HƯỚNG DẪN
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
Thực hiện Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Ban Tuyên
giáo Trung ương hướng dẫn công tác tuyên truyền, như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Tuyên truyền, quán triệt sâu rộng
nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (gọi tắt là Nghị quyết),
Kết luận 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (gọi tắt
là Kết luận 21) và Kết luận 10-KL/TW của Bộ Chính trị (gọi tắt là Kết luận 10), nhất là mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về phòng,
chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Kết luận 10-KL/TW nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức và nhân dân trong phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
2. Công tác tuyên truyền phòng, chống
tham nhũng, lãng phí cần được tiến hành nghiêm túc, đồng bộ, bằng nhiều hình thức
phù hợp với từng đối tượng, từng thời điểm và tình hình cụ
thể; bám sát sự chỉ đạo, định hướng của cấp ủy, ban tuyên giáo các cấp; bảo đảm
tính trung thực, khách quan, đúng Quy định của Đảng về chỉ đạo, định hướng
thông tin tuyên truyền phòng, chống tham nhũng.
3. Gắn tuyên truyền thực hiện Nghị
quyết, Kết luận 21, Kết luận 10, Chỉ thị 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính
trị khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng với tuyên truyền thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của
Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
với tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, địa phương, đơn vị.
II. NỘI DUNG TUYÊN
TRUYỀN
1. Tập trung tuyên truyền chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, nhất là những nội dung cơ bản của Nghị quyết, Kết luận
21 và Kết luận 10; làm rõ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tạo
sự chuyển biến về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân về nguy cơ, tác hại của tham nhũng đối với việc giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở
đó, các cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, đơn vị xác định rõ
hơn, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm của công
tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng, cấp bách; từ đó tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác này và nêu cao ý thức trách nhiệm, gương mẫu thực hiện
các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp và an toàn để
các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phát hiện, tố
cáo tham nhũng, lãng
phí, phê phán góp phần tạo dư luận xã hội lên án các hành
vi tham nhũng, lãng phí và giúp các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan chức năng kịp thời xử lý, khắc phục.
2. Tuyên truyền, quán triệt mục tiêu,
quan điểm phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Kết luận
10-KL/TW. Làm rõ, cụ thể hóa mục tiêu kiên quyết khắc phục những hạn chế, yếu
kém, tạo chuyển biến rõ rệt trong 5 năm tới, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí.
Quán triệt sâu sắc 3 quan điểm của Kết
luận 10-KL/TW:
Một là, phòng
ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan
trọng, cấp bách. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành
vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng
phí; không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ,
không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.
Hai là,
phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích
cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Gắn phòng, chống
tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và toàn dân.
Ba là,
kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham
nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để
không dám tham nhũng; cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng.
3. Tuyên truyền, phổ biến, quán triệt
8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng được nêu
trong Kết luận 10-KL/TW:
Một là,
nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu.
Hai là,
tăng cường quản
lý, giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên;
hoàn thiện, thực hiện nghiêm các quy định về công tác tổ chức, cán bộ làm công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, kiểm
soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện nghiêm các quy định về công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
hoạt động công vụ.
Bốn là, tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, bổ sung, sửa đổi, xây dựng, ban hành các
quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Năm là, tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án, vụ việc tham nhũng, lãng phí; thực hiện tốt công tác giám định và nâng cao
hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí.
Sáu là,
nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực để ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; xây dựng văn hóa tiết kiệm, không
tham nhũng, lãng phí.
Bảy là,
tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị
có chức năng phòng, chống tham nhũng.
Tám là, từng
bước mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Gắn tuyên truyền thực hiện các nhiệm
vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí với tuyên
truyền triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng
và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập,
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Qua đó đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; tạo chuyển biến về tu dưỡng,
rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, khuyến khích tự tu dưỡng, rèn luyện, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
phòng, chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa"; thực hiện nghiêm túc phương châm: “Đảng viên phải gương mẫu hơn quần chúng, cán bộ phải gương mẫu hơn nhân
viên, cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”; xây dựng văn hóa tiết
kiệm, không tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức. Triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cần gắn với trách nhiệm quản lý về
mặt nhà nước của mỗi bộ, ngành, địa phương, mỗi cơ quan,
đơn vị để thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong Đảng, trong xã hội.
