suối, hồ chứa, ao... và các sinh vật sinh sống trong đó. Do vậy, với hệ thống
sông, suối dày đặc cùng nhiều hồ chứa, các loài cá là một thành phần trong hệ
sinh thái rừng. Nếu thành phần và số lượng của các loài cá thay đổi, hàng loạt
các mắt xích sẽ thay đổi theo, như: sự du canh, du cư, phá rừng làm rẫy ... do
thiếu thực phẩm, lương thực. Các hoạt động này sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến rừng,
gây xói mòn đất...
b) Các loài thủy sinh
khác
Các loài thủy sinh
vật ở một số thủy vực trong tỉnh Đắk Lắk đã được nghiên cứu bởi Dự án quản lý
lưu vực sông Mê Kông, dự án đã tiến hành phân loại các loài động thực vật nổi
và thực vật bậc cao tại một số hồ chứa Ea Kao, hồ chứa Ea sup, hồ tự nhiên
Lắk…. kết quả đạt được:
- Đã phân loại được
128 loài thực vật nổi phân bố ở 3 thủy vực nói trên thuộc 33 họ và 6 ngành (24
loài thuộc ngành Cyanophyta, 16 loài thuộc ngành Euglenophyta, 5 loài thuộc
ngành Dinophita, 21 loài thuộc ngành bacillariophyta, 42 loài thuộc ngành
Chlorophyta và 20 loài thuộc ngành Charophyta) (Phan, 2007). Các loài thực vật
nổi phân bố ở hồ Ea Kao là 47 loài, hồ Ea soup là 46 loài và 77 loài phân bố ở
hồ Lắk.
- Các loài động vật
nổi phân loại được ở 3 thủy vực là 63 loài thuộc 4 nhóm: Rotifera (45 loài),
Cladocera (11 loài), Copepoda (6 loài) và Ostracoda (1 loài). Đã phân loại được
32 loài động vật nổi ở hồ Ea kao, 31 loài ở hồ Ea sup và 54 loài ở hồ Lắk.
Có 22 loài thực vật
bậc cao thuộc hai ngành, 13 họ phân bố ở các thủy vực nghiên cứu. Trong đó có 3
loài phân bố ở hồ Ea kao, 9 loài ở hồ Ea soup và 17 loài ở hồ Lắk.
II.
KHÁI QUÁT TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TỈNH ĐẮK LẮK GIAI ĐOẠN 2015 - 2020
Đắk Lắk được xem là
trung tâm của đại ngàn Tây Nguyên, vùng lõi tam giác phát triển ba nước Việt
Nam - Lào - Campuchia, sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, kinh tế của tỉnh này đạt tốc độ tăng trưởng khá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.
Theo dự thảo Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, kinh tế tỉnh Đắk Lắk đạt
tốc độ tăng trưởng khá, dịch vụ tăng nhanh, đóng góp quan trọng vào việc duy
trì tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Tăng trưởng kinh tế (GRDP
theo giá so sánh 2010) bình quân đạt 8,75%/năm (trong đó: Nông, lâm, thủy sản
tăng 5,64%; công nghiệp - xây dựng tăng 9,1%; thương mại - dịch vụ tăng 11,96%;
thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,77%). Quy mô nền kinh
tế tăng cao, năm 2020 ước đạt 62.500 tỷ đồng, gấp 1,52 lần so với năm 2015.
Cơ cấu kinh tế (theo
giá hiện hành) chuyển dịch mạnh mẽ ở 2 khu vực nông - lâm - thủy sản (giảm từ
45,4% xuống còn 36%) và dịch vụ (tăng từ 35,3% lên 45,2%); ngành công nghiệp -
xây dựng tăng đều qua các năm, từ 15,6% lên 16,5%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản chiếm 2,24%.
Ngành dịch vụ ngày
càng giữ vai trò dẫn dắt, đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng chung. GRDP
bình quân đầu người (theo giá hiện hành) ước đạt 54,55 triệu đồng (tương đương
2.363 USD), gấp 1,67 lần năm 2015.
Ngành nông nghiệp của
tỉnh này cũng tăng trưởng khá, đạt 5,64% giữ vai trò quan trọng trong ổn định
kinh tế và đời sống nông thôn. Tái cơ cấu nông nghiệp đang được triển khai theo
hướng ứng dụng công nghệ cao, đổi mới tổ chức sản xuất theo hướng hợp tác, liên
kết, thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất và chế biến.
Giá trị sản xuất trên
một đơn vị diện tích bình quân đạt 112 triệu đồng/ha (năm 2020), cao gấp 1,37
lần so với năm 2015. Kết cấu hạ tầng, hệ thống thủy lợi tiếp tục được đầu tư,
phát triển theo hướng đa mục tiêu, đảm bảo chủ động tưới cho 82% diện tích cây
trồng.
Bên cạnh đó, cơ cấu
nội bộ công nghiệp - xây dựng chuyển dịch tích cực, năng lượng tái tạo phát
triển nhanh; quy hoạch xây dựng đi trước làm cơ sở quản lý và bảo đảm tính định
hướng, đồng bộ. Đã hình thành và phát triển các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn
như dự án Nhà máy điện mặt trời Xuân Thiện. Sản xuất của một số nhóm ngành công
nghiệp chế biến có mức tăng trưởng cao, tỷ trọng lớn và thị trường tiêu thụ tốt
như: đường, thép, bia, máy bơm nước, bê tông, cà phê bột...
Hiện nay, tỉnh Đắk
Lắk có 1 dự án điện gió, công suất 28,8 MW; 5 dự án điện mặt trời, công suất
190 MWp đi vào hoạt động, góp phần làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp của
tỉnh. Các khu, cụm công nghiệp được quan tâm đầu tư, từng bước đáp ứng nhu cầu
về mặt bằng cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Tỷ lệ lấp đầy tại Khu
công nghiệp Hòa Phú đạt 100%; 67% đối với 8 cụm công nghiệp còn lại. Tiến hành
thủ tục đầu tư và xây dựng Khu công nghiệp Phú Xuân (huyện Cư M’gar, 330ha)
định hướng khu công nghiệp xanh - hiện đại với trên 20% diện tích cây xanh, mặt
nước.
Cùng với đó, 100% quy
hoạch chung đô thị được phê duyệt; quy hoạch 4 đô thị mới với tổng diện tích
2.021 ha; tỷ lệ phủ quy hoạch phân khu đô thị của thành phố Buôn Ma Thuột đạt
91,80%. Các dự án xây dựng hạ tầng khu dân cư đô thị từ các nguồn vốn phát
triển đất, mở rộng và chỉnh trang đô thị gắn với cải tạo kết nối hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội. Huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư khu dân
cư đô thị trên diện tích 890,34 ha. 100% các xã được phê duyệt quy hoạch chung
xây dựng nông thôn và đã ban hành Quy định quản lý quy hoạch nông thôn.
Về thương mại - dịch
vụ, tỉnh này duy trì được tốc độ tăng trưởng, hoạt động du lịch phát triển khá.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng trưởng bình quân 11,63%/năm; năm 2020
ước đạt 82.650 tỷ đồng, gấp 1,73 lần so với năm 2015. Hệ thống chợ, siêu thị,
cửa hàng tiện dụng phát triển nhanh, hoạt động khá tốt. Thương mại điện tử,
siêu thị điện tử ngày càng phổ biến.
Cảng Hàng không Buôn
Ma Thuột với công suất 1 triệu khách/năm đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của
người dân. Nhập khẩu tăng mạnh, gấp 4,3 lần năm 2015 với tổng kim ngạch đạt 311
triệu USD do hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ các dự án điện gió,
điện mặt trời, …
Cơ sở lưu trú đa dạng
về hình thức; dịch vụ lưu trú tốt, đáp ứng được nhu cầu của du khách và yêu cầu
của các lễ hội với quy mô cấp quốc gia. Doanh thu từ hoạt động du lịch đạt
4.231 tỷ đồng, với hơn 4,2 triệu lượt khách (khách quốc tế chiếm khoảng 9,3%).
Tổng số doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong 5 năm là 4.937 doanh
nghiệp với bình quân vốn đăng ký đạt 10 tỷ đồng/doanh nghiệp. Số doanh nghiệp
đang hoạt động vào cuối năm 2020 khoảng 10.374 doanh nghiệp, tăng 1,93 lần về
số lượng và 4,08 lần về quy mô vốn/doanh nghiệp so với năm 2015.
Các tổ chức, doanh
nghiệp hiện chiếm 44% vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước chủ yếu đầu tư vào
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, tạo thêm nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ
hộ nghèo.
Thu cân đối ngân sách
nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tăng nhanh, bình quân 10%/năm; tổng thu cân
đối 5 năm đạt 30.678 tỷ đồng, bằng 7,4% GRDP (cao hơn giai đoạn trước 0,5%).
Mức độ thu cân đối đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên tăng đều qua các năm, năm
2020 đảm bảo được 72%.
Việc phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách tỉnh và ngân sách huyện đã tăng cường tính chủ
động của cấp huyện trong việc quyết định dự toán, phân bổ, quyết toán ngân sách
hàng năm, …
III. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ
- XÃ HỘI
1.
Thực trạng phát triển kinh tế
1.1. Dân số và cơ cấu
dân số
Toàn tỉnh Đắk Lắk năm
2020 có 1.887 triệu người, chiếm 35,5% dân số toàn vùng Tây Nguyên và chiếm
2,07% dân số cả nước. Mật độ dân số năm 2015 khoảng 141,23 người/km2,
bằng ½ so với mật độ dân số trung bình cả nước (287 người/km2), cao
ngấp 1,4 lần so với vùng Tây Nguyên (96 người/km2). Trong đó, nam
giới chiếm 50,1%, nữ chiếm 49,9%; dân số thành thị chiếm 22,2% và nông thôn
77,8%. Trong giai đoạn 2010-2015, tốc độ tăng dân số bình quân 1,71%/năm, cao
hơn mức trung bình cả nước 0,4% (1,31%/năm) và thấp hơn vùng Tây Nguyên 0,43%
(2,14%/năm).
Về dân tộc: toàn tỉnh
có 49 dân tộc, trong đó người kinh chiếm 70,65%, người Êđê chiếm 13,69%, người
Nùng chiếm 3,9%, người M’nông chiếm 3,51%, người Mường chiếm 3,03%, người Thái
chiếm 1,04%, người Dao chiếm 0,86%, còn lại các dân tộc khác chiếm 3,32%.
1.2. Lao động và cơ
cấu lao động
Qua thống kê cho
thấy, năm 2020 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên toàn tỉnh có khoảng trên
1,1 triệu người chiếm 56,7% tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó, có 968,9 nghìn
người trong độ tuổi lao động và chiếm 98,3% số người có khả năng lao động và 1,7%
số người mất khả năng lao động. Tuy vậy, vẫn còn 41,6 nghìn người ngoài độ tuổi
lao động nhưng vẫn phải tham gia lao động (chiếm 61,4%).
Tốc độ tăng trưởng
lao động bình quân 2,35%, lao động trong độ tuổi lao động tăng 2,37%/năm, lao
động có khả năng lao động tăng bình quân 2,39%/năm, mất khả năng lao động tăng
1,57%/năm.
Về cơ cấu lao động
tỉnh Đắk Lắk cho thấy, năm 2020 lao động nông, lâm nghiệp chiếm 57% lao động
toàn tỉnh, lao động thủy sản chiếm gần 1%, lao động công nghiệp- xây dựng chiếm
6%, và lao động ngành dịch vụ chiếm 36%.
1.3. Lao động khai
thác và nuôi trồng thủy sản
Nhìn chung, lao động
trong hoạt động ngành thủy sản ở Đắk Lắk có sự tăng lên nhưng với tốc độ chậm.
Tuy nhiên, số lao động trực tiếp trong hoạt động sản xuất thủy sản tương đối
thấp, chủ yếu lao động được kiêm nhiệm với các hoạt động sản xuất nông nghiệp
như lâm nghiệp, làm vườn, trồng lúa, hoa màu ...
Số lao động trực tiếp
hoạt động sản xuất thủy sản chủ yếu thuộc lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và khai
thác thủy sản. Đối với các hoạt động như sản xuất giống (70-100 lao động/8 trại
sản xuất giống). Hoạt động sản xuất chế biến chưa phát triển, do đó lao động ở
đây chỉ là kiêm nhiệm (chế biến chả cá thát lát), nhưng ước tính khoảng 20 lao
động. Đối với hoạt động thương mại/đầu mối thủy sản với số lượng ít, ước tỉnh khoảng
200-300 người trực tiếp.
Bảng
3. Lao động trong lĩnh vực thủy sản tỉnh Đắk Lắk năm 2020
TT
|
Đơn
vị hành
chính
|
Số
LĐ trong ngành TS (người)
|
Tỷ
lệ LĐ trong
ngành (%)
|
Tỷ
lệ địa phương
so với tỉnh (%)
|
NTTS
|
KTTS
|
Tổng
|
NTTS
|
KTTS
|
1
|
Buôn Ma Thuột
|
486
|
120
|
606
|
80,2
|
19,8
|
10,6
|
2
|
Ea H'leo
|
102
|
25
|
127
|
80,3
|
19,7
|
2,2
|
3
|
Ea Soup
|
362
|
85
|
447
|
81,0
|
19,0
|
7,9
|
4
|
Krông Năng
|
298
|
90
|
388
|
76,8
|
23,2
|
6,8
|
5
|
Krông Búk
|
38
|
75
|
113
|
33,6
|
66,4
|
2,0
|
6
|
Tx. Buôn Hồ
|
26
|
15
|
41
|
63,4
|
36,6
|
0,7
|
7
|
Buôn Đôn
|
53
|
20
|
73
|
72,6
|
27,4
|
1,3
|
8
|
Cư M'gar
|
206
|
140
|
346
|
59,5
|
40,5
|
6,1
|
9
|
Ea Kar
|
512
|
142
|
654
|
78,3
|
21,7
|
11,5
|
10
|
M’Đrắk
|
74
|
150
|
224
|
33,1
|
66,9
|
3,9
|
11
|
Krông Pắc
|
511
|
599
|
1,110
|
46,0
|
54,0
|
19,5
|
12
|
Krông Bông
|
122
|
92
|
214
|
56,9
|
43,1
|
3,8
|
13
|
Krông Ana
|
293
|
255
|
548
|
53,5
|
46,5
|
9,6
|
14
|
Lắk
|
274
|
276
|
550
|
49,8
|
50,2
|
9,7
|
15
|
Cư Kuin
|
145
|
105
|
250
|
58,1
|
41,9
|
4,4
|
|
Tổng
|
3.502
|
2.189
|
5.691
|
61,5
|
38,5
|
100,0
|
Nguồn:
UBND các huyện, thị xã và thành phố, 2020.
Hiện tại, cán bộ
chuyên môn thủy sản đang giữ chức vụ quản lý ngành còn yếu. Tỉnh đã có Chi cục
Thủy sản và 9/15 huyện thị đã có cán bộ có chuyên môn phụ trách quản lý thủy
sản. Chi cục Thủy sản tỉnh Đắk Lắk có 13 công chức có trình độ đại học chuyên
ngành thủy sản, 03 hợp đồng lao động; Công ty Cổ phần Thủy sản Đắk Lắk với tổng
số lao động 45 người, trong đó có 3 kỹ sư thủy sản, 2 cử nhân kinh tế và kế
toán, 5 trung cấp thủy sản, còn lại 35 lao động chưa qua đào tạo; Trung tâm
Khuyến nông - Giống cây trồng, Vật nuôi và Thủy sản tỉnh chỉ có 01 kỹ sư nuôi
trồng thủy sản. Đối với cấp huyện, hiện có tổng số 30 đã được đào tạo văn bằng
2 về nuôi trồng thủy sản cho các cán bộ phụ trách về thủy sản như huyện Krông
Ana, Cư Kuin, Krông Năng.
Riêng tính đến năm
2020, trên toàn tỉnh có khoảng 5.691 lao động trực tiếp tham gia sản xuất thủy
sản, trong đó nuôi trồng thủy sản khoảng 3.502 lao động, chiếm 61,5% tổng số
lao động và khai thác 2.189 lao động, chiếm 38,5%. Nhưng trên thực tế việc phân
tách số lao động giữa nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản là rất khó, do
nhiều lao động vừa khai thác thủy sản vừa tham gia nuôi trồng thủy sản, trong
khi hoạt động thủy sản ở địa phương chủ yếu là trên các hồ chứa.
So sánh tình hình lao
động tham gia khai thác thủy sản qua từng năm từ 2015 đến 2020 cho thấy, tổng
số lao động toàn tỉnh tham gia hoạt động khai thác thủy sản có xu hướng giảm
qua từng năm, từ 3.935 người (năm 2015) xuống còn 2.682 người (2020). Điều này
phản ánh cơ cấu lao động đã có chuyển dịch và lượng lao động hoạt động trong
ngành này có xu hướng giảm trong thời gian gần đây.
Hình
1. Biến động nguồn lao động tham gia khai thác thủy sản, giai đoạn 2015-2020
1.4. Xuất nhập khẩu
nông nghiệp
Xuất khẩu là lĩnh vực
đạt nhiều thành tựu quan trọng của tỉnh trong thời gian qua. Hàng hóa của tỉnh
đã được xuất khẩu sang 59 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với số lượng
và chủng loại các mặt hàng phong phú.
Năm 2020, tổng giá
trị xuất khẩu toàn tỉnh đạt 680 triệu USD, tăng 30,7% so với năm 2015; các mặt
hàng xuất khẩu chính là cà phê, cao su, tiêu, điều, tinh bột sắn, mật ong …
Mặt hàng nhập khẩu
chủ yếu là nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất như phân bón, hóa chất, hạt
nhựa … Ngoài ra, còn có một số nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng hóa
và hàng tiêu dùng khác, góp phần phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và
đời sống của người dân trong tỉnh.
1.5. Giá trị sản xuất
thủy sản
Bảng
4. So sánh giá trị sản xuất ngành nông, lâm và thủy sản trong cơ cấu kinh tế
của tỉnh Đắk Lắk
Năm
|
Tổng
số
|
Nông,
lâm, thủy sản
|
Cơ
cấu (%)
|
Công nghiệp -
Xây dựng
|
Cơ
cấu (%)
|
Dịch
vụ, thương mại và thuế
|
Cơ
cấu
(%)
|
2011
|
42.613
|
20.764
|
48,73
|
4.655
|
10,92
|
17.194
|
40,35
|
2015
|
60.742
|
27.577
|
45,40
|
9.500
|
15,64
|
23.665
|
38,96
|
2016
|
68.908
|
30.878
|
44,81
|
9.978
|
14,48
|
28.052
|
40,71
|
2017
|
72.865
|
30.997
|
42,54
|
11.680
|
16,03
|
30.188
|
41,43
|
2018
|
78.859
|
31.465
|
39,90
|
12.452
|
15,79
|
34.942
|
44,31
|
2019
|
91.929
|
35.071
|
38,15
|
14.801
|
16,10
|
42.058
|
45,75
|
2020
|
94.834
|
35.295
|
37,22
|
15,622
|
16,47
|
43.916,6
|
46,31
|
(Theo
báo cáo tổng hợp Sở Nông nghiệp và PTNT, 2020)
Giá trị sản xuất
ngành thủy sản: Năm 2020, tổng giá trị sản xuất thủy sản đạt khoảng 967,5 tỷ
đồng chiếm 2,7% tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk và
chiếm 49,6% giá trị sản xuất thủy sản toàn vùng Tây Nguyên, trong đó giá trị
nuôi trồng thủy sản đạt 841,7 tỷ đồng chiếm 87,4% tổng giá trị sản xuất thủy
sản toàn tỉnh, khai thác thủy sản đạt khoảng 125,8 tỷ đồng chiếm 12,6%.
Về tốc độ tăng trưởng
giá trị sản xuất thủy sản giai đoạn 2015-2020 đạt 11%/năm góp phần vào tăng
trưởng chung của ngành nông nghiệp (tốc độ tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp
đạt 5,64%).
1.6. Vốn đầu tư trong
thủy sản
- Mức độ đầu tư: Năm 2020, vốn đầu tư
toàn tỉnh khoảng 5,72 nghìn tỷ đồng, tăng 218,37% so với năm 2015. Trong đó,
tổng vốn đầu tư cho ngành nông, lâm nghiệp khoảng 19,7%, ngành thủy sản 0,4%,
ngành công nghiệp-xây dựng 43,8%, dịch vụ chiếm 36,1% và đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 15,58%/năm (giai đoạn 2010-2015), trong đó ngành công nghiệp-xây dựng
45,19%/năm, dịch vụ tăng 35,03%/năm, riêng toàn ngành nông, lâm nghiệp lại giảm
bình quân - 3,28%/năm.
- Hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư (ICOR): Trong năm 2020, ngành nông nghiệp để tăng thêm 1 đồng GDP
ngành nông nghiệp phải đầu tư mất 0,72 đồng, thủy sản 5,82 đồng, công nghiệp-xây
dựng 6,32 đồng, dịch vụ 2,26 đồng.
1.7. Hiện trạng và
hiệu quả sử dụng đất
Trong tổng diện tích
tự nhiên (1,31 triệu ha) năm 2020, trong đó đất nông nghiệp chiếm 36,2% tổng
diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, đất lâm nghiệp chiếm 45,8%, đất chuyên nuôi
trồng thủy sản chiếm 0,1%, đất chuyên dùng chiếm 6,6%, đất ở chiếm 1,1%, và đất
chưa sử dụng chiếm 10,3%.
1.8. Hiện trạng tiêu
thụ thủy sản trong tỉnh
Nhìn chung, mức độ
tiêu thụ các mặt hàng thủy sản trên địa bàn tỉnh có chiều hướng ngày càng tăng
và đạt tốc độ tăng bình quân năm 6,9%/năm; từ 4,0- 4,5 kg/người/năm (năm 2015)
lên đến 6,5-7,0 kg/người/ (năm 2020).Các đối tượng thủy sản nước ngọt nuôi
trồng và khai thác tị các thủy vực trên địa bàn tỉnh: cá truyền thống (trắm,
trôi, mè chép), rô phi, các đối tượng cá thuộc bộ cá da trơn (cá Lăng, cá trê,
chạch…), các đối tượng giáp xác (tôm, cua), đối tượng thuộc bộ thân mềm (ốc).
Trong thời gian tới việc cung cấp nguồn thực phẩm tươi từ đạm động vật (cá và
các đối tượng thủy sản nước ngọt khác) giảm áp lực sản phẩm hải sản nước mặn
càng trở nên quan trọng trong chiến lược phát triển một nền nông nghiệp bền
vững.
2.
Đặc điểm xã hội và nông thôn
Toàn tỉnh hiện có 49
dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 65%, các dân tộc
thiểu số chiếm hơn 31% dân số của tỉnh (dân tộc tại chỗ 20,4%, tín đồ các tôn
giáo chiếm 26,8% dân số của tỉnh). Trong đó, nhiều nhất là dân tộc Ê Đê, kế đến
là dân tộc Nùng, dân tộc Tày, dân tộc Thái, dân tộc H’Mông, dân tộc Mông, dân
tộc Dao, dân tộc Gia Rai, dân tộc Mường. Đa số các hộ đồng bào dân tộc sống ở
khu vực nông thôn, thuộc vùng sâu vùng xa, điều kiện sản xuất và sinh sống còn
nhiều khó khăn, trình độ văn hóa và chuyên môn hạn chế, tập quán sản xuất còn
lạc hậu. Đây cũng là một trong những đặc điểm cần hết sức lưu ý trong quá trình
phát triển ngành nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng.
Mặc dù, cơ cấu lao
động của tỉnh chuyển dịch đúng hướng, nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm. So với
tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản của cả nước hiện nay (chiếm
khoảng 52% tổng lao động) thì tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản của tỉnh còn đang ở mức cao, dẫn tới áp lực về tạo việc làm và tăng
thu nhập còn lớn, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
ngay trong nội bộ ngành.
IV. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ
CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP (NÔNG, LÂM VÀ THỦY SẢN) TRONG NỀN KINH TẾ TỈNH ĐẮK LẮK.
- GRDP năm 2020 của
tỉnh (Theo giá HH) đạt 84.887 tỷ đồng, đứng thứ nhất trong các tỉnh
thuộc vùng Tây Nguyên. GRDP của tỉnh chiếm 28,1% GRDP của vùng Tây Nguyên và
1,3% GDP của cả nước. Tính cho cả giai đoạn 2011-2020, GRDP của tỉnh luôn đứng
đầu các tỉnh trong vùng Tây Nguyên.
Hình
2. GRDP của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (tỷ đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Tốc độ tăng trưởng
GRDP năm 2020 của tỉnh đạt 4,42%, đứng thứ tư trong vùng sau các tỉnh
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Nông. Tốc độ này cao hơn tốc độ tăng trưởng GRDP của cả
nước nhưng thấp hơn tốc độ tăng trưởng vùng Tây Nguyên. Giai đoạn 2011-2015,
tốc độ tăng trưởng của tỉnh đạt 4,58%, giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng
đạt 5,88%, tính bình quân cả giai đoạn 2011-2020 đạt 5,2%.
Hình
3. Tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và cả
nước qua các giai đoạn (%)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Năm 2020, cơ cấu
kinh tế của tỉnh theo các khối ngành Nông - lâm - thủy sản, công nghiệp - xây
dựng, thương mại - dịch vụ lần lượt chiếm 38,91%, 14,54% và 46,55%. Cơ
cấu kinh tế của tỉnh có xu hướng gia tăng tỷ trọng đóng góp của ngành thương
mại - dịch vụ và giảm dần tỷ trọng đóng góp của khối ngành nông - lâm - thủy
sản.
Hình
4. Cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 2020 so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và cả
nước (%)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- GRDP khối ngành
nông - lâm - thủy sản của tỉnh năm 2020 (Theo giá HH) đạt 31.478 tỷ đồng, đứng
thứ nhì so với các tỉnh trong vùng (Đứng sau tỉnh Lâm Đồng). GRDP của ngành
nông - lâm - thủy sản của tỉnh đóng góp 29% vào GRDP ngành nông - lâm - thủy
sản của vùng và 3% vào GDP nông - lâm - thủy sản của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng khối ngành nông - lâm - thủy sản của tỉnh giai đoạn 2011-2015 đạt 3,58%,
giai đoạn 2016-2020 đạt 4,66%, bình quân cả thời kỳ 2011-2020 đạt 4,12% và có
xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ của cả nước.
Hình
5. GRDP ngành Nông - lâm - thủy sản của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây
Nguyên (tỷ đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- GRDP khối ngành
thương mại - dịch vụ của tỉnh năm 2020 (Theo giá HH) đạt 37.652 tỷ đồng, đứng
đầu các tỉnh trong vùng Tây Nguyên. GRDP khối ngành này chiếm 31,5% GRDP của
khối ngành thương mại - dịch vụ vùng Tây Nguyên và 1,4% GRP khối ngành thương
mại - dịch vụ của cả nước. Tốc độ tăng trưởng khối ngành này giai đoạn 2011-2015
đạt 5,96%, giai đoạn 2016-2020 đạt 6,27%, bình quân thời kỳ 2011-2020 đạt
6,12%.
Hình
6. GRDP khối ngành thương mại - dịch vụ của so với các tỉnh trong vùng Tây
Nguyên (tỷ đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Thu nhập GRDP bình
quân đầu người năm 2020 (Theo giá HH) đạt 45 triệu đồng/người, đứng
thứ 4 sau các tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông. GRDP/người của tỉnh thấp
hơn GRDP/người của vùng và cả nước (Chỉ bằng 88% GRDP/người của vùng và 69,75%
GRDP của cả nước). So với tính đứng đầu là Lâm Đồng, GRDP/người của tỉnh chỉ
bằng 71,1% GRDP/người của tỉnh Lâm Đồng.
Hình
7. GRDP/người của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (triệu đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Mật độ kinh tế của
tỉnh (GRDP/km2) năm 2020 đạt 3,8 tỷ đồng/km2, đứng thứ
nhì so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (Sau tỉnh Lâm Đồng). Mật độ kinh
tế của tỉnh cao hơn so với Vùng nhưng thấp hơn so với cả nước. Tốc độ tăng mật
độ kinh tế giai đoạn 2011-2015 đạt 4,13% (Thấp nhất so với các tỉnh trong
vùng), giai đoạn 2016-2020 đạt 5,88% (Đứng thứ 4 trên tỉnh Lâm Đồng), bình quân
cả thời kỳ 2011-2020 đạt 5%.
Hình
8. Mật độ kinh tế của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (tỷ đồng/km2)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Thu ngân sách
năm 2020 của tỉnh đạt 34.090 tỷ đồng, đứng thứ nhất so với các tỉnh
trong vùng Tây Nguyên. Mức thu ngân sách này cao gấp 11 lần so với tỉnh Kon Tum
và 13 lần so với tỉnh Đắk Nông, gấp 1,3 lần tỉnh Gia Lai, đóng góp trên 37% thu
ngân sách của vùng và 2,3% vào thu ngân sách của cả nước.Mặc dù đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những thiệt hại do dịch Covid-19 và thiên
tai, bão lũ gây ra nhưng Đắk Lắk vẫn duy trì tăng trưởng kinh tế dương.
Hình
9. Thu ngân sách của tỉnh so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (tỷ đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội của tỉnh năm 2020 (Theo giá HH) đạt 41.913 tỷ đồng, cao nhất
trong các tỉnh vùng Tây Nguyên. Tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh
cao gấp trên 4 lần so với tỉnh Đắk Nông, trên 2 lần so với tỉnh Kon Tum, trên
1,6 lần so với tỉnh Lâm Đồng và trên 1,4 lần so với tỉnh Gia Lai. Tốc độ tăng
vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011-2015 đạt 2,06%, giai đoạn 2016-2020 đạt
21,57%, bình quân cả thời kỳ 2011-2020 đạt 11,39%.
Hình
10. Vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh năm 2020 (giá HH) so với các tỉnh trong
vùng Tây Nguyên (tỷ đồng)
Nguồn:
NGTK các tỉnh giai đoạn 2011-2020 và xử lý của chuyên gia
- Chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2020 của tỉnh xếp thứ 35/63 tỉnh/thành
phố, cao thứ nhì so với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên (sau tỉnh Lâm
Đồng đứng thứ 23/63 tỉnh/thành phố). Chỉ số PCI của tỉnh năm 2020 tăng 3 bậc
so với năm 2019 và tăng 23 bậc so với 2011.
Hình
11. So sánh chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2020 khu vực Tây
Nguyên
Nguồn:
Báo cáo PCI năm 2020
- Cơ cấu của nền
kinh tế đã và đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và
tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ nhưng chậm và không ổn định. Năm 2010, cơ cấu của
khối ngành nông - lâm - thủy sản là 43,75%, khối ngành công nghiệp - xây dựng
là 13,02% và khối ngành thương mại - dịch vụ là 43,22%. Năm 2020, cơ cấu kinh
tế là 38,91% khối ngành nông - lâm - thủy sản, 14,54% là khối ngành công nghiệp
- xây dựng và 46,55% là khối ngành thương mại - dịch vụ. So với cơ cấu kinh tế
của Việt Nam năm 2020 là 16,47% nông nghiệp - lâm nghiệp và thủy sản, 37,39%
công nghiệp và 44,15% thương mại - dịch vụ, thì tỷ trọng GRDP công nghiệp của
Đắk Lắk vẫn còn thấp.
V. HIỆN TRẠNG KHAI
THÁC NGUỒN LỢI THỦY SẢN TẠI CÁC THỦY VỰC TẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.
Tổng quan hiện trạng quản lý khai thác thủy sản nội địa Việt Nam
Việt Nam có khoảng
2.470 hồ chứa, chiếm diện tích là 183.579 ha. Trong số đó có 1.403 hồ chứa có
diện tích lớn hơn 5 ha, tương ứng là 181.167 ha (Nguyễn Duy Chinh & CTV,
1994). Hiện nay số hồ chứa cũng như diện tích có thể lớn hơn rất nhiều vì
trong những năm gần đây có rất nhiều hồ chứa được xây dựng.
Hồ tự nhiên ở nước ta
có số lượng không nhiều và phân bố rải rác khắp nước. Một số hồ tự nhiên điển
hình có thể kể đến như hồ Tây (Hà Nội), hồ Ba Bể (Bắc Cạn), Biển Hồ (Gia Lai),
hồ Đắc Min (Đắk Nông), hồ Lắk - 658 ha (Đắk Lắk). Các hồ tự nhiên có thể được
hình thành do sự đổi dòng của các con sông như Hồ Tây, từ hiện tượng núi lửa
(Biển Hồ, Đắc Mil) hay từ những quá trình thay đổi địa chất tự nhiên (hồ Lắk).
Nghề khai thác thủy
sản nội địa có vai trò rất quan trọng với cộng đồng dân cư sống quanh các thủy
vực, cung cấp nguồn dinh dưỡng quan trọng và tăng thu nhập cho cộng đồng người
dân. Theo số liệu của Cục thống kê thì sản lượng nghề khai thác thủy sản nội
địa năm 2001 là 244.000 tấn, giảm xuống 209.000 tấn năm 2003 do hạn hán. Sản
lượng nghề khai thác thủy sản nội địa bao gồm cá đánh bắt từ những hồ có thả
cá. Mỗi năm, sản lượng nghề khai thác cá nội địa ước tính khoảng 200.000 tấn
hàng năm (theo thống kê một số năm gần đây). Tuy nhiên sản lượng thực tế có thể
cao hơn con số này.
Nghề khai thác thủy
sản nội địa trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, có nhiều vấn đề
cần được quản lý tốt hơn như: Ô nhiễm môi trường vùng nuôi trên sông, hồ, đầm,
phá; tình trạng sử dụng mìn, xung điện để đánh bắt thủy sản; các thông tin quản
lý nghề cá nội địa còn thiếu; nhiều vùng hồ chứa chưa được khai thác hợp lý để
nuôi trồng và khai thác thủy sản. Do sức ép gia tăng dân số, phát triển thủy
điện, thủy lợi; xả thải từ các hoạt động kinh tế của các ngành: công nghiệp,
nông nghiệp, du lịch, giao thông và đô thị hóa đã làm biến đổi dòng chảy, ô
nhiễm môi trường, mất đường di cư sinh sản và mất bãi đẻ, bãi giống, nơi cư trú
của nhiều loài thủy sinh dẫn đến 25 nguồn lợi bị suy giảm, một số loài có nguy
cơ cạn kiệt. Hầu hết các thủy vực, đặc biệt các sông trong hệ thống sông chính
của Việt Nam đang bị đe doạ do xây dựng các công trình đập ngăn phục vụ cho
khai thác và sử dụng nguồn nước (thủy điện, thủy lợi). Một trong những tác động
quan trọng của xây dựng các hồ chứa nước là làm mất đi nhiều bãi đẻ trứng của
nhiều loài cá kinh tế có tập tính di cư lên thượng nguồn các sông đẻ trứng (cá
mòi) hoặc một số loài cá có tập tính di cư từ thượng nguồn sông ra biển đẻ
trứng (cá chình), đồng thời làm mất bãi đẻ, bãi giống và bãi kiếm mồi của nhiều
loài cá quý hiếm có giá trị khoa học và kinh tế. Việc xây đập ngăn sông đã làm
biến đổi “dòng chảy môi trường”, gây tác động tới các hệ sinh thái vùng nước hạ
lưu và ven sông. Bên cạnh đó việc nhập nội các loài thủy sinh ngoại lai mang
tính xâm hại đã làm cho các loài bản địa truyền thống bị đe dọa tuyệt chủng.
Luật Thủy sản đã giao trách nhiệm cho Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quản lý khai
thác và nuôi trồng thủy sản ở sông, hồ, đầm, phá và các vùng nước tự nhiên khác
thuộc phạm vi quản lý của tỉnh nhưng đến nay nhiều địa phương vẫn chưa có quy
chế quản lý.
2.
Tổng quan về tình hình khai thác thủy sản nội địa trên địa bàn tỉnh
Các thủy vực liên
quan đến nghề khai thác thủy sản nội địa ở tỉnh Đắk Lắk có thể chia làm 2 loại
hình chính là Sông (sông và suối) và Hồ (hồ chứa và hồ tự nhiên). Về sông, Đắk
Lắk có hệ thống sông chính là sông Srêpôk, bao gồm rất nhiều sông nhỏ và suối.