4. Tuyên truyền kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí của các ban, bộ,
ngành, địa phương và cả nước; kết quả thanh tra, kiểm tra các vụ việc và điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến tham nhũng; kết
quả xử lý các vụ việc, đối tượng thuộc phạm vi kiểm tra,
giám sát của
Đảng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần tạo niềm tin của nhân dân
vào quyết tâm chính trị của Đảng và kết
quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giới thiệu, biểu dương gương
người tốt, việc tốt, tập thể, cá nhân điển hình trong đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
5. Đấu tranh, phản bác các thông tin,
quan điểm sai trái của các thế lực thù địch: Đẩy mạnh việc
đấu tranh, phản bác các luận điệu vu
cáo, xuyên tạc của các thế lực thù định, phần tử phản động, cơ hội chính trị về
tình hình tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam; âm mưu lợi dụng
vấn đề tham nhũng, lãng phí để “bôi nhọ” chế độ, chống phá cách mạng Việt Nam, chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước.
III. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Ban Tuyên giáo Trung ương
Chủ trì, phối hợp với các ban, bộ,
ngành liên quan, chỉ đạo Ban Tuyên giáo các cấp, các cơ quan truyền thông, đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên thường xuyên tuyên
truyền về phòng, chống tham nhũng, lãng phí và triển khai thực hiện nghiêm túc,
có hiệu quả Quy định 65-QĐ/TW ngày 03-02-2017 của Ban Bí
thư về chỉ đạo, định hướng, cung cấp thông tin tuyên truyền
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Phối hợp với Ban Nội chính Trung
ương và các cơ quan liên quan định hướng, cung cấp kịp thời thông tin, tài liệu
về tình hình, kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những vụ việc phức tạp
được dư luận xã hội quan tâm.
2. Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội
ở Trung ương
- Tham mưu giúp cấp ủy xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tuyên truyền,
phổ biến, quán triệt Nghị quyết và các Kết luận 21-KL/TW, Kết luận 10-KL/TW cho
cấp ủy, cán bộ chủ chốt các cấp, đến từng chi bộ và các tổ chức chính trị - xã
hội, các đoàn thể nhân dân và mỗi cán bộ, đảng viên bằng các hình thức phù hợp, như: Tài liệu thông báo nội bộ; bản
tin, thông qua hệ thống báo, đài; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; sinh
hoạt chi bộ, sinh hoạt đoàn, hội... để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và
hành động. Kế hoạch tuyên truyền cần nêu
rõ công việc phải làm, phân công đơn vị, cá nhân phụ
trách, lộ trình, điều kiện thực hiện. Hàng năm có đánh
giá, rút kinh nghiệm, bổ sung kế hoạch cho những năm tiếp theo.
- Tham mưu cấp ủy tổ chức Hội nghị
quán triệt gắn với xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện Kết luận 10-KL/TW của cấp
ủy từng cấp.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, định hướng đội ngũ tuyên truyền viên,
báo cáo viên và các cơ quan báo chí của ngành, địa phương mình tuyên truyền đầy
đủ, kịp thời các nội dung cơ bản của Nghị quyết, Kết luận 21-KL/TW và Kết luận
10-KL/TW.
- Thường xuyên theo dõi, nắm tình
hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời
phát hiện những vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai
thực hiện Nghị quyết và các kết luận để tham mưu cho cấp ủy xử lý, giải quyết.
- Phối hợp với Ban Nội chính tỉnh,
thành ủy và các cơ quan liên quan định hướng và cung cấp kịp thời thông tin,
tài liệu về tình hình, kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn
và những vụ việc phức tạp được dư luận xã hội quan tâm.
3. Các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương
- Các cơ quan báo chí, trên cơ sở
Hướng dẫn này, đồng thời bám sát sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo
Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, của các cơ quan chủ quản, xây dựng kế
hoạch tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, lãng phí sát hợp với tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ chính trị được giao. Mở chuyên trang,
chuyên mục, dành thời lượng, dung lượng thỏa đáng cho công tác thông tin, tuyên
truyền về phòng, chống tham nhũng,
lãng phí với những hình thức đa dạng như: tin tức, phóng sự, phóng sự điều tra,
ghi chép, thông tin chính sách pháp luật, phim tài liệu..., nhằm bảo đảm các nội
dung phản ánh nhanh chóng, kịp thời, mang tính toàn diện và sâu sắc.
- Các cơ quan quan báo chí cần phát
huy tính chủ động, sáng tạo, tính chiến đấu trong nhiệm vụ
thông tin, tuyên truyền, tích cực, chủ động tham gia phát hiện các biểu hiện, các hành vi tham nhũng, lãng phí; thông tin kịp thời, chính
xác, trung thực cho các cơ quan chức năng; lên án, đấu
tranh không khoan nhượng đối với các biểu hiện, hành vi
tham nhũng lãng phí và các hành vi
bao che cho tham nhũng, lãng phí; thực hiện chức năng giám
sát, tạo dư luận xã hội để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bảo vệ
người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Việc thông tin
cần thực hiện đúng chỉ đạo, định hướng, không suy diễn, chủ
quan, đưa thông tin một chiều, sai lệch; đưa tin, bài về phòng, chống tham
nhũng, lãng phí theo kiểu giật gân, câu khách, suy diễn, võ đoán, thiếu tính
giáo dục, tính định hướng; nghiêm cấm việc lợi dụng cung cấp thông tin tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng, lãng phí để vu khống, gây
mất đoàn kết nội bộ.
- Chú trọng giới thiệu, biểu dương
các gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt; động
viên, cổ vũ các tầng lớp
nhân dân tích cực tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đấu tranh, phản bác
những luận điệu tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch
về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ.
Ban Tuyên giáo Trung ương đề nghị các
cấp ủy đảng, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, các đảng ủy
trực thuộc Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội, các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương phối
hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và ngành tuyên giáo cả nước nghiêm
túc triển khai các hoạt động tuyên truyền Nghị quyết và các Kết luận này, góp phần quan trọng đưa nội dung Kết luận 10-KL/TW vào cuộc sống; xây dựng Đảng, Nhà
nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xây dựng xã hội lành mạnh, công
bằng.
Nơi nhận:
- Bộ Chính trị, Ban Bí
thư (để b/c);
- Các ban Đảng TW, Ban Nội chính Trung ương; Ủy ban kiểm tra TW, Văn phòng Trung ương Đảng;
- Lãnh đạo Ban;
- Thường trực các tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung
ương
- Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy,
thành ủy, các Đảng ủy trực thuộc Trung ương; các ban cán sự Đảng; Đảng đoàn
các bộ, ngành Trung ương, Mặt trận Tổ quốc VN và các đoàn thể chính
trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp
- Các cơ quan chủ quản báo chí, các báo, đài Trung ương;
- Các vụ, đơn vị trong Ban;
- Vụ Tuyên truyền;
- Lưu HC.
|
K/T
TRƯỞNG BAN
PHÓ TRƯỞNG BAN
Lâm Phương Thanh
|
TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
I. Kết quả đạt
được
Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X)
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí và 5 năm thực hiện Kết luận 21 Hội nghị Trung ương 5
khóa XI, công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí (PCTN, LP) đã được cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp
khá đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực, rõ nét, với những kết quả nổi bật là:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về công
tác tổ chức, cán bộ để PCTN, LP
1.1. Xây
dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách về công tác cán bộ: Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương đã chỉ đạo xây dựng,
ban hành nhiều quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ theo hướng công khai,
minh bạch, phân cấp mạnh cho cơ sở và tăng quyền hạn cho
người đứng đầu. Quốc hội, Chính phủ và nhiều bộ, ngành
Trung ương đã ban hành một số Luật,
Nghị định, văn bản quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý quan trọng cho việc công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức.