Về hồ chứa, theo số liệu của Chi cục Thủy lợi tỉnh Đắk Lắk thì tổng số hồ chứa
trên địa bàn tỉnh là hơn 700 hồ, trong đó diện tích các mặt nước lớn hơn 5 ha
là khoảng 10.700 ha, gồm khoảng 500 hồ chứa và hồ tự nhiên. Có 14 hồ chứa có
diện tích lớn hơn 100 ha bao gồm các hồ sau: Easup thượng (1,400 ha), Easup hạ
(240 ha), Eakao (400 ha), Ea O (233 ha), Ea Chu Cap (133 ha), Ea Nhai (185 ha),
Eakar (140 ha), Buôn Triết (215 ha), Buôn Tría (141 ha), C9 (128 ha), Krông Buk
Ha (1.100 ha), Lắk (658 ha)và Buôn Jong (111 ha), hồ Ia Ja lơi (132 ha). Có 31
hồ chứa có diện tích từ 20 - 100 ha, còn lại là những hồ có diện tích nhỏ hơn
20 ha. Hồ tự nhiên lớn nhất ở Đắk Lắk là hồ Lắk, có diện tích 658 ha (đây là
thủy vực có thành phần động thực vật thủy sinh đa dạng và phong phú)
Bảng
5. Số lượng và một số thông số hồ chứa thủy lợi của tỉnh Đắk Lắk
TT
|
Địa
phương
|
Số
lượng hồ
|
Dung
tích
(103m3)
|
DT
Mặt thoáng (ha)
|
Chiều
dài đập (m)
|
Tổng
diện tích tưới (ha)
|
1
|
Buôn Ma Thuột
|
31
|
47.613,93
|
674,25
|
8.147
|
4.835
|
2
|
Buôn Hồ
|
38
|
9.637,35
|
281,11
|
6.654
|
3.580
|
3
|
Ea H'leo
|
40
|
10.922,69
|
335,49
|
6.223
|
3.222
|
4
|
Ea Súp
|
10
|
165.875,20
|
17.955,75
|
8.400
|
4.883
|
5
|
Buôn Đôn
|
5
|
12.938,90
|
311,15
|
1.893
|
158
|
6
|
Cư M'gar
|
54
|
41.019,13
|
702,30
|
9.469
|
8.877
|
7
|
Krông Búk
|
41
|
17.418,29
|
399,47
|
6.293
|
3.873
|
8
|
Krông Năng
|
81
|
22.689,84
|
555,42
|
14.348
|
5.999
|
9
|
Ea Kar
|
51
|
49.870,77
|
1.222,26
|
14.164
|
5.727
|
10
|
M'Đrắk
|
50
|
27.495,05
|
506,91
|
10.234
|
3.504
|
11
|
Krông Bông
|
17
|
15.220,39
|
323,71
|
4.475
|
1.269
|
12
|
Krông Pắc
|
82
|
164.800,33
|
2.916,57
|
26.775
|
11.323
|
13
|
Krông A Na
|
32
|
29.649,48
|
349,40
|
6.670
|
2.611
|
14
|
Lắk
|
18
|
34.368,87
|
361,07
|
3.439
|
2.409
|
15
|
Cư Kuin
|
41
|
20.394,81
|
531,26
|
7.130
|
5.663
|
|
Tổng số
|
591
|
669.915,04
|
27.426,12
|
134.312
|
67.933
|
(Nguồn:
Chi Cục Thủy lợi Đắk Lắk, 2020)
Trên địa bàn tỉnh
hiện có 11 công trình thủy điện lớn nhỏ với dung tích tổng cộng 1.175.779,30 m3 và 6.000,76 ha diện
tích mặt nước. Đây là mặt nước tiềm năng để kết hợp phát triển nuôi trồng, khai
thác thủy sản với hình thức nuôi lồng bè. Hiện nay, một số hồ chứa đã phát
triển nuôi cá lồng trong đó có đối tượng kinh tế như cá Tầm như Thủy điện Buôn
Kuốp, Thủy điện Buôn Tua Srah, Thủy điện Srêpok 3 …
* Nguồn lợi các thủy
vực nội địa
Có khoảng hơn 200
loài cá phân bố ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong đó có 32 loài có giá trị kinh tế
ví dụcá Ngựa xám, cá Trà sóc, cá Thát lát, cá Lăng nha, cá Còm, cá Lóc… 5 loài
trong sách đỏ Việt Nam bao gồm cá Duồng, cá Chiên lăng, cá Còm, cá Chình hoa, cá Trà sóc. 2 loài
trong sách đỏ của IUCN bao gồm cá Nàng hai và cá Trà sóc.Nguồn lợi tự nhiên của
một số loài giảm rõ rệt như cá thát lát, các loài cá lăng, cá lóc. Kết quả điều
tra (Viện nghiên cứu NTTS III, Đại học KHXH&NV) tự nhiên tại một số
thủy vực trọng điểm trên địa bàn tỉnh cho thấy:
- Sông Srêpốk: xác
định 187 loài cá thuộc 30 họ và 15 bộ với 14 loài có tên trong phụ lục II-NĐ
26/2019/NĐ-CP , 8 loài nằm trong Danh lục Đỏ IUCN, 6 loài trong Sách Đỏ Việt Nam
2007, 53 loài cá có giá trị kinh tế; xác định được 237 loài giáp xác và 15 loài
thân mềm.
- Hồ Lắk: xác định
116 loài cá thuộc 25 họ và 12 bộ với 11 loài có tên trong phụ lục II-NĐ
26/2019/NĐ-CP , 6 loài nằm trong Danh lục Đỏ IUCN, 3 loài trong Sách Đỏ Việt Nam
2007, 43 loài cá có giá trị kinh tế; xác định được 7 loài giáp xác và 12 loài
thân mềm.
- Sông Krông Ana: Xác
định được 60 loài cá thuộc 46 giống 17 họ và 8 bộ cá cùng với 5 loài động vật
giáp xác (Tôm cua) và 11 loài ĐVTM (Trai, ốc, hến). Trong thành phần loài cá có
nhiều loài cá kinh tế, cá quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng thuộc khu hệ cá sông
Mê Kông. So với các báo cáo trước đây, thành phần loài cá quý hiếm suy giảm hầu
như không có mặt như cá Duồng, cá Cóc, cá Lăng nha, cá Thát lát cờm...
Những năm gần đây,
công tác điều tra nguồn lợi thủy sản nội đồng ít được quan tâm nghiên cứu. Các
chương trình điều tra mang tính nhỏ lẻ, thiếu hệ thống và chưa bao quát hết các
thủy vực nội địa. Nguồn lợi thủy sản nội đồng có sự suy giảm khá nghiêm trọng
do các tác động của môi trường. Bên cạnh đó, các chính sách quản lý và khai thác
thủy sản nội đồng hiện tại chưa hợp lý đặc biệt là sự phát tán tràn lan các
loài cá ngoại lai xâm hại ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lợi thủy sản nội địa.
3.
Các thông tin về kinh tế - xã hội của cộng đồng làm nghề cá trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk
* Độ tuổi tham gia
khai thác thủy sản
Qua điều tra số người
tham gia đánh bắt thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chúng tôi thu được cơ cấu
về tuổi đánh bắt và trình bày ở hình dưới đây.
Hình
12. Độ tuổi tham gia khai thác thủy sản của những người làm nghề cá
Tuổi lao động nghề cá
có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển nghề cá, kết quả khảo sát
cho thấy nhìn chung lao động nghề cá vẫn đang trong độ tuổi vàng còn rất trẻ
nằm trong khoảng 20-50 tuổi chiếm khoảng 79,5%, số lao động cận tuổi hưu trí
chiếm khoảng 13,8%, còn lại 6,8% đang sử dụng lực lượng lao động ngoài độ tuổi
lao động (lao động dưới 20 tuổi chiếm khoảng 0,4%, lao động trên 60 tuổi chiếm
6,4%) tổng số lao động nghề cá. Với độ tuổi lao động như vậy có vi phạm cơ bản
Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), điều này luôn tiềm ẩn các rào cản
kỹ thuật thương mại mà Việt Nam là thành viên, rủi ro sẽ bị hạn chế xuất khẩu
từ các nghề có sử dụng lao động ngoài độ tuổi lao động, nhất là lao động trẻ
em. Tuy nhiên, tỉ lệ độ tuổi ngoài lao động tham gia nghề cá ở tỉnh Đắk Lắk là
dưới 10% thấp hơn trung bình chung cả nước (38%).
* Tuổi của chủ hộ
Qua điều tra nghiên
cứu về độ tuổi của chủ hộ gia đình tham gia vào nghề cá cho thấy tuổi trung
bình của chủ hộ tương đối cao, trung bình từ (45 - 55). Qua điều tra cũng thấy
khoảng giao động về độ tuổi của các chủ hộ cũng rất lớn, giao động từ 20 - 86
tuổi, trong gia đình như vây thường gồm 3 - 4 thế hệ cùng chung sống với nhau
và mọi hoạt động trong gia đình đều phải theo sự chỉ đạo của người chủ gia
đình. Qua điều tra sơ cấp cũng thấy rằng tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là
rất cao (71 - 93%), và kinh nghiệm hoạt động trong ngành nuôi trồng thủy sản
của các chủ hộ cũng rất cao, từ 37 - 54% đối với những người trên 10 kinh
nghiệm. Tuy nhiên khi xét về khoảng giao động trong độ tuổi lao động theo quy
định của pháp luật thì hầu hết tại 3 địa điểm nghiên cứu tỷ lệ phần trăm chủ hộ
ngoài độ tuổi lao động vẫn còn cao.
* Trình độ văn hóa
của những người tham gia khai thác thủy sản
Qua điều tra 800
người khai thác thủy sản chúng tôi thu được kết quả về trình độ văn hóa của
những người tham gia nghề cá, được trình bày ở hình dưới đây:
Hình
13. Trình độ văn hóa của những người tham gia khai thác thủy sản trên địa bản
tỉnh Đắk Lắk
Nhìn chung lao động
nghề cá chủ yếu hết cấp I chiếm 42%; cấp II chiếm 33%; cấp III chiếm 5%. Tuy
nhiên, tỷ lệ lao động nghề cá không biết chữ vẫn còn chiếm khoảng 16% và tỉ lệ
chỉ biết đọc biết viết cơ bản là 4% điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp
thu các khoa học công nghệ cũng như các văn bản qui phạm pháp luật liên quan
đến nghề cá. Tỷ lệ mù chữ khá cao (16%), gấp 5 lần trung bình chung cả nước
(3,3%) là tình trạng đáng lưu tâm cần được cải thiện ngay trong thời gian tới.
Trình độ học vấn của
chủ hộ ảnh hưởng sự phát triển kinh tế của nông hộ vì trình độ thể hiện khả
năng nhận thức các vấn đề xã hội cũng như việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật
trong sản xuất, nắm bắt thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm... Những
người có học vấn cao thường rất có uy tín trong cộng đồng. Điều này cũng rất
quan trọng trong nuôi cá vì muốn phát triển một đối tượng nuôi mới nào cũng cần
phải có người đi đầu, những người này vừa phải có trình độ hiểu biết để áp dụng
được những kỹ thuật mới lại vừa phải có uy tín để những người khác trong cộng
đồng áp dụng theo.
Qua điều tra trình độ
văn hóa và học vấn cho thấy tỷ lệ người có trình độ học vấn cao tham gia vào
nghề cá là khá cao, tuy nhiên không có sự phân bố đồng đều giữa những thành
viên này, người có trình độ trung cấp làm nuôi trồng thủy sản ở Eakar cao gấp 6
lần so với Buôn Ma Thuột và cao gấp 4 lần so với Krông Pắc, số người tốt nghiệp
đại học tham gia nuôi trồng thủy sản ở Eakar là cao nhất, cao gấp 7 lần so với
ở Buôn Ma Thuột trong khi đó ở Krông Pắc lại không có ai. Khi xét về trình độ
văn hóa thì phần lớn những người tham gia vào lãnh vực nuôi trồng thủy sản đều
mới tốt nghiệp cấp 2, tỷ lệ người tham gia vào lãnh vực thủy sản tốt nghiệp cấp
3 là rất thấp, bằng 8 - 50% so với người tốt nghiệp cấp 2.
* Cơ cấu về thành
phần dân tộc
Qua điều tra về thành
phần dân tộc của cộng đồng làm nghề cá, kết quả trình bày ở hình dưới đây.
Hình
14. Thành phần dân tộc của những người khai thác cá
Những người dân tộc
thiểu số khai thác cá chiếm 43% cộng đồng làm nghề cá. 90% trong số họ là người
đánh cá không chuyên nghiệp. Chủ yếu họ là người dân tộc tại chỗ như Eđê và
Mnông, một số ít là người dân tộc phía Bắc di cư vào.
* Cơ cấu về nghề
chính trong cộng đồng làm nghề cá
Hình
15. Cơ cấu về nghề chính của cộng đồng làm nghề cá
* Thu nhập của các hộ
làm nghề cá
Hình
16. Thu nhập của các hộ làm nghề cá tỉnh Đắk Lắk
Thu nhập bình quân
của các hộ gia đình điều tra là 33,4 triệu đồng/năm, với cơ cấu thu nhập bình
quân được trình bày ở hình trên. Kết quả khảo sát cho thấy, bình quân mỗi gia
đình làm nghề khai thác hải sản cho tổng thu khoảng 244 triệu đồng/hộ/năm trên
cả nước trong đó có đến 78% là từ khai thác hải sản, còn lại 22% từ các hoạt
động kinh tế khác. Như vậy, trung bình thu nhập/ năm của các hộ hoạt động nghề
cá của tỉnh thấp hơn mặt bằng chung của cả nước. Tỉ trọng thu nhập của nghề
khai thác, đánh bắt thủy sản chiếm 33% chứng tỏ nghề cá và chăn nuôi là các
nguồn thu nhập chính của người dân để trang trải cuộc sống. Điều này cho thấy
vai trò to lớn của nghề cá trong cơ cấu thu nhập của người dân trong tỉnh. Nhìn
chung, cuộc sống của lao động nghề cá còn gặp khó khăn, nhất là những hộ làm
nghề cá ven bờ, điều này sẽ tác động rất lớn đến nguồn lợi thủy sản, khi mà thu
nhập không đủ chi tiêu cho cuộc sống, kinh tế lại phụ thuộc vào nghề cá luôn
tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
* Giới tính của chủ
hộ nuôi cá tỉnh Đăk Lắk:
Qua điều tra về tỷ lệ
giới tính của các hộ tham gia nghề cá của một số địa phương thấy tỷ lệ nam giới
là chủ hộ gia đình rất cao (66,7 - 82,2%), cao gấp 4 lần tỷ lệ Nữ giới làm chủ
hộ gia đình (17,2 - 33,3%). Những hộ Nữ giới làm chủ thường là những người có
chồng đi công tác xa hoặc không có chồng. Tuy nhiên, trong hoạt động nuôi trồng
thủy sản nữ giới lại có vai trò rất quan trọng, họ là người trực tiếp thực hiện
các biện pháp kỹ thuật chăm sóc ao. Do đặc thù lao động nghề cá chủ yếu cần lao
động nam giới, nữ giới chủ yếu làm nội trợ hoặc làm các công việc liên quan đến
dịch vụ nghề cá như thu mua, bán buôn, bán lẻ,... nên tỷ lệ nam thường cao hơn
tỷ lệ nữ. trong khi đó tỷ lệ này toàn quốc ở mức nam chiếm 49,8 nữ chiếm 50,2%.
Nhân khẩu và số người
tham gia vào nghề cá
Qua điều tra tại một
số huyện cho thấy số nhân khẩu trung bình của các nông hộ đã điều tra là 4,8
người, với số nhân khẩu trung bình trong độ tuổi lao động là 3,2 người và số
người hoạt động trung bình trong lãnh vực thủy sản là 1,5 người. Tuy nhiên giữa
các địa điểm điều tra thì có sự chênh lệch về lao động chính trong gia đình,
cao nhất ở Krông Pắc và thấp nhất ở Buôn Ma Thuột từ đó nhận thấy số người phụ
thuộc vào lao động chính ở Buôn Ma Thuột là cao nhất, tuy nhiên do buôn Ma
Thuột là thành phố lên mặc dù số người không lao động ăn theo cao nhưng cũng
không ảnh hưởng lắm đến tốc độ phát triển kinh tế tại nơi đó.
Tập huấn và mức độ áp
dụng
Qua điều tra thống kê
cho thấy tại tại một số huyện trong đó có các huyện Krông Pắc, Eakar và Buôn Ma
Thuột thấy tỷ lệ người tham gia hoạt động nuôi trồng thủy sản có tham gia các
lớp tập huấn là rất thấp, chỉ chiếm 10% trong tổng thể những hộ tham gia nuôi
trồng thủy sản. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, sản lượng thủy sản
và đặc biệt là các chiến lược phát triển phát triển của ngành thủy sản tại địa
phương đó. Tại các nơi có nhiều những hộ gia đình có người tham gia vào các
cuộc tập huấn về kỹ thuật nuôi thủy sản hay quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản
thì nhận thức của họ cao hơn về thủy sản so với những hộ khác, từ đó sản lượng
thủy sản họ làm ra cũng nhiều hơn, kinh tế gia đình họ cũng ổn định hơn.
Những khó khăn, trở
ngại của nông hộ về nghề cá ở tỉnh Đắk Lắk
Qua điều tra về những
khó khăn, trở ngại của các nông hộ khi tham gia vào phát triển ngành thủy sản
thấy phần lớn người nuôi đều gặp khó khăn trong việc huy động nguồn vốn ban
đầu, thiếu biện pháp kỹ thuật nuôi các đối tượng thủy sản và đặc biệt là thiếu
thị trường đầu ra. Sự thiếu hiểu biết về thị trường khiến các sản phẩm thủy sản
làm ra của hộ nuôi bị các thương buôn ép giá, công với việc giá đầu vào cao như
giá con giống, giá thức ăn hay thuốc chữa bệnh lên cao, người nuôi thiếu vốn
phải đi vay với lãi suất cao, người nuôi thiếu những thông tin kỹ thuật về
những đối tượng nuôi của mình lên tỷ lệ thất bại trong vụ nuôi là rất cao.
Chính những lý do trên đã gây trở ngãi cho những hộ tham gia vào nghề cá và
chúng cũng là những lý do chính cản trở sự phát triển của ngành thủy sản tại
địa phương.
4. Ngư cụ và sản
lượng khai thác thủy sản
Nghề khai thác thủy
sản nội địa ở Đắk Lắk, giống như nhiều nơi khác trong cả nước, chỉ phát triển ở
quy mô nhỏ, theo dạng hộ gia đình. Ngư dân dùng thuyền nhỏ để đi đánh cá. Có
ngư dân không có thuyền phải mượn thuyền của người khác để đánh cá. Có một số
ngư dân không chuyên nghiệp thì lội bộ để đánh bắt cá ven bờ. Thuyền được làm
thô sơ từ gỗ và nhôm. Chỉ có ở hồ Eakao, Krông Buk hạ và một số hồ chứa lớn
khác là sử dụng thuyền máy để đánh lưới liên hợp. Ngư cụ khai thác rất đa dạng
và phong phú, có thể chia ra làm 3 nhóm. Nhóm ngư cụ phổ biến bao gồm lưới rê,
vó, câu cần, câu giăng, vó quay. Các ngư cụ này được sử dụng ở hầu hết các thủy
vực trong tỉnh. Nhóm ngư cụ đặc trưng bao gồm vó đèn, lưới rê 3 lớp, chài, rọ
tôm, đăng, lưới liên hợp, lưới chụp, lưới rùng, trúm, chĩa, te. Nhóm các ngư cụ
này sử dụng tùy theo điều kiện cụ thể của từng thủy vực. Nhóm phương tiện đánh
bắt mang tính hủy diệt gồm có xung điện, mìn, và lá độc. Các ngư cụ có sản
lượng tương đối lớn là lưới rê, câu giăng, xung điện, và vó. Mìn và lá độc hiện
nay rất hạn chế sử dụng để khai thác cá.
Sản lượng khai thác
cá thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như thủy vực, mùa, kinh nghiệm, và ngư
cụ sử dụng. Sản lượng đánh bắt của một ngư dân có thể từ 1 - 50 kg trên ngày,
nhưng trung bình thì đạt khoảng 5-7 kg/ngày với ngư dân chuyên nghiệp và 1-3
kg/người/ngày đối với người không chuyên nghiệp. Số ngư dân chuyên nghiệp không
nhiều, chỉ khoảng 50% ở các hồ và dưới 10% ở sông. Khái niệm về ngư dân chuyên
nghiệp chủ yếu dựa vào 2 tiêu chí là thu nhập chính và thời gian đánh bắt.
Người ngư dân chuyên nghiệp thì thu nhập chính dựa vào nghề khai thác thủy sản
và thời gian đánh bắt nhiều hơn người đánh bắt không chuyên nghiệp. Tuy nhiên,
do đặc thù của nghề khai thác thủy sản nội địa là dễ đánh bắt và chi phí thấp,
cho nên có những người đánh cá chuyên nghiệp theo thời vụ, có thể 1 năm họ đánh
cá một số tháng chuyên nghiệp, một số tháng chuyển sang làm nghề khác.
Sản lượng và năng
suất ở các hồ chứa cũng thay đổi tùy theo thủy vực. Các hồ chứa lớn hơn 100 ha
mà không thả cá thì năng suất dao động từ 50-200 kg/ha/năm. Các hồ chứa lớn hơn
100 ha mà có thả cá thì năng suất có thể đạt từ 200 -500 kg/ha/năm.
Bảng
6. Sản lượng khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015-2020
TT
|
ĐƠN
VỊ
|
Năm 2015
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020
|
1
|
Buôn Ma Thuột
|
75
|
80
|
70
|
85
|
80
|
75
|
2
|
Buôn Hồ
|
15
|
30
|
30
|
15
|
15
|
15
|
3
|
Buôn Đôn
|
29
|
134
|
40
|
45
|
50
|
50
|
4
|
Easúp
|
12
|
400
|
390
|
470
|
450
|
470
|
5
|
Krông Pắc
|
12
|
20
|
30
|
24
|
35
|
30
|
6
|
EaH'leo
|
4.1
|
327
|
8
|
4.2
|
5
|
4.2
|
7
|
M'Đrắk
|
43
|
50
|
40
|
50
|
20
|
25
|
8
|
Cư Kuin
|
30
|
53
|
52
|
89
|
40
|
37
|
9
|
Lắk
|
800
|
780
|
520
|
700
|
550
|
800
|
10
|
Eakar
|
12
|
12
|
35
|
15
|
20
|
12
|
11
|
Krông Ana
|
538.3
|
862
|
280
|
675
|
590
|
578
|
12
|
Krông Bông
|
95
|
100
|
110
|
106
|
130
|
95
|
13
|
Cư Mgar
|
435
|
470
|
270
|
175
|
145
|
140
|
14
|
Krông Buk
|
20
|
25
|
23
|
12
|
20
|
12
|
15
|
Krông năng
|
58
|
52
|
110
|
71
|
82
|
124
|
Tổng
|
2,178.4
|
3,395
|
2,008
|
2,536.2
|
2,232
|
2,467.2
|
Nguồn:
(Theo báo cáo đánh giá chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến
năm 2020 của Chi cục Thủy sản Đắk Lắk)
Trong giai đoạn 2015 -
2016, tổng sản lượng khai thác thủy sản phần lớn tại các khu vực toàn tỉnh tăng
liên tục qua các năm, năm 2015 đạt 2.178 tấn, đến năm 2016 đạt 3.395 tấn. Tuy
nhiên, sản lượng từ 2017 sụt giảm còn 2.008 tấn vào năm 2017 trước khi dao động
từ 2.232 đến 2.536 tấn trong những năm tiếp theo. Ngược lại, cá biệt một số địa
phương như Easúp, Lắk, Krông năng sản lượng lại liên tục tăng từ 2015 đến 2020.
Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác thủy sản giảm rất rõ rệt có lẽ do
việc sử dụng phổ biến xung điện để đánh bắt cá, đánh bắt cá bố mẹ và cá con vào
mùa sinh sản, đánh bắt cá bằng những phương tiện đánh bắt có tính chọn lọc thấp
như đăng, vó đèn, rùng... ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản và suy thoái môi
trường. Ngoài ra, yếu tố biến đổi khí hậu, dịch bệnh, lực lượng lao động tham
gia vào ngành khai thác thủy sản cũng có xu hướng giảm trong thời gian này dẫn
đến nguồn nhân lực tham gia đánh bắt, khai thác cũng đi xuống.
* Thuyền
Nghề khai thác thủy
sản nội địa ở tỉnh Đắk Lắk là nghề cá quy mô nhỏ, dựa trên sự tổ chức khai thác
của từng hộ gia đình. Theo thống kê, từ năm 2015 đến nay, số lượng thuyền máy
trong toàn tỉnh dao động từ 697 đến 713 thuyền, đặc biệt năm 2017 số lượng
thuyền tham gia khai thác thủy sản giảm sút và chỉ phục hồi trong những năm
tiếp theo. Số lượng thuyền tham gia khai thác thủy sản vẫn ở con số hạn chế.
Ngư dân chủ yếu dùng thuyền chèo, nhỏ để đi đánh cá. Mỗi thuyền chở được từ 2 -
3 người. Một số ngư dân không có thuyền phải mượn thuyền của người khác hoặc
chỉ khai thác ở những vùng nước nông ven bờ. Thuyền chủ yếu được làm từ gỗ hay
nhôm. Một số ít ngư dân dùng thuyền máy kết hợp sử dụng xung điện để khai thác
cá. Riêng hồ Eakao có sử dụng thuyền máy để khai thác cá bằng lưới liên hợp.
Hình
17. Số lượng thuyền tham gia khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh
Hiện có các hình thức
khai thác nội địa như: chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và hoạt động mang tính
thời vụ. Trong đó, một số nghề hoạt động có đăng ký như: cào, đáy...Ngoài các
hình thức đánh bắt thủy sản truyền thống, những năm gần đây xuất hiện một số
hình thức đánh bắt thủy sản trái phép mang tính hủy diệt như: đánh mìn, rà
điện, thả các loại thuốc hóa chất độc xuống nước, đánh bắt cá các cỡ (kể cả cá
con), đánh bắt cả về mùa cá đẻ... Nghề khai thác nội địa có tính đa dạng tập
trung chủ yếu ở các họ nghề là nghề lưới rê, nghề câu, chài chụp.... Ở một số
hồ trung bình và nhỏ còn có thêm nghề vây chà, loại hình này không hoạt động
thường xuyên mà chỉ hoạt động khi vào mùa cạn nước.
Các ngư cụ chủ yếu
được chế tạo thủ công (lưới đan, lắp ráp thủ công) theo kinh nghiệm của ngư dân
và đều có những đặc tính chung là: độ ổn định mắt lưới thấp (dễ biến dạng), cấu
tạo lưới thuận tiện cho các thao tác bằng sức người, độ bền và hiệu quả chọn
lọc rất thấp. Do không được cơ giới hóa nên các vàng lưới thường không có trang
bị phụ tùng gì đáng kể. kích cỡ ngư cụ nhỏ gọn.
Một số loại ngư cụ
được sử dụng phổ biến như sau:
* Lưới rê
Nguyên lý đánh bắt
lưới rê theo nguyên tắc: Lưới được thả chặn ngang đường di chuyển của cá. Cá
trên đường đi sẽ bị vướng vào mắt lưới và bị giữ lại lưới.
Hình
18. Lưới rê ngư dân đánh bắt cá ở Hồ Lắk
- Kết cấu ngư cụ: Gồm
có các phần: Giềng phao, thân lưới, giềng chì, dây gai.
Lưới được làm bằng
sợi nilon. Thân lưới gồm nhiều tấm lưới hình chữ nhật gọi là tay lưới ghép lại
thành một dàn lưới. Số tay lưới trong dàn nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng
của người sử dụng và ngư trường đánh bắt. Một tay lưới có chiều cao 1 - 2 m,
chiều dài 10 = 15 m, mắt lưới 2a = 10 - 30 thay đổi tùy theo cỡ cá muốn đánh
bắt. Trong một tay lưới, kích cỡ mắt lưới là không đổi. Giềng phao gồm một sợi
dây bằng gai hay nilon được luồn dọc theo những mắc lưới đầu tiên của dàn lưới.
Phao được gắn dọc theo dây này để lưới nổi mạnh. Giềng phao có thể chịu được sức
nặng và sự kéo xuống của dàn lưới. Giềng chì cũng gồm một sợi dây dài giống như
giềng phao được gắn chì dọc theo giềng để tạo sức nặng làm tay lưới thẳng và
chìm xuống.
- Dụng cụ hỗ trợ:
Thuyền, giỏ, rổ, vợt và thùng, xô nhựa đựng cá.
- Nguồn gốc: Mua hoặc
mua lưới về ráp.
- Giá ngư cụ: 200.000-300.000
đồng.
- Phương pháp đánh
bắt: Ngư dân dùng thuyền nhỏ để thả lưới. Thả lưới theo chiều gió để lưới không
vướng vào đáy thuyền. Đầu lưới và những chỗ gấp khúc được gắn đá vào giềng chì
để cố định. Thả lưới xong để ngâm lưới trong nước. Đây cũng chính là thời gian
khai thác (thời gian cá đóng vào lưới). Thời gian này tùy thuộc vào ý chủ quan
của người khai thác. Thường sau 3 - 5 giờ tiến hành thu lưới. Thu lưới theo
chiều gió và chú ý thu đồng đều giềng phao, giềng chì và lưới. Trong quá trình
thu lưới có thể vừa thu lưới, vừa bắt cá nếu cá đóng ít và đóng rải rác suốt
chiều dài vàng lưới hoặc thu lưới trước, bắt cá sau nếu cá nhiều và gỡ không
kịp. Lúc này ta vẫn tiếp tục gỡ cá cùng lúc với thu lưới, nhưng gỡ được bao
nhiêu thì hay bấy nhiêu, còn lại thì sau khi thu lưới xong sẽ gỡ tiếp. Thu
hoạch xong xếp lưới gọn gàng tránh rối lưới để dễ dàng cho mẻ lưới sau.
- Loài đánh bắt
chính: Cá Thát lát, cá sặc, cá Rô phi, ...
- Mồi: Không sử dụng
- Tầng nước hoạt
động: Tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy.
- Vùng nước hoạt
động: Sông, hồ.
- Thời điểm đánh bắt:
Ngày và đêm.
- Thời gian hoạt
động: Từ 6 - 10h trong ngày.
- Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
- Sản lượng khai
thác: Trung bình 1,5 - 3 kg/chuyến.
* Lưới rê 3 lớp
* Vó quay - Lift net (Vó quay) :
Hình
19. Vó quay
- Kết cấu ngư cụ: Gồm
có 3 phần chính: Lưới, cọc và hệ thống cất vó.
- Dụng cụ hỗ trợ:
Thuyền, giỏ, rổ, vợt và thùng, xô nhựa đựng cá.
- Nguồn gốc: Mua.
- Giá ngư cụ:
1.300.000 đồng.
- Phương pháp đánh
bắt: Gồm các thao tác sau:
- Loài đánh bắt
chính: Cá lóc đồng (Channa striata), cá sặc, cá lòng tong, tôm, ...
- Mồi: Không sử dụng
- Tầng nước hoạt
động: Tầng mặt và tầng giữa.
- Vùng nước hoạt
động: Sông, hồ.
- Thời điểm đánh bắt:
Ban ngày và ban đêm
- Thời gian hoạt
động:
- Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
- Sản lượng khai
thác: Trung bình 5-20 kg/chuyến.
* Vó đèn - Raft lift net
Hình
20. Vó đèn
- Kết cấu ngư cụ: Gồm
có 3 phần chính: Lưới, càn vó và hệ thống cất vó. Lưới vó có dạng hình nón lật
ngược. Lưới đan bằng sợi nilon, có các cỡ mắt lưới khác nhau. Phần lưới phía
trên miệng thưa và dày dần về chóp lưới. Miệng vó có dạng hình vuông do 4 góc
lưới được căng ra bằng 4 càn vó. Càn vó gồm 4 thanh tre dài khoảng 4 - 6 m, một
đầu được cột cố định với nhau, đầu kia được cột với 4 góc lưới.
Hệ thống cất vó là
một hệ thống đòn bẩy, chuyển động quanh một trục nằm ngang, gồm:
Cần vó: là một thanh tre hoặc
gỗ dài 6 - 8 m. Một đầu của thanh được nối với một ròng rọc và hệ thống càn vó.
Đầu dưới gắn với một cầu thang được bắt với bè. Một sợi dây nối giữa tùng lưới
và thang qua ròng rọc gọi là dây tùng. Cầu thang và cần vó chuyển động được
xung quanh một trục sắt nằm ngang đặt ở đầu cầu. Đầu trên của cần vó, đầu trên
của cầu thang và gần dưới chân cầu thang, hai thanh được nối với nhau bởi hai
thanh tre hoặc gỗ để hệ thống cất vó thêm vững chắc. Ngoài ra để giữ thăng bằng
cho vó và cất vó nhẹ nhàng có thể cột thêm một khối đá nặng ở chân cầu thang.
Dây kéo: Dây kéo là dây thừng
hoặc dây nilon nối từ đuôi cầu thang đến mặt đất. Dây kéo được dùng để điều
chỉnh sao cho lưới vó chìm xuống mặt nước.
- Dụng cụ hỗ trợ:
Thuyền, giỏ, rổ, vợt và thùng, xô nhựa đựng cá.
- Nguồn gốc: Mua hoặc
tự làm.
- Giá ngư cụ: 200.000
- 300.000 đồng.
- Phương pháp đánh
bắt: Gồm các thao tác sau:
Đặt vó: Căng vó, điều chỉnh
dây kéo sao cho lưới vó chìm xuống mặt nước ở độ sâu thích hợp (thường 2 - 3 m)
rồi buộc cố định. Sau đó thả lỏng dây tùng cho tùng lưới thòng xuống nước, một
người sẽ leo lên cần vó để lưới vó có thể chìm xuống nước đến một mức độ vừa phải,
dây kéo sẽ tự động giữ hệ thống vó ngừng lại.
Cất vó: Thời gian đặt vó tùy
thuộc vào lượng cá thu hoạch nhiều hay ít, thường 20 - 30 phút. Khi cất vó thu
dây kéo ngắn lại để vó được nhấc lên cho đến khi lưới vó được nhấc lên hoàn
toàn khỏi mặt nước. Sau đó dùng vợt hoặc rổ để xúc cá.
- Loài đánh bắt
chính: Cá lóc đồng (Channa striata), cá sặc, cá lòng tong, tôm, ...
- Mồi: Không sử dụng
- Tầng nước hoạt
động: Tầng mặt và tầng giữa.
- Vùng nước hoạt
động: Sông, hồ.
- Thời điểm đánh bắt:
Ban ngày và ban đêm
- Thời gian hoạt
động: Từ 2 - 20 giờ.
- Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
- Sản lượng khai
thác: Trung bình 20 - 25 kg/chuyến.
* Đăng
Hình
21. Lưới đăng
Lưới đăng (hay còn
gọi là nò hoặc dớn) là ngư cụ cố định phổ biến ở những vùng đất thấp, ngập nước
theo mùa, và dọc theo các sông, hồ. Lưới đăng thường khai thác mang tính mùa vụ
hoặc theo con nước lớn ròng.
Nguyên lý đánh bắt
lưới Đăng: Lưới Đăng được đặt cố định chặn ngang đường di chuyển của cá, cá
trên đường đi không thể vượt qua được tường lưới nên phải men theo tường lưới
và bị giữ lại ở chuồng lưới (lọp).
- Kết cấu ngư cụ: Cấu
tạo cơ bản của lưới Đăng gồm 3 bộ phận chính là: Đăng lưới, chuồng (rọ) và lọp.