Các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng ủy
trực thuộc Trung ương đã rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng và tổ chức thực hiện
các quy định về công tác cán bộ theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch, nhất
là việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, giới thiệu cán bộ ứng cử
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức;
tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh lãnh đạo các cơ quan của Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2. Xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí:
Trong 10 năm, cả nước đã có 918 người đứng đầu và cấp phó của người đứng
đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp quản lý, phụ trách([1]).
Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu đã có tác dụng
răn đe, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong PCTN, LP.
1.3. Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức: Trong 10 năm, các bộ, ngành, địa phương đã chuyển
đổi vị trí công tác 310.694 lượt cán bộ, công chức, viên
chức để phòng ngừa tham nhũng([2]). Tuy số lượng cán bộ,
công chức, viên chức được chuyển đổi còn ít so với số cán bộ, công chức, viên
chức phải chuyển đổi, nhưng đây là một trong những biện
pháp góp phần tích cực trong phòng ngừa tham nhũng, được một số ngành, cơ quan, đơn vị
thực hiện nhiều năm qua.
1.4. Minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức: Để cụ thể hóa và triển khai thực hiện quy định của Luật PCTN về minh bạch
tài sản, thu nhập, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Thanh tra Chính phủ ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành([3]). Các bộ, ngành địa phương đã triển khai thực hiện việc kê khai tài sản,
thu nhập và công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên
chức([4]).Qua 10 năm đã có 4.859 trường hợp được
xác minh, phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai tài sản
không trung thực.
1.5. Xây dựng và thực hiện quy tắc
ứng xử, quy tắc đạo đức
nghề nghiệp, chuẩn mực đạo đức của đảng viên, cán bộ, công chức:
Trên cơ sở quy định, hướng dẫn của
Trung ương, các cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn
vị đã xây dựng và tổ chức thực hiện quy tắc, chuẩn mực ứng xử, đạo đức của đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, quy định rõ những điều cán bộ, công chức, viên
chức không được làm; những điều cán bộ,
công chức, viên chức phải làm và những điều cán bộ, công
chức, viên chức nên làm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ
và trong quan hệ xã hội; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn
chỉnh tác phong, lề lối làm việc trong thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức; thường xuyên kiểm tra để chấn chỉnh kịp thời
vi phạm([5]); qua đó góp phần
hạn chế tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, nâng cao chất lượng phục vụ của cán bộ,
công chức, viên chức đối với người dân, doanh nghiệp.
1.6. Tiếp tục cải cách chế độ tiền
lương, giao quyền tự chủ về tài chính, biên chế và giao khoán kinh phí hoạt động cho các cơ quan, tổ chức,
đơn vị: Đã có 741 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các bộ, ngành được giao tự chủ về tài chính([6]);
tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 24.890
đơn vị được giao quyền tự chủ tài chính([7]). Nhiều bộ, ngành, địa phương báo cáo kết quả tiết kiệm từ cơ chế giao quyền tự chủ đạt khá([8]); từ đó tạo nguồn để bổ sung thu nhập, nâng cao đời sống cho cán bộ, công chức, góp phần PCTN, LP([9]).
2. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán; công khai, minh bạch
trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
đơn vị trên các lĩnh vực theo quy định của pháp luật
2.1.
Công tác cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản
lý và phương thức thanh toán có tiến bộ ở hầu hết các
cấp chính quyền, nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP phê
duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020...
Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực
triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; ban hành và tổ chức
thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ; triển khai đề án tổng thể
đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu
liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020; thiết lập và công bố Bộ cơ
sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền và công khai
trên mạng Internet; chuẩn hóa và thống nhất được bộ thủ tục hành chính cấp huyện,
cấp xã theo hướng rút gọn([10]).
2.2. Công khai, minh bạch trong hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt
những kết quả tích cực: Trên cơ sở Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg , ngày
28-5-2007, Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg, ngày 04-5-2013 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp
thông tin cho báo chí, nhiều bộ, ngành, địa phương đã xây
dựng Quy chế phát ngôn và tổ chức việc cung cấp thông tin
cho báo chí theo định kỳ. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã
quan tâm thực hiện việc kiểm tra để phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm trong thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị([11]).
3. Xây dựng, hoàn thiện thể chế
3.1. Việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định về quản lý kinh tế - xã hội đã được quan tâm thực hiện, có tác dụng thiết thực trong phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát
sinh tham nhũng, lãng phí, như: đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách, thuế, hải quan, đầu tư công, đấu thầu, đấu giá tài sản, xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, doanh nghiệp,
đầu tư, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước([12]) v.v... Các bộ, ngành Trung ương cũng
đã quan tâm xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội có tác dụng phòng ngừa
tham nhũng trong lĩnh vực quản lý nhà nước được giao([13]).
3.2. Các cơ quan chức năng đã tập
trung và có nhiều cố gắng trong xây dựng, hoàn thiện
thể chế phục vụ PCTN, LP tạo cơ sở chính trị, pháp lý
đồng bộ cho công tác PCTN, LP trước mắt cũng như lâu dài. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 45 Nghị định,
Quyết định, Chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Luật PCTN, Luật THTK, CLPi. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành mới 42.168 văn bản; sửa đổi,
bổ sung trên 55.416 văn bản để thực hiện Nghị quyết Trung ương
3 (khóa X) và Luật PCTN. Đến nay, hệ thống pháp luật nói
chung trong đó có pháp luật về PCTN, LP đang dần được hoàn
thiện đồng bộ, cơ bản bảo đảm cơ sở chính trị, pháp lý cho công tác PCTN, LP.
4. Phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí và thu hồi tài sản tham nhũng
4.1. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết
tố cáo:
a. Trong nhiệm kỳ Đại hội X, các cấp ủy
đảng kiểm tra hơn 1 triệu đảng viên, phát hiện gần 12.000 đảng viên vi phạm, thi hành kỷ luật gần 3.000 trường hợp; kiểm
tra trên 180.000 tổ chức đảng, phát hiện hơn 6.000 tổ chức đảng có vi phạm, xử
lý kỷ luật 163 tổ chức. Ủy ban Kiểm tra
các cấp kiểm tra hơn 73.500 đảng viên, phát hiện hơn 55.000 trường hợp có vi phạm,
thi hành kỷ luật gần 30.000 trường hợp; kiểm tra trên 15.800 tổ chức đảng, phát
hiện gần 9.400 tổ chức đảng vi phạm, thi hành kỷ luật hơn 1.100 tổ chức đảng. Tổng số đảng viên bị kỷ luật hơn 76.000 trường hợp,
số tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật gần 1.800 tổ chức.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra
2.957 đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng; cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ
luật 3.730 đảng viên và Ủy
ban Kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 1.143 đảng viên vi phạm liên
quan đến tham nhũng, cố ý làm trái.
b. Trong 10 năm,
toàn ngành Thanh tra và các cấp, các ngành đã triển khai
93.696 cuộc thanh tra hành chính và 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm trên các lĩnh vực; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 8.234 tập thể,
33.722 cá nhân; kiến nghị thu hồi 142.160 tỷ đồng, 993.978 USD và 51.515 ha đất;
chuyển cơ quan điều tra 752 vụ, 1.143 đối tượng. Qua hoạt động thanh tra cũng đã phát hiện 670 vụ với 1.815 đối tượng có hành vi, biểu
hiện tham nhũng với số tiền, tài sản liên quan là 1.022 tỷ
đồng, 73,6 ha đất; chuyển cơ quan điều tra 274 vụ, 429 đối tượng có dấu hiệu tội
phạm tham nhũng.
Qua giải quyết 86.463 vụ việc tố cáo
về tham nhũng thuộc thẩm quyền, các cơ quan chức năng cũng đã chuyển cơ quan điều
tra 653 vụ việc với 1.172 người có dấu hiệu tội phạm tham
nhũng.
c. Từ năm 2007 đến năm 2015, Kiểm
toán Nhà nước đã thực hiện 1.470 cuộc kiểm toán; kiến nghị
xử lý tài chính 163.426 tỷ đồng; kiến
nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ 687 văn bản sai
quy định hoặc không phù hợp với quy định chung của Nhà nước và thực tiễn; Đặc
biệt, từ năm 2011 - 2015, thông qua hoạt động kiểm toán,
Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và chuyển 09 hồ sơ về 11 vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật hình sự được phát hiện qua hoạt động kiểm toán sang Cơ quan Cảnh
sát điều tra.