Đăng lưới là dãy lưới
chặn ngang đường di chuyển của cá. Đăng lưới có thể làm bằng tre bện lại với
nhau thành dãy đăng hình chữ nhật hoặc bằng tấm lưới được cố định bởi những cây
cọc. Chiều dài của tấm lưới đăng tùy thuộc vào độ rộng của khu vực khai thác,
hoặc phụ thuộc vào mức độ phát tán của đàn cá xuất hiện gần khu vực đặt lưới
đăng nếu khai thác ở sông lớn, sao cho chặn được nhiều cá càng tốt. Tuy nhiên,
nếu khai thác ở ruộng hoặc vùng trũng rộng thì người ta thường lắp đặt chiều
dài lưới đăng theo đường ngoằn ngoèo để tăng diện tích chặn cá. Chiều cao tấm
đăng lưới được tính từ tầng mặt cho đến sát đáy và có dự phòng thêm từ 10 - 20
% độ cao nhằm đảm bảo phần trên của tấm đăng nổi lên đến khỏi mặt nước khi mức
nước cao nhất. Độ hở giữa các thanh đăng của tấm đăng phải đảm bảo ngăn không
để cá vượt qua được các khe. Hoặc nếu tấm đăng được làm bằng lưới cũng phải đảm
bảo không cho cá thoát qua mắt lưới và cũng không bị đóng dính vào mắt lưới của
tấm đăng.
Chuồng lưới đăng là
nơi giữ cá, chứa cá và hướng cá vào lọp. Chuồng lưới có dạng hình chữ nhật hoặc
hình đa giác. Chuồng lưới đăng phải có diện tích vừa đủ, không quá nhỏ hoặc quá
lớn. Nếu chuồng quá nhỏ sẽ làm cho cá cảm thấy chật chội và cá có thể tìm cách
thoát ra ngoài, nếu quá lớn sẽ khó thu việc thu gom hoặc hướng cá vào lọp. Độ
cao của chuồng cũng tính từ sát nền đáy đến bề mặt nước có dự phòng từ 10-20%
độ cao khi mức nước cao nhất.
Lọp là nơi chứa cá và
bắt cá. Trong một chuồng có thể có 1 - 2 lọp. Lọp được đặt ở các hông chuồng
hoặc cuối dãy lưới đăng nếu không chuồng. Lọp lưới đăng thường làm bằng tre
hoặc được bao bọc lưới. Lọp có dạng hình hộp, hình ống hoặc hình trụ. Lọp phải
bền, chắc, không để cho cá có thể phá lọp ra ngoài.
Thông thường đăng dài
từ 20 - 50 m. Mắt lưới 2a = 2 - 8 mm. Mỗi cây cọ dài 1,5 - 2 m.
- Phương pháp đánh
bắt:
Lưới Đăng thường được
đánh bắt mang tính mùa vụ nên kỹ thuật khai thác lưới Đăng thường được phân
thành 2 giai đoạn: Lắp đặt chuồng lưới Đăng và khai thác lưới Đăng.
Lắp đặt chuồng lưới
đăng: Nên đặt lưới Đăng ở khu vực có nhiều cá qua lại theo từng mùa vụ hoặc
quanh năm, ít bị ảnh hưởng bởi sóng, gió, tốc độ dòng chảy trung bình và độ sâu
không quá lớn. Nền đáy phải tương đối bằng phẳng. Và phải thuận tiện cho việc
vận chuyển cá và không gây cản trở cho thuyền đi lại. Đăng thường được đặt
vuông góc với bờ (sông, hồ) hoặc đường đăng hứng dòng chảy của nước (vùng ruộng
ngập lụt).
Lắp đặt tấm đăng dẫn
cá và chuồng lưới Đăng: Chọn hướng và đặt tấm đăng dẫn cá, thường lắp từ trong
cạn (bờ) ra sâu. Trước hết ta cần cắm các cọc để định hướng cho tấm đăng (nếu
là đăng tre hoặc đăng lưới có cọc tre) hoặc căng định hướng dây giềng phao (nếu
là tấm đăng làm bằng lưới). Các cọc cần phải cắm sâu xuống đất và được các dây
chằng, neo cố định lại cho vững chắc.
Kỹ thuật khai thác
lưới Đăng: Kỹ thuật đánh bắt lưới Đăng cũng tương đối đơn giản, bao gồm hai
giai đoạn: Giai đoạn lôi cuốn và dẫn cá vào chuồng; giai đoạn dóng cửa chuồng
và bắt cá.
- Loài đánh bắt
chính: Cá lóc đồng, cá Trê, cá sặc, cá lòng tong, tôm, cua đồng ...
- Mồi: Không sử dụng
- Tầng nước hoạt
động: Tầng mặt, giữa và đáy.
- Vùng nước hoạt
động: Sông, hồ, vùng trũng và ruộng ngập lụt.
- Thời điểm đánh bắt:
Ban ngày và ban đêm
- Thời gian hoạt
động: Từ 6 - 24 giờ.
- Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
- Sản lượng khai
thác: Trung bình 2 - 5 kg/chuyến, cao nhất 15 kg.
* Câu giăng (Hooks
and lines)
Câu là ngư cụ rất phổ
biến, chuyên khai thác các đối tượng sống đơn lẻ hoặc tập trung. Đây là công cụ
đánh bắt khá đơn giản nhưng hiệu quả cao và chi phí thấp. Nghề câu là loại hình
khai thác có từ rất lâu đời, có thể khai thác ở những nơi mà một số dạng đánh
bắt khác khó hoạt động được, chẳng hạn như nơi có nhiều rạn đá, luồng lạch hẹp,
các hốc sâu, nhỏ,...
- Nguyên lý đánh bắt:
Nguyên lý đánh bắt
đối với câu có mồi là: “Mồi câu (được móc vào lưỡi câu) được đưa đến gần khu
vực có cá, cá ăn mồi sẽ mắc câu”
Nguyên lý hoạt động
của nghề câu không sử dụng mồi là: “Dây câu có mật độ lưỡi cao và sắc, được thả
chặn ngang đường di chuyển của cá, cá đi qua vùng thả câu có thể bị vướng câu”.
* Câu cần
Hình
22. Câu bằng cần
- Kết cấu ngư cụ: Gồm
có 3 phần: Cần câu, dây câu và lưỡi câu.
Cần câu là thanh tre
hay trúc dài 70 - 250 cm. Đầu cần câu nhỏ Φ10 - 25 và đầu còn lại to. Dây câu
bằng cước nối giữa lưỡi câu và đầu cần câu. Dây câu có nhiều kích cỡ Φ 0,2 - 1.
Tại 1/3 dây tính từ đầu cần câu có gắn một phao nhỏ. Phao sẽ rung và chìm xuống
nước khi cá cắn câu. Cách lưỡi câu 10 - 20 cm có gắn một cái chì nhỏ giúp kéo
căng dây và kéo mồi chìm xuống nước. Lưỡi câu là lưỡi đơn hoặc lưỡi kép. Kích
cỡ lưỡi câu tùy thuộc vào đối tượng muốn câu.
- Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
- Sản lượng khai thác:
Trung bình 2-5 kg/chuyến.
* Ngư cụ cấm sử dụng:
kích điện
- Kết cấu ngư cụ:
Kích điện gồm:
Nguồn cung cấp điện,
thường sử dụng ắc quy nhỏ Rạng Đông, 12 vôn. Hộp chuyển đổi từ dòng điện một
chiều sang dòng điện xoay chiều, là một hình hộp chữ nhật nhỏ gắn bên trong nó
gồm một máy biến thế nhỏ, một chiếc máy kích điện, và các sò điện (khoảng 18 -
20 chiếc).
Cần vợt, là hai thanh
tre chiều dài 1,5 - 1,8 m, trên đầu có gắn 2 vòng sắt hình thuyền dài khhoảng
40 cm, là nơi tiếp xúc giữa nguồn điện và mặt nước.
Hai vòng sắt hình
thuyền một vòng có gắn lưới sắt, được nối với bộ chuyển đổi dòng điện bằng hai
sợi dây điện được bố trí chạy dọc thanh tre.
Ngoài ra còn có một
công tắc được lắp trên cần vợt, để đóng hoặc cắt điện khi kích điện.
- Phương pháp đánh
bắt: Phương pháp này dùng dòng điện để gây tê liệt thần kinh hoặc giết chết cá.
Người dùng kích điện có thể lội xuống nước hoặc đi trên thuyền để đánh bắt. sau
khi xuống hồ người người sử dụng cầm cần vợt ngón cái bấm công tắc để cung cấp
điện cho khung sắt, đồng thời ra nhẹ vòng sắt có điện vào nước, gốc cây, bụi
rậm cá tôm trúng điện sẽ nổi lên mặt nước và được thu bằng tay hoặc vợt.
- Loài đánh bắt
chính: Cá lóc đồng (Channa striata), lươn (Monopterus albus), cá
rô đồng (Anabas testudineus), cá nỏng, cá chép, ...
* Tình hình sử dụng
các ngư cụ hủy diệt để khai thác cá
Từ trước đến nay, các
ngư cụ hủy diệt được sử dụng để khai thác cá trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk gồm có
kích điện, mìn và lá độc. Tuy nhiên, hiện nay mìn và lá độc rất hạn chế sử
dụng, còn kích điện thì rất phổ biến. Vì thế trong khuôn khổ báo cáo này, chúng
tôi chỉ đề cập đến hiện tượng dùng điện để đánh cá.
Loài đánh bắt chính:
Cá lóc đồng (Channa striata), lươn (Monopterus albus), cá rô đồng
(Anabas testudinues), cá lỏng, cá chép,...
+ Tầng nước hoạt
động: Tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy.
+ Vùng nước hoạt
động: Ven bờ, quanh các đảo trên hồ, quanh bụi cây, quanh các đám cỏ nổi trên
hồ nơi đó cá thường tập trung và trú ẩn.
+ Thời điểm đánh bắt:
Ban ngày và ban đêm.
+ Thời gian hoạt
động: Trung bình khoảng 2-3 giờ. Hiện nay thường đánh từ 19- 21 giờ lúc vắng
người.
+ Mùa vụ khai thác:
Quanh năm.
+ Sản lượng khai
thác: Trung bình 1-1,5 kg/chuyến.
Số lượng người sử
dụng dí điện tại một số địa điểm điều tra:
Việc thu thập số liệu
(danh sách) về người sử dụng xung điện trong khai thác thủy sản thường gặp rất
nhiều khó khăn vì tất cả mọi người đều biết đây là phương tiện khai thác mà nhà
nước đã nghiêm cấm sử dụng, nên họ thường giấu không muốn nêu tên những người
khai thác thủy sản bằng xung điện vì nhiều lý do. Có thể là vì sự thân quen
hoặc sợ gây mâu thuẫn. Tuy nhiên qua quá trình điều tra, chúng tôi cũng có
những số liệu ban đầu về số người dí điện và số người khai thác thủy sản ở một
số khu vực điều tra (Bảng 2).
Qua 6 địa điểm điều
tra trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cho thấy số liệu về số người sử dụng dí điện rất
khác nhau. Cao nhất là xã Eawer và thị trấn Buôn Trấp (36%) và thấp nhất là
Krong Na (6%). Riêng ở Easúp và Yang Tao (Lắk) là hai địa điểm đang triển khai
mô hình Đồng quản lý nguồn lợi thủy sản nhưng số người sử dụng xung điện là khá
cao, 24% ở Lắk và 29% ở Easúp. Theo số liệu của Trương Hà Phương (2004) thì số
người sử dụng xung điện tại hai địa điểm này là 25% (Lắk) và 30% (Easúp), trong
đó có 4 người sử dụng điện máy nổ để khai thác cá. Như vậy, việc sử dụng xung
điện ở hai địa điểm này hiện nay là không đổi so với năm 2004.
Trong các khu vực
điều tra thì Easúp và xã Yang Tao (Lắk) là không dùng điện máy nổ để khai thác
cá (chủ yếu dùng bình ắc quy), còn các địa điểm khác đều có người sử dụng, tuy
nhiên chưa có số liệu thống kê đầy đủ.
Qua số liệu này cho
thấy trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tại các thủy vực đang còn có hiện tượng người
dân sử dụng ngư cụ hủy diệt để khai thác thủy sản, trong giai đoạn tới cần có
giải pháp quyết liệt để ngăn cấm hành vị khai thác thủy sản này.
5. Thực trạng quản lý
khai thác thủy sản nội địa, các vấn đề tồn tại
Phương thức quản lý
nghề khai thác thủy sản nội địa thay đổi tùy theo loại hình và diện tích thủy
vực. Đối với sông, nghề khai thác thủy sản hầu như không được quản lý. Vì thế ở
sông, hiện tượng đánh bắt bằng điện vẫn xảy ra thường xuyên. Ở các hồ chứa, nếu
có nuôi trồng thủy sản thì thường nghề khai thác thủy sản được quản lý rất chặt
chẽ. Người quản lý hoặc ban quản lý nghề khai thác thủy sản quy định về kích thước
mắt lưới, thời vụ đánh bắt, loại lưới đánh bắt, cỡ cá đánh bắt, và thời điểm
đánh bắt. Ví dụ như mới thả cá, thì người quản lý cấm đánh bắt bằng ngư cụ có
mắt lưới nhỏ và gần vùng vừa thả cá. Nếu hồ nhiều cá mè, thì cấm đánh lưới rê
ngâm về đêm vì cá bị mắc lưới sẽ ươn do sáng hôm sau ngư dân mới thu lưới.
Những ngư dân vi phạm sẽ bị phạt tiền, tịch thu lưới, hoặc cấm đánh bắt trên
hồ. Ở các hồ chứa không thả cá thì việc quản lý nghề khai thác thủy sản chỉ là
hình thức, giống như nghề khai thác thủy sản ở sông, và hiện tượng dùng xung
điện để đánh bắt cũng rất phổ biến.
Hồ chứa được xây dựng
vì nhiều mục đích khác nhau và nghề cá luôn là mục đích thứ yếu. Thông thường
các hồ chứa thủy lợi được giao cho Chi cục thủy lợi hoặc Công ty thủy lợi quản
lý, điều tiết nước và bảo vệ đập. Các cơ quan này sẽ cho tư nhân đấu thầu thả
cá hoặc Ủy ban nhân huyện, xã sẽ giao cho các cơ quan, tổ chức khác quản lý
nghề cá. Có một số hồ chứa nhỏ thì giao cho hợp tác xã hay tư nhân quản lý.
Việc quản lý nghề cá hồ chứa ở tỉnh Đắk Lắk có 4 hình thức như sau: Cơ quan nhà
nước quản lý (Easúp thượng, Eakao), hội nghề nghiệp quản lý (Hội nghề cá hồ
Lắk, chi hội hồ Easúp), tư nhân quản lý (rất phổ biến), quản lý hình thức
(không người quản lý trực tiếp).
Các hồ chứa thường
phân bố ở những khu vực xa khu dân cư, địa hình phức tạp và có rừng hay đồi núi
bao quanh, vì thế việc quản lý nghề cá thường gặp nhiều khó khăn.
VI. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN GIAI ĐOẠN
2011-2020
1.
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn và các quy định của Trung ương
1.1. Ban hành các văn
bản chỉ đạo điều hành, hướng dẫn công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
sản
Để bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản, bảo đảm cân đối hài hòa giữa phát triển kinh tế và sử
dụng tài nguyên nước tại các thủy vực cho nuôi trồng thủy sản phù hợp với quy
hoạch, phân bổ tài nguyên nước, không gây ô nhiễm nguồn nước, tạo ra các nguồn
sản phẩm thủy sản mang tính hàng hóa, tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống
của người dân sống xung quanh thủy vực sông, hồ chứa, trong thời gian qua Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (đơn vị được UBND tỉnh giao QLNN về lĩnh vực
Thủy sản) đã trình UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành một số văn bản quy định về khai
thác, đánh bắt thủy sản:
- Chỉ thị số
02/2014/CT-UBND ngày 01/4/2014 của UBND tỉnh về việc nghiêm cấm hành vi hủy
diệt trong khai thác thủy sản ở các vùng nước tự nhiên trên địa bàn tỉnh.
- Chỉ thị số 09/CT-UBND
ngày 02/6/2020 của UBND tỉnh về việc nghiêm cấm hành vi hủy diệt trong khai
thác thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Quyết định số
24/2015/QĐ-UBND ngày 5/5/2009 của UBND tỉnh về việc sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Quy chế quản lý nuôi trồng, khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản ban hành theo Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND ngày 05/5/2009 của UBND
tỉnh Đắk Lắk
- Quyết định số
38/2020/QĐ-UBND ngày 17/12/2020 của UBND tỉnh về quy định khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản tại khu bảo
vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Ngoài các văn bản
QPPL, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk đã chủ động ban hành
một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai một số nội dung về khai thác và
phát triển nguồn lợi thủy sản như:
+ Công văn số
1506/SNN-TS ngày 10/7/2017 của Sở Nông nghiệp và PTNT gửi các huyện, thị xã,
thành phố trên địa bàn tỉnh nhằm tổ chức thực hiện các nội dung Bản ghi nhớ hợp
tác.
+ Công văn số
1790/SNN-TS ngày 10/7/2018 của Sở Nông nghiệp và PTNT gửi các huyện, thị xã,
thành phố triển khai thực hiện Công văn số 1648/UBND- NNMT ngày 05/3/2018 về
việc thực hiện công tác tái tạo nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh.
+ Công văn số
1791/SNN-TS ngày 10/7/2018 của Sở Nông nghiệp và PTNT về đôn đốc gửi các huyện,
thị xã, thành phố triển khai thực hiện một số nội dung thực hiện công tác tái
tạo nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số 5241/KH-UBND ngày
28/6/2018 về việc Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực
sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
+ Công văn số 42/SNN-CCTS
ngày 07/01/2020 của Sở Nông nghiệp và PTNT về việc tăng cường công tác bảo vệ
và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Công văn số 616/SNN-TS
ngày 08/3/2019 của Sở Nông nghiệp và PTNT về việc phổ biến, triển khai thực
hiện các Thông tư hướng dẫn Luật Thủy sản 2017 trong lĩnh vực thủy sản.
1.2. Thành lập Ban
chỉ đạo
Thực hiện Chỉ thị số
01/1998/CT-TTg và Quyết định số 188/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã trình UBND tỉnh ban hành Quyết định 2473/QĐ-UBND
ngày 29/10/2012 thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh và Tổ thường trực giúp việc Ban
chỉ đạo thực hiện chỉ thị số 01/1998/CT-TTg và Quyết định số 188/QĐ-TTg .
Sau khi thành lập Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình UBND tỉnh Quyết định số 1288/QĐ-UBND
ngày 05/7/2013 về Quy chế hoạt động của ban chỉ đạo cấp tỉnh và Tổ thường trực
giúp việc Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 01/1998/CT-TTg và Quyết định số
188/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tại
Tuy nhiên trong quá
trình hoạt động có nhiều thay đổi về nhân sự, thuyên chuyển công tác nên Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu UBND tỉnh rà soát và kiện toàn
ban chỉ đạo cấp tỉnh và Tổ thường trực giúp việc Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị
số 01/1998/CT-TTg và Quyết định số 188/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết
định số 2752/QĐ-UBND ngày 20/9/2016. Sau khi có Quyết định kiện toàn, Trưởng
Ban Chỉ đạo có Quyết định số 26/QĐ-BCĐ ngày 25/7/2017 về việc phân công nhiệm
vụ các thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 01/1998/CT-TTg và Quyết định
số 188/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
1.3. Ban hành kế
hoạch hoặc đề án
Từ năm 2011- 2020,
Chi cục Thủy sản đã tham mưu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành và
trình UBND tỉnh ban hành một số chương trình, kế hoạch như:
- Quyết định số
676/QĐ-UBND ngày 11/3/2016 của UBND tỉnh về việc phê duyệt chi tiết Đề án Bảo
vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030
- Quyết định số 28/QĐ-UBND
ngày 07/01/2015 của UBND tỉnh về phê duyệt Quy hoạch chi tiết Khu bảo tồn vùng
nước nội địa cấp tỉnh sông Krông Ana
- Kế hoạch số 5241/KH-UBND
ngày 28/6/2018 của UBND tỉnh về việc triển khai thực hiện Đề án bảo vệ và Phát
triển nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
- Kế hoạch số 6377/KH-UBND
ngày 01/8/2018 của UBND tỉnh về việc tổ chức triển khai, thi hành Luật Thủy sản
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kế hoạch số 5899/KH-UBND
ngày 02/7/2021 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số
38/2020/QĐ-UBND , ngày 17/12/2020 về quy định khu vực cấm khai thác thủy sản có
thời hạn; nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản tại khu bảo vệ nguồn lợi
thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kế hoạch số 2203/KH-SNN
ngày 02/8/2019 Về việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn được UBND tỉnh giao tại Kế hoạch số 5241/KH-UBND tỉnh ngày
28/6/2018 về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực sông, hồ
chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
- Tham mưu Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Giáo hội Phật Việt Nam tỉnh Đắk Lắk
ký kết ban và ban hành Bản ghi nhớ hợp tác về việc thả giống phóng sinh tái tạo
nguồn lợi thủy sản vào ngày 09/6/2017. Đồng thời ban hành Kế hoạch số 1139/KHPH-SNN-GHPG
ngày 22/6/2017 để triển khai, thực hiện một số nhiệm vụ về thả giống phóng sinh
bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong năm 2017
- Kế hoạch thực hiện
Chương trình mục tiêu phát triển kinh tế thủy sản bền vững trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk giai đoạn 2018-2020 đã được UBND tỉnh ban hành kèm theo Quyết định số
956/QĐ-UBND ngày 09/5/2018.
- Kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ của UBND tỉnh giao tại Quyết định số 2041/QĐ-UBND ngày 03/8/2017 về
sản xuất thủy sản theo quy trình VietGAP.
- Triển khai Kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ Chủ tịch UBND tỉnh giao tại Chỉ thị về tăng cường công tác
quản lý nuôi thủy sản lồng bè trên sông, hồ chứa thủy lợi, thủy điện.
- Kế hoạch tái cơ cấu
lĩnh vực thủy sản đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành tại
Quyết định số 1468/QĐ-SNN ngày 08/12/2017.
2.
Đối với điều tra nguồn lợi thủy sản
2.1. Điều tra đánh
giá nguồn lợi thủy sản vùng nội địa
Để đánh giá trữ lượng
nguồn lợi thủy sản tại các vùng nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian
qua, với nguồn kinh phí UBND tỉnh giao hang năm Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Đắk Lắk thực hiện điều tra đánh giá trữ lượng nguồn lợi thủy sản tại
một số thủy vực hồ thủy điện Buôn Tua Sah (huyện Lắk) và sông Krông Ana. Kết
quả điều tra đánh giá trữ lượng ước tính sông Krông Ana là 2.294 tấn (trữ lượng
cá ước tính khoảng 2.023 tấn, giáp giác 266 tấn và thân mền 5 tấn), có 45 loài
cá 4 loài thân mền và 1 loại tôm; trữ lượng ước tính hồ thủy điện Buôn Tua Sah
là 200,2 tấn (trữ lượng cá ước tính khoảng 195,9 tấn, giáp giác 19,8 tấn và
thân mền 3,5 tấn), có 46 loài cá 1 loài thân mền và 2 loài giáp xác. Bên cạnh
đó, Tổng cục Thủy sản cũng đã triển khai điều tra, đánh giá nguồn lợi một số
thủy vực khác: Sông Krong Ana: Xác định được 60 loài cá thuộc 46 giống 17 họ và
8 bộ cá cùng với 5 loài động vật giáp xác (Tôm cua) và 11 loài ĐVTM (Trai, ốc,
hến). Trong thành phần loài cá có nhiều loài cá kinh tế, cá quý hiếm có nguy cơ
tuyệt chủng thuộc khu hệ cá sông Mê Kông. So với các báo cáo trước đây, thành
phần loài cá quý hiếm suy giảm hầu như không có mặt như cá Duồng, cá Cóc, cá
Lăng nha, cá Thát lát cờm...; Hồ Lắk: Xác định 116 loài cá thuộc 25 họ và 12 bộ
với 11 loài có tên trong phụ lục II - NĐ 26/2019/NĐ-CP , 6 loài nằm trong Danh
lục Đỏ IUCN, 3 loài trong Sách Đỏ Việt Nam 2007, 43 loài cá có giá trị kinh tế;
xác định được 7 loài giáp xác và 12 loài thân mềm
Ngoài ra, hàng năm Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông đều thực hiện khảo sát đánh giá nguồn lợi thủy
sản tại các thủy vực dự kiến thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản.
2.2. Xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu về nguồn lợi thủy sản
Để quản lý nguồn lợi
thủy sản, cung cấp thông tin, dữ liệu nguồn lợi thủy sản tỉnh Đắk Lắk và tích
hợp vào Dữ liệu quốc gia về thủy sản làm cơ sở khoa học phục vụ công tác quản
lý, sử dụng nguồn lợi thủy sản bền vững, năm 2019, Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tỉnh Đắk Lắk đang được UBND tỉnh giao chủ trì thực hiện dự án xây
dựng hệ thống cơ sở dự liệu quản lý ngành hàng thủy sản tỉnh Đắk Lắk, với kinh
phí triển khai thực hiện 2,904 tỉ đồng.
3.
Ngăn chặn sự suy giảm nguồn lợi thủy sản
3.1. Tình hình khai
thác thủy sản
Ngành thủy sản trong
thời gian gần đây, đóng vai trò to lớn trong việc cung cấp thực phẩm, tạo việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển
kinh tế - xã hội, với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đã và đang
được tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ mới cho sản xuất.
Người dân đã và đang tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ nuôi
trồng cũng như khai thác thủy sản và xây dựng nhiều mô hình mới góp phần thúc
đẩy sự phát triển của ngành. Tuy nhiên khai thác quá mức không theo mùa vụ, sử
dụng các ngư cụ hủy diệt trong khai thác thủy sản, xây dựng thủy điện, môi trường
bị ô nhiễm đã làm cho nguồn lợi thủy sản ở một số thủy vực bị cạn kiệt nghiêm
trọng.
Hiện nay, trên địa
tỉnh có khoảng 2.200 lao động và 713 tàu cá có gắn máy và không có gắn máy (tàu
cá vỏ gỗ, tàu cá vỏ thép, tàu cá vỏ composite) tham gia vào khai thác thủy sản.
Các tàu cá có gắm máy tham gia vào khai thác thủy sản chủ yếu các thuyền có mã
lực nhỏ hơn 20 CV, số lượng tàu cá có dài từ 6 mét trở lên 72 chiếc chiếm 10%,
số tàu cá có chiều dài lớn nhất dưới 6 mét chiếm 90%.
Điều chỉnh cơ cấu
nghề khai thác theo hướng giảm dần và tiến đến cấm hẳn những nghề khai thác có
tính tận thu, tận diệt là định hướng được ngành thủy sản tỉnh đặt ra trong giai
đoạn tới. Nhằm giải quyết được vấn đề trước mắt là ngăn chặn sự giảm nguồn lợi
thủy sản và về lâu dài còn điều chỉnh cơ cấu sản phẩm khai thác được, góp phần
tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho ngư dân.
Trước tình trạng suy
giảm nguồn lợi thủy sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Lắk đã tham
mưu UBND tỉnh phê duyệt Đề án Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản tại các
thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn năm
2030 tại Quyết định số 676/QĐ-UBND ngày 11/3/2016 và kế hoạch triển khai thực
hiện đề án nêu trên tại Kế hoạch số 5241/KH-UBND ngày 28/6/2018. Theo Đề án tập
trung năng cao nhận thức người dân thả cá tái tạo nguồn lợi thủy sản, điều
chỉnh cơ cấu nghề nhằm khôi phục và nâng cao năng suất đánh bắt tiến hành theo
hướng giảm dần nghề khai thác gây xâm hại nguồn lợi, đồng thời duy trì và phát
triển những nghề có tính chọn lọc cao, thân thiện với môi trường.
3.2. Hoạt động tuần
tra, kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
Các đơn vị quản lý
chuyên ngành đã tổ chức 05 cuộc thanh tra về điều kiện kinh doanh thức ăn thủy
sản, điều kiện kinh doanh giống thủy sản; 01 cuộc thanh tra các quy định về sử
dụng chất nổ, xung điện, chất độc, ngư cụ có kích thước mắt lưới nhỏ trong khai
thác thủy sản. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty sản xuất,
kinh doanh thức ăn thủy sản có chất lượng không phù hợp với tiêu chuẩn đã công
bố với số tiền 3.225.000 đồng, xử phạt 01 cơ sở kinh doanh thức ăn hết hạn sử
dụng với số tiền 500.000 đồng.
- Bên cạnh đó, UBND
các huyện thị xã và thành phố cũng đã chỉ đạo các phòng ban chuyên môn liên
quan triển khai công tác thanh, kiểm tra việc sử dụng ngư cụ cấm Theo chức năng
nhiệm vụ cấp huyện: chẳng hạn như UBND huyện Lắk đã thành lập 02 Đoàn thanh tra
liên ngành nhằm thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong khai thác, đánh bắt
và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện. Kết quả thanh tra đã thu giữ và tháo
dỡ 40 ngư cụ để khai thác thủy sản (trong đó: Tháo dỡ 30 chồ lưới mắt nhỏ,
08 lồng vây bát quái và 02 bộ kích điện). Đoàn thanh tra liên ngành đã tiến
hành lập biên bản và tiêu hủy theo quy định với sự chứng kiến của chính quyền
địa phương và người dân. Ngoài ra, hàng tuần Phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn huyện Lắk đều phối hợp với UBND thị trấn Liên Sơn và các xã liên quan
tổ chức ra quân phục kích, truy quét việc đánh bắt bằng xung điện trên hồ Lắk.
Kết quả đã tịch thu, tiêu hủy 10 bộ kích điện cầm tay, thu giữ hơn 1.000 ngư cụ
cấm trong khai thác thủy sản…
3.3. Kết quả việc
thực hiện Quy chế phối hợp với lực lượng Công an, Biên phòng
Hàng năm, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn căn cứ vào kế hoạch phối hợp giữa Cục Cảnh sát
đường thủy và Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản về đảm bảo trật tự an
toàn giao thông, trật tự xã hội trong lĩnh vực thủy sản trên đường thủy nội địa
chỉ đạo cơ quan chuyên môn (Chi cục Thủy sản) phối hợp Phòng Cảnh sát giao
thông Công an tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện như: Năm 2019 ban
hành Kế hoạch phối hợp số 12/KHPH-CCTS-PCSGT ngày 20/5/2019; năm 2018 ban hành
Kế hoạch phối hợp số 430/KHPH -PCSGT -CCTS ngày 05/4/2018; năm 2017 ban hành Kế
hoạch phối hợp số 19/KH-CCTS ngày 04/8/2017… Kết quả chương trình phối hợp với
Công an tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức tuần tra kiểm soát trên lưu vực sông Krông Ana,
sông Srêpốk, hồ Lắk… đã phát hiện, tịch thu 10 bộ kích điện, 01 bộ lưới kéo, 01
bộ te điện, 10 bộ lưới bát quái tại huyện Lắk; phát hiện 02 vụ (02 đối tượng)
có hành vi sử dụng công cụ, phương tiện có tính chất hủy diệt để đánh bắt thủy
sản tịch thu 02 bộ ắc quy , 02 tụ chế kích điện, 02 cần dí điện phạt số tiền 6
triệu đồng tại huyện Krông Ana ; xử phạt 118 trường hợp vi phạm trong lĩnh vực
thủy sản khai thác nguồn lợi thủy sản với số tiền 17,7 triệu đồng
3.4. Cộng đồng tham
gia quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, môi trường sống của các loài thủy sản
và xây dựng nông thôn mới
Hiện nay, trên địa
bàn tỉnh có 07 mô hình Đồng quản lý nghề cá. Trong đó: Năm 1997, Dự án Mê Kông
(Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III) xây dựng 02 mô hình (Chi hội nghề cá
hồ Lắk và hồ Ea Súp); năm 2010, Chi cục Thủy sản phối hợp với Dự án Mê Kông
(Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III) xây dựng 02 mô hình (Chi hội nghề cá
Ea Wer, huyện Buôn Đôn và Chi hội nghề cá Buôn Trấp, huyện Krông Ana); phối hợp
với Chương trình FSPS II Đắk Lắk xây dựng 01 mô hình (Chi hội nghề cá Buôn
Triết, huyện Lắk); năm 2012, Chi cục Thủy sản phối hợp với Chương trình FSPS II
Đắk Lắk xây dựng 01 mô hình (Chi hội nghề cá Krông Búk, huyện Krông Pắk). Chi
hội nghề cá thôn 7 xã Cư Mlan (huyện Ea Súp) đã được thành lập năm 2021 và đang
hoạt động với 15 hội viên tham gia.
Chương trình MTQG xây
dựng Nông thôn mới: Năm 2017, Chi cục xây dựng mô hình hỗ trợ phát triển sản
xuất chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ giống thủy sản, tại huyện Ea Kar và
Tp. Buôn Ma Thuột cho 20 hộ dân (xã Cư Ni, huyện Ea Kar: 07 hộ; xã Ea kao,
xã Hòa Khánh: 13 hộ).
4.
Bảo tồn, bảo vệ hệ sinh thái thủy sinh và loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm
Để kịp thời ngăn chặn
khai thác đánh bắt các loài thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng: Để ngăn
chặn khai thác, đánh bắt các loài thủy sản quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định
số 05/2011/QĐ-UBND , ngày 21/01/2011 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về
một số khu vực, hình thức, ngư cụ, đối tượng thủy sản cấm khai thác và kích
thước tối thiểu của các loài thủy sản được phép khai thác trong các vùng nước
tự nhiên trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 38/2021/QĐ-UBND về việc sửa đổi bổ
sung Quyết định số 05/2011/QĐ-UBND , ngày 21/01/2011 của UBND tỉnh.
5.
Phục hồi tái tạo nguồn lợi thủy sản và các hệ sinh thái
5.1. Công tác thả
giống tái tạo nguồn lợi thủy sản (giai đoạn 2012 - 2020)
Nhằm phục hồi và tái
tạo nguồn lợi thủy sản đã bị khai thác cạn kiệt của các thủy vực, đồng thời góp
phần nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư sinh sống bằng nghề khai thác xung
quanh các thủy vực, hàng năm tỉnh Đắk Lắk đều triển khai Chương trình thả cá bổ
sung tái tạo nguồn lợi thủy sản từ năm 2012 đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh đã
thả được 1.447.533 con cá giống xuống các thủy vực trên địa bàn tỉnh. Trong đó
Tổng cục Thủy sản thả được 42.500 con, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn
thả được 539.350 con, UBND các huyện thị xã thành phố thả 490.683 con, các cá
nhân tổ chức khác thả được 375.000 con. Có bảng biểu thống kê cụ thể:
Bảng
7. Thống kê số lượng thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2012-2020
Năm
|
Thủy
vực thả
|
Đối
tượng thả
|
Kết
quả thực hiện thả cá (con)
|
Kinh
phí thực hiện (triệu đồng)
|
Tổng
cục
Thủy sản
|
Sở
Nông nghiệp và PTNT
|
Huyện,
thị xã, thành phố
|
Khác
(của các tổ chức cá nhân…)
|
Tổng
cục Thủy sản
|
Sở
Nông nghiệp và PTNT
|
Huyện,
thị xã, thành phố
|
Khác (của các tổ chức
cá nhân…)
|
2012
|
- Các hồ: Ea King, Ea
Kiar, Ea Siăk, Ea Mlung, Ea Kung, Ea Mur, Ea Brơ I, II, Buôn Rừng Điếc, Krông
Ana, Ea Tuk, Đạt Hiếu, An Bình, Thủy Điện, Chế Biến, Ea Kang, Vườn Ươm, Yang
Re'h, Ea Súp Hạ, Ja Lơi, Buôn Dhiă, Lắk, Buôn Triết, Dốc Võng, Buôn Phơng
- Các Đập: Đập 3,
Ea Nuôi, Ea Đrơng, Ea Rếch, Cư Păm
- Sông Krông Ana
|
Trắm,
chép, mè, thát lát, rô phi, trôi
|
|
68.000
|
60.505
|
64.000
|
|
170
|
150
|
96
|
2013
|
- Các hồ: Yang
Re'h, Ea súp Hạ, Lắk, Buôn Triết, Đạt Hiếu, Buôn Trưng, Ea Drăng,
- Sông Krông Ana,
Srêpốk,
|
Trắm,
chép, mè, trôi, thát lát
|
|
129.650
|
|
63.000
|
|
345
|
|
72
|
2014
|
- Các hồ: Buôn
Triết, Ea Drăng, Cư Pơng, Ea Súp Hạ, Ea King, Ea Brơ, Đạt Hiếu, Yang Re'h,
- Sông Krông Ana,
Srêpốk, Đập: Buôn Rang, Ea Kđoh
|
Trắm,
chép, mè, trôi, thát lát
|
|
37,000
|
31.300
|
57.000
|
|
100
|
75
|
60
|
2015
|
- Các hồ: Yang Réh,
Ea Ring, Ea Hu, Ea Súp Hạ, Buôn Triết Lắk, Ea Đrai, Buôn Trưng
- Các Bầu: Dài, Dọp
Các Đập: Dang Kang Hạ, An Ninh
- Sông: Krông Ana,
Serêpốk
|
Trắm,
chép, mè, trôi, thát lát, chach bùn, Rôphi…
|
|
73.600
|
39.550
|
130.000
|
|
180
|
100
|
180
|
2016
|
- Các hồ: Ea Súp
hạ, Ea Nhái, Đrang Phốk, Thủy điện Srêpốk 3, Lắk, Buôn Triết,
- Sông Krông Ana
|
Trắm,
trôi, mè, chép, thát lát, cá lang nha
|
23.500
|
55.500
|
|
|
200
|
137,7
|
|
|
2017
|
Các hồ: Buôn Triết,
Lắk, Sen, Ea Súp hạ, thủy điện SrêPốk 3,
- Sông Krông Ana
|
Trắm,
trôi, mè, chép, thát lát, cá lang nha
|
19.000
|
36.500
|
62.908
|
25.000
|
200
|
87
|
153,6
|
60
|
2018
|
Hồ Ea Kar, hồ Lắk,
hồ Buôn Triết, Hồ Sen, hồ Thủy điện Srêpốk 3, hồ Thủy điện Srêpốk 4…
|
Trắm,
trôi, mè chép,
|
|
52.500
|
109.420
|
|
|
129
|
309
|
|
2019
|
Hố Ea Kar, hồ Lắk,
Hồ Buôn Triết, sông Krông Ana, sông Srêpôk, hồ thủy điện Srêpốk 3…
|
Trắm
trôi mè chép cá lăng đuôi đỏ, cá thát lát
|
|
36.600
|
131.000
|
16.000
|
|
164
|
396
|
40
|
2020
|
Hồ thủy điện Srêpố
k 4, Hồ Buôn Triết, Hồ Ea Drăng, sông K rông Ana…
|
Trắm
trôi mè chép cá lăng đuôi đỏ, cá thát lát
|
|
50.000
|
56.000
|
20.000
|
|
180
|
170
|
45
|
Tổng
cộng
|
42.500
|
539.350
|
490.683
|
375.000
|
400
|
1.492,7
|
1.353,6
|
553
|
(Nguồn:
Báo cáo Chi cục Thủy sản tỉnh và Phòng Nông nghiệp và PTNT các huyện,2020)
5.2. Công tác phối
hợp Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đắk Lắk
Nhằm góp phần bảo vệ
môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn và tái tạo các loài thủy sản có
giá trị kinh tế, ngăn chặn, giảm thiểu sự phát tán những loài thủy sản ngoại
lai xâm hại ra môi trường; chủ động cung cấp và vận động tăng ni, phật tử,
người dân thả phóng sinh những loài thủy sản hữu ích cho môi trường sinh thái
ngày 9/6/2017 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tỉnh đã ký kết ban hành Bản ghi nhớ hợp tác thả giống phóng sinh
bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh và ban hành Kế hoạch phối hợp số 1139/KHPH-SNN-GHPG
ngày 22/6/2017 để triển khai, thực hiện một số nhiệm vụ về thả giống phóng sinh
bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Để nâng cao nhận
thức, ý thức trách nhiệm của các tăng ni, phật tử và người dân về bảo vệ môi
trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn và tái tạo các loài thủy sản có giá
trị kinh tế; gắn với quản lý có hiệu quả các hoạt động khai thác thủy sản nhằm
phát triển ngành khai thác thủy sản nội đồng bền vững, giữ gìn tính đa dạng
sinh học của vùng nước nội đồng. Từ năm 2017 đến nay Giáo hội Phật giáo Việt
Nam tỉnh Đắk Lắk đều phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham
gia vào các dịp lễ thả cá bổ sung tái tạo nguồn lợi thủy sản, đồng thời bố trí
thả phóng sinh tái tạo được hơn 16.000 con cá giống các loài với kinh phí thả
giống hơn 40 triệu đồng
5.3. Công tác khôi
phục và bảo vệ môi trường sống các loài thủy sản
Để triển khai thực
hiện bảo vệ các bãi đẻ của cá, nơi tập trung các loài thủy sản còn non, nơi cư
trú của các loài thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Đắk Lắk đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 05/2011/QĐ-UBND ,
ngày 21/01/2011 của UBND tỉnh và triển khai Quyết định số 38/2020/QĐ-UBND ngày
17/12/2020 về việc ban hành quy định về một số khu vực, hình thức, ngư cụ, đối
tượng thủy sản cấm khai thác và kích thước tối thiểu của các loài thủy sản được
phép khai thác trong các vùng nước tự nhiên trên địa bàn tỉnh.
5.4. Về khoa học công
nghệ và khuyến ngư
Trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk có 05 cơ sở trại sản xuất nhân tạo giống thủy sản nước ngọt (Công ty Cổ
phần Thủy sản Đắk Lắk 04 cơ sở và Công ty TNHH MTV An Trang) và một số cơ sở
sản xuất nhỏ lẻ khác. Tuy nhiên các cơ sở sản xuất giống trên địa bàn tỉnh chủ
yếu tập trung và sản xuất các loại giống thủy sản truyền thống như cá trắm,
trôi, mè, chép, thát lát ...Các loài thủy sản có giá trị kinh tế, bản địa (cá
lăng đuôi đỏ, chạch bùn ...) chủ yếu lấy giống từ các địa phương khác về để
thực hiện thả cá tái tạo nguồn lợi thủy sản
Người dân trên địa
bàn tỉnh chủ yếu là khai thác thủy sản bằng nghề khai thác thủy sản truyền
thống. Tuy nhiên để thúc đẩy phát triển thủy sản tại các thủy vực sông, hồ chứa
theo quan điểm bền vững bao gồm phát triển nguồn lợi tự nhiên kết hợp với gây
nuôi các loài thủy sản có chất lượng cao tạo ra sản phẩm hàng hóa tập trung, đa
dạng. Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ sản xuất mới trong
việc nuôi thủy, đặc sản trong thủy vực. Năm 2019 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Đắk Lắk đã tổ chức 06 lớp tập huấn kỹ Nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn
VietGAP cho các tổ chức cá nhân với 145 lượt người tham gia.
Bên cạnh đấy, hiện
nay trên địa bàn tỉnh đã và đang triển khai một số chương trình nghiên cứu khoa
học nhằm bảo vệ nguồn gen của một số loài cá có nguy cơ tuyệt chủng nằm trong
sách đỏ Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nhằm tái tạo lại các đối tượng có
nguy cơ tuyệt chủng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để thả cá tái tạo ra các thủy vực
tự nhiên. Một số đề tài tiêu biểu được liệt kê như sau:
- Đề tài quỹ gen
“Thuần hóa và nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo cá ngựa xám trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk”
+ Cơ quan chủ trì: Bộ
Khoa học và Công nghệ
+ Cơ quan thực hiện
đề tài: Trung tâm quốc gia giống nước ngọt Miền trung thuộc Viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản III
+ Cá nhân chủ nhiệm
đề tài: TS Phan Đinh Phúc
Cá ngựa xám có thịt
thơm ngon, giá trị kinh tế cao, được thị trường rất ưa chuộng. Hiện nay do khai
thác quá mức nên loài này giảm sút cả về sản lượng và khối lượng của cá thể
trong quần đàn. Do đó, các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy
sản III đã tiến hành nghiên cứu này nhằm làm cơ sở cho việc thuần hóa và khai
thác nguồn gen cá ngựa xám là việc làm hết sức cần thiết và cũng là mục tiêu
của nghiên cứu này.
- Đề tài khoa học
“Nghiên cứu sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá Chiên Lăng”
+ Cơ quan chủ trì: Sở
Khoa học và Công nghệ Đắk Lắk
+ Cơ quan thực hiện:
Công ty cổ phần Yang Hanh
+ Cá Nhân chủ nhiệm
đề tài: KS Nguyễn Đức Quyền
Xác định được mức độ
nghiêm trọng trong việc bảo tồn nguồn gien và xây dựng quy trình sản xuất giống
để tái tạo nguồn lợi cá chiên tự nhiên. Sở Khoa học và Công nghệ đã triển khai
đề tài Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá chiên trên địa bàn
tỉnh do Công ty cổ phần Yang Hanh (huyện Krông Bông) thực hiện trong thời gian
45 tháng. Trong đó, chú trọng việc nghiên cứu sản xuất nhân tạo giống cá chiên,
cụ thể: tập trung thuần dưỡng cá bố, mẹ; nghiên cứu sinh sản nhân tạo và ấp
trứng; nghiên cứu ương nuôi từ cá bột lên cá hương, từ cá hương lên cá giống và
nghiên cứu nuôi cá chiên thương phẩm trong ao đất, lồng bè trên mặt nước tĩnh.
- Đề tài quỹ gen
“thuần hóa và nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo cá Mõm Trâu trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk”
+ Cơ quan chủ trì: Sở
Khoa học và Công nghệ Đắk Lắk
+ Cơ quan thực hiện
đề tài: Trung tâm quốc gia giống nước ngọt Miền Trung thuộc Viện nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản III
+ Cá nhân thực hiện
đề tài: Ths Phan Thị Lệ Anh
Việc hoàn thành công
trình nghiên cứu, sản xuất giống cá Mõm trâu đưa vào nuôi đại trà sẽ góp phần
chủ động về con giống, hạn chế tình trạng đánh bắt trong tự nhiên; đồng thời mở
ra nhiều cơ hội cho nghề nuôi trồng thủy sản của địa phương. Hiện nay, thực
hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi tỷ lệ cơ cấu
đàn giống nuôi từ cá truyền thống (trắm, trôi, mè, chép) sang những loại cá có
giá trị kinh tế cao, trong đó các loài cá như: Mõm trâu, Chình hoa, Trà sóc. Đây
sẽ là tiền đề hướng đến việc tạo ra một sản phẩm thủy sản đặc trưng vùng miền
mang giá trị kinh tế cao theo chương trình mục tiêu quốc gia mỗi xã một sản
phẩm - OCOP.
Ngoài ra, Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản III cũng triển khai “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, thử
nghiệm nuôi thuần hóa và sản xuất giống cá Rô cờ tại tỉnh Đắk Lắk” từ năm 2017-
2020 do Ths Phan Thị Lệ Anh làm chủ nhiệm. Theo báo cáo kết quả của đề tài, cá
rô cờ là loài cá đặc hữu của lưu vực sông Mekong. Tại tỉnh Đắk Lắk, các rô cờ
phân bố ở lưu vực sông Srêpốk thuộc địa phận huyện Buôn Đôn và Ea Súp. Mục tiêu
của đề tài là xác định một số đặc điểm sinh học, đánh giá khả năng nuôi thuần
hóa và khả năng sinh sản nhân tạo của cá rô cờ. Theo đó, nội dung nghiên cứu
chính của đề tài là nghiên cứu đặc điểm sinh học, thử nghiệm nuôi thuần hóa
trong điều kiện nhân tạo và thử nghiệm sản xuất cá giống.
Những chương trình
nghiên cứu khoa học kể trên đã góp phần tích cực vào công tác phát triển và xây
dựng chiến lược phát triển nguồn lợi thủy sản của tỉnh nhà.
6. Công tác tuyên
truyền, tập huấn nâng cao nhận thức
Để tăng cường công
tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản ngoài việc tham mưu, ban hành các
văn bản hướng dẫn, thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
sản và thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản, từ năm 2012 đến nay Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn còn tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cán bộ và
người dân trên địa bàn tỉnh thông quan các hoạt động như: Biên soạn in ấn và
phát hành được 27.000 tờ rơi tuyên truyền pháp luật thủy sản; xây dựng được 27
bảng pano tuyên truyền pháp luật thủy sản và tiến hành sửa chữa 20 bảng pano
tuyên truyền pháp luật thủy sản bị hư hỏng xuống cấp; tổ chức 67 lớp tập huấn,
phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thủy sản và các quy định bảo vệ nguồn lợi
thủy sản cho khoảng 2.947 lượt người tham gia; xây dựng và phát sóng 02 phóng
sự trên Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Đắk Lắk về tác hại khai thác thủy
hủy diệt và công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Bảng
8. Công tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao nhận thức
Năm
thưc hiện
|
Nội
dung thực hiện
|
Số
lượng
|
Ghi
chú
|
2012
|
Xây dựng pano tuyên
truyền pháp luật thủy sản
|
6
bảng
|
|
In ấn phát hành tờ
rơi pháp luật thủy sản
|
27.000
tờ
|
|
Tập huấn phân tích
đánh giá nguồn lợi thủy sản và quản lý khai thác
|
01
lớp
|
30
lượt người tham gia
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
01
lớp
|
30
lượt người tham gia
|
2013
|
Xây dựng pano tuyên
truyền pháp luật thủy sản
|
08
bảng
|
|
Phổ biến nâng cao
nhận thức cộng đồng về các quy định bảo vệ nguồn lợi thủy sản
|
04
lớp
|
200
lượt người tham gia
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
15
lớp
|
750
lượt người tham gia
|
2014
|
Xây dựng, sửa chữa
pano tuyên truyền pháp luật thủy sản:
- Xây mới
- Sửa chữa
|
01
bảng
08
bảng
|
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
03
lớp
|
150
lượt người tham gia
|
2015
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
04
lớp
|
172
lượt người tham gia
|
2016
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
05
lớp
|
250
lượt người tham gia
|
Xây dựng, sửa chữa
pano tuyên truyền truyền pháp luật thủy sản
- Xây mới
- Sửa chữa
|
02
bảng
04
bảng
|
|
2017
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản
|
02
lớp
|
100
lượt người tham gia
|
Xây dựng, sửa chữa
pano tuyên truyền truyền pháp luật thủy sản
- Xây mới
- Sửa chữa
|
03
bảng
05
bảng
|
|
2018
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản và các quy định về bảo vệ, phát triển nguồn
lợi thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức 03 lớp với 160 lượt người
Tổng cục tổ chức 01 lớp với 39 lượt người tham gia)
|
04
lớp
|
199
lượt người tham gia
|
Xây dựng, sửa chữa
pano tuyên truyền truyền
- Xây mới
- Sửa chữa
|
01
bảng
03
bảng
|
|
Xây dựng, phát sóng
phóng sự tác hại khai thác thủy sản hủy diệt
|
20
phút
|
|
2019
|
Phổ biến triển khai
các văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản và các quy định về bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản
|
21
lớp
|
716
lượt người
|
Xây dựng pano tuyên
truyền pháp luật thủy sản
|
03
bảng
|
|
Xây dựng, phát sóng
phóng sự về công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh
|
15
phút
|
|
2020
|
Xây dựng pano tuyên
truyền pháp luật thủy sản
|
03
bảng
|
|
Phổ biến triển khai
các quy định về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
|
07
lớp
|
dự
kiến 350 lượt người tham gia
|
7. Nguồn lực thực
hiện công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
Hiện nay, Chi cục
Thủy sản Đắk Lắk là cơ quan chuyên ngành về thủy sản trực thuộc Sở Nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk. Hiện nay Chi cục Thủy sản Đắk Lắk có 13
công chức, 03 hợp đồng lao động. Trong đó, Chi cục Thủy sản có hai phòng chuyên
môn là Phòng Hành chính tổng hợp và Phòng Quản lý thủy sản. Từ năm 2011 - 2020
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được bố trí kinh phí thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ và phát triển nguồn nguồn lợi thủy sản là: 6.269,2 tỉ đồng.
8. Thuận lợi khó khăn
thực hiện Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2011
đến năm 2020
8.1. Thuận lợi
Trong thời gian vừa
qua được sự quan tâm của các cấp, các ngành do đó hoạt động thả cá bổ sung
nguồn lợi thủy sản được triển khai rộng rãi đến các huyện, thị xã, thành phố
Hàng năm, đều bố trí
kinh phí để triển khai hoạt động thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản; mở các lớp
tập huấn, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực thủy sản; in ấn và phát
hành tờ rơi về tác hại của việc sử dụng ngư cụ hủy diệt; xây dựng, sửa chữa và
bảo dưỡng pano tuyên truyền bảo vệ nguồn lợi thủy sản và các quy định cấm trong
khai thác thủy sản....
Các hoạt động như tập
huấn, tuyên truyền, phổ biến văn bản QPPL về lĩnh vực thủy sản; in phát hành tờ
rơi tuyên truyền; xây dựng, lắp đặt các bảng Pano tuyên truyền về lĩnh vực thủy
sản…được triển khai rộng rãi và song song với hoạt động thả cá bổ sung nguồn
lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh nên nhận thức của người dân được nâng cao rõ
rệt.
Vùng sinh thái hồ
chứa với môi trường nước thông thoáng, các thông số về chỉ tiêu chất lượng nước
nằm trong phạm vi cho phép đối với động vật thủy sinh sinh trưởng và phát
triển.
Nguồn lao động của
tỉnh dồi dào, nhiệt tình và ham học hỏi với phần lớn là lao động trong ngành
nông nghiệp cũng là nguồn lao động bổ sung và kiêm nuôi trồng thủy sản, khai
thác thủy sản
8.2. khó khăn
Hiện nay, tình hình
sử dụng ngư cụ cấm khai thác thủy sản vẫn đang diễn ra. Tuy nhiên thời gian gần
đây được sự quan tâm các cấp, các ngành về công tác kiểm tra xử lý nghiêm minh
về vấn đề sử dụng ngư cụ cấm khai thác để khai thác nguồn lợi thủy sản, cũng
như tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản nên vấn đề sử dụng ngư cụ cấm khai thác thủy sản có
chiều hướng giảm dần.
Chính quyền địa
phương đặc biệt là cấp xã chưa thật sự quan tâm về công tác kiểm tra, xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, do đó vẫn để xảy ra hiện trạng sử dụng
ngư cụ cấm khai thác tại một số địa phương.
Công tác an ninh tuần
tra và xử lý các vi phạm về chế tạo và sử dụng các ngư cụ khai thác hủy diệt để
khai thác thủy sản chưa được triển khai thường xuyên.
Địa hình phức tạp,
khó quản lý, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm đa số nên gặp khó khăn trong việc tuyên truyền, vận động các chính sách
của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước
VII. CÁC YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN TẠI CÁC THỦY VỰC
Trong những năm gần
đây, nguồn lợi thủy sản nói chung hay nguồn lợi cá tự nhiên nói riêng bị giảm
sút nghiêm trọng do những nguyên nhân sau:
1. Khai thác thủy sản
quá mức
Việc cải tiến các
phương tiện khai thác, sự gia tăng số lượng người đánh bắt và trình độ khai
thác của người dân được nâng lên đã dẫn đến tình trạng khai thác triệt để nguồn
lợi thủy sản trên hầu hết các thủy vực tự nhiên ở tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là
trên các hệ thống sông. Đa số các loài thủy sản hiện nay đang bị khai thác quá
khả năng phục hồi của chính quần thể của chúng. Các loài bị khai thác nhiều
nhất là các loài tôm cá có giá trị kinh tế cao và quần thể của chúng có mức độ
tập trung cao trong mùa di cư sinh sản hay kiếm ăn như: Cá Lăng, Cá Trà sóc,
tôm càng ao.... Bên cạnh đó, việc khai thác các loài thủy sản ở tất cả các kích
cỡ và ở mọi thời điểm trong năm làm nguồn lợi giảm sút nghiệm trọng. Đắk Lắk
hiện có hơn 42.000 ha diện tích mặt nước, trong đó mặt nước lớn (trên 5 ha) là
21.500 ha, gồm các hồ tự nhiên, hồ chứa thủy lợi, hồ thủy điện; mặt nước nhỏ
(nhỏ hơn 5 ha) là 3.000 ha, gồm đập dâng, ao gia đình; ruộng trũng có khả năng
nuôi cá mùa vụ là 8.500 ha; sông suối lớn tổng diện tích mặt nước là 9.000 ha.
Theo đó, số loài cá trong tự nhiên rất phong phú với sản lượng khá lớn, có
nhiều loài cá là đặc sản bản địa như: lăng đuôi đỏ, thát lát, sọc dưa, mõm
trâu… Tuy nhiên, theo đánh giá của Chi cục Thủy sản, từ năm 2010 đến nay, nguồn
lợi thủy sản trong tự nhiên suy giảm nghiêm trọng, sản lượng khai thác chỉ đạt
khoảng 30% so với trước đây, cụ thể như tại hồ Lắk, trước kia mỗi ngày người
dân địa phương có thể đánh bắt từ 50 kg cá thát lát trở lên nhưng hiện nay chỉ
khai thác được 10-15 kg/ngày, nguồn nguyên liệu làm chả cá chủ yếu lấy từ các
huyện khác hoặc từ miền Tây. Bên cạnh đó, kích cỡ của các đối tượng khai thác
ngày càng nhỏ, số lượng cá nằm thuộc diện báo động trong sách đỏ của Việt Nam
ngày càng tăng. Nếu trước năm 2010 chỉ có 2 loài là cá sấu siêm và sọc dưa thì
đến nay đã tăng thêm 3 loài, gồm: cá còm, ngựa xám, cá chiên. Do sự suy giảm
nguồn lợi nên số lượng người làm nghề khai thác cũng giảm nhiều hoặc chuyển đổi
sang nghề khác.
2. Môi trường nước bị
ô nhiễm
Trong thời gian các
năm trở lại đây cùng với sự phát triển của xã hội và sự xuất hiện của các nhà
máy chế biến (cao su, cà phê, đường...), các khu công nghiệp, việc sử dụng các
loại thuốc bảo vệ thực vật và phân bón vô cơ trong nông nghiệp, nước thải sinh
hoạt đã làm ô nhiễm nguồn nước của các thủy vực gây ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy
sản. Trên một số khu vực đã xuất hiện tình trạng cá bị bệnh và chết hàng loạt.
Các chất thải trên cũng đã làm thay đổi phần lớn các chế độ thủy lý hoá thông
thường ở các thủy vực. Hiện nay, ở các vùng ngoại ô thành phố, chăn nuôi gia
súc gia cầm từ quy mô nhỏ lẻ theo nông hộ đến trang trại đang diễn ra tràn lan,
phổ biến, không có quy hoạch. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm nhưng chưa xây
dựng được hệ thống xử lý chất thải phù hợp đã khiến tình trạng ô nhiễm môi
trường nước ngày càng trở nên trầm trọng. Thêm vào đó, việc sử dụng phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt, việc nhiễm bẩn từ bể phốt, chất thải
công nghiệp… cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm đất và nguồn nước ngầm; về lâu dài
việc sử dụng nguồn nước này trong sinh hoạt, đặc biệt là dùng trong ăn uống sẽ
vô cùng nguy hiểm. Ngoài ra, dân số tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn sẽ tiềm ẩn
nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường do các tác động từ chất thải sinh hoạt của
người dân gây ra, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ sinh thái và nguồn lợi thủy sản
nói chung và trong nội đồng nói riêng. Đặc biệt là tình trạng lấn chiếm và đô
thị hóa các tỉnh là một trong những nguyên nhân chính làm mất hệ sinh thái
nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững
nghề cá trong thời gian vừa qua.
3. Nơi ở của các loài
thủy sinh vật bị phá hủy
Hoạt động ngăn dòng
tạo hồ thủy lợi và các công trình thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy của các
dòng sông gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của các loài thủy sinh vật. Một
số loài thủy sinh vật thích nghi với nguồn nước chảy, hàm lượng oxi cao... sẽ
không còn nơi ở thích hợp khi các hồ chứa hoặc các công trình thủy điện được
hình thành. Hơn nữa, nhiều cá có tập tính di cư sinh sản lên thượng nguồn sẽ
không thể di cư sinh sản bởi đường đi của chúng đã bị chặn. Việc xây dựng các
nhà máy thủy điện trên các dòng sông, nhất là sông Srêpốk cũng góp phần làm suy
giảm nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh, vì các loài cá bản địa ở hệ thống
sông Mê Kông thường di chuyển lên đầu nguồn để sinh sản, nhưng các nhà máy thủy
điện đã chặn dòng khiến cá không di chuyển đến đẻ trứng được.
4. Sự cạn kiệt nguồn
dinh dưỡng trong các thủy vực
Rừng, đặc biệt là
rừng đầu nguồn bị tàn phá là nguyên nhân chính dẫn đến sự cạn kiệt nguồn dinh
dưỡng trong các thủy vực. Phần lớn các hợp chất hữu cơ có hoặc được bổ sung
hàng năm trong các thủy vực là từ nguồn mùn bã của thảm thực vật chết từ thượng
nguồn. Do vậy, việc hàng nghìn ha rừng bị phá hủy mỗi năm đã ảnh hưởng không
nhỏ đến nguồn dinh dưỡng của nhiều thủy vực hiện nay.
5. Phương tiện và ngư
cụ khai thác thủy sản không hợp lý
Số người khai thác
tăng cộng với việc sử dụng các ngư cụ khai thác mang tính hủy diệt như chất
độc, mìn, dí điện và các ngư cụ có mắt lưới nhỏ đã làm nguồn lợi thủy sản ngày
càng cạn kiệt. Một trong những công cụ khai thác phổ biến hiện nay là dí điện.
Loại phượng tiện này tỏ ra rất hiệu quả trong khai thác vì nó có thể khai thác
được hầu hết các loại cá ở mọi kích cỡ. Bên cạnh đó chúng còn có sức tàn phá
lớn đối với môi trường. Vì ngoài cá, khi sử dụng để khai thác chúng còn giết
hàng nghìn ấu trùng và trứng của các loài thủy sinh khác. Những người dân sống
bằng nghề khai thác thủy sản quanh các thủy vực sông, hồ (đa phần là dân nghèo,
có thu nhập thấp) đã sử dụng những phương pháp đánh bắt bằng các ngư cụ hủy
diệt và khai thác không theo mùa vụ, nhất là vào mùa sinh sản của cá trên các
thủy vực. Ngoài ra ở một số đoạn sông, tình trạng sử dụng cây thuốc để khai
thác cá vẫn còn.
6. Công tác quản lý
nhà nước về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
Hiện nay, các cơ quan
chức năng chưa quan tâm đúng mức quản lý, bảo vệ các loài thủy sản, thủy sinh
trong các thủy vực, nhất là sông suối. Mặc dù Nhà nước đã ban hành Luật Thủy
sản và các Nghị định, Nghị quyết liên quan nhưng việc áp dụng chúng tại các địa
phương là rất hạn chế và hầu như chưa được quan tâm.Nhằm bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản, Chi cục Thủy sản thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, triển
khai thực hiện các chỉ thị của UBND tỉnh về việc nghiêm cấm hành vi hủy diệt
trong khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trên địa bàn tỉnh có 07 Chi
hội nghề cá hoạt động khai thác thủy sản với hơn 160 hội viên. Các Chi hội nghề
cá trên địa bàn tỉnh cũng thường xuyên tổ chức các đợt tuần tra, kiểm soát bảo
vệ nguồn lợi thủy sản nhằm ngăn chặn các hành vi khai thác thủy sản bất hợp
pháp, sử dụng các ngư cụ cấm, ngư cụ hủy diệt để khai thác thủy sản. Từ khi
thành lập chi hội Nghề cá, nhận thức của các ngư dân đã thay đổi rõ rệt, nhất
là về cách khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong hồ. Từ đó hiệu quả kinh
tế mang lại cho mọi người rất đáng kể, các hội viên hầu như đều có thu nhập ổn
định. Việc bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản đã giúp cho môi trường sinh thái
không bị hủy hoại. Việc tái tạo nguồn lợi thủy sản còn có ý nghĩa quan trọng,
giúp cho các hộ dân sinh sống bằng nghề khai thác thủy sản ở đây cải thiện đời
sống, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
7. Dân trí và nhận
thức của ngư dân đối với khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk có nhiều thành phần dân tộc sinh sống (49 dân tộc anh em) với những phong
tục tập quán khác nhau, trình độ học vấn thấp đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
khai thác và bảo vệ nguồn loại thủy sản. Đa số ngư dân vẫn gặp khó khăn để có
nhận thức đúng đắn về tình trạng khai thác quá mức hiện nay như tình trạng khai
thác trái phép, khai thác quá mức bất kể đối tượng, kích cỡ,... vi phạm các qui
định của pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Vì cuộc sống và
sinh kế của người dân, không khai thác đồng nghĩa người dân sẽ không đảm bảo
cuộc sống vì vậy người dân vẫn khai thác nhằm đảm bảo cuộc sống hàng ngày, đây
là một thực tế cần được giải quyết tốt trong thời gian tới thông qua các cơ chế
chính sách và biện pháp quản lý nghề cá tốt, hướng đến nghề cá phát triển ổn
định, bền vững và hiệu quả.
VIII. ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN TÁI CƠ CẤU NGÀNH THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2015-2019 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK LẮK
1.
Quan điểm phát triển
- Tái cơ cấu ngành thủy
sản là một lĩnh vực trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái
cơ cấu nền kinh tế của Đắk Lắk; phát huy lợi thế vị trí địa lý, nguồn lực về tự
nhiên, kinh tế - xã hội để phát triển nông nghiệp gắn với vùng Tây Nguyên, vùng
Duyên hải Nam Trung bộ và tham gia hội nhập quốc tế.
- Phát triển công
nghiệp chế biến và dịch vụ làm nền tảng để tăng đầu tư hỗ trợ phát triển nông
nghiệp nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, ổn định xã hội, bảo vệ
môi trường và cảnh quan.
- Lấy con người và
khoa học công nghệ là động lực cho phát triển thủy sản nói riêng và nông nghiệp
nói chung. Khai thác tiềm năng lợi thế của con người Đắk Lắk về sự cần cù,
trình độ, năng động, tinh thần doanh nhân trong sản xuất và thương mại sản
phẩm.
- Tái cơ cấu ngành
thủy sản theo hướng phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô
lớn, có lợi thế, có thị trường. Tập trung, ưu tiên hỗ trợ các ngành hàng chủ
lực theo chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ và quy mô lớn, kết hợp hài
hòa giữa nghiên cứu tạo công nghệ cao với ứng dụng để tạo ra sản phẩm nông
nghiệp hàng hóa có năng suất, chất lượng an toàn sinh học và khả năng cạnh
tranh.
- Tái cơ cấu là một quá
trình phức tạp, khó khăn và lâu dài cần được thường xuyên đánh giá, tổng kết,
rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế. Vì vậy, cần xây dựng một hệ
thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông tin phản hồi của các bên liên quan.
- Tái cơ cấu ngành
thủy sản tỉnh Đắk Lắk phải gắn với xây dựng nông thôn mới, phù hợp với điều
kiện từng vùng, từng lĩnh vực để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội.
2.
Mục tiêu phát triển
Thực hiện tái cơ cấu
một số sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản gắn với xây dựng nông thôn mới, tập
trung ưu tiên ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao vào sản
xuất; đổi mới tổ chức sản xuất, đẩy mạnh liên kết, phát triển thương mại - dịch
vụ nông sản nhằm phát triển chuỗi giá trị thủy sản nói riêng và ngành nông
nghiệp nói chung hiện đại có giá giá trị gia tăng cao, an toàn, bền vững và khả
năng cạnh tranh của các sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản; đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng và xuất khẩu. Nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống cho dân cư nông thôn; quản lý tốt các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ
môi trường sinh thái và ứng phó hiệu quả với BĐKH.
3.
Kết quả thực hiện tái cơ cấu ngành thủy sản giai đoạn 2015-2019
3.1. Tuyên truyền,
phổ biến và quán triệt nội dung của Đề án:
- Quán triệt đến cán
bộ, công chức qua các cuộc họp định kỳ cơ quan và giao nhiệm vụ cụ thể cho các
Phòng trực thuộc bám sát nội dung tái cơ cấu lĩnh vực thủy sản đề tham mưu đề
xuất nhiệm vụ chuyên môn, chương trình, dự án hàng năm của đơn vị.
- Lồng ghép nội dung
tại các lớp tập huấn kỹ thuật, tập huấn tuyên truyền văn bản QPPL; tập huấn
VietGAP để phổ biến đến người dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp hoạt
động về lĩnh vực thủy sản trên địa bàn tỉnh nắm bắt được nội dung, mục đích,
phương hướng, nhiệm vụ của việc tái cơ cấu ngành, để có những định hướng đầu tư
sản xuất trong lĩnh vực thủy sản.
- Khi làm việc với cơ
quan tuyên truyền (báo trí, truyền hình) và các cuộc Hội thảo tiếp xúc
doanh nghiệp, kêu gọi đầu tư về lĩnh vực thủy sản trên địa bàn tỉnh, Chi cục
luôn xác định các nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiến trong đề án tái cơ cấu làm tiêu
chí trong quá trình làm việc.
3.2. Nâng cấp chất
lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch thủy sản
Căn cứ Quyết định
Quyết định số 3193/QĐ-UBND, ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Quy
hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, Chi cục đã tham
mưu Sở Nông nghiệp và PTNT ban hành kế hoạch hành động cụ thể trình UBND tỉnh
phê duyệt triển khai các chương trình, dự án ưu tiên nhằm thúc đẩy lĩnh vực
thủy sản trên địa bàn tỉnh phát triển, đến nay đã đạt được một số kết quả cụ
thể như sau:
a. Về sản xuất thủy
sản:
Chỉ tiêu cơ bản: Diện
tích, sản lượng, khai thác và hậu cần dịch vụ trong thủy sản đều đạt so với các
nội dung trong Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Đắk Lắk đến năm
2020. Bên cạnh đó sự chuyển biến tỷ lệ nuôi trồng thủy sản các đối tượng thủy
sản thâm canh, có giá trị kinh tế... tăng cao trong tổng cơ cấu đàn cá nuôi,
thể hiện một số kết quả cụ thể so với chỉ tiêu sản xuất thủy sản (đã thống kê
tại phần hiện trạng sản xuất)
- Hậu cần, dịch vụ
cho nuôi trồng thủy sản: Đến nay công tác hậu cần dịch vụ trong thủy sản phát
triển tương đối mạnh, đặc biệt là nhu cầu thức ăn sử dụng trong nuôi thâm canh,
bán thâm canh tăng cao, cụ thể: nhu cầu thức ăn đạt khoảng 20.000 tấn, đạt 55%
KH.
- Áp dụng công nghệ
cao vào nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh:
+ Công ty Cá tầm Việt
nam đã áp dụng kỹ thuật và trang thiết bị tiên tiến nuôi thương phẩm và khai
thác trứng cá tầm với tổng đàn cá nuôi: 900.000 con các loại trong 465 lồng
trên diện tích gần 3ha mặt nước tại hồ thủy điện Buôn Tua Srah, huyện Lắk.
+ Trang trại Ngọc
Long, Minh Nguyên đã áp dụng quy trình lên men thức ăn trước khi cho các đối
tượng nuôi “cá diêu hồng, cá lóc” ăn nhằm giảm hệ số thức ăn, phòng
chống bệnh dịch và nâng cao chất lượng sản phẩm; 02 Trang trại luôn duy trì
nuôi 45 lồng trên sông và gần 7 ha diện tích ao đất trên đảo và sông Krông Ana,
huyện Krông Ana.
3.3. Hoàn thiện tổ
chức bộ máy và thể chế.
a. Tổ chức bộ máy:
Lãnh đạo Chi cục: 03 người; Phòng Hành chính tổng hợp: 06 người; Phòng Nuôi
trồng thủy sản: 03 người; Phòng Khai thác và PTNL thủy sản: 02 người; Phòng
Thanh tra pháp chế: 01 người; Trung tâm giống thủy sản: 01 người.
Về trình độ chuyên
môn: Thạc sỹ 01 người; Đại học, cao đẳng 9 người; trung cấp 03 người; 02 người
sơ cấp
Về trình độ lý luận
chính trị: Cao cấp 01 người, Trung cấp 01 người và sơ cấp 14 người.