4.2. Công tác điều tra, truy tố, xét xử và thu hồi tài sản tham nhũng:
a. Công tác điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng trong cả nước: Cơ quan điều tra đã khởi tố 3.337 vụ án/ 7.789
bị can; Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố 2.770 vụ án/ 6.480 bị can; Tòa
án nhân dân đã xét xử 2.536 vụ án/ 5.749 bị cáo về các tội danh
tham nhũng.
Trong 04 năm (2013, 2014, 2015, 2016)
đã triển khai 25 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan
tâm tại 8 bộ, ngành và 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến 04-12-2016, trong các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư
luận xã hội quan tâm đã đưa ra xét xử sơ thẩm 21 vụ/262 bị
cáo, với 8 mức án tử hình, 15 án chung thân, 6 án tù 30
năm, 218 án tù có thời hạn từ 2 năm đến 25 năm.
b. Công tác thu
hồi tài sản tham nhũng:
Trong 10 năm, thiệt hại do các vụ án,
vụ việc tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng
và trên 400 ha đất; số tiền đã thu hồi cho nhà nước là
4.676,6 tỷ đồng và trên 219 ha đất. Trong những năm gần đây,
tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng hằng năm đều tăng, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều
so với số tài sản bị chiếm đoạt. Tài
sản tham nhũng trong một số vụ án bị
tẩu tán, không kiểm soát và thu hồi được.
5. Công tác thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí (THTK, CLP) được quan tâm
và đạt những kết quả trên một số lĩnh vực:
5.1.
THTK, CLP trong quản lý, sử dụng ngân sách
nhà nước (NSNN): Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Chỉ
thị([14]) để chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương
tăng cường thực hiện các biện pháp THTK, CLP trong quản lý, sử dụng NSNN. Trong các năm 2008, 2011,
2013, 2015 Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện sắp xếp các
dự toán chi được giao để tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên được giao của một số tháng cuối năm([15]).
Chính sách, chế độ về quản lý tài chính
đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ
chức khoa học và công nghệ công lập được đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ
cho các cơ quan, đơn vị, giúp giảm áp lực đối với cân đối NSNN([16]);
thúc đẩy các cơ quan, tổ chức chủ động phân bổ nguồn tài
chính theo nhu cầu chi tiêu trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả([17]); từ đó tạo nguồn để bổ sung thu nhập cho
cán bộ, công chức([18]). Chính phủ đã trình Quốc hội ban
hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương
trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, giảm từ 16 xuống chỉ còn 02, qua đó nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế lãng phí. Nhiều địa phương
đã thực hiện lồng ghép các Chương trình mục tiêu Quốc gia trên địa
bàn để bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm
nguồn lực.
Công tác THTK,
CLP trong quản lý, sử dụng NSNN đã đạt
được những kết quả tích cực, trong giai đoạn 2007 - 2015 cả
nước đã tiết kiệm chi NSNN được trên 90.794 tỷ đồng. Công tác thanh tra, kiểm
tra việc quản lý, sử dụng NSNN và kiểm soát chi NSNN đã được
tăng cường, góp phần tích cực trong
phòng, chống lãng phí([19]).
Nhiều khoản chi không đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ đã
được Kho bạc Nhà nước phát hiện, từ chối thanh toán và xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định([20]).
5.2. Trong mua sắm, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại và phương
tiện, thiết bị làm việc của cơ quan, tổ chức trong khu vực nhà nước:
Luật quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước năm 2008 và các văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành Luật đã được ban hành đồng bộ([21]),
theo đó công tác mua sắm, quản lý và sử dụng phương tiện
đi lại, phương tiện, thiết bị làm việc trong các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN
đã dần đi vào nề nếp. Việc thí điểm mua sắm tài sản, hàng hóa từ NSNN theo phương thức tập trung([22])
được triển khai thực hiện tại 25 Bộ, ngành, địa phương đăng ký tham gia, thu được những kết quả tích cực bước đầu([23]).