Đến thời điểm hiện
nay, các Phòng Nuôi trồng thủy sản; Khai thác và Phát triển nguồn lợi thủy sản
đang giao cho các Chuyên viên làm nhiệm vụ Phụ trách phòng do thiếu nhân sự và
chưa đủ tiêu chuẩn đề nghị bổ nhiệm.
b. Thể chế:
Đã tham mưu Sở trình
UBND tỉnh ban hành một số VBQPPL sau: Quyết định số 676/QĐ-UBND ngày 11/3/2016
của UBND tỉnh về việc phê duyệt chi tiết Đề án Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi
thủy sản tại các thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch số 5241/KH- UBND ngày 28/6/2018 của UBND
tỉnh về việc triển khai thực hiện Đề án bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản
tại các thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm
nhìn đến năm 2030; Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 26/11/2018 về tăng cường công tác
quản lý trong nuôi thủy sản lồng bè trên sông, hồ chứa thủy lợi, hồ thủy điện
thuộc địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Trong giai đoạn 2015
đến 2019, một số Chính sách nhằm hỗ trợ phát triển ngành thủy sản trên địa bàn
tỉnh hết hiệu lực (Chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk,
giai đoạn 2010-2015; Chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2015; Chính sách khuyến khích chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, giai đoạn 2011-2015). Vì vậy, Chi cục đang
đề xuất Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn kiến nghị UBND tỉnh, HĐND tỉnh
cho xây dựng một số Chính sách sau:
- Chính sách khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực thủy sản theo quy định tại Điều 19, Nghị
định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách hỗ trợ
liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên địa bàn tỉnh theo quy định
tại Điều 17, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 về chính sách khuyến
khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp.
- Chính sách tín dụng
phục vụ phát triển thủy sản theo quy định tại Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày
07/9/2018 về sửa đổi, bổ sung một một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP
ngày 06/9/2015 về Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
- Chính sách khuyến
khích sự tham gia, đầu tư của cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản, chính sách cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi để người
dân chuyển đổi sang hình thức khai thác khác không bị cấm hoặc kết hợp với đào
tạo kỹ thuật để chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc sang ngành nghề khác.
3.4. Thực hiện các
chương trình dự án
a. Dự án đầu tư xây
dựng Trung tâm giống thủy sản cấp tỉnh (giai đoạn 1): Dự án Trung tâm giống
thủy sản cấp tỉnh (giai đoạn 1) được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
1961/QĐ-UBND ngày 25/8/2014 với tổng mức đầu tư dự án: 22 tỷ đồng (Ngân sách
trung ương: 20 tỷ; Ngân sách địa phương đối ứng: 2 tỷ). Dự án này đã được
UBND tỉnh bố trí 20,126 tỷ đồng. Đến nay, Chủ đầu tư đã giải ngân được
12.105.215.000 đồng (giải ngân cho thi công xây dựng: 8.349.151.000 đồng;
giải ngân cho đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 2.370.478.000 đồng và
giải ngân cho tư vấn: 1.385.586.000 đồng) và điều chuyển sang dự án khác:
8.020.785.000 đồng (năm 2016: 3.325.190.000 đồng; năm 2017: 4.695.595.000
đồng).
Khối lượng thi công
xây dựng dự án đã thực hiện được 60% so với tổng khối lượng xây dựng dự án được
duyệt (trong đó: Gói thầu XL 01: 69%; Gói thầu XL 02: 51%; Gói thầu XL 03: 53%),
tương ứng với kinh phí thực hiện 8.349.151.000/14.030.890.000 đồng. Dự án tạm
dừng thi công xây dựng từ tháng 9/2018 do hết kinh phí.
b. Dự án đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản:
Dự án này đã được
UBND tỉnh cho chủ trương lập dự án. Do đó, Chi cục Thủy sản đã hợp đồng với Đơn
vị tư vấn để khảo sát, đánh giá các điều kiện để đề xuất UBND tỉnh thỏa thuận
địa điểm theo chỉ đạo của UBND tỉnh tại Công văn số 19/UBND-NN&MT ngày
04/01/2012. Nguồn vốn đã bố trí để thực hiện giai đoạn chuẩn bị đầu tư của dự
án trong năm 2012 là: 200 triệu đồng. Tuy nhiên, dự án này không được UBND tỉnh
đưa vào Kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020.
3.5. Tổ chức lại sản
xuất
a. Tổ chức sản xuất
và cung ứng giống thủy sản:
Hiện nay, trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk có 05 cơ sở trại sản xuất nhân tạo giống thủy sản nước ngọt (Công
ty Cổ phần thủy sản Đắk Lắk 04 cơ sở và Công ty TNHH MTV An Trang) và một
số cơ sở sản xuất nhỏ lẻ khác. Kết quả đạt được từ 2017-2019
+ Tổng sản lượng cá
bột: 4.050 triệu con.
+ Tổng sản lượng cá
giống: 183 triệu con b. Tổ chức nuôi trồng thủy sản
- Diện tích và năng
suất, sản lượng nuôi thủy sản:
+ Diện tích mặt nước
đưa vào nuôi trồng thủy sản năm 2019, ước đạt 11.500 ha;; Tổng số lồng nuôi đạt
782 lồng; Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt được đang hạn chế so với 42.000 ha
mặt nước trên địa bàn tỉnh có tiềm năng đưa vào nuôi trồng thủy sản
+ Sản lượng nuôi
trồng thủy sản năm 2019 đạt: 22.500 tấn
+ Tình hình nuôi cá
nước lạnh: Năm
2019, trên toàn tỉnh có 01 cơ sở nuôi cá nước lạnh của Công ty TNHH MTV cá tầm
Việt Nam - Đắk Lắk tại hồ thủy điện Buôn Tua Srah, huyện Lắk. Với tổng số lượng
cá thả nuôi tại Công ty khoảng gần 01 triệu con cá tầm, được thả nuôi trong 465
lồng với diện tích mặt nước sử dụng là gần 04 ha. Sản lượng thu hoạch
ước khoảng trên 200 tấn/năm.
(Có
Phụ lục 1: Chi tiết phát triển nuôi trồng thủy sản đính kèm theo)
- Các mô hình sản
xuất thủy sản
* Mô hình hỗ trợ phát
triển sản xuất tư nguồn kinh phí Chương trình giảm nghèo.
Năm 2017, Chi cục
Thủy sản đã xây dựng và triển khai mô hình hỗ trợ phát triển nuôi ghép cá rô
phi làm chính trong ao cho 21 hộ nghèo, cận nghèo tại 03 huyện Krông Bông,
Krông Ana và M’Đrắk. Ngoài ra, Chi cục đã triển khai 03 lớp tập huấn kỹ thuật
nuôi ghép cá rô phi làm chính trong ao cho 21 hộ dân thực hiện mô hình và các
hộ dân nuôi cá trên địa bàn các huyện triển khai mô hình với tổng số lượt người
dân tham gia tập huấn là 90 lượt người trong đó có khoảng 50 lượt người thuộc
các hộ nghèo, cận nghèo. Ngoài ra, Chi cục đã phối hợp với Phòng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn các huyện Ea Súp, Krông Pắc, Krông Ana khảo sát chọn 10 hộ
nghèo/3 huyện hỗ trợ phát triển sản xuất (Thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp: 02 hộ;
xã Krông Búk, huyện Krông Pắc: 05 hộ; thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana: 03
hộ).
Năm 2018 và 2019, Chi
cục phối hợp với UBND xã Ea Phê triển khai xây dựng mô hình nuôi ghép cá rô phi
đơn tính cho 10 hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã Ea Phê, huyện Krông Pắc
theo nhiệm vụ được giao.
* Mô hình hỗ trợ phát
triển sản xuất chuỗi liên kết từ nguồn kinh phí Chương trình MTQG xây dựng Nông
thôn mới:
Năm 2017, Chi cục xây
dựng mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ
giống thủy sản, tại huyện Ea Kar và Tp. Buôn Ma Thuột cho 20 hộ dân (xã Cư
Ni, huyện Ea Kar: 07 hộ; xã Ea kao, xã Hòa Khánh: 13 hộ).
Hiện nay, Chi cục
đang tham mưu Sở Nông nghiệp và PTNT trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt Dự án
PTSX theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm cá rô phi đơn tính
theo tiêu chuẩn VietGAP (2019-2020).
* Mô hình ứng dụng
công nghệ cao:
Hiện nay, trên địa
bàn tỉnh có một số địa điểm áp dụng công nghệ cao vào sản xuất thủy sản như:
Công ty cá tầm Việt Nam tại hồ thủy điện Buôn Tua Srah huyện Lắk tiếp tục chăm
sóc đàn cá Tầm thả năm 2018, tổng số lượng cá thả nuôi khoảng gần 1 triệu con
cá Tầm được nuôi trong 465 lồng; Trang trại Ngọc Long, Minh Nguyên tại huyện
Krông Ana áp dụng công nghệ cao vào nuôi cá lóc, diêu hồng thương phẩm (sử
dụng men vi sinh xử lý môi trường ao nuôi và phương pháp lên men thức ăn để bổ
sung vào thức ăn cho cá).
* Mô hình trình diễn:
Từ năm 2017 đến nay,
Chi cục Thủy sản đã thực hiện 8 mô hình trình diễn nuôi các loài cá thủy đặc
sản, giá trị kinh tế cao và cá giống mới “cá chạch bùn, cá trắm giòn và lươn”
trên địa bàn các huyện, thành phố, cụ thể như sau:
Bảng
9. Thống kê một số chỉ tiêu NTTS và KTTS từ 2016-2019
TT
|
Chỉ
tiêu
|
ĐVT
|
Năm 2016
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Tốc
độ phát triển (%)
|
Ghi
chú
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
= 7/4
|
9
|
I
|
Nuôi trồng thủy sản
|
|
|
|
|
Giá
trị tính theo giá hiện hành
|
1
|
Sản lượng cá bột
|
Triệu
con
|
1.305
|
1.050
|
1.500
|
1.500
|
115
|
2
|
Sản lượng cá giống
|
Triệu
con
|
56
|
58
|
60
|
65
|
116
|
3
|
Diện tích nuôi
|
Ha
|
10.695
|
10.465
|
11.500
|
11.500
|
107
|
4
|
Sản lượng nuôi
trồng
|
Tấn
|
19.658
|
19.594
|
21.840
|
22.500
|
114
|
5
|
Giá trị sản xuất về
nuôi trồng
|
Tỷ
đồng
|
707,6
|
705,3
|
940
|
967
|
136,6
|
II
|
Khai thác thủy sản
|
|
|
|
|
1
|
Sản lượng khai thác
thủy sản
|
Tấn
|
1.700
|
1.762
|
1800
|
1.700
|
100
|
2
|
Giá trị sản xuất
|
Tỷ
đồng
|
70,787
|
73,78
|
75,6
|
71.4
|
100,8
|
d. Tổ chức khai thác,
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
Ngành thủy sản trong
thời gian gần đây, đóng vai trò to lớn trong việc cung cấp thực phẩm, tạo việc
làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển
kinh tế - xã hội, với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đã và đang
được tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ mới cho sản xuất.
Người dân đã và đang tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ nuôi
trồng cũng như khai thác thủy sản và xây dựng nhiều mô hình mới góp phần thúc
đẩy sự phát triển của ngành. Tuy nhiên khai thác quá mức không theo mùa vụ, sử
dụng các ngư cụ hủy diệt trong khai thác thủy sản, môi trường bị ô nhiễm đã làm
cho nguồn lợi thủy sản ở một số thủy vực bị cạn kiệt nghiêm trọng (Sản lượng
khai thác năm 2017: 1.762; năm 2018: 1.700)
- Thả cá bổ sung
nguồn lợi thủy sản
Nhằm phục hồi và tái
tạo nguồn lợi thủy sản đã bị khai thác cạn kiệt của các thủy vực, đồng thời góp
phần nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư sinh sống bằng nghề khai thác xung
quanh các thủy vực, hàng năm tỉnh Đắk Lắk đều triển khai Chương trình thả cá bổ
sung nguồn lợi thủy sản vào các thủy vực trên địa bàn tỉnh. Tổng số cá thả năm
2017- 2019: 480.620 con (trong đó: năm 2017 và 2018: 310.620 con; dự
kiến 2019: 170.000 con)
- Phát triển khai
thác thủy sản sông hồ chứa trên địa bàn tỉnh
Bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản, bảo đảm cân đối hài hòa giữa phát triển kinh tế và sử dụng
tài nguyên nước tại các thủy vực cho nuôi trồng thủy sản phù hợp với quy hoạch,
phân bổ tài nguyên nước, không gây ô nhiễm nguồn nước. Giai đoạn 2017 - 2019
Chi cục thúc đẩy phát triển khai thác thủy sản các thủy vực sông, hồ chứa theo
hướng bền vững , cụ thể:
+ Xây dựng phát triển
mô hình đồng quản lý nghề cá
Hiện nay, trên địa
bàn tỉnh có 07 mô hình Đồng quản lý nghề cá (Chi hội nghề cá hồ Lắk, Chi hội
nghề cá hồ Buôn Triết, Chi hội Ngư nghiệp Ea Súp, Chi hội nghề cá Ea Wer, Chi
hội nghề cá Buôn Trấp, Chi hội nghề cá Krông Búk, Cư Mlan, huyện Ea Súp).
Nhằm khuyến khích
người dân thành lập các Chi hội, tổ nghề cá để cùng quản lý và hưởng lợi thủy
sản, hướng cho người dân quản lý và khai thác thủy sản nguồn lợi một cách bền
vững, hiệu quả. Chi cục Thủy sản đã triển khuyến khích phát triển nhân rông các
mô hình, động viên các hội viên tham gia vào các mô hình đồng quản lý nghề cá
bằng các hình thức thả cá tái tạo bổ sung nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực
có mô hình đồng quản lý nghề cá, hỗ trợ vật tư (50 lưới bén khai thác, và 25
áo phao cho các hội viên trong Chi hội)
+ Hỗ trợ phát triển
sản xuất khai thác thủy sản sông hồ chứa trên địa bàn tỉnh
Thực hiện kế hoạch phát
triển sản xuất khai thác thủy sản sông hồ chứa trên địa bàn tỉnh. Giai đoạn
2017 - 2019 Chi cục Thủy sản đã triển khai thực hiện hỗ trợ vật tư (ngư cụ khai
thác thủy sản, bảo hộ lao động và phương tiện khai thác) cho 10 hộ nghèo sống
bằng nghề khai thác đánh bắt thủy sản (02 hộ thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp; 03
hộ thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana; 05 hộ xã Krông Búk, huyện Krông Pắc)
nhằm hướng dẫn thực hiện phát triển sản xuất khai thác thủy sản trên sông hồ
chứa tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, hướng tới phát triển khai thác
thủy sản bền vững.
- Xây dựng các mô
hình cộng đồng chuyển đổi sinh kế
Chi cục Thủy sản phối
hợp Trung tâm nghiên cứu và Phát triển xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng
thành lập thêm được 04 tổ phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản trên địa
bàn huyện. Đồng thời phối hợp Trung tâm nghiên cứu và Phát triển xã hội tỉnh
Thừa Thiên Huế, UBND huyện Lắk khoanh vùng khai thác và giao quyền quản lý khai
thác nguồn lợi thủy sản cho Chi hội Nghề cá hồ Lắk nhằm phát triển khai thác
bền vững
- Tuyên truyền phổ
biến pháp luật về lĩnh vực thủy sản
Để tăng cường công
tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản ngoài việc tham mưu, ban hành các
văn bản hướng dẫn, thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy
sản và thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản, Chi cục Thủy sản hiện một số chương
trình như lắp đặt được 4 bảng Pano tuyên truyền bảo vệ nguồn lợi thủy sản và
sửa chữa 8 bảng pano xây dựng từ các năm trước bị hư hỏng xuống cấp. Đồng thời
tổ chức 03 lớp tập huấn, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về lĩnh vực thủy sản
cho cán bộ phụ trách nông nghiệp, già làng, trưởng thôn, buôn và người dân trên
địa bàn tỉnh với 150 lượt người tham gia
Để tiếp tục phổ biến
truyền truyền pháp luật thủy sản cho cán bộ và người dân dự kiến trong năm 2019
Chi cục tiếp tục xây dựng 03 bảng pano tuyên truyền pháp luật thủy sản, tổ chức
19 lợp tập huấn phổ biến các văn bản QPPL thủy sản cho 900 lượt người
3.6. Xúc tiến đầu tư
và thương mại thủy sản
Đã rà soát bổ sung
thông tin danh mục dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2018-2020 trong lĩnh vực thủy
sản tại Công văn số 214/CCTS-HCTH ngày 08/8/2018 để kêu gọi các doanh nghiệp
trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư đầu tư hạ tầng thủy sản, đầu tư nuôi, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
3.7. Đào tạo, tập huấn
và Khoa học công nghệ
a. Về đào tạo nhân
lực:
Hệ thống mạng lưới
khuyến ngư trên địa bàn tỉnh chưa được hình thành, ở các huyện chưa có cán bộ
chuyên trách về lĩnh vực thủy sản mà đa số là kiêm nhiệm và không có chuyên môn
về lĩnh vực thủy sản.
b. Về áp dụng khoa
học kỹ thuật:
Trong những năm qua
trên địa bàn tỉnh đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về lĩnh vực thủy sản.
Tuy nhiên, các đề tài này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, thử nghiệm chưa nhân
rộng và phát huy được vai trò phát triển kinh tế ngành.
c. Tập huấn:
Từ năm 2015-2019, Chi
cục Thủy sản tổ chức 25 lớp tập huấn cho 1.130 cán bộ khuyến nông cấp xã, thôn,
buôn và người nuôi trồng khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Trong đó:
- Tập huấn tuyên
truyền pháp luật về lĩnh vực thủy sản: 560 người/12 lớp.
- Tập huấn kỹ thuật
nuôi một số đối tượng thủy sản nước ngọt: 290 người/6 lớp.
- Tập huấn kỹ thuật
nuôi trồng thủy sản theo tiêu chuẩn VietGAP: 240 người/6 lớp.
- Tập huấn đồng quản
lý bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản: 40 người/01 lớp.
4.
Đánh giá kết quả thực hiện
4.1. Ưu điểm
Trong thời gian qua,
ngành thủy sản tỉnh đang được Bộ ngành, UBND tỉnh và các tổ chức, doanh nghiệp
quan tâm đầu tư và hỗ trợ. Do đó, ngành thủy sản tỉnh có những bước phát triển
mạnh mẽ, góp phần vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc
biệt là người dân tộc thiểu số, góp phần an sinh xã hội, bảo đảm an ninh quốc
phòng, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động trên địa bàn tỉnh.
4.2. Hạn chế và
nguyên nhân
a. Tuyên truyền, phổ
biến và quán triệt nội dung Đề án
Việc tuyên truyền
chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ và xuyên suốt giữa các cấp, ngành nên hiệu quả
không cao; Nội dung tuyên truyền mang tính lồng ghép nên đa số người được tuyên
truyền không hiểu rõ, chính xác về mục tiêu, nhiệm vụ và định hướng tái cơ cấu
lĩnh vực thủy sản.
b. Nâng cao chất
lượng quản lý Quy hoạch thủy sản:
Lĩnh vực thủy sản có
một số quy hoạch như: Quy hoạch phát triển ngành thủy sản Đắk Lắk giai đoạn
2009-2015 và định hướng đến năm 2020; Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản
tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020; Quy hoạch Khu bảo tồn vùng nước nội địa cấp tỉnh
Sông Krông Ana. Tuy nhiên, khi Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 có hiệu lực ngày
01/01/2019 thi các quy hoạch trên hết hiệu lực, ảnh hưởng đến việc UBND tỉnh
thiếu cơ sở để thực hiện phê duyệt một số Kế hoạch, Chương trình, Đề án, Dự án
và kêu gọi đầu tư trong lĩnh vực thủy sản; Giải quyết một số thủ tục hành chính
trong lĩnh vực thủy sản; UBND cấp huyện không có cơ sở để xây dựng kế hoạch
thực hiện phát triển thủy sản trên địa bàn quản lý, nên hiệu quả quản lý quy
hoạch về lĩnh vực thủy sản còn chưa cao.
c. Thực hiện các
chương trình dự án:
Từ năm 2015 đến nay
Chi cục Thủy sản được giao nhiệm vụ làm Chủ đầu tư dự án Trung tâm giống thủy
sản cấp tỉnh (giai đoạn 1) và dự kiến hoàn thành trong năm 2018. Nhưng đến thời
điểm này, dự án mới hoàn thành được 60% và bị chậm so với kế hoạch đề ra.
Nguyên nhân chủ yếu do không được bố trí nguồn kinh phí để triển khai thực hiện
dự án.
d. Tổ chức lại sản
xuất
Tình hình sản xuất
thủy sản trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn do điều kiện thời tiết diễn biến
phức tạp, đầu ra cho các sản phẩm thủy sản của người nuôi còn khó khăn do chưa
có các đầu mối lớn thu mua mà phụ thuộc và các thương lái và mạng lưới thu mua
nhỏ lẻ, giá cá thị trường không ổn định. Người dân chủ yếu nuôi theo hình thức
Quảng canh, Quảng canh cải tiến..., diện tích nuôi nhỏ lẻ, manh mún chưa phát
huy hết được tiềm năng sẵn có; Việc cấp Giấy phép nuôi trồng, khai thác trên hồ
chứa thủy lợi, thủy điện đang gặp khó khăn, vướng mắc về thủ tục.
Một số người dân còn
sử dụng các hình thức khai thác hủy diệt (kích điện, xung điện, chất độc….),
loại ngư cụ hủy diệt như lưới có kích thước nhỏ, đăng, đáy … làm cho nguồn lợi
thủy sản nói chung, các loài cá nói riêng không có khả năng tái tạo quần đàn,
một số loài thủy sản bản địa có giá trị kinh tế, quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng. Do đó, nguồn lợi thủy sản suy giảm ảnh hưởng đến sản lượng khai thác.
Hình thức tổ chức sản
xuất theo Tổ hợp tác, Hợp tác xã chưa phát huy được thế mạnh, còn mang tính
hình thức mặc dù đã có nhiều chính sách nhằm phát triển sản xuất theo hình thức
này. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có: 05 Tổ hợp tác Nuôi trồng thủy sản và 24
Trang trại thủy sản (trong đó: 13 Trang trại thủy sản và 11 Trang
trại tổng hợp), nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
5.
Giải pháp thực hiện tái cơ cấu ngành thủy sản trong thời gian tới
5.1. Sản xuất giống
thủy sản
Tập trung nghiên cứu
hoàn thiện công nghệ sản xuất giống các đối tượng nuôi chủ lực, các đối tượng
bản địa, giá trị kinh tế cao; Mở rộng phát triển thị trường giống trên địa bàn
các tỉnh tây nguyên và phía bắc; Thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất
lượng, nguồn gốc con giống thủy sản trên địa bàn tỉnh; Hoàn thiện hệ thống hạ
tầng kỹ thuật hỗ trợ phát triển giống thủy sản chất lượng cao.
5.2. Nuôi trồng thủy
sản
Đầu tư hạ tầng kỹ
thuật , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất các đối tượng thủy sản
giá trị kinh tế cao, thủy đặc sản thuộc tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Chuyển
dần từ hình thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến qua nuôi thâm canh, bán
thâm canh; Áp dụng quy trình kỹ thuật nuôi tiên tiến theo quy chuẩn Viet GAP
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; Quản lý chặt chẽ dịch bệnh trong quá trình
nuôi thương phẩm; Tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường.
5.3. Tổ chức khai
thác, bảo vệ và phát triển thủy sản
- Bảo vệ môi trường
sống của các loài thủy sản; hạn chế các hoạt động khai thác thủy sản vi phạm
pháp luật; triển khai thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, cụ thể là tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
01/1998/CT-TTg ngày 02/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm sử
dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản; Chỉ thị số 02/2014/CT-UBND
ngày 01/4/2014 của UBND tỉnh về việc nghiêm cấm hành vi hủy diệt trong khai
thác thủy sản ở các vùng nước tự nhiên trên địa bàn tỉnh và triển khai thực
hiện Quyết định số 188/QĐ-TTg ngày 13/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020.
- Tái tạo và thả bổ
sung giống thủy sản quý, hiếm, có giá trị kinh tế tại các thủy vực tự nhiên;
phấn đấu đến năm 2020, cơ bản phục hồi nguồn lợi thủy sản các thủy vực sông, hồ
chứa trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các loài thủy sản bản địa có giá trị kinh tế.
- Nâng cao năng lực
quản lý Nhà nước về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, đảm bảo sự thống
nhất, đồng bộ từ tỉnh đến xã; phát huy vai trò của cộng đồng trong công tác bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Tăng cường công tác
tuần tra và xử lý vi phạm về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản từ tỉnh đến
cơ sở; tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về lĩnh vực thủy sản và xử
lý triệt để các hành vi vi phạm về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
5.4. Nâng cao chất
lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch
Tham mưu sở thực hiện
tái cơ cấu lĩnh vực thủy sản theo các văn bản quy định sau: Quyết định số
286/QĐ-TTg ngày 09/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030; Quyết định số 2041/QĐ-UBND ngày 03/8/2017 của UBND
tỉnh về việc ban hành kế hoạch triển khai áp dụng quy trình thực hành sản xuất
nông nghiệp tốt (VietGAP) trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản trên địa bàn
tỉnh giai đoạn 2017-2020; Quyết định số 956/QĐ-UBND ngày 09/5/2018 của UBND
tỉnh về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu phát
triển kinh tế thủy sản bền vững trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018-2020;
Quyết định số 1468/QĐ-SNN ngày 08/12/2017 của Sở Nông nghiệp và PTNT về việc
ban hành Kế hoạch thực hiện tái cơ cấu lĩnh vực thủy sản trong Đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 5241/KH-UBND ngày 28/6/2018 của UBND tỉnh về
việc triển khai thực hiện Đề án bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản tại các
thủy vực sông,hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030.
5.5. Phát triển chế
biến, thương mại thủy sản
Triển khai các hoạt
động xúc tiến thương mại nhằm duy trì tốt thị trường sẵn có, mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm thủy sản bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đến một số thành
phố lớn trong nước (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh). Đối với thị trường nội tỉnh cần
quy hoạch hệ thống các chợ đầu mối, hình thành kênh phân phối hàng thủy sản từ
người sản xuất, doanh nghiệp đến siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng thực
phẩm an toàn; Xây dựng chương trình, tổ chức xúc tiến đầu tư, kêu gọi các doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư hạ tầng thủy sản, đầu tư nuôi, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Đổi mới phương thức thực hiện xúc tiến thương
mại và phát triển thị trường phù hợp theo hướng các hiệp hội và doanh nghiệp là
chủ thể trực tiếp tổ chức thực hiện, nhà nước giữ vai trò xây dựng cơ chế chính
sách và hỗ trợ các hoạt động; Các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất thủy sản ký kết bao tiêu nguyên liệu đầu ra cho sản phẩm thủy sản
của tỉnh ở tất cả các giai đoạn, mùa vụ nuôi, loài thủy sản nuôi trong năm.
Khuyến khích đầu tư
vào sản xuất NTTS và dịch vụ thủy sản (bao gồm dịch vụ cung cấp thức ăn và dịch
vụ con giống).
Xây dựng các mô hình
liên kết chuỗi trong nuôi trồng thủy sản, gắn kết giữa người nuôi, người cung
cấp dịch vụ, và tiêu thụ sản phẩm.
Tích cực mở rộng thị
trường tiêu thụ cả trong và ngoài tỉnh. Đối với thị trường nội tỉnh (chủ yếu
tiêu thụ dưới dạng tươi sống nguyên con), tập trung vào các thị trường chính
như thành phố Buôn Mê Thuột, khu/cụm du lịch và người dân, ngoài ra cần đẩy
mạnh việc tiêu thụ tại chỗ, đặc biệt các vùng sâu vùng xa.
Bên cạnh đó phát
triển mở rộng ra thị trường các tỉnh khác trên cơ sở phát huy những lợi thế so
sánh (cá nước lạnh, cá đặc sản, cá bản địa) để chiếm lĩnh thị trường, kết hợp
với công tác tiếp thị để mở rộng thị trường.
Củng cố và giữ vững
thị trường, xây dựng thương hiệu với những đối tượng đặc sản và mặt hàng chế
biến từ sản phẩm thủy sản. Nghiên cứu giảm giá thành, nâng cao chất lượng vệ
sinh thực phẩm … để tăng tính cạnh tranh.
Phát triển chế biến
thủy sản, tăng khả năng chế biến cho nhiều loại nguyên liệu, tăng cường công
tác tiếp thị và nâng cao năng lực chế biến, …
PHẦN THỨ HAI
DỰ BÁO CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỢI THỦY SẢN ĐẾN NĂM 2025
I.
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Các nhà khoa học trên
thế giới đã khẳng định biến đổi khí hậu toàn cầu là tất yếu và con người không
thể tránh khỏi. Biến đổi khí hậu cùng với sự gia tăng của nhiệt độ toàn cầu là
những biến động mạnh mẽ của lượng mưa và sự gia tăng của hiện tượng khí hậu,
thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán, nguồn nước ngọt khan hiếm và trở thành
mối đe dọa thường xuyên đối với sản xuất và đời sống. Mối đe dọa này ngày càng
trở nên nghiêm trọng hơn khi dân số ngày càng tăng, các hoạt động kinh tế ngày
càng phát triển. ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ trung bình tăng lên ảnh hưởng xấu
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển một số đối tượng thủy sản như: cá Tầm, cá
Hồi…bên cạnh đó xuất hiện một số loại bệnh thủy sản hay gặp do môi trường biến
đổi như sự xuất hiện của tảo lam, đây là một loài tảo độc thường xuất hiện khi
nhiệt độ nước cao gây hại cho các đối tượng thủy sản khi ăn vào.
Một số tác động của
biến đổi khí hậu có thể kể đến bao gồm: Hiện tượng mưa axít gây axít hóa môi
trường; tần suất lũ lụt ngày càng nhiều và mức độ ngày càng lớn; hạn hán vào
mùa khô gây thiếu nước do phải ưu tiên cho phát triển nông nghiệp; nguồn cung
thức ăn nuôi trồng thủy sản sẽ khó khăn hơn và giá sẽ cao hơn; các nguồn vốn
đầu tư cũng có thể được hướng vào các ưu tiên khác cao hơn so với nghề cá,...
Tại châu Á, năng suất
cây trồng giảm, một phần do nhiệt độ tăng và các hiện tượng khí hậu cực đoan,
BĐKH sắp tới sẽ ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp. Tiên lượng khoảng 2,5 -
10% năng suất cây trồng sẽ bị giảm ở châu Á những năm 2020, 5 - 30% những năm
2050 so với những năm 1990 do ảnh hưởng của lượng khí CO2. Theo kết luận của
Hội nghị về nông nghiệp và biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Hyderabad (Ấn Độ) thì
BĐKH đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng
thủy sản, làm giảm chất lượng của lương thực thực phẩm, điều này cảnh báo rằng
trong tương lai hàng tỷ người nghèo trên thế giới sẽ phải chịu gánh nặng về
lương thực thực phẩm.
Tác động của BĐKH ở
các quốc gia châu Á vùng nhiệt đới có thể xảy ra ở một vài nơi hoặc toàn khu
vực. Nicholls ước tính rằng cứ 1m nước biển tăng lên có thể làm Băngladesh, Ấn
Độ, Indonesia và Maylaysia có thể mất lần lượt là 30.000, 6.000, 34.000 và
7.000 km2
diện
tích đất. Còn ở Việt Nam, khoảng 5.000 km2 ĐBSH và 15.000 - 20.000 km2 ĐBSCL bị ngập. Các
vùng đất canh tác bị mất ở hầu hết các nước chính là những vùng đất nông
nghiệp, những vựa lúa lớn của các quốc gia đó.
Những châu thổ rộng
lớn khác ở các quốc gia nhiệt đới như châu thổ Irrawaddy ở Myanmar, châu thổ
sông Mê Kông và sông Hồng ở Việt Nam cũng như những vùng châu thổ nhỏ hơn và
nằm thấp hơn mực nước biển ở Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Indonesia và
Phillipin sẽ bị ảnh hưởng tương tự... Thông thường khi nhiệt độ tăng, độ ẩm của
đất giảm, đất cằn có độ ẩm thấp hơn 3 lần đất rừng (UNCCD NAP, 2002). Từ giảm
diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản đến suy giảm chất lượng đất rồi sẽ
dẫn đến giảm năng suất sản lượng cây trồng, nuôi trồng thủy sản giảm.
Đắk Lắk là tỉnh thuộc
vùng cao nguyên nên sẽ ít chịu ảnh hưởng của việc mất đất nông nghiệp do nước
biển dâng nhưng sẽ bị hạn hán, dẫn đến diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy
sản giảm, nguồn lợi thủy sản và sự đa dạng sinh học trong môi trường nước giảm
nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời.
Các phân tích về nông
nghiệp đã cho thấy sự giảm đáng kể của tác động BĐKH. Việc lựa chọn các đối
tượng nuôi trồng và phương cách kỹ thuật linh hoạt để giảm tình trạng stress
(ví dụ nhiệt độ cao, hạn hán, lụt lội, sâu bệnh, dịch bệnh) cho phép vừa thay
đổi gen mới với các đối tượng mới nếu các chương trình quốc gia có khả năng hỗ
trợ (Borton and Lim, 2005). FAO và các cơ quan nghiên cứu khác đã thực hiện một
chương trình lai tạo giống mới cho toàn cầu (Global Initiative on Plant
Breeding Capcity Build - GIPB), và đã đưa ra tại cuộc họp của các Chính phủ bàn
về Hiệp định các nguồn gen trong nông nghiệp để cung cấp cho người dân ở Madrid
2007. Công việc của FAO trong việc phổ biến đối tượng sản xuất bao gồm cả các
công cụ trợ giúp quyết định như từ cây trồng, vật nuôi sinh thái đến chọn lựa
cây thay thế cho các hệ sinh thái cụ thể. Lựa chọn đối tượng thích ứng không
thể tách rời các biện pháp quản lý với các hệ sinh thái nông nghiệp.
Mặc dù các thủy vực
sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thuộc khu vực cao nguyên, không thể
hiện rõ những hiệu ứng của nhiệt độ tăng và nước biển dâng như vùng ven biển
nhưng biến đổi khí hậu kết hợp với các hoạt động của con người trong vùng đã
gây ra những ảnh hưởng rõ rệt đến điều kiện tự nhiên, môi trường và đa dạng
sinh học trong khu vực lưu vực sông Srepok. Môi trường sống thay đổi dẫn đến
thành phần loài, số lượng cá thể các loài suy giảm, đặc biệt là các loài thủy
sản. So với trước đây, sản lượng cá tự nhiên trong vùng ngày đã giảm nhiều. 15-20
năm trước, khi đi đánh cá bằng các phương tiện thủ công, một buổi sáng người
dân có thể bắt được khoảng 20-30 kg cá; nhưng đến nay chỉ được 1-2 kg. Một số
loài động vật thủy sinh đã không còn thấy trong những năm gần đây như cá sấu
Xiêm, ba ba, rùa, cá dầu hồ, cá ngựa nam, ngựa xám, mõm trâu, sọc dưa,… Biểu
hiện rõ rệt nhất của biến đổi khí hậu là sự biến đổi về điều kiện nhiệt ẩm và
sự gia tăng tần suất của các hiện tượng thời tiết cực đoan. Một số dấu hiệu của
sự biến đổi này đã xuất hiện gần đây ở vùng lưu vực sông Krông Ana như nhiệt độ
cao hơn về mùa khô, các cơn lũ mạnh hơn trước, lũ tiểu mãn và lũ chính vụ xảy
ra thường xuyên hơn và có đỉnh cao hơn trong những năm gần đây,... Biến đổi khí
hậu cũng dẫn đến nhiệt độ nước trong các thủy vực tăng lên. Theo người dân,
trước kia nước trong các sông, suối mát và lạnh hơn so với những năm gần đây;
trước đây dọc theo các dòng suối là các cây cối mọc rất nhiều, nhưng đến nay
chỉ còn cây bụi thưa thớt.
Biến đổi khí hậu làm
thay đổi cấu trúc thành phần và chức năng của các hệ sinh thái rừng, trước hết
là làm thay đổi về đa dạng sinh học. Chức năng và dịch vụ môi trường như điều
tiết nguồn nước, điều hoà khí hậu, chống xói mòn và kinh tế của rừng cũng bị
suy giảm.
Bên cạnh những tác
động của biến đổi khí hậu toàn cầu có thể ảnh hưởng đến khu vực lưu vực sông
Srêpốk, còn có những biến đổi khí hậu cục bộ phát sinh từ chính vùng nghiên
cứu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu cục bộ trong vùng là
diện tích và chất lượng rừng tự nhiên ngày càng suy giảm. Người dân cho biết,
các cánh rừng của vườn Quốc gia Chư Yang Sin và khu BTTN Nam Ka tiếp giáp với
khu dân cư ngày càng nghèo đi. Nhìn từ xa vẫn tưởng đang còn những cánh rừng
như bạt ngàn nhưng khi vào tận nơi thấy rõ các cây gỗ lớn, các cây gỗ quý hiếm
cỡ lớn hầu như đã bị chặt gần hết, chỉ còn những cây gỗ nhỏ và cây bụi, đồng
thời thảm rừng tái sinh phục hồi chậm.
Do áp lực về năng
suất, trong những năm gần đây, nhằm vảo vệ cây trồng, tăng sản lượng lương
thực, nông dân sử dụng các loại phân hóa học ngày càng nhiều, từ đó dẫn đến suy
giảm độ phì của đất. Ngoài ra, dư lượng phân bón còn làm ô nhiễm nguồn nước và
phá hủy các hệ sinh thái nhạy cảm ở nước. Tuy kết quả phân tích hàm lượng các
nhóm clo hữu cơ trong các mẫu thu ở đất và nước năm 2015 có cao hơn so với các
năm trước nhưng mức độ ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật trong vùng chưa vượt
ngưỡng. Tuy nhiên, dấu hiệu suy thoái của một số nhóm sinh vật trong sông đã
thể hiện rõ như nguồn lợi thủy sản và các loài thực vật thủy sinh bị suy giảm.
Trước đây, các loài thủy sinh mọc dày ở toàn bộ khu vực ven sông, thu hút nhiều
loài tôm cá đến đây kiếm ăn, sinh sản nhưng gần đây, rong chỉ còn lại rất ít,
nguồn lợi tôm cá cũng giảm theo. Như vậy, sự tồn đọng các chất độc từ thuốc bảo
vệ thực vật cùng với khai thác của con người chưa đủ căn cứ giải thích hiện
tượng suy giảm mật độ rong trong hồ mà có thể còn có những nguyên nhân khác
liên quan đến biến đổi khí hậu.
Những người dân sống
ven lưu vực sông Srepok cho biết, ven các thủy vực ngày càng bồi lắng thêm,
nhiều chỗ trước đây cùng mực nước thì không thể lội được phải bơi nhưng nay dễ
dàng lội qua.
Ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu đã để lại những hậu quả cụ thể đối với môi trường, đa dạng sinh học
và cả đời sống con người. Nếu không có các biện pháp tích cực nhằm giảm thiểu
các tác động này từ cấp độ địa phương đến cả quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ ngày càng trở nên nặng nề, đặc biệt là đối với
môi trường và đa dạng sinh học và đời sống người dân.
II.
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG NHÂN SINH
1.
Tăng dân số, mức sống thấp và hiện tượng di dân tự do
Năm 2020, quy mô dân
số của tỉnh đạt 1.887 nghìn người, chiếm 31,8% dân số của vùng Tây Nguyên và
1,9% dân số của cả nước. Lực lượng lao động của tỉnh năm 2020 đạt 1.102 nghìn
người, chiếm 31,6% lực lượng lao động của vùng và 2% lực lượng lao động của cả
nước. Lực lượng lao động của tỉnh năm 2020 cao gấp trên 3 lần so với tỉnh Kon
Tum, gần 3 lần so với tỉnh Đắk Nông, trên 1,4 lần so với tỉnh Lâm Đồng và trên
1,2 lần so với tỉnh Gia Lai. Đây một lợi thế quan trọng đặc biệt của vùng trong
phát triển kinh tế.
Những nơi có đồng bào
thiểu số di cư tự do đến, vấn đề chặt phá rừng đầu nguồn, săn bắn trái phép xảy
ra khá nghiêm trọng. Cộng đồng địa phương cũng cho biết thêm rằng, đồng bào
H’mông thường di cư tự do đến các khu vực có đất đai phì nhiêu, tài nguyên
trong rừng còn nhiều như Vườn Quốc gia Chư Yang Sin và Khu BTTN Nam Ka. Tại ở
nơi ở mới, họ săn bắn động vật làm thức ăn, bán buôn và chặt phá rừng làm nhà,
vườn, nương rẫy. Đồng bào H’Mông còn phát triển thủy lợi tự phát và canh tác
ngay trên các sườn đồi dốc vừa mới khai phá rừng không theo quy hoạch. So sánh
ảnh vệ tinh tại vùng đồng bào H’Mông di cư vào, một diện tích rừng rất lớn đã
không còn nữa.
Dân số tăng nhanh,
thiếu công ăn việc làm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, thiếu đất canh tác,
... đã tạo ra áp lực lớn đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học và đề án bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Diện tích đất thích hợp cho sản xuất nông
nghiệp bị hạn chế; người dân phải khai phá rừng, canh tác trên sườn dốc gây ra
tác động tiêu cực đối với môi trường và làm bồi lắng các thủy vực.
Hầu hết người dân ở
vùng nông thôn, đặc biệt là các hộ nghèo và các hộ dân tộc thiểu số phụ thuộc
rất nhiều vào rừng trong đời sống sinh hoạt của mình. Người dân không chỉ thu
lượm những sản phẩm ngoài gỗ như củi đun, măng tre, song mây mà còn săn bắn thú
rừng để ăn hoặc đem bán lấy tiền. Các cư dân địa phương quanh một số thủy vực
ngoài việc lên nương rẫy thì một bộ phận khá lớn sống nhờ vào đánh cá và nuôi
trồng thủy sản.
Khi dân số tăng, số
người đánh bắt cá cũng tăng lên, dẫn đến sản lượng đánh bắt tính theo đầu người
suy giảm, một số người chuyển sang sử dụng các dụng đánh bắt mang tính hủy diệt
như dùng kích điện, ... Chính vì vậy, trong giai đoạn 2005-2020, sản lượng cá
tự nhiên đã giảm đáng kể, chủ yếu cho việc đánh bắt quá nhiều và sử dụng những
phương pháp đánh bắt hủy diệt, dẫn đến mất cân bằng sinh thái và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của các loài thủy sinh vật ở các thủy
vực.Bên cạnh đó, ngành chăn nuôi phát triển khá mạnh cả về số lượng lẫn quy mô.
Tuy nhiên việc chăn nuôi nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch dẫn đến chất thải xả trực tiếp
xuống sông suối gây ra ô nhiễm môi trường nước.
2.
Sự suy thoái rừng
Ngoài những thay đổi
trong sử dụng đất, một vấn đề nghiêm trọng nữa là quá trình suy thoái rừng.
Rừng nguyên sinh và rừng kín đã biến thành rừng trung bình và rừng nghèo hoặc
cây bụi. Tính đến năm 2014, đã có tổng số 17.240 ha đất được giao cho người dân
địa phương, với 31.057 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được giao. Việc
giao đất giao rừng cũng gây nên một số tranh chấp. Đặc biệt việc giao đất rừng
cho các tổ chức như các lâm trường quốc doanh quản lý, khoanh rừng đặc dụng với
mục đích bảo tồn lại mâu thuẫn với nhu cầu về đất của người dân sinh sống trong
những vùng đó.
Người dân tộc thiểu
số coi đất đai là tài sản của cộng đồng hoặc của dòng tộc. Tuy nhiên, hiện nay
cộng đồng thôn bản vẫn chưa được công nhận là một thực thể pháp lý trong quá
trình giao đất giao rừng; việc giao đất giao rừng chủ yếu là cho các cá nhân đã
gây ra rất nhiều tranh chấp. Chất lượng yếu kém của các kế hoạch sử dụng đất
cũng là một hạn chế của việc giao đất giao rừng.
Từ năm 1998, nhà nước
đã bắt đầu giao khoán đất rừng cho các hộ gia đình ở vùng nông thôn với mục
đích bảo vệ rừng và xóa đói giảm nghèo. Trong nhiều trường hợp, rừng được giao
cho người dân trong tình trạng rất nghèo kiệt, dù có mong muốn cải tạo lại rừng
cũng rất khó thực hiện. Toàn tỉnh có tổng số khoảng hơn 240.700 ha rừng được
phân loại là rừng sản xuất, chủ yếu do các đơn vị chuyên ngành Lâm nghiệp quản
lý. Tỷ lệ khai thác gỗ rất thấp do điều kiện của rừng tương đối nghèo. Việc
trồng rừng ngày càng trở nên quan trọng, các công ty Lâm nghiệp đã đầu tư không
nhỏ vào việc trồng rừng trên đất trống. Các loài chủ yếu được trồng là bạch
đàn, keo hay xoan. Trong nhiều trường hợp, có sự phối hợp giữa Công ty với
người dân địa phương để trồng rừng trên cơ sở chia sẻ lợi ích. Công ty lâm
nghiệp đã lên kế hoạch trồng mới tổng cộng khoảng 56.800 ha cho đến năm 2013.
Việc trồng rừng và quản lý rừng trồng nhằm mục tiêu chính là bảo vệ các chức
năng vùng đầu nguồn và lưu giữ, điều hòa nguồn nước cho toàn vùng. Một số địa
phương cũng đã có chương trình hỗ trợ người dân địa phương thành lập những rừng
trồng quy mô nhỏ trên đất trống. Chương trình này lấy vốn từ chương trình quốc
gia về trồng mới 5 triệu héc-ta rừng.
Với mục đích bảo vệ
rừng, các lâm trường quốc doanh và các ban quản lý rừng đặc dụng đã ký hợp đồng
giao khoán bảo vệ rừng với người dân địa phương, theo định mức được nhận 50.000
đồng cho mỗi héc-ta mỗi năm. Với tổng số giao khoán bảo vệ rừng lên đến 30 ha
mỗi hộ, nguồn thu này là đáng kể. Đặc biệt đối với các hộ nghèo, đây là một
nguồn gia tăng thu nhập rất cần thiết cho cuộc sống thường ngày của họ. Những
vi phạm về bảo vệ rừng cũng là một vấn đề cần lưu ý trong vùng, chủ yếu là việc
người dân và các nhóm có tổ chức chặt trộm những cây gỗ quý giá trị cao, hoặc
săn bắt động vật hoang dã, trong đó có nhiều loài đã có tên trong danh sách
được bảo vệ.
Sự suy thoái của hệ
sinh thái rừng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nguồn lợi thủy sản,
đặc biệt là nguồn lợi thủy sản tự nhiên: bồi lắng các thủy vực, làm cho chỉ số
TSS trong môi trường nước tăng lên ảnh hưởng trực tiếp đến một số đối tượng
sinh vật phù du ưu độ trong... ví dụ thấy rõ nhất là hồ Lắk, đây là một thủy
vực tự nhiên, năm 2005 diện tích mặt nước trung bình của hồ là 658 ha, tuy
nhiên đến năm 2020 chỉ còn gần 600 ha, do sự bồi lắng ngày càng nhiều, diện
tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ trên địa bàn huyện hầu như đã bị mất đến 70%.
Mặt khác khi độ đục tăng lên trong hồ Lắk đã thay làm đổi môi trường nước trong
hồ ảnh hưởng đến sự phát triển của đối tượng rong đuôi chồn đây là giá thể để
trứng cá thát lát bám vào, đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến nguồn lợi
cá thát lát tại thủy vực này suy giảm nghiêm trọng. Bên cạnh đó khi rừng bị suy
giảm, các chất mùn thì thảm thực vật rừng ít đi thì cũng ảnh hưởng đến nguồn
thức ăn tự nhiên của cá.
3.
Phát triển du lịch
Thiên nhiên và lịch
sử của vùng đất đã tạo nên những di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh
độc đáo tại một số thủy vực và các vùng phụ cận. Ví dụ như Khu rừng Lịch sử -
Văn hoá - Môi trường hồ Lắk, Khu du lịch Buôn Đôn; các cảnh quan tự nhiên như
hồ Lăk, hang đá Ba tầng, cưỡi voi Buôn Đôn...; các điểm sáng lịch sử - văn hóa
như quần thể Biệt điện Bảo Đại và buôn làng dân tộc tiêu biểu. Vùng hồ Lắk lại
kế cận với Vườn quốc gia Chư Yang Sin và Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka. Cảnh
quan sinh thái kết hợp với các di tích lịch sử cách mạng, các làng văn hoá
truyền thống bản địa từ lâu đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Các điểm
du lịch trên nếu có ý thức bảo vệ, khai thác tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh tế
lớn cho địa phương.
Việc phát triển dịch
vụ du lịch có quan hệ mật thiết với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là thương
mại. Khách du lịch đến huyện ngoài việc đi tham quan các danh lam thắng cảnh,
tìm hiểu phong tục tập quán, truyền thống lịch sử của địa phương còn có nhiều
nhu cầu khác như ăn ở, đi lại, mua sắm quà lưu niệm. Do đó, các thế mạnh về du
lịch của huyện cũng sẽ kéo theo sự phát triển của một số ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó, các tác
động xấu của việc phát triển du lịch, việc xử lý nước thải và rác thải và công
tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân và khách du lịch... đều là
những thách thức mà những nhà quản lý cần lưu ý để việc quy hoạch khu bảo tồn
vùng nước nội địa cấp Quốc gia hồ Lắk đạt được mục tiêu đề ra là bảo vệ đa dạng
sinh học hài hòa với việc phát triển kinh tế - xã hội.
4.
Đô thị hóa và mở rộng hệ thống đường giao thông
Trong những năm qua,
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và Chính quyền các cấp của các
huyện đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát huy được tiềm
năng, thế mạnh của địa phương, giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các vùng.
Từ năm 2005 trở lại đây, nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Tổng sản phẩm
tăng bình quân hàng năm 12,7%, trong đó ngành nông lâm ngư nghiệp tăng 12,2%,
công nghiệp xây dựng tăng 8,6%, dịch vụ thương mại tăng 15,5%.
Để phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội, giao thông đô thị cũng sẽ được nâng cấp mở rộng, phát
triển phù hợp với không gian đô thị, đảm bảo thuận tiện cho việc đi lại và sinh
hoạt trong khu vực nội thị. Các đường Quốc lộ 27, 26 và 14 sẽ được nâng cấp, mở
rộng và rải nhựa đảm bảo cấp IV miền núi; tỉnh lộ 687 cũng sẽ nâng cấp rải nhựa
đảm bảo thông xe hai mùa, mặt đường đá dăm láng nhựa đạt tiêu chuẩn cấp V. Các
tuyến đường liên thôn, liên xã, nội đồng cũng được chú trọng phát triển.
Theo cư dân địa
phương và theo các số liệu thu thập được thì việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng
làm tăng lũ lụt; khi nâng cấp một số cầu, khẩu độ thoát lũ thu hẹp khiến lũ
phía thượng lưu cầu tăng; Việc phát triển hệ thống đê bao để tránh lũ tiểu mãn
cho một số địa phương đã dẫn đến lũ sớm và lũ tiểu mãn. Lũ tiểu mãn và lũ chính
vụ xảy ra thường xuyên hơn và có đỉnh cao hơn trong những năm gần đây. Những
năm gần đây mực nước trên sông cao hơn so với 15 năm trước trong mùa mưa. Chính
vì vậy, cần phải nghiên cứu cơ chế thoát nước và kiểm soát lũ để hạn chế tối đa
hậu quả của việc phát triển đô thị và mở rộng mạng lưới giao thông phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Những khu vực cần chú ý là các huyện Lắk, Krông Ana,
Krông Bông, Ea Súp…(hay có lũ tiểu mãn và lũ sớm do hệ thống đê bao).
5.
Sự suy giảm tài nguyên nước
Một hạn chế khi
nghiên cứu các quy hoạch, đề án phát triển thủy sản để bảo tồn thủy sinh vật là
trong vùng có rất ít thông tin về chất lượng và số lượng nước, bởi vì hạn chế
trạm thủy văn đang hoạt động và chỉ có một vài trạm đo khí tượng. Các trạm đo
khí tượng này lại chủ yếu nằm ở dưới vùng trũng trong khi trên khu vực núi cao
đầu nguồn Chư Yang Sin không có một trạm nào. Đây là một vấn đề cần được quan
tâm khi muốn đánh giá những tác động đến việc quản lý tài nguyên thiên nhiên ở
nước và các tài nguyên liên quan đến nước. Cần thiết hình thành các trạm đo khí
tượng thủy văn tại các điểm hội tụ của các nhánh thuộc 5 tiểu lưu vực của sông
Krông Ana, sông Krông Bông và các điểm đo khí tượng trên các sườn núi.
Khu vực lưu vực sông
Krông Ana nằm gần khu rừng của VQG Chư Yang Sin có độ che phủ tương đối cao so
với các nơi khác trong lưu vực Srêpốk do vậy nguồn nước ở đây khá dồi dào so
với các vùng khác của lưu vực. Theo tính toán cân bằng nước trên toàn vùng thì
hầu như không bao giờ thiếu nước kể cả trong mùa khô. Tuy nhiên sự phân bố tài
nguyên nước không đồng đều trên toàn vùng. Ngoài ra, do các công trình thủy lợi
chưa đồng bộ nên dẫn đến hiệu quả của việc cấp nước cho các ngành còn thấp.
Chất lượng nước trong
tại các thủy vực điều tra còn tương đối tốt. Mặc dù đã có dấu hiệu nhiễm thuốc
trừ sâu và thuốc diệt cỏ, nhưng ở một mức độ rất thấp. Không có nguồn nước thải
công nghiệp nào đổ vào các suối, bởi vì trong vùng không có nhà máy nào. Tuy
nhiên, do việc quản lý chất thải nói chung còn kém và ô nhiễm ở mức độ thấp do
các hệ thống canh tác (dư lượng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ vào
nguồn nước) nên cũng đã gây ô nhiễm cục bộ nguồn nước. Tình trạng do hiện tại
trong vùng không cá hệ thống thu gom rác thải; chất thải của các hộ gia đình,
xác súc vật chết đều xả trực tiếp vào môi trường và hệ thống sông, suối, hồ.
Hệ thống thủy lợi giữ
vai trò rất quan trọng, chủ yếu là cung cấp nước tưới cho lúa và cà phê. Toàn
tỉnh có 704 hồ thủy lợi, thủy điện, hồ chứa lớn nhỏ khác nhau, có 03 hệ thống
sông suối lớn đây là nguồn nước mặt quan trọng đảm bảo cung cấp cho sinh hoạt
và phát triển nông nghiệp của người dân.
6.
Khai thác cát trên lưu vực sông
Khai thác cát cũng
làm ảnh hưởng đến chế độ thủy văn, chất lượng nước và nguồn nước của sông krông
Ana. Dọc sông Krông Ana và sông Krông Bông, tình trạng khai thác cát không theo
quy hoạch đang diễn ra. Khai thác cát tập trung tại các mỏ cát ở các sông của
huyện Lắk và tập kết tại cầu Giang Sơn. Khi tìm hiểu việc khai thác cát trên
sông Krông Ana, cán bộ thu thuế các xe chở cát tại cầu Giang Sơn cho biết, trung
bình 1 ngày có khoảng 100 xe chở cát tại đây. Như vậy 1 năm có khoảng 280.000 m3 cát được khai thác và
tập kết tại cầu Giang Sơn. Nếu tính cả cầu chữ V thì tổng lượng cát khai thác
trên 300.000 m3/năm. Trong khi đó, theo quy hoạch tổng thể kinh tế
xã hội của tỉnh, sản lượng cát khai thác Giang Sơn được giao chỉ có 50.000m3/
năm. Việc khai thác cát mịn bằng cách bơm trực tiếp vào bờ sông để lấy cát đã
làm xói lở bờ sông rất nghiêm trọng. Nhu cầu khai thác cát tại vùng sẽ tăng khi
hoàn thành đập thủy điện Buôn Tua Shah vì khi đó phía sông Krông Nô sẽ không
còn nguồn cung cấp cát trong khi nhu cầu xây dưng của tỉnh ngày càng tăng. Việc
khai thác cát trong vùng ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ ổn định bờ sông Krông
Ana - con sông chính lưu thông nước vào hồ Lắk và làm xói lở bờ, mất dần đất
canh tác ven sông.
Địa hình của khu vực
ngoài thung lũng và vùng trũng là các núi với độ dốc tương đối lớn. Vùng địa
hình có độ dốc trên 8o chiếm
khoảng 72% diện tích tự nhiên, do vậy vấn đề xói mòn đất càng thêm nghiêm trọng
hơn nếu lớp phủ thực vật không còn. Trong khi đó, cộng đồng canh tác hoa màu
chủ yếu trên đất dốc. Ngoài ra, các cây trồng như cây sắn rất dễ làm mất độ màu
mỡ của đất và năng suất cây trồng ngày càng thấp.
Xói mòn đất trên lưu
vực càng làm cho lượng phù sa trên sông tăng nhanh, quá trình bồi lắng sông
thêm nghiêm trọng, đặc biệt ảnh hưởng và đe dọa đến sự an toàn của hai bên bờ
sông. Chính vì vậy, việc quy hoạch khu bảo tồn vùng nước nội địa cấp Tỉnh ở đây
cần phải đặc biệt chú ý đến việc xói mòn và diễn thế tự nhiên của sông Krông
Ana do việc khai thác cát trái phép trên sông trong lưu vực.
Ảnh hưởng việc khai
thác cát trên các dòng sông là tương đối nghiêm trọng: đó là việc khai thác cát
làm sạt lở hai bên bờ sông, trong khi đó hai bên bờ sông có nhiều thảm thực vật
thủy sinh đây là những bãi đẻ quan trọng của các đối tượng thủy sản, ví dụ trên
dòng sông Krông Ana có 30 bãi đẻ của cá thì có tới 20 bãi đẻ tập trung tại ven
sông. Mặt khác khi khai thác cát làm cho độ đục của nước tăng lên độ trong môi
trường nước giảm gây chết một số đối tượng sinh vật phù du làm thức ăn tự nhiên
cho thủy sản.
7.
Xây dựng các nhà máy thủy điện
Việc xây dựng các nhà
máy thủy điện dọc theo các sông, đặc biệt là lưu vực sông Srepôk với 09 nhà máy
thủy điện được xây dựng theo bậc thang đã tác động không nhỏ đến nguồn lợi thủy
sản. Trong đó đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến đường di cư sinh sản của 67
loài cá bản địa thuộc khu hệ cá lưu vực sông Mekông. Bên cạnh đó, việc xây dựng
2 trạm thủy điện nhỏ là Krông Kma và Đắk Liêng và hiện đang có kế hoạch xây
dựng thêm một số trạm nữa, có thể dẫn đến phá rừng và tác động tiêu cực tới hệ
sinh thái. Như vậy, rừng sẽ tiếp tục bị suy giảm và có tác động tiêu cực đối
với môi trường và tài nguyên nước. Do đó cần phải có những nghiên cứu tác động
môi trường thực tế tại các công trình trên hệ thống sông Krông Kma và Đắk
Liêng.
8.
Sử dụng ngư cụ khai thác thủy sản hủy diệt
Qua điều tra của nhóm
tư vấn thì hiện nay trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn xuất hiện các loại ngư cụ
hủy diệt trong khai thác thủy sản:
- Bình kích điện đeo
vai, loại kích điện (điện nóng, điện lạnh): Khi người khai thác cá sử dụng loại
này làm suy giảm nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng, người dân khi khai thác chỉ
đánh bắt được cá lớn trong khi đó các đối tượng đang ở giai đoạn cá bột, cá
hương và trứng cá mới sinh sản đều bị hủy diệt khi đưa nguồn điện xuống môi
trường nước... ngoài ra khi sử dụng ngư cụ này còn gây nguy hiểm đến tính mạng
cho người sử dụng.
- Ngư cụ có kích
thước mắt lưới nhỏ:
- Thuốc nổ: Qua điều
tra khảo sát của nhóm tư vấn tại các thủy vực trọng điểm, kết quả cho thấy hiện
nay tình hình sử dụng thuốc nổ để khai thác thủy sản chủ yếu được sử dụng tại
lưu vực sông Srêpốk giáp danh biên giới Campuchia, tuy nhiên mức độ dùng đã
giảm so với các năm về trước.
- Lá độc: Hiện nay sử
dụng lá thuốc (chủ yếu là cây trà, dã lấy nước, loại này khi đưa xuống nguồn
nước thủy sản cá sẽ bị chết) để khai thác thủy sản tại các thủy vực hầu như
không có, chỉ có một số ít người đồng bào sống xung quanh thủy vực Srêpốk tại
huyện Buôn Đôn cách đây 03 năm có sử dụng, nhưng hiện nay đã được các cơ quan
quản lý nhà nước tuyên truyền nghiêm cấm nên việc sử dụng hạn chế, trong thời
gian 02 năm trở lại đây không còn hiện tượng sử dụng cây lá độc để khai thác
thủy sản.
PHẦN THỨ BA
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2021 - 2025 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2035
I.
MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
- Kết hợp với bảo vệ
phát triển nguồn lợi thủy sản tự nhiên, bảo đảm cân đối hài hòa giữa phát triển
kinh tế và sử dụng tài nguyên nước tại các thủy vực cho nuôi trồng thủy sản phù
hợp với quy hoạch phân bổ tài nguyên nước, không gây ô nhiễm nguồn nước. Đảm
bảo phát triển giao thông đường thủy và du lịch. Nhằm tạo ra nguồn sản phẩm thủy
sản mang tính hàng hóa tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của nhân dân
vùng lồng hồ, khu vực sông, suối xung quanh.
- Phát triển thủy sản
tại các thủy vực sông, hồ chứa theo quan điểm bền vững bao gồm phát triển nguồn
lợi tự nhiên kết hợp với gây nuôi các loài thủy sản có chất lượng cao tạo ra
sản phẩm hàng hóa tập trung, đa dạng.Góp phần bảo tồn nguồn gen quý hiếm, phát
huy tính đa dạng sinh học của tỉnh.
2. Mục tiêu cụ thể
- Xây dựng chương
trình tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng trong công tác bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản: Đến năm 2025 dự kiến tổ chức được 30 lớp
tập huấn, tuyên truyền cho khoảng hơn 1.500 cán bộ quản lý thủy sản và người
dân sống xung quanh các thủy vực về các chính sách, văn bản pháp luật về lĩnh
vực thủy sản; triển khai được 12 phóng sự, tin bài về công tác bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản trên phạm vi toàn tỉnh.
- Điều tra được nguồn
lợi thủy sản để đánh giá lại trữ lượng thủy sản, thành phần loài tại các thủy
vực trọng điểm trên địa bàn tỉnh để có kế hoạch bổ sung tái tạo các đối tượng
thủy sản bị suy giảm số lượng trong thủy vực.
- Triển khai thuần
hóa, Di nhập nhập công nghệ sản xuất một số loài cá có giá trị kinh tế cao,
giống cá bản địa là cá Lăng Nha, Chiên Lăng, Mõm Trâu, Trà sóc và một số đối
tượng thủy sản có nguy cơ tuyệt chủng nằm trong sách đỏ, để bổ sung tái tạo lại
nguồn lợi thủy sản đã bị suy giảm.
- Triển khai thả cá
bổ sung nguồn lợi thủy sản vào các thủy vực hồ chứa, sông ngòi tự nhiên trên
địa bàn tỉnh. Đảm bảo nguồn lợi thủy sản tăng lên 10% so với thời điểm hiện tại.
- Triển khai bảo vệ
các Khu vực thủy sản tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung
sinh sống tại một số thủy vực điển hình trên địa bàn tỉnh: Sông Krông Ana,
Srêpốk, Hồ Lắk, Hồ Ea Súp Thượng, Ea Súp Hạ, Krông Buk Hạ... theo đúng quy định
pháp luật hiện nay.
- Triển khai thành
lập mới được 07 mô hình quản lý cộng đồng tại các thủy vực, đồng thời duy trì
được 07 mô hình quản lý cộng đồng đang thực hiện có hiệu quả chất lượng.
II.
QUAN ĐIỂM VÀ TIÊU CHÍ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Quan điểm xây dựng
đề án
Để công tác xây dựng
đề án vừa đáp ứng các mục tiêu bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, có tính
khả thi cao, vừa đáp ứng với yêu cầu của Nhà nước và quy định quốc tế, đồng thời thống nhất
với kế hoạch, quy hoạch, đề án, chương trình phát triển kinh tế của tỉnh và phù
hợp điều kiện thực tế của tỉnh, trong quá trình xây dựng đề án, cần thống nhất
4 quan điểm cơ bản sau:
- Đề án phải đảm bảo
sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận khai thác bền vững nguồn
lợi, giảm thiểu tình trạng khai thác quá mức, phục hồi và bảo vệ các giá trị về
đa dạng sinh học và các chức năng của hệ sinh thái, bảo vệ môi trường.
- Các mô hình Đồng
quản lý phải hướng tới quản lý tài nguyên trên cơ sở xã hội hoá bảo tồn có sự
tham gia của cộng đồng, tạo được sinh kế cho người dân, phát huy được hiệu quả
trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững. Kết hợp với phân cấp quản lý ở
cấp địa phương, và gìn giữ được các giá trị sinh thái học thông qua các liên
kết với các khu BTVNNĐ khác trong hệ thống và các khu BTTN trong khu vực nhằm
tăng cường và mở rộng hợp tác trong phạm vi khu vực và quốc tế.
- Đề án Bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản phải phù hợp với Chiến lược phát triển thủy sản
Việt Nam theo Quyết định số 339/QĐ-TTg , ngày 11/3/2021 của Thủ tướng chính phủ
về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030 và tầm
nhìn đến năm 2045, đồng thời phải xem xét đến các chủ trương, kế hoạch, quy
hoạch đã được phê duyệt của địa phương.
2. Tiêu chí xây dựng
Đề án
2.1. Phù hợp với
Chương trình phát triển của ngành thủy sản và Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương
2.2. Đảm bảo bảo tồn
đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
- Bảo tồn đa dạng
sinh học:
Đề án Bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản cần đảm bảo mục tiêu quan trọng nhất và cũng chính là
cơ sở cho việc hình thành các mô hình đồng quản lý, khu bảo vệ đó là bảo tồn và
phát triển bền vững các loài động thực vật sinh sống và phát triển tại các thủy
vực, đặc biệt là một số đối tượng đang nằm trong sách đỏ Việt Nam
- Bảo vệ môi
trường:
Bảo vệ môi trường là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các mô hình quản lý. Các nội dung chủ
yếu của đề án nhằm góp phần bảo vệ các cảnh quan tự nhiên, các hệ sinh thái có
ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết nguồn nước, duy trì nguồn nước; giảm
thiểu ô nhiễm nguồn nước cung cấp cho sông; làm chậm quá trình diễn thế xảy ra
trong sông, đặc biệt là quá trình bồi lắng làm nông dân ven sông.
- Phát triển bền
vững:
Phát huy các tiềm
năng, lợi thế về tài nguyên rừng, nước, đảm bảo sử dụng bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, duy trì chất lượng môi trường, đảm bảo tăng trưởng kinh tế
của địa phương, nâng cao chất lượng đời sống người dân, bảo vệ đa dạng sinh học
trong vùng. Khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên đa
dạng sinh học mang tính đặc trưng của vùng
2.3. Đảm bảo hiệu quả
kinh tế
Đề án phải gắn với
việc thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương theo định hướng phát triển tiềm
năng, lợi thế của địa phương về con người, về vốn, về tài nguyên đất đai, rừng,
nước...để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ
cấu lao động trên cơ sở gắn chặt với bảo vệ môi trường, đồng thời giải quyết
các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, cải
thiện cơ bản đời sống người dân khu vực xung quanh sông. Các nguồn tài nguyên
thiên nhiên được khai thác, sử dụng một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế
của các sản phẩm và dịch vụ khai thác từ các hệ sinh thái cũng như du lịch sinh
thái, du lịch văn hóa, du lịch làng nghề. Nghiên cứu phát triển nghề nuôi trồng
các loài thủy sản bản địa đặc trưng của vùng và có giá trị kinh tế cao như cá
thát lát
2.4. Đảm bảo lợi ích
của cộng đồng địa phương
Đề án cần đảm bảo tạo
được sinh kế cho cộng đồng địa phương, nhất là những người từ trước đến nay có
đời sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên khai thác từ hồ, đảm bảo cho họ có đời
sống ổn định, tạo cơ hội việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời
sống.
Khi đời sống vật chất
của người dân được đảm bảo, được tạo công ăn việc làm, được chia sẻ lợi ích từ
việc tham gia các hoạt động bảo tồn, áp lực lên các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, tài nguyên đa dạng sinh học và môi trường trong khu vực sẽ được hạn chế
ở mức tối đa.
III.
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK LẮK ĐẾN NĂM 2025
1.
Điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sản
tại cá thủy vực trên địa bàn tỉnh
1.1 Mục tiêu và nội
dung:
- Xác định danh mục
loài thủy sản nguy cấp, quý hiếm, đặc hữu có giá trị khoa học, kinh tế cần được
bảo vệ, phục hồi và phát triển.
- Xác định danh mục
và khoanh vùng khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, khu vực cấm khai thác thủy sản có
thời hạn, đường di cư tự nhiên của các loài thủy sản.
- Xác định trữ lượng
thủy sản, sản lượng cho phép khai thác
- Đánh giá biến động
nguồn lợi thủy sản
- Xác định lại hiện
trạng khai thác, các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, ảnh hưởng của
nguồn lợi đến đời sống ngư dân.
1.2 Đối tượng điều
tra
- Nguồn lợi thủy sản
và nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực nội địa (gồm: các sông, suối, hồ tự
nhiên, hồ nhân tạo, vùng đất ngập nước khác) thuộc hệ thống lưu vực sông chính.
- Nguồn giống thủy
sản ở các bãi đẻ, bãi ương nuôi tự nhiên và đường di cư tự nhiên của các loài
thủy sản.
- Môi trường sống của
các loài thủy sản, gồm: môi trường thủy lý, thủy hoá, khí tượng, hải dương học
và thủy sinh vật.
Địa điểm triển khai
thực hiện
Trong giai đoạn đến
năm 2025 tập trung đánh giá các thủy vực trọng điểm nghề cá: Sông Krông Ana,
sông Srêpốk, hồ Lắk, hồ Ea Súp thượng, hồ Ea Súp hạ, hồ thủy điện Buôn Tua
Shar, hồ thủy điện Srêpốk 3, hồ Krông Buk Hạ, Hồ Buôn Triết, hồ Ea Kao, hồ Ea
Kar. Lưu vực sông sông Krông Bông, Krông Pắc, Krông Hnăng.
1.3 Quy trình điều
tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của loài thủy sản
Điều tra, đánh giá
nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của loài thủy sản được thực hiện theo quy
trình sau đây:
- Thiết kế điều tra.
- Chuẩn bị điều tra.
- Thực hiện điều tra.
- Phân tích kết quả
điều tra.
- Xử lý số liệu điều
tra.
- Báo cáo kết quả
điều tra.
- Lưu trữ kết quả
điều tra.
1.4 Nội dung điều tra
nguồn lợi thủy sản
(1) Hoàn thiện cơ sở
khoa học, định mức kinh tế kỹ thuật điều tra nguồn lợi và môi trường sống của
các loài thủy sản
- Hoàn thiện và ban
hành bộ chỉ số, quy trình kỹ thuật, quy phạm điều tra, đánh giá nguồn lợi và
môi trường sống của các loài thủy sản.
- Xây dựng, hoàn
thiện và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật điều tra, đánh giá nguồn lợi và môi
trường sống của các loài thủy sản.
(2) Điều tra đánh giá
nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của loài thủy sản ở vùng nước nội địa
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
- Điều tra nguồn lợi
và môi trường sống của loài thủy sản ở vùng nước nội địa chủ yếu thuộc các nhóm
cá nổi lớn, cá nổi nhỏ, cá đáy, giáp xác, nhuyễn thể chân đầu, ... Đối với mỗi
nhóm đối tượng, việc điều tra được thực hiện với tần suất 5 năm 1 lần (quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 12, Luật Thủy sản).
(3) Điều tra nguồn
lợi và môi trường sống của các loài thủy sản ở các thủy vực trọng điểm trên địa
bàn tỉnh
- Điều tra nguồn lợi
thủy sản và môi trường ở các thủy vực nước ngọt nội địa (hồ, sông, suối, vùng
đất ngập nước khác)
- Điều tra hoạt động
khai thác thủy sản nội địa (hồ, sông, suối, vùng đất ngập nước khác)
(4) Điều tra nguồn
lợi thủy sản và môi trường sống của loài thủy sản trong các hệ sinh thái vùng
nước nội địa
(5) Điều tra khu vực
tập trung sinh sản, các loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, đường di cư tự nhiên
của loài thủy sản
- Điều tra các bãi
đẻ, bãi ương nuôi tự nhiên của các loài thủy sản để xác định khu bảo vệ nguồn
lợi (khu vực cư trú, tập trung sinh sản, khu vực ương nuôi tự nhiên của các
loài thủy sản), khu vực cấm khai thác có thời hạn, khu vực cư trú nhân tạo của
các loài thủy sản.
- Điều tra, đánh giá
xâm hại nguồn lợi của các loại nghề, ngư cụ sử dụng khai thác nguồn lợi thủy
sản ở biển, trong các hệ sinh thái biển và các thủy vực nước ngọt nội địa làm
cơ sở xác định Danh mục nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản.
- Điều tra xác định
kích thước loài thủy sản được phép khai thác, xác định loài thủy sản quý, hiếm,
đường di cư của loài thủy sản trong các thủy vực tự nhiên đặc biệt là các loài
thủy sản lưỡng cư và di cư xa. (Nội dung này có thể được thực hiện điều tra độc
lập hoặc lồng ghép với các hoạt động điều tra tại nội dung 1, 2)
2.
Xây dựng và quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản
2.1 Mục tiêu và đối
tượng quản lý
Khu bảo vệ nguồn lợi
thủy sản là nơi cư trú, tập trung sinh sản, nơi thủy sản còn non tập trung sinh
sống thường xuyên hoặc theo mùa của ít nhất một loài thủy sản thuộc Danh mục
loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm hoặc loài thủy sản bản địa hoặc loài thủy sản
di cư xuyên biên giới. Đây là một quy định mới tại Luật Thủy sản năm 2017, theo
đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức điều tra, xác định, ban hành
danh mục khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên phạm vi cả nước; UBND cấp tỉnh tổ
chức điều tra, xác định bổ sung khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn
(thông tư 19/2018/TT-BNNPTNT). Như vây, việc quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy
sản là rất quan trọng, bảo vệ ngay từ giai đoạn đầu của đối tượng thủy sản,rà
soát, bổ sung khu bảo vệ nguồn lợi, xây dựng hệ thống bản đồ, khoanh vùng…theo
qui định khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn. nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác tại khu vực bảo vệ
nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Có thực hiện tốt nội dung này thì
nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh mới được bảo vệ một cách khả thi và hiệu
quả.
Trên cơ sở điều tra
đánh giá xác định khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại cá thủy vực, đối tượng quản
lý thủy sản được giao cụ thể tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương:
- Cơ quan quản lý nhà
nước về thủy sản cấp tỉnh hoặc chính quyền cấp huyện, cấp xã.
- Tổ chức cộng đồng
tự nguyện đề xuất được giao quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Đối với trường hợp cụ
thể tỉnh Đắk Lắk là một tỉnh nội đồng, số lượng cán bộ chuyên trách thủy sản ít
(đã đánh giá phần thực trạng: chỉ có Chi cục Thủy sản tỉnh với 15 biên chế, còn
quản lý nhà nước lĩnh vực thủy sản cấp huyện thì giao phòng Nông nghiệp và PTNT
các huyện, phòng kinh tế thị xã và thành phố với đội ngũ cán bộ công chức
chuyên ngành mỏng, có huyện không có cán bộ đào tạo chuyên ngành thủy sản,
trong khi đó ở cấp xã thì cán bộ chuyên môn thủy sản thì hầu như không có), do
đó việc quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh trong thời gian
tới cơ bản theo xu hướng giao cho các tổ chức cộng đồng, còn nhà nước đóng vai
trò kiểm tra, giám sát.
2.2. Thành lập mô
hình quản lý cộng đồng (Đồng quản lý)
- Mục tiêu:
Đây là mô hình quản
lý nguồn lợi tự nhiên theo phương thức đồng quản lý. Đối với ngành thủy sản,
đây là hình thức quản lý nguồn lợi trong đó cộng đồng, chính quyền địa phương
và các bên có liên quan cùng chia sẻ trách nhiệm và quyền sử dụng, khai thác
một cách bền vững các nguồn lợi thủy sản. Trong thời gian tới mô hình này nên
được nhân rộng để giúp chính quyền địa phương quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy
sản.
- Các hoạt động
triển khai mô hình đồng quản lý bao gồm:(1) Tổ chức quản lý hoạt động của Hội;
(2) Nâng cao năng lực của hội viên; (3) Thúc đẩy sự phối hợp quản lý nguồn lợi
của các cấp chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan; (4) Hoạt động
tuần tra bảo vệ; (5) Hoạt động tín dụng, tiết kiệm; (6) Hoạt động thu lệ phí
đánh bắt tạo nguồn thu cho Hội; (7) Hoạt động thả cá tái tạo nguồn lợi và nuôi
cá eo ngách; (8) Chuyển giao các hoạt động đồng quản lý cho địa phương.
* Tổ chức quản lý
hoạt động của Hội:
Các cuộc họp là hoạt động quan trọng để duy trì các hoạt động của Chi hội, Hội
theo định hướng ban đầu. Hàng tháng các thành viên Ban chấp hành Chi hội tổ
chức các cuộc họp định kỳ để rà soát hoạt động của các tổ, của Chi hội, đồng
thời thảo luận để đưa ra những nhận xét, góp ý, hướng giải quyết,... và lập kế
hoạch hoạt động cho tháng tiếp theo và trong một thời gian dài. Cuộc họp định
kỳ của các nhóm ngư dân thường được tổ chức trước cuộc họp của Ban chấp hành.
Trong một số trường hợp, cuộc họp tổ hàng tháng được tổ chức kết hợp với tổ
tính dụng tiết kiệm. Hàng năm Hội tổ chức đại hội vào cuối năm để tổng kết các
hoạt động của Hội, thông báo tình hình thu chi, công khai tài chính cho các
hoạt động của Hội. Hầu hết, các cuộc họp Ban chấp hành và các đợt đại hội đều
có sự tham gia của Dự án và đại diện chính quyền địa phương. Hội đã soạn thảo
quy chế hoạt động của Hội, quy chế đánh bắt... với sự giúp đỡ của Dự án. Việc
xây dựng quy chế đánh bắt, quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản được
thông qua các cuộc họp cộng đồng, người dân tự đóng góp xây dựng các quy chế
đánh bắt, quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bao gồm cả các quy
định phạt khi có sự vi phạm quy chế. Quy chế này được trình lên chính quyền để
thống nhất và đạt được sự phê chuẩn. Ngoài ra, Chi hội và Hội cũng đã chú trọng
đến công tác tuyên truyền cũng như ngăn cấm việc sử dụng các ngư cụ hủy diệt để
khai thác thủy sản trong hồ để cho mọi người dân biết và thực hiện qua việc làm
các áp phích... đồng thời quản lý các xung đột.
* Nâng cao năng lực
của hội viên : Sau
khi thành lập Hội nghề cá, theo nhu cầu của các hội viên và chính quyền các
cấp, với sự hỗ trợ của Dự án, Hội đã phối hợp với dự án và chính quyền địa
phương tổ chức các lớp tập huấn nhằm: (1) Nâng cao nhận thức về môi trường
sinh thái và nguồn lợi thủy sản; (2) Tăng cường sự tham gia quản lý nghề cá của
cộng đồng và chính quyền địa phương; (3) Cải thiện đời sống cho cộng đồng; (4)
Tạo nguồn vốn để các ngư dân hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Các chuyên đề tập huấn bao gồm: Phương thức hoạt động tín dụng và
tiết kiệm; Kỹ năng lãnh đạo và tổ chức hội họp; Kỹ thuật nuôi cá hồ chứa; Kỹ
thuật lựa chọn và vận chuyển cá giống; Kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính, chăn
nuôi, trồng trọt để phát triển kinh tế hộ gia đình; Kỹ thuật đan và vá lưới;
Phương thức thu mẫu sản lượng cá thả; Kỹ thuật nuôi cá ao; Sinh thái môi trường
và nguồn lợi thủy sản; Hướng dẫn Luật thủy sản và các nghị định liên quan; Kỹ
thuật nuôi cá nước ngọt (chắn đăng, ao và hồ chứa). Các lớp tập huấn tổ chức
hàng năm từ 1 - 7 lớp. Kết quả cho thấy hầu hết ngư dân thuộc Chi hội đều được
tham gia từ 1 - 3 lớp tập huấn, một số lớp tập huấn có sự tham gia của cán bộ
chính quyền địa phương như: Sinh thái môi trường và nguồn lợi thủy sản, kỹ
thuật chăn nuôi, trồng trọt, Kỹ năng lãnh đạo và phương pháp tổ chức hội họp.
Đặc biệt, tất cả ngư dân trong và ngoài Chi hội, Hội đều được tham dự hai lớp
tập huấn hướng dẫn luật thủy sản và các nghị định liên quan cùng với cán bộ
chính quyền các cấp.
* Thúc đẩy sự phối
hợp quản lý nguồn lợi của các cấp chính quyền địa phương và các ban ngành liên
quan: Vai
trò của chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan rất quan trọng khi
triển khai mô hình đồng quản lý nghề cá. Sau khi thành lập, Hội đã không ngừng
tiếp xúc với chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan từ xã, thị trấn
đến cấp tỉnh, Trung ương trong việc phối hợp quản lý nghề cá với sự giúp đỡ của
Dự án. Nhiều tổ chức cơ quan, đoàn thể... đã đến thăm và làm việc với Hội.
* Hoạt động tuần tra
bảo vệ : Vấn
đề quan trọng nhất liên quan đến Hội nghề cá là tác hại của việc sử dụng các
ngư cụ hủy diệt (dí điện, lưới rùng, chất độc, chất nổ...) đến nguồn lợi của
hồ. Nhằm ngăn chặn việc sử dụng các ngư cụ hủy diệt và đánh bắt bất hợp pháp,
tổ tuần tra bảo vệ trong phạm vi cụ thể từng xã, thị trấn được thành lập với sự
tham gia của một số thành viên trong Hội. Tổ tuần tra thường xuyên kết hợp với
công an đi tuần tra và tịch thu các ngư cụ hủy diệt (dí điện) đồng thời kiến
nghị chính quyền địa phương quản lý.Vào những thời điểm cụ thể khi hoạt động
đánh bắt bất hợp pháp và sử dụng ngư cụ hủy diệt gia tăng thì Ủy ban nhân dân
huyện Lắk ban hành quyết định thành lập “Đội tuần tra bảo vệ liên ngành”, bao
gồm thành viên của Hội, công an huyện, đài truyền hình, Phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân 4 xã quanh hồ tổ chức đi tuần tra bảo vệ
để ngăn chặn hiện tượng này.
* Hoạt động tín dụng
và tiết kiệm: Sau
khi được tập huấn về “Phương thức hoạt động tín dụng và tiết kiệm”, Hội đã
thành lập các tổ tín dụng và tiết kiệm với sự tham gia tự nguyện của nhiều hội
viên. Mục đích của hoạt động này là giúp cho người dân tự huy động vốn, giúp họ
chuyển đổi nghề nghiệp, làm thêm nghề phụ, sắm sửa ngư cụ, và giúp nhau trong
cuộc sống nhằm giảm áp lực khai thác, tạo mối quan hệ tương thân, tương ái,
đoàn kết trong cộng đồng.
* Hoạt động thu lệ
phí đánh bắt tạo nguồn thu cho hội: Mọi hoạt động của Hội đều cần tiền: Họp, tuần
tra bảo vệ, thả cá, mua các vật dụng văn phòng phẩm... Do vậy, tất cả các hội
viên của Hội đều phải nộp phí đánh bắt, hội phí và phí tuần tra bảo vệ cho Hội.
Hàng tháng, các tổ tổ chức họp 1 lần vào đầu tháng và phân loại để quy định mức
thu cho mỗi người trong tháng. Khoản thu này do các tổ trưởng đi thu trực tiếp
những thành viên của tổ mình. Ngày họp Ban chấp hành hàng tháng, họ phải nộp
cho kế toán trưởng của Hội và thông báo tổng số tiền đã thu được.
* Hoạt động thả cá
tái tạo nguồn lợi và nuôi cá eo ngách: Trước khi thành lập mô hình đồng quản lý, ngư
dân chỉ khai thác nguồn lợi cá tự nhiên. Tuy nhiên, dưới áp lực đánh bắt quá
lớn nên sản lượng khai thác ngày càng suy giảm, đời sống ngư dân gặp nhiều khó
khăn. Để duy trì sản lượng và nâng cao sản lượng cá trong hồ, cải thiện thu
nhập cho các hội viên, Hội đã tiến hành thả cá bổ sung nguồn lợi.
* Chuyển giao các
hoạt động đồng quản lý ở hồ chứa cho chính quyền địa phương: Mục đích để bồi dưỡng
năng lực của Ban chấp hành và các hội viên để họ có thể thực hiện quản lý nghề
cá với sự giảm dần vai trò và sự hỗ trợ từ dự án, đồng thời gia tăng sự quan
tâm của chính quyền địa phương và các bên liên quan đối với đồng quản lý nghề
cá.
2.3 Hoạt động tuần
tra, kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
- Tăng cường triển
khai thành lập các đoàn kiểm tra xử lý vi phạm: Rút kinh nghiệm từ giai đoạn
trước đối với việc thành lập các đoàn kiểm tra xử lý (Hầu như chính quyền cấp
xã chưa quan tâm đúng mức) vì vậy trong giai đoạn này yêu cầu chính quyền cấp
xã bố trí cán bộ phối hợp với liên ngành thực hiện công tác điều tra, kiểm soát
trên địa bàn quản lý.
- Tiếp tục triển khai
thực hiện Quy chế phối hợp với lực lượng Công an, Biên phòng: Phát huy kết quả
thực hiện trong giai đoạn trước, hàng năm, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn căn cứ vào kế hoạch phối hợp giữa Cục Cảnh sát đường thủy và Cục Khai thác
và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản về đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự xã
hội trong lĩnh vực thủy sản trên đường thủy nội địa chỉ đạo cơ quan chuyên môn (Chi
cục Thủy sản) phối hợp Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện)
2.4 Xây dựng hệ thống
bản đồ
Xây dựng bản đồ cắn,
mốc khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn trên địa bàn tỉnh (Theo QĐ
38/2020/QĐ-UBND ngày 17/12/2020).
3.
Đánh dấu ngư cụ, danh mục nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản; danh mục
khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn.
3.1 Mục đích
Việc xác định nghề,
ngư cụ cấm khai thác thủy sản nhằm mục tiêu cấm người dân sử dụng các phương
tiện này để khai thác thủy sản trên các thủy vực của tỉnh để phục hồi nguồn lợi
thủy sản, đảm bảo sự đa dạng sinh học trong môi trường nước.
3.2 Tiêu chí xác định
nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản(Theo thông tư 19/
2018/TT-BNNPTNT ngày 15/11/2018):
- Nghề, Ngư cụ gây
nguy hại, hủy diệt nguồn lợi thủy sản, môi trường sống của loài thủy sản, hệ
sinh thái thủy sinh đã được đánh giá tác động quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành.
- Nghề, ngư cụ thuộc
danh mục cấm theo quy định của tổ chức quản lý nghề cá khu vực mà Việt Nam là
thành viên hoặc không phải là thành viên nhưng có hợp tác.
- Nghề khai thác xâm
hại nguồn lợi có tính mùa vụ vào mùa sinh sản và ương nuôi nguồn giống thủy
sản.
- Nghề khai thác xâm
hại nguồn lợi các đối tượng thủy sản kinh tế còn non, chưa đạt kích thước khai
thác cho phép và vượt quá mức 10% tỷ lệ thủy sản còn non lẫn tạp trong sản
lượng khai thác.
Một số nghề, ngư cụ
cấm sử dụng khai thác thủy sản cụ thể ở bảng sau:
Bảng
10. danh mục nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác thủy sản
TT
|
Nghề,
ngư cụ cấm
|
Phạm
vi
|
1
|
Nghề lồng xếp (lờ
dây, bát quái, lừ, dớn...)
|
Vùng ven bờ; vùng
nội địa
|
2
|
Nghề đăng, đáy, te,
xiệp, xịch, xăm.
|
Vùng ven bờ; vùng
nội địa
|
Bảng 11. Ngư cụ cấm
sử dụng khai thác nguồn lợi thủy sản ở vùng nội địa có kích thước mắt lưới tại
bộ phận tập trung cá nhỏ hơn kích thước quy định
TT
|
Tên
loại ngư cụ
|
Kích
thước mắt lưới quy định (2a (mm))
|
1
|
Lưới vây
|
18
|
2
|
Lưới kéo
|
20
|
3
|
Lưới rê (lưới
bén,...)
|
40
|
4
|
Lưới rê (cá linh)
|
15
|
5
|
Vó
|
20
|
6
|
Chài các loại
|
15
|
Trong thời gian tới,
UBND tỉnh tiếp tục giao Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp với UBND cấp huyện tham
mưu cho UBND tỉnh bổ sung, sửa đổi, triển khai, rà soát để tiếp tục đưa vào
danh mục thêm các nghề, ngư cụ khai thác làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tại
các thủy vực.
4.
Xác định và quản lý khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn
Khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn được xác định tại vùng có thủy sản tập trung sinh sản,
thủy sản còn non tập trung sinh sống trong khoảng thời gian nhất định trong năm
và có thể xác định được một số đối tượng chính cần bảo vệ tại khu vực đó nhằm
tái tạo, phát triển nguồn lợi thủy sản. Từ năm 2006, Bộ Thủy sản (nay là Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã quy định khu vực cấm khai thác thủy sản
có thời hạn tại Thông tư số 02/2006/TT-BTS ngày 20/3/2006 và quy định được sửa đổi,
bổ sung năm 2008 tại Thông tư số 62/2008/TT-BNN ngày 20/5/2008 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
Khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn theo Thông tư 19/2018/TT- BNNPTNT ngày 15/11/2018 được xác
định cụ thể như sau được xác định cụ thể như sau:
- Khu vực tập trung
sinh sản của các loài thủy sản, khu vực có mật độ phân bố trứng của các loài
thủy sản cao hơn so với các vùng lân cận.
- Khu vực tập trung
sinh sống của các loài thủy sản chưa thành thục sinh sản, khu vực có mật độ
phân bố cá con, tôm con và ấu trùng các loài thủy sản cao so với vùng lân cận
- Khu vực di cư sinh
sản của các loài thủy sản
- Khu vực cấm khai
thác thủy sản của các tổ chức quản lý nghề cá khu vực mà Việt Nam là thành viên
hoặc không phải thành viên nhưng có hợp tác
Như vậy, việc xác
định khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn là một trong những nội dung hết
sức quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản cần phải
được các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh triển khai thực hiện. Một số thủy vực thủy
sản cần phải xác định mùa vụ khai thác thủy sản để quản lý: Hệ thống các sông
(sông Krông Ana, Srêpốk, hệ thống sông Ba, sông Krông H’Năng, Ea H’leo, Krông
Pắc); Hồ Lắk. Sau khi UBND tỉnh ban hành văn bản QPPL về khu vực cấm khai thác
thủy sản có thời hạn trong năm, đồng thời giao cho các cơ quan ban ngành liên
quan triển khai thanh kiểm tra việc chấp hành quy định này một cách chặt chẽ,
để đảm bảo nguồn lợi thủy sản bền vững.
5.
Phục hồi tái tạo nguồn lợi thủy sản và các hệ sinh thái
- Mục tiêu: Nhằm tái
tạo nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh
- Đối tượng cá thả bổ
sung nguồn lợi thủy sản
Trước tình hình suy
giảm nguồn lợi hiện nay, việc thả cá có định hướng vào các thủy vực là điều cần
thiết để tái tạo nguồn lợi. Tuy nhiên, do đặc điểm của các thủy vực là khác
nhau nên cân nhắc hình thức thả, đối tượng cá thả, thời điểm thả cá và thủy vực
áp dụng.
- Đối với hệ thống
sông thuộc lưu vực sông Srêpốk: Tập trung thả các đối tượng đang có nguy cơ
tuyệt chủng cao như: Cá thát lát, cá Mõm trâu, cá Trà sóc, cá ngựa xám, cá
Chiên Lăng, cá Lăng Nha…
- Đối với các hệ
thống sông còn lại (như hệ thống sông Ba, Ea H’leo, Krông Pắc): Tập trung bổ
sung các đối tượng cá truyền thống như: cá Chép, cá trôi, cá Trắm cỏ.
- Đối với hệ thống hồ
tự nhiên (hồ Lắk): Tập trung thả các đối tượng đặc hữu của hồ: cá Thát lát, cá
Chép, cá ngựa nam, cá Sặc…
- Đối với hệ thống hồ
chứa, hồ thủy lợi (có thực hiện mô hình đồng quản lý, hoặc giao cho hợp tác xã,
đoàn thể quản lý): thả các đối tượng cá truyền thống để nâng sản lượng khai
thác, nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư thành viên chi hôi như: cá Trắm cỏ,
cá Mè (mè hoa, mè trắng), cá trôi, cá chép.
6.
Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và nuôi các loài quý hiếm
Trong sách đỏ Việt
Nam (năm 2007), Đắk Lắk có 7 loài cá gồm: cá chiên, cá mõm trâu, cá sọc dưa, cá
rầm xanh... nằm trong cấp độ VU (Vulnerable - sắp nguy cấp). Để những loài cá
này tồn tại và phát triển, biến chúng thành những đặc sản có giá trị kinh tế
của Đắk Lắk cần có sự chung sức của toàn thể xã hội, có các biện pháp cấp thiết
bảo vệ cá ngoài tự nhiên và có các công trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo chủ
động về nguồn giống đến người nuôi.
7.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng và bảo vệ nguồn lợi
Những kết quả nghiên
cứu về điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng khai thác thủy sản cho thấy sự
hiểu biết của họ về vai trò của nguồn lợi thủy sinh vật trong sự phát triển bền
vững còn rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là do trình độ dân trí
thấp, các phương tiện thông tin đại chúng đến cộng đồng chưa được phát triển,
chính quyền các cấp chưa quan tâm đúng mức. Cần quan tâm nâng cao nhận thức,
kiến thức khai thác và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản cho cộng đồng
thông qua việc tuyên truyền, các lớp tập huấn như: Sử dụng nguồn lợi, các loại
ngư cụ và những tác động của ngư cụ đến môi trường, sinh thái thủy sinh...
IV.
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Giải pháp về Khoa
học công nghệ
- Tiếp tục nghiên
cứu, lựa chọn giống bố mẹ và hoàn thiện quy trình sản xuất cá giống nhân tạo
một số loài thủy sản có giá trị kinh tế, loài thủy sản bản địa đặc hữu nhằm bổ
sung nguồn giống thủy sản phục vụ cho công tác tái tạo và phát triển nguồn lợi
thủy sản, phục hồi mật độ quần thể một số giống loài đang bị tập trung khai
thác và có nguy cơ tuyệt chủng.
- Ứng dụng công nghệ
sử dụng viễn thám, định vị trong công tác quản lý, giám sát hoạt động khai thác
thủy sản nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, môi trường sống của các loài thủy sản.
- Triển khai đề tài
nghiên cứu khoa học về các loài thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng nhằm
bổ sung thông tin về đặc điểm sinh học, biến động quần thể đề xuất loại hình
bảo vệ phù hợp
- Triển khai nhanh,
rộng các kết quả nghiên cứu sản xuất giống, các loại nghề khai thác có chọn
lọc, nâng cao hiệu quả nghề khai thác, các mô hình tổ chức sản xuất gắn với
cộng đồng để bảo vệ nguồn lợi thủy sản và tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng
dân cư thông qua các hình thức khuyến ngư.
- Đẩy mạnh công tác
khuyến ngư; xây dựng các mô hình trình diễn ứng dụng kỹ thuật về ương nuôi cá
giống, mô hình nuôi cá lồng hồ chứa có năng xuất cao, nuôi cá lồng với các
giống loài mới, mô hình sản xuất thức ăn bằng nguyên liệu tự nhiên, phòng và
chữa bệnh cho cá nuôi.
2. Giải pháp về đào
tạo nguồn nhân lực
- Tiếp tục đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục về mục đích công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng ngư dân làm
nghề khai thác thủy sản và thanh thiếu niên, học sinh các cấp tại các địa
phương; đồng thời huy động các tổ chức xã hội và nghề nghiệp tham gia các hoạt
động để đưa công tác vận động, tuyên truyền sâu rộng, từng bước nâng cao nhận
thức cho cộng đồng ngư dân trong công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
- Sử dụng nhiều hình
thức tuyên truyền phù hợp với tập quán, với điều kiện và đối tượng của từng địa
phương như: Xây dựng phim truyền hình, tiểu phẩm, ấn phẩm, phát thanh, báo chí,
đài của địa phương; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về bảo vệ nguồn lợi thủy sản
với sự tham gia của đông đảo cộng đồng ngư dân địa phương.
- Nghiên cứu, biên
soạn đưa các nội dung về lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản vào
chương trình ngoại khóa của trường học các cấp, trước mắt tại các lưu vực sông
lớn như sông Krông Ana, Srêpốk, hồ Lắk..
- Tập trung đào tạo
đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao nhằm kiện toàn hệ thống thanh tra, kiểm tra,
giám sát các hoạt động liên quan đến công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Chú
trọng đến hoạt động đào tạo, tập huấn cho các thành viên Chi hội nghề cá.
3. Giải pháp về tổ
chức sản xuất nuôi trồng thủy sản
Bao gồm 9 nhóm giải
pháp chính đã được UBND tỉnh ban hành tại Quyết định số 323/QĐ-UBND, ngày
08/02/2021 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án phát triển nuôi trồng thủy sản
giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Giải pháp về cơ
chế chính sách
- Rà soát, bổ sung và
xây dựng mới các văn bản quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản; trước mắt là các văn bản quy định nghề ngư cụ cấm khai thác
thủy sản, quy định khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, mùa vụ khai thác thủy sản có
thời hạn tại các thủy vực tự nhiên phù hợp với quy định Luật Thủy sản, Luật Đa
dạng sinh học và thực tiễn của ngành, của địa phương.
- Nghiên cứu, xây
dựng cơ chế, chính sách khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động
bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tạo dựng hệ thống cộng tác viên bảo vệ nguồn lợi
thủy sản trên cơ sở các chi hội nghề cá được giao nhiệm vụ quản lý khu bảo vệ
nguồn lợi thủy sản
- Nghiên cứu, xây
dựng cơ chế, chính sách khuyến khích hỗ trợ trong việc chuyển đổi sinh kế cho
cộng đồng ngư dân đảm bảo đồng bộ phù hợp với các chương trình.
- Nghiên cứu đề xuất
hình thành Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản và Quỹ cộng đồng (theo
Điều 21, Điều 22 Luật Thủy sản 2017) để có nguồn tài chính chủ động thực hiện
công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
- Xây dựng cơ chế
chính sách nhằm hỗ trợ, giúp đỡ các đối tượng sinh sống bằng cách đánh bắt thủy
sản tận diệt và chuyển đổi cách thức khai thác, nghề phù hợp hơn: Hỗ trợ các dự
án chuyển đổi sinh kế như nuôi lồng bè trên các thủy vực (hỗ trợ con giống, kỹ
thuật, vật tư…).
5. Giải pháp về hợp
tác quốc tế
- Tăng cường hợp tác
quốc tế về: Điều tra, nghiên cứu nguồn lợi thủy sản, quản lý các loài cá di cư…
- Chủ động và tích
cực tham gia với các tổ chức quốc tế có liên quan để trao đổi thông tin, học
tập kinh nghiệm và thông qua các tổ chức này kêu gọi sự giúp đỡ, tài trợ về
kinh nghiệm và kinh phí, kỹ thuật.
- Tham quan, học tập,
trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về công tác quản lý các khu bảo tồn, về
điều tra, nghiên cứu nguồn lợi với các nước trong khu vực và trên thế giới.
6. Giải pháp về xúc
tiến thương mại và tạo thương hiệu cho sản phẩm thủy sản
Triển khai các hoạt
động xúc tiến thương mại nhằm duy trì tốt thị trường sẵn có, mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm thủy sản bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đến một số thành
phố lớn trong nước (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh). Đối với thị trường nội tỉnh cần
quy hoạch hệ thống các chợ đầu mối, hình thành kênh phân phối hàng thủy sản từ
người sản xuất, doanh nghiệp đến siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng thực
phẩm an toàn; Xây dựng chương trình, tổ chức xúc tiến đầu tư, kêu gọi các doanh
nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư hạ tầng thủy sản, đầu tư nuôi, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Đổi mới phương thức thực hiện xúc tiến thương
mại và phát triển thị trường phù hợp theo hướng các hiệp hội và doanh nghiệp là
chủ thể trực tiếp tổ chức thực hiện, nhà nước giữ vai trò xây dựng cơ chế chính
sách và hỗ trợ các hoạt động; Các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất thủy sản ký kết bao tiêu nguyên liệu đầu ra cho sản phẩm thủy sản
của tỉnh ở tất cả các giai đoạn, mùa vụ nuôi, loài thủy sản nuôi trong năm.
Khuyến khích đầu tư
vào sản xuất NTTS và dịch vụ thủy sản (bao gồm dịch vụ cung cấp thức ăn và dịch
vụ con giống).
Xây dựng các mô hình
liên kết chuỗi trong nuôi trồng thủy sản, gắn kết giữa người nuôi, người cung
cấp dịch vụ, và tiêu thụ sản phẩm.
Tích cực mở rộng thị
trường tiêu thụ cả trong và ngoài tỉnh. Đối với thị trường nội tỉnh (chủ yếu
tiêu thụ dưới dạng tươi sống nguyên con), tập trung vào các thị trường chính
như thành phố Buôn Ma Thuột, khu/cụm du lịch và người dân, ngoài ra cần đẩy
mạnh việc tiêu thụ tại chỗ, đặc biệt các vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó phát
triển mở rộng ra thị trường các tỉnh khác trên cơ sở phát huy những lợi thế so
sánh (cá nước lạnh, cá đặc sản, cá bản địa) để chiếm lĩnh thị trường, kết hợp
với công tác tiếp thị để mở rộng thị trường.
Củng cố và giữ vững
thị trường, xây dựng thương hiệu với những đối tượng đặc sản và mặt hàng chế
biến từ sản phẩm thủy sản. Nghiên cứu giảm giá thành, nâng cao chất lượng vệ
sinh thực phẩm … để tăng tính cạnh tranh.
Phát triển chế biến
thủy sản, tăng khả năng chế biến cho nhiều loại nguyên liệu, tăng cường công
tác tiếp thị và nâng cao năng lực chế biến …
6.1. Định hướng phát
triển cơ bản
Đầu tư phát triển
nguồn nguyên liệu cá thát lát trên các hồ chứa cho chế biến chả cá, trước hết
tập trung vùng hồ Lắk, hồ Ea Súp, sau đó đẩy mạnh sang các địa phương khác.
Dần dần xây dựng
thương hiệu làng nghề chế biến chả cá Thát lát ở thị trấn Liên Sơn huyện Lắk.
Xây dựng Chợ đầu mối
thủy sản khu vực Tây Nguyện trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, bao gồm hệ
thống kho cấp đông, kho lưu các sản phẩm thủy sản, đặc biệt các sản phẩm hải
sản từ các vùng khác chuyển lên.
Trung tâm Khuyến nông
kết hợp với Trung tâm dạy nghề, Trường Đại học Nha Trang, đại học Tây Nguyên và
các tổ chức trong và ngoài nước tập huấn cho người dân về chế biến một số sản
phẩm mang tính truyền thống của địa phương nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và
an toàn vệ sinh thực phẩm.
6.2. Sản phẩm chế
biến
Đến năm 2025, trên
toàn tỉnh đạt 21.730 tấn sản phẩm thủy các loại, trong đó có 910 tấn nguyên
liệu cho chế biến, trong đó nguyên liệu cho chế biến chả cá 360 tấn và hàng khô
550 tấn.
Các dạng sản phẩm
thủy sản tiêu dùng như sau:
- Đối với sản phẩm
chế biến: sản phẩm chế biến bao gồm chả cá và hàng sấy khô. Tổng sản lượng chế
biến đến năm 2019 khoảng 70 tấn các loại, năm 2025 khoảng 210 tấn và năm 2030
khoảng 420 tấn. Đến năm 2030 sản phẩm chả cá khoảng 180 tấn và hàng phơi khô
240 tấn.
- Sản phẩm tươi sống
cao cấp: dạng sản phẩm cao cấp (chủ yếu các đối tượng cá tầm, cá hồi, cá lăng
nha, cá chình hoa ...) và đạt tổng sản lượng khoảng 20 tấn năm 2017, khoảng 100
tấn năm 2025 và 200 tấn năm 2030.
- Hàng thủy sản tươi
sống dạng phổ thông: luôn chiếm tỷ lệ lớn, đến năm 2019 khoảng 11.600 tấn, năm
2025 khoảng 13.800 tấn và năm 2030 khoảng 17.400 tấn.
Bảng
1: Quy hoạch chế biến thủy sản
TT
|
Danh
mục
|
Đơn
vị
|
Phát
triển đến năm 2025
|
Định
hướng năm 2030
|
1
|
Sản lượng thủy sản
|
Tấn
|
17.060
|
21.730
|
*
|
Nuôi trồng thủy sản
|
“
|
15.530
|
20.280
|
*
|
Khai thác thủy sản
|
“
|
1.530
|
1.450
|
2
|
Nguyên liệu cho chế
biến
|
Tấn
|
460
|
910
|
*
|
Chả cá thát lát
|
“
|
180
|
360
|
*
|
Hàng phơi khô
|
“
|
280
|
550
|
3
|
Tổng sản phẩm thủy
sản tiêu thụ
|
Tấn
|
15.610
|
20.040
|
3.1
|
Sản phẩm sơ chế,
chế biến
|
“
|
210
|
420
|
*
|
Chả cá
|
“
|
90
|
180
|
*
|
Hàng phơi khô
|
“
|
120
|
240
|
3.2
|
Hàng tươi sống
|
“
|
13.900
|
17.600
|
*
|
Hàng cao cấp (cá
lăng, tầm, hồi) …
|
“
|
100
|
200
|
*
|
Hàng phổ thông
|
“
|
13.800
|
17.400
|
3.3
|
Sản phẩm khác
|
“
|
1.500
|
2.020
|
(theo
Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030)
7. Giải pháp về huy
động vốn
- Huy động các nguồn
lực trong và ngoài nƣớc cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khoa
học, công nghệ, nguồn nhân lực và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ trong
khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
- Tăng ngân sách đầu
tư của Nhà nước cho quản lý, xây dựng và phát triển các khu bảo vệ nguồn lợi thủy
sản; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ; khuyến ngư, đào tạo nguồn
nhân lực.
- Ngân sách Trung
ương bao gồm vốn hỗ trợ trực tiếp cho chương trình, dự án, đề án theo nội dung
quy hoạch hoặc lồng ghép từ các chính sách, chương trình, dự án, lĩnh vực khác
nhằm đảm bảo kinh phí cho công tác điều tra, nghiên cứu nguồn lợi thủy sản; xây
dựng hệ thống quan trắc, giám sát biến động nguồn lợi thủy sản; xây dựng hệ
thống thông tin cơ sở dữ liệu nguồn lợi thủy sản; xây dựng các khu bảo vệ nguồn
lợi thủy sản do Trung ương quản lý; kinh phí cho đào tạo và chuyển đổi nghề; hỗ
trợ cho các địa phương khó khăn đầu tư xây dựng các hạng mục thiết yếu của các
khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản; hỗ trợ người dân trong thời gian cấm khai thác
thủy sản có thời hạn; hỗ trợ chi phí chuyển đổi nghề cho người dân.
- Ngân sách địa phương:
ngân sách cấp tỉnh bảo đảm kinh phí cho các hoạt động của các dự án, nhiệm vụ
trong quy hoạch do địa phương thực hiện; đầu tư xây dựng và quản lý các khu bảo
tồn, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản theo phân cấp.
- Ngân sách cấp huyện
cùng với hỗ trợ ngân sách cấp tỉnh thực hiện các hoạt động dự án, nhiệm vụ do
cấp huyện thực hiện; phối hợp quản lý khu bảo vệ thủy sản; thành lập các chi
hội nghề cá quản lý theo phương thức đồng quản lý
- Các nguồn vốn huy
động khác phù hợp với quy định của pháp luật, trong đó: Vốn huy động xã hội
hóa: Bao gồm vốn tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp, cá nhân,.... Vốn hợp tác
quốc tế (trên cơ sở có cam kết hoặc đã có văn bản thoả thuận, ghi nhớ)
V.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn
- Thành lập ban chỉ
đạo triển khai đề án thuộc Sở hoặc giao Chi cục Thủy sản làm đầu mối giúp Giám
đốc Sở chỉ đạo các đơn vị chức năng thuộc Sở xây dựng kế hoạch cụ thể và phối
hợp với các ngành có liên quan, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác thông
tin tuyên truyền và phổ biến các quy định của Pháp luật về bảo vệ nguồn lợi và
môi trường thủy sản với những nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp đến
người dân; phối hợp với các lực lượng chức năng, chính quyền địa phương tổ chức
duy trì công tác tuần tra, kiểm soát hoạt động khai thác thủy sản của tổ chức
và cá nhân tại các thủy vực tự nhiên trên địa bàn toàn tỉnh.
- Chủ trì phối hợp
với các ngành, các cấp căn cứ vào nội dung của đề án để xây dựng và triển khai
các chương trình, dự án ưu tiên
- Hướng dẫn các địa
phương cấp huyện xây dựng Kế hoạch cụ thể để thực hiện Đề án; xây dựng mô hình
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản theo phương thức nhà nước và nhân dân
cùng làm; thành lập và quản lý các khu bảo tồn, bảo vệ thủy sản hoặc được phân
cấp.
- Chịu trách nhiệm kiểm
tra, đôn đốc các ngành, các cấp thực hiện các nội dung của Kế hoạch; tham mưu
đề xuất các giải pháp giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực
hiện; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh.
- Tổ chức các lớp tập
huấn, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ làm công tác
thú y, thủy sản để điều tra, đánh giá nguồn lợi và môi trường sống của các loài
thủy sản trên địa bàn tỉnh.
2. Sở Tài chính
Hàng năm căn cứ khả
năng cân đối ngân sách, phối hợp với Sở Nông nghiệp tham mưu UBND tỉnh bố trí
kinh phí sự nghiệp để thực hiện các nội dung theo Đề án được phê duyệt.
3. Sở Kế hoạch và Đầu
tư
- Chủ trì, phối hợp
với các Sở, ban, ngành thẩm định, xem xét, tham mưu đề xuất trình UBND tỉnh bố
trí lồng ghép các nguồn vốn cho phát triển thủy sản; phối hợp với các Sở, ngành
thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp nói chung, trong đó có thủy sản.
4. Sở Công Thương
- Chủ trì nghiên cứu
thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản, tổ
chức thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tiêu thụ và quảng bá sản
phẩm thủy sản trên địa bàn tỉnh.
- Căn cứ vào chức
năng nhiệm vụ của mình chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể và phối hợp
với Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức triển khai thực hiện các nội dung, nhiệm vụ
được phân công
5. Sở Khoa học và
Công nghệ
Chủ trì, phối hợp với
Sở Nông nghiệp và PTNT trình UBND tỉnh phê duyệt và quản lý các đề tài, dự án
khoa học và công nghệ có liên quan đến phát triển thủy sản từ nguồn ngân sách
nhà nước; nhân rộng dự án ứng dụng khoa học, công nghệ hiệu quả.
6. Sở Tài nguyên và
Môi trường
Chủ trì, phối hợp với
Sở Nông nghiệp và PTNT, các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã và các đơn
vị có liên quan tham mưu cho UBND tỉnh về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phục
vụ đầu tư phát triển thủy sản; tham mưu đề xuất các thủ tục liên quan về giao
đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, dồn điền đổi thửa; hướng dẫn quy
định về môi trường của các khu, vùng có dự án thành phần đầu tư phát triển thủy
sản.
7. Hội Nông dân tỉnh,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các Đoàn thể
Đẩy mạnh công tác
thông tin tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học -
công nghệ, quy trình kỹ thuật vào sản xuất; phát động các phong trào thi đua,
khuyến khích phát triển, nhân rộng điển hình tiên tiến trong quản lý, tổ chức
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong phát triển thủy sản.
8. UBND các huyện,
thị xã, thành phố
- Hàng năm phối hợp
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện
Đề án.
- Triển khai khai
thực hiện các nội dung của Đề án tại địa bàn, đồng thời chỉ đạo UBND các xã,
phường, thị trấn và các ban, ngành triển khai thực hiện tốt các nội dung, giải
pháp để đạt được mục tiêu của Đề án.
- Phổ biến các nội
dung Đề án đến các tổ chức, cá nhân biết để triển khai thực hiện, qua đó thu
hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực thủy sản trên địa bàn tỉnh.
- Tham mưu xây dựng
các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển thủy sản trên địa bàn
theo phân cấp ngân sách. Đồng thời lồng ghép các Chương trình, dự án để bố trí
kinh phí thực hiện.
- Rà soát các quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất để bố trí đủ diện tích mặt nước phục vụ phát triển
nuôi trồng thủy sản trên địa bàn; khuyến khích người dân chuyển đổi diện tích
trồng trọt kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn nhằm
tăng hiệu quả kinh tế cho người dân.
- Hướng dẫn người
nuôi trồng áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng để tăng năng
suất, chất lượng. Theo dõi, giám sát chặt chẽ hoạt động nuôi trồng trên địa
bàn, đồng thời thường xuyên thanh, kiểm tra để xử lý nghiêm các hoạt động khai
thác, đánh bắt trái phép để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
- Định kỳ báo cáo kết
quả thực hiện Đề án về Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tổng hợp báo
cáo UBND tỉnh kịp thời.
- Đảm bảo nguồn kinh
phí để thực hiện các nhiệm vụ của Đề án tại địa phương.
Chỉ đạo cấp chính
quyền, cơ quan chức năng của địa phương xây dựng, lập kế hoạch hoạt động cụ thể
ở địa phương; lập và tổ chức thực hiện các dự án cụ thể; phối hợp với các Sở
ban ngành cấp tỉnh và các nhà tài trợ thu hút nguồn vốn và sự hỗ trợ kỹ thuật
nhằm thực hiện có hiệu quả các dự án ưu tiên của Đề án.
9. Các doanh nghiệp,
hợp tác xã, cơ sở và hộ nông dân sản xuất
- Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ cao trong sản xuất, thu hoạch, sơ chế và bảo quản sản phẩm; thực hiện
sản xuất thủy sản theo đúng quy hoạch, quy trình kỹ thuật, quy trình thực hành
sản xuất nông nghiệp tốt, đảm bảo nâng cao chất lượng, giá trị, an toàn thực
phẩm; Đảm bảo kinh phí đối ứng để thực hiện các mô hình sản xuất thủy sản.
- Thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ tài chính, vay vốn, thuê đất … theo quy định; đảm bảo vệ sinh môi
trường; chấp hành nghiêm các quy định hiện hành của nhà nước về thủy sản.
- Đẩy mạnh vai trò
của các doanh nghiệp, HTX, cơ sở và hộ nông dân sản xuất trong việc bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản.
VI.
CÁC CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN
1. Chương trình tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng trong công tác bảo vệ nguồn lợi
thủy sản
* Mục tiêu:
Nhằm tập huấn tuyên
truyền hệ thống các văn bản pháp luật mới cấp trung ương và địa phương có liên
quan đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến người dân làm
nghề cá và đối tượng học sinh, sinh viên học tập trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó thực hiện
xây dựng các biển pano, tờ rơi tuyên truyền đến người dân trên địa bàn tỉnh.
* Giải pháp
- Tổ chức các lớp tập
huấn, hội thảo chuyên đề có sự tham gia của các đối tượng tuyên truyền, ưu tiên
đối tượng là người dân sống xung quanh các thủy vực trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng các pano
tuyên truyền luật thủy sản tại các khu vực bến cá của các thủy vực
- Tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu về pháp luật thủy sản cho người dân, học sinh, sinh viên
- Phát hành các tờ
rơi tuyên truyền tác hại của việc sử dụng các ngư cụ hủy diệt trong khai thác
thủy sản
- Xây dựng phóng sự,
tin bài về tác hại của phương pháp đánh bắt, hủy diệt và công tác bảo vệ nguồn
lợi thủy sản trên các báo, đài và hệ thống phát thanh của địa phương và tỉnh
- Tổ chức thực hiện
và phát động các Tháng hành động (hoặc Tuần lễ) bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại
các địa phương vào thời gian sinh sản của các loài thủy sản.
2. Chương trình Điều
tra, nghiên cứu, điều chỉnh cơ cấu nghề khai thác thủy sản phù hợp với địa
phương
* Mục tiêu:
Nhằm cập nhập lại cơ
sở dữ liệu về nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực, từ đó điều chỉnh mùa vụ khai
thác hợp lý và nghề khai thác, ngư cụ khai thác thủy sản hợp lý.
* Giải pháp
- Thực hiện dự án
điều tra về thực trạng các nghề khai thác thủy sản của ngư dân, điều tra thành
phần loài, sản lượng, trữ lượng, môi trường sống các loài thủy sản làm cơ sở để
điều chỉnh nghề khai thác phù hợp với địa phương.
- Thực hiện điều tra
bãi đẻ, bãi sinh trưởng của các đối tượng thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng để có kế hoạch bảo vệ
- Điều tra cập nhập
nghề khai thác thủy sản bằng ngư cụ hủy diệt, để từ đó có kế hoạch chuyển đổi
nghề nghiệp cho các đối tượng này,
- Điều tra cập nhập
vùng khai thác tại một số thủy vực lớn: Hồ Ea Súp thượng, Krông Buk hạ, hồ thủy
điện
- Xây dựng và đề xuất
cơ chế chính sách tạo điều kiện chuyển đổi sinh kế, chuyển đổi nghề khai thác
cho các ngư dân.
3. Chương trình công
tác tuần tra và xử lý vi phạm về khai thác thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
* Mục tiêu:
Nhằm thực hiện công
tác tuần tra giám sát xử lý những vụ việc vi phạm quy định về khai thác thủy sản
như: dùng ngư cụ hủy diệt để khai thác thủy sản, khai thác thủy sản không đúng
mùa vụ tại các vùng cấm khai thác có thời hạn trong năm, vi phạm quy định vùng
cấm của khu bảo tồn…
* Giải pháp
- Xây dựng kế hoạch,
quy chế thanh kiểm tra giữa lực lượng thanh tra chuyên ngành của Chi cục Thủy
sản tỉnh Đắk Lắk với lực lượng cảnh sát môi trường, lực lượng công an giao
thông đường thủy nội địa thuộc phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh.
- UBND cấp huyện thị
xã thành phố tăng cường công tác thanh kiểm tra xử lý vi phạm.
- Thực hiện thuần
hóa, nghiên cứu sản xuất giống một số đối tượng cá bản địa quý hiếm có giá trị
kinh tế cao: Cá Lăng Nha, cá Trà sóc, cá Sọc dưa, cá ngựa xám, cá Mõm trâu, cá
Thát lát, cá Duồng…
- Triển khai xác định
và hình thành các khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bãi đẻ của các đối tượng thủy
sản để khoanh vùng bảo vệ.
- Đưa vào kế hoạch
bảo vệ các bãi đẻ, bãi sinh trưởng của các đối tượng thủy sản tại các thủy vực
trên địa bàn tỉnh.
4. Công tác bảo tồn
nguồn lợi thủy sản
*Mục tiêu:
Nhằm bảo tồn nguồn
gen của một số đối tượng thủy sản bản địa quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng.
* Giải pháp
- Thực hiện thuần
hóa, nghiên cứu sản xuất giống một số đối tượng cá bản địa quý hiếm có giá trị
kinh tế cao: Cá Lăng Nha, cá Trà sóc, cá Sọc dưa, cá ngựa xám, cá Mõm trâu, cá
Thát lát, cá Duồng…
- Triển khai xác định
và hình thành các khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bãi đẻ của các đối tượng thủy
sản để khoanh vùng bảo vệ.
- Đưa vào kế hoạch
bảo vệ các bãi đẻ, bãi sinh trưởng của các đối tượng thủy sản tại các thủy vực
trên địa bàn tỉnh.
5. Chương trình thả
cá bổ sung tái tạo nguồn lợi thủy sản vào các thủy vực tự nhiên và quản lý môi
trường sống của các loài thủy sinh
* Mục tiêu: Nhằm phục
hồi tái tạo nguồn lợi thủy sản, bổ sung nguồn lợi thủy sản vào các thủy vực để
nâng cao sinh kế cho cộng đồng dân cư và đảm bảo đa dạng sinh học trong môi
trường nước,phục hồi tái tạo nguồn lợi thủy sản.
* Giải pháp: Thông
qua điều tra khảo sát, đánh giá nguồn lợi thủy sản và đề xuất của các huyện để
triển khai thực hiện.
6. Dự án Phát triển
và xây dựng mới các mô hình đồng quản lý nghề cá
* Mục tiêu:
Nhằm thực hiện mô
hình bảo vệ nguồn lợi thủy sản dựa vào cộng đồng, cùng chia sẻ quyền lợi, cùng
bảo vệ nguồn lợi thủy sản, người dân tự làm, tự giám sát trong quá trình hoạt
động
* Giải pháp
Thực hiện công nhận
và giao quyền quản lý nguồn lợi nguồn lợi thủy sản trong bảo vệ nguồn lợi thủy
sản cho các tổ chức cộng đồng phù hợp quy định Luật thủy sản.
7. Các chương trình
dự án kêu gọi đầu tư trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản giai
đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030
Chương trình này đã
được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 323/QĐ- UBND, ngày 08/02/2021 của
UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2025
và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. với 9 nhóm giải pháp
chính và Tổng nhu cầu vốn nguồn ngân sách cho phát triển sản xuất thủy sản trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2030 khoảng 47,4 tỷ đồng, còn lại khoảng 224 tỷ
đồng vốn Doanh nghiệp đầu tư vào các dự án nuôi trồng thủy sản chủ yếu là dự án
nuôi cá nước lạnh, có Đề án cụ thể kèm theo.
8. Nhu cầu nguồn vốn
(sự nghiệp kinh tế ) thực hiện Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
giai đoạn 2021-2025
và định hướng đến năm
2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (không tính bao gồm nhu cầu nguồn vốn
thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản)
Tổng nhu cầu nguồn
vốn: 65.200 triệu đồng (giai đoạn 2022-2025: 28.850 triệu đồng; giai
đoạn 2026-2030: 36.350 triệu đồng), trong đó:
+ Nguồn ngân sách
trung ương: 16.833 triệu đồng.
+ Nguồn ngân sách địa
phương (bao gồm cả ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện): 42.367 triệu đồng.
+ Nguồn khác (các tổ
chức PCCP, tổ chức cá nhân...): 6.000 triệu đồng.
Bảng
12. Danh mục các dự án
TT
|
Nội
dung
|
Địa
điểm thực hiện dự án
|
Các
hạng mục
|
Phân
bổ nguồn vốn
|
Phân
kỳ nguồn vốn
|
cơ
sở pháp lý
|
(triệu
đồng)
|
(triệu
đồng)
|
Đơn
vị
tính
|
Số
lượng
|
Đơn
giá (triệu đồng)
|
Thành
tiền (triệu đồng)
|
Ngân
sách Trung ương
|
Ngân
sách địa phương
|
Nguồn khác
|
Giai
đoạn
2022-2025
|
Năm 2026- 2030
|
I
|
Chương trình tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng trong công tác bảo vệ nguồn
lợi thủy sản:
|
|
|
|
|
4.800
|
-
|
4.800
|
-
|
2.400
|
2.400
|
Điều
102. Luật Thủy sản; Thông tư 19/2018/TTBN NPTNT; Luật Đa dạng sinh học
|
1
|
Tổ chức các lớp tập
huấn tuyên truyền cho cán bộ quản lý thủy sản và người dân quản sống xung
quanh các thủy vực về các chính sách, văn bản pháp luật về lĩnh vực thủy sản.
|
Toàn
tỉnh
|
Lớp
|
60
|
35
|
2.100
|
-
|
2.100
|
|
1.050
|
1.050
|
2
|
Xây dựng phóng sự,
tin bài về tác hại của phương pháp đánh bắt, hủy diệt và công tác bảo vệ
nguồn lợi thủy sản trên các báo, đài và hệ thống phát thanh của địa phương và
tỉnh
|
Toàn
tỉnh
|
Phóng
sự
|
12
|
50
|
600
|
-
|
600
|
|
300
|
300
|
|
- In ấn các tài
liệu, tờ rơi, băng rôn, áp phích, pano,… phục vụ công tác tuyên truyền bảo vệ
nguồn lợi thủy sản.
|
Toàn
tỉnh
|
Lần
|
15
|
40
|
600
|
|
600
|
|
300
|
300
|
3
|
- Tổ chức thực hiện
và phát động các Tháng hành động (hoặc Tuần lễ) bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại
các địa phương vào thời gian sinh sản của các loài thủy sản.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho cán bộ quản lý thủy
sản, ngư dân, học sinh tại các huyện trọng điểm về khai thác thủy sản
|
Toàn
tỉnh
|
Cuộc
thi
|
5
|
200
|
1,000
|
|
1,000
|
|
500
|
500
|
5
|
Xây dựng nội dung
đưa vào tuyên truyền tại các trường trung học tại các xã thuộc các huyện trọng
điểm về khai thác thủy sản: Xây dựng mô hình: Quy mô: 01 trường THCS/mô hình
|
Toàn
tỉnh
|
Điểm
|
10
|
50
|
500
|
|
500
|
|
250
|
250
|
II
|
Dự án Điều tra
nguồn lợi thủy sản
|
|
|
|
|
10.000
|
5.700
|
4.300
|
-
|
2.700
|
7.300
|
Khoản
3, 4, Điều 12. Luật Thủy sản; Thông tư 19/2018/TTBN NPTNT; Luật Đa dạng sinh
học
|
1
|
- Xây dựng và thực
hiện dự án điều tra về thực trạng các nghề khai thác thủy sản của ngư dân làm
cơ sở để điều chỉnh nghề khai thác phù hợp với địa phương.
|
Toàn
tỉnh
|
Thủy
vực
|
20
|
200
|
4.000
|
2.000
|
2.000
|
|
2.000
|
2.000
|
- Xây dựng và đề
xuất cơ chế chính sách tạo điều kiện chuyển đổi sinh kế, chuyển đổi nghề khai
thác cho các ngư dân.
|
2
|
- Điều tra, đánh
giá và xác định tập tính di cư tự nhiên của các loài thủy sản
- Điều tra thu thập
các loài ngoại lai xâm hại và loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại môi trường
- Điều tra, xác
định đường di cư tự nhiên của các loài thủy sản ở các thủy vực sông, hồ
- Điều tra thành phần
loài thủy sản, sản lượng, trữ lượng, sinh vật phù du và môi trường sống ở một
số thủy vực trên địa bàn tỉnh
|
Toàn
tỉnh
|
Thủy
vực
|
5
|
200
|
1,000
|
700
|
300
|
|
200
|
800
|
3
|
Điều tra nguồn lợi
và môi trường sống của các loài thủy sản ở các thủy vực trên địa bàn tỉnh
|
Toàn
tỉnh
|
Thủy
vực
|
50
|
100
|
5.000
|
3.000
|
2.000
|
|
500
|
4.500
|
III
|
Chương trình công
tác tuần tra và xử lý vi phạm về khai thác thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản:
|
|
|
|
|
500
|
|
500
|
|
300
|
200
|
Luật
Thủy sản; Thông tư 19/2018/TTBN NPTNT; Luật Đa dạng sinh học
|
1
|
Tăng cường và duy
trì thường xuyên công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về khai thác
và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại các vùng nước trên địa bàn toàn tỉnh
|
Toàn
tỉnh
|
|
|
|
500
|
|
500
|
|
300
|
200
|
|
IV
|
Công tác bảo tồn, bảo
vệ nguồn lợi thủy sản
|
|
|
|
|
9.900
|
4.133
|
5.767
|
-
|
3,450
|
6.450
|
Luật
Thủy sản 2017; Thông tư 19/2018/TTBN NPTNT; Luật Đa dạng sinh học
|
1
|
Dự án phục hồi và tái
tạo nguồn lợi thủy sản một số loài nguy cấp, quý, hiếm, loài bản địa, loài có
giá trị kinh tế và khoa học cao.
|
Toàn
tỉnh
|
Đối
tương
|
7
|
700
|
4,900
|
1,633
|
3,267
|
-
|
2,450
|
2,450
|
Khoản
3, 4, 5. Điều 13. Luật Thủy sản 2017; Thông tư 19/2018/TT BNNPTNT.
|
2
|
Dự án thiết lập và
hình thành khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng nội địa
|
Toàn
tỉnh
|
thủy
vực
|
5
|
500
|
2,500
|
1,250
|
1,250
|
|
500
|
2,000
|
3
|
Dự án thiết lập và
hình thành khu cấm khai thác thủy sản có thời hạn vùng nội địa
|
Toàn
tỉnh
|
thủy
vực
|
5
|
500
|
2,500
|
1,250
|
1,250
|
|
500
|
2,000
|
V
|
Chương trình thả cá
bổ sung tái tạo nguồn lợi thủy sản vào các thủy vực tự nhiên và quản lý môi
trường
sống của các loài thủy sinh:
|
|
|
|
|
35.000
|
5.000
|
25.000
|
5.000
|
17.500
|
17.500
|
|
1
|
Thả bổ sung giống
một số loài cá nước ngọt truyền thống xuống các hồ chứa lớn, sông và các thủy
vực tự nhiên trong tỉnh
|
Toàn
tỉnh
|
Thủy
vực
|
50
|
500
|
25.000
|
5.000
|
15.000
|
5.000
|
12.500
|
12.500
|
Điều
14. Luật Thủy sản 2017; Thông tư 19/018/TT- BNNPTNT
|
2
|
Chương trình bảo vệ
bãi sinh sản của cá, nơi tập trung các loài thủy sản còn non, nơi cư trú của
các loài thủy sản
|
Toàn
tỉnh
|
Bãi
đẻ
|
50
|
200
|
10.000
|
-
|
10.000
|
|
5.000
|
5.000
|
Điều
17. Luật Thủy sản 2017;
|
VII
|
Dự án Phát triển và
xây dựng mới các mô hình đồng quản lý nghề cá
|
Một
số thủy vực trọng điểm
|
Mô
hình
|
10
|
500
|
5.000
|
2.000
|
2.000
|
1.000
|
2.500
|
2.500
|
Điều
10. Luật Thủy sản; Thông tư 19/2018/TTBN NPTNT.
|
Tổng
cộng
|
|
|
|
|
65.200
|
16.833
|
42.367
|
6.000
|
28.850
|
36.350
|
|
PHẦN THỨ TƯ
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐỀ ÁN
I.
HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiện tại sản lượng cá
tự nhiên tại các thủy vực sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh đang sụt giảm nghiêm
trọng, sản lượng cá tự nhiên chỉ còn lại khoảng 25% so với thời gian cách đây
10 năm , ví dụ điển hình như tại hồ Lắk qua phỏng vấn điều tra thực tế của nhóm
tư vấn tháng 12/2021, hiện nay trung bình người dân khai thác được chỉ 1-2kg/ngày
nhưng cách đây 10 năm (2010) con số này là 20- 30kg/ngày, hiện trạng tương tự
cũng xảy ra tại một số thủy vực khác như sông Krông Ana… Do đó việc xây dựng
triển khai Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh với
mục tiêu bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản ngoài tự nhiên và tại các thủy
vực sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh, qua đó nâng cao sản lượng thủy sản ngoài
tự nhiên đến năm 2025 tăng 30% so với thời điểm hiện tại là 80% cho đến năm
2030, nhằm nâng cao mức sống cho người dân sống bằng nghề khai thác thủy sản,
đảm bảo an ninh lượng thực cho cộng đồng dân cư sống xung quanh các thủy vực,
bên cạnh đó tuyên truyền, hướng dẫn người dân khai thác thủy sản một cách bền
vững. Đồng thời với mục tiêu thực hiện các dự án bảo tồn gen, thuần hóa thử
nghiệm sản xuất giống một số đối tượng thủy sản bản địa có giá trị kinh tế trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk như: cá Mõm Trâu, cá Lăng Nha, cá Trà Sóc, cá Thát lát, cá
Còm, cá Ngựa Xám… khi đó người nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh có thể tiếp
cận được các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, góp phần nâng cao thu
nhập cho người nuôi trên một đơn vị diện tích mặt nước, thúc đẩy ngành thủy sản
Đắk Lắk phát triển.
II.
HIỆU QUẢ XÃ HỘI
Việc triển khai Đề án
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh ngoài có ý nghĩa về
hiệu quả kinh tế còn có ý nghĩa về xã hội với việc triển khai thác hoạt động cụ
thể nhằm giúp người dân khai thác thủy sản, học sinh, sinh viên nắm được các
văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực thủy sản, bên cạnh đó việc hình thành
các mô hình bảo vệ nguồn lợi thủy sản sẽ giúp tạo công ăn việc làm, chuyển đổi
sinh kế bền vững cho người dân sống xung quanh các thủy vực trên địa bàn tỉnh.
Một số chương trình hoạt động cụ thể như sau:
- Chương trình tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng trong công tác bảo vệ nguồn lợi
thủy sản. Khi đó nhận thức của cộng đồng được nâng cao, họ biết được các văn
bản pháp luật quy định không được sử dụng ngư cụ hủy diệt trong khai thác thủy
sản vì sẽ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, bên cạnh đó người dân sẽ ý thức được
phương pháp khai thác thủy sản bền vững biết bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho thế
hệ tương lai…
- Việc xây dựng các
mô hình đồng quản lý (cộng đồng quản lý) nguồn lợi thủy sản và các khu bảo tồn
vùng nước nội địa nước ngọt, giúp cho cộng đồng người dân sống bằng nghề khai
thác tiếp cận được các mô hình quản lý mới, qua đó họ có trách nhiệm trong việc
quản lý nguồn lợi thủy sản, tự làm tự giám sát cùng nhau phát triển, ít phụ
thuộc vào các cơ quan chức năng nhà nước.
- Tổ chức các Chương
trình giảng bài ngoại khóa, xây dựng các Poster tại các trường trung học với
chủ đề “ Thanh thiếu nhi hành động nguồn lợi thủy sản tương lai”, tổ chức sinh
hoạt hè cho các cháu thiếu nhi địa phương… nhằm giúp cho các em biết được sự đa
dạng sinh học trong môi trường nước, sự liên quan giữa tài nguyên rừng và nguồn
lợi thủy sản.
III.
HIỆU QUẢ MÔI TRƯỜNG
Việc triển khai thực
hiện các mục tiêu Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn
tỉnh sẽ đảm bảo sự đa dạng sinh học trong môi trường nước tại các thủy vực
sông, hồ chứa trên địa bàn tỉnh, một số đối tượng thủy sản được khôi phục và
phát triển quẩn thể loài trong môi trường nước giúp cân bằng hệ sinh thái tại
các thủy vực. Bên cạnh đó việc thực hiện các chương trình tuyên truyền, tập
huấn, các mô hình bảo vệ nguồn lợi thủy sản bền vững sẽ giúp người dân ý thức
được trong công tác bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sinh như: Không
dùng các ngư cụ hủy diệt trong khai thác thủy sản, không xả thải các chất ô nhiễm
vào môi trường nước, biết được các đối tượng thủy sinh ngoại lai xâm hại (cá
Lau kính, ốc bưu vàng, rùa tai đỏ) để tiêu diệt không cho đối tượng này phát
triển ngoài tự nhiên...
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Baodaklak.vn/channel/3483/201601/bao-ve-va-phat-trien-nguon-loi-thuy-
san-con-nhieu-thach-thuc.
2. Báo cáo đầu kỳ quy
hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050 - Tháng 9/202.
3. Báo cáo điều tra
khu hệ cá nước ngọt nội đồng khu vực Tây Nguyên- Phân Đinh Phúc, 2018 Viện
nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 3.
4. Bart Van Lavieren,
2000. Quy hoạch và quản lý vườn quốc gia và khu bảo tồn (Bản dịch tiếng
việt của Nguyễn Tân Phong, 2001).
5. Bayly, IAE & Williams,
WD, 1981. Inland waters and their ecology. Longman, Cheshire Pty Ltd,
Melbourne. 1-314.
6. Bộ Khoa học và
Công nghệ, Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách Đỏ Việt Nam, Phần
I. Động vật. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
7. Bộ Tài nguyên và
Môi trường, 2002. Tài liệu hội nghị các bên tham gia công ước Ramsar
lần thứ 8 (Ramsar COP8).
8. Bộ Thủy sản, 2002.
Kế hoạch hoạt động thực hiện chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản bền
vững góp phần xóa đói giảm nghèo năm 2002 của Bộ Thủy sản. Tạp chí thông
tin KHCN 4/2002.
9. Bộ Thủy sản. Chương
trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010 (theo QĐ
131/2004/QĐ-TTg ngày 16/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ).
10.Carney, D. (ed).,
1998. Sustainable rural livelihoods: What contribution can we make?London:
DFID.
11. Chambers, R.,
1987. Sustainable livelihoods, environment and development: Putting poor
rural people first’. IDS Discussion Paper. No. 240. Brighton: IDS.
12. Chi cục Kiểm lâm
nhân dân tỉnh Đăk Lăk, 1994. Luận chứng Kinh tế - Kỹ thuật Khu rừng Lịch sử -
Văn hoá - Môi trường Hồ Lăk, tỉnh Đăk Lăk.
13. Chi cục Thống kê
tỉnh Đăk Lăk, 2009. Niên giám thống kê 2008.
14. Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc
gia 2001 - 2010 và kế hoạch hành động môi trường 2001 - 2005.
15. Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị định 109 Chính phủ 23/9/2003 về Bảo
tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.
16. Công ước
Ramsar - Công ước Quốc tế về các vùng đất ngập nước (1971, Cộng hoà Iran).
17. Công ước về Đa
dạng sinh học (Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio de Janeiro, 5/6/1992,
Braxin.
18. Cục Môi trường,
2001. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001 - Bộ Thủy sản, 1996. Nguồn
lợi thủy sản Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
19. Cục Môi trường,
2002. Tài liệu Hội nghị các bên tham gia công ước Ramsar lần thứ 8 -COP8.
20. Cục Khai thác và
Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản, 1992 - 1995. Nghiên cứu xây dựng khu vực cấm và
hạn chế đánh bắt để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
21.Cutter, SL, 1996. Vulnerability
to Environmental Hazards. Progress in Human Geography 20, PP. 529-539.
22. Vũ Văn Dũng,
Nguyễn Huy Thắng và nnk, 1997. Xây dựng cơ sở cho việc hoạch các khu vực bảo
tồn ĐNN Việt Nam. Báo cáo kết quả đề tài, Cục Môi trường.
23. Dự án Quản lý
nghề cá lưu vực sông Mê Công (FMG). 2007. Tình hình sử dụng ngư cụ
hủy diệt để khai thác thủy sản ở địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
24. Lê Diên Dực,
1997. Quản lý ĐNN của Việt Nam. Trung tâm Tài nguyên và môi trường, Đại
học QGHN.
25. Fridiric Bioret
et anties, 1998. Mithode d’elaboration des gnides d’aide a la gention
prour les reserves de biosphere: apphication. Dassier MAB 19 UNESCO, Paris.
26. Nguyễn Chu Hồi,
1990. Nghiên cứu sử dụng và cải tạo vùng bãi triều lầy cửa sông và
đầm phá dải ven biển và các đảo Việt Nam. Đề tài 48B-06-02. Hà Nội.
27. Nguyễn Chu Hồi,
Trần Đức Thạnh và nnk, 1998. Tiến tới quản lý các đầm phá ven bờ miền Trung
Việt Nam. Tài nguyên môi trường biển, NXB Khoa học Kỹ thuật Hà Nội, Trang
96-110.
28. Vũ Tự Lập, 1999. Địa
lý tự nhiên Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
29. Mosecley J
others, 1976. National Parks planning. FAO Documents Rome.
30. Nguyễn Quốc Nghị,
1998. Khu hệ cá và nghề cá Hồ Lăk, tỉnh Đăk Lăk.
31. Phan Đình Phúc,
2006. The fishery, biology and management of three inland water-bodies,
Vietnam. Ph.D. idelines for Co-management using group user rights for small
-scale fisheries in tthesis, DeakinUniversity, Warrnambool, Australia. 207 pp.
32. Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1993. Luật bảo vệ môi trường.
33. Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2003. Luật thủy sản.
34. Sabaria V.B.,
1984. Guidelines for the proparation of Manmagement Plans for Sanctuaries
and National Parks.
35. Scott, D and
Poole, C, 1989. A Status Overview of Asian Wetlands. AWB Publication No.
53, Kuala Lumpur, Malaysia .
36. Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Đăk Lăk, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường, 2008. Báo
cáo qui hoạch mạng lưới quan trắc môi trường tỉnh Đăk Lăk đến năm 2020.
37. Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Đăk Lăk, 2008. Dự án quy hoạch đầu tư Khu
rừng Lịch sử - Văn hóa - Môi trường Hồ Lăk, tỉnh Đăk Lăk (Giai đoạn 2008
- 2012).
38. Vũ Trung Tạng,
1996. Chiến lược quản lý và bảo vệ các loại đất ngập nước vùng cửa sông giai
đoạn 1996-2000. Đai học Quốc gia Hà Nội.
39. Đặng Ngọc Thanh,
Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Huy Yết, 2000. Cơ sở khoa học quy hoạch hệ thống các
khu bảo tồn Việt Nam. Tài nguyên Môi trường Biển, Tr 102-111. Hà Nội.
40.Võ Sĩ Tuấn, 2002. Bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trên cơ sở bảo tồn các hệ sinh thái ven bờ.
Tạp chí thủy sản số 4/2002.
41. Ủy ban nhân dân
tỉnh Đăk Lăk, 2006. Báo cáo kết quả rà soát quy hoạch ba loại rừng tỉnh Đăk
Lăk.
42. Ủy ban nhân dân
huyện Lăk, 2007. Dự án rà soát bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk giai đoạn 2006 - 2020.
43. UBND huyện Lăk,
2008. Báo cáo tổng hợp Qui hoạch sử dụng đất huyện Lăk đến năm 2010.
44. UBND huyện Lăk,
2008. Điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020.
45.Wood, A, Stedman-Edwards,
P & Mang J (Eds), 2000. The root causes of biodiversity loss.
Earthscan Publication Ltd., London: 1-399.
46. Watersheds: Asia
Profiles, www.wri.org/watersheds/ww-asia.html. Mai Dinh Yen, 1978. Some
important NaturalFreshwaterLakes of Vietnam and the protection of their
biodiversity.
47. Phan Đình Phúc,
(2007), The fishery, biology and management of three inland water-bodies,
Vietnam (the thesis of Ph.D).
48. Cục Thống kê Đắk
Lắk (2015), Niên giám thống kê-cục thống kê Đắk Lắk năm 2013.
49. Phòng Thống kê
các huyện (2015), Niên giám thống kê các huyện năm 2013.
50. Chính phủ (2009),
Quyết định số 87/2009/QĐ-TTg ngày 17/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Đắk Lắk thời kỳ đến năm
2020.
51. UBND tỉnh Đắk Lắk
(2008), Quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường tỉnh Đắk Lắk đến năm
2020.
52. UBND tỉnh Đắk Lắk
(2020), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh
Đắk Lắk năm 2020.
53. UBND tỉnh Đắk
Lắk, Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2015-2020).
54. UBND các huyện,
thị (2020), Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế-xã hội của
các huyện trong tỉnh Đắk Lắk năm 2020.
55. Báo cáo tổng kết
ngành Thủy sản Đắk Lắk (2017).
56. Báo cáo tổng kết
ngành Thủy sản Đắk Lắk (2018).
57. Báo cáo tổng kết
ngành Thủy sản Đắk Lắk (2019).
58. Báo cáo tổng kết
ngành Thủy sản Đắk Lắk (2020).
59. Báo cáo tổng kết
ngành Thủy sản Đắk Lắk (2021).
60. Trung tâm Quốc
gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung. Cơ sở dữ liệu của Trung tâm.
61. www.daklak.gov.vn
Quyết định 2386/QĐ-UBND năm 2022 phê duyệt Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 2386/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 phê duyệt Đề án bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.013
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|