Từ năm 2016 việc mua sắm tài sản tập trung tiếp tục được triển khai mở rộng
hơn theo Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày 26-02-2016 của Thủ tướng
Chính phủ. Tình trạng mua sắm, trang bị phương tiện, trang
thiết bị làm việc vượt tiêu chuẩn, định mức dần được khắc phục.
Từ năm 2015, thực hiện các quy định mới([24])
về tiêu chuẩn, định mức, chế độ trang bị, sử dụng xe ô tô công, xe ô tô dùng
chung tại mỗi cơ quan, đơn vị chỉ còn
từ 01 đến 02 chiếc; dự kiến số lượng xe ô tô phục vụ công tác chung sau khi sắp
xếp lại theo quy định sẽ dôi ra khoảng 7.000 chiếc, sẽ được điều chuyển cho các
cơ quan, đơn vị còn thiếu xe so với tiêu chuẩn, định mức hoặc bán, thu tiền nộp
NSNN.
5.3. Trong đầu tư xây dựng; quản
lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng: Hệ thống văn bản pháp luật, tiêu chuẩn, định mức về quản lý đầu tư xây
dựng, đầu tư công đã được hình thành
đồng bộ([25]). Từ năm 2011, thực hiện
Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư đã được nâng lên;
từng bước khắc phục tình trạng quy hoạch được duyệt nhưng không triển khai thực hiện, đầu tư không theo quy hoạch. Công tác kiểm tra, thanh tra các dự án đầu tư được tăng
cường, góp phần chấn chỉnh tình trạng vi phạm, gây lãng phí trong đầu tư công. Công tác thẩm tra, quyết toán vốn đầu tư được đẩy mạnh, giúp loại bỏ khỏi giá trị quyết toán các khoản chi sai tiêu chuẩn,
định mức, chế độ([26]). Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản
được kiểm soát chặt chẽ hơn; việc xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản đã có chuyển biến
tích cực, nợ đọng giảm đáng kể so với trước([27]).
Thực hiện Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19-01-2007 của Thủ tướng
Chính phủ về việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương triển khai rà soát,
kê khai và thống kê diện tích đất đai, tại sở làm việc,
nhà công vụ để có phương án sắp xếp lại, xử lý các trường hợp
sử dụng sai mục đích, dư thừa diện tích, đảm bảo sử dụng, đúng định mức,
tiêu chuẩn, chế độ quy định([28]). Tổng
số tiền thu được từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
chuyển mục đích sử dụng đất của các Bộ, ngành, Tập đoàn, tổng
công ty nhà nước và các địa phương trên phạm vi cả nước là trên 35 nghìn tỷ đồng([29]).
5.4. Trong quản lý, khai thác, sử
dụng tài nguyên: Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm pháp
luật về đất đai của các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất theo Chỉ
thị số 134/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ được quan tâm triển khai thực hiện([30]),
giúp hạn chế lãng phí do giao đất, sử dụng đất sai mục
đích, sai quy định hoặc để đất hoang hóa.
Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất tràn lan trước
đây đã dần được khắc phục; sàng lọc được các nhà đầu tư có năng lực, bảo đảm đưa đất vào sử dụng, không để bỏ
hoang, gây lãng phí.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị để chỉ đạo
tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế
biến và xuất khẩu khoáng sản([31]).
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, góp phần phát hiện, chấn chỉnh, xử lý vi phạm gây
lãng phí([32]).
Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được triển khai thực
hiện từ năm 2006. Các cơ quan, tổ chức sử dụng NSNN đã thực hiện nhiều biện
pháp tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm 10% chi phí điện năng sử dụng hằng năm.
5.5. Trong quản lý, sử dụng lao động và thời
gian lao động khu vực nhà nước: Việc tổ chức thực hiện
Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức và Đề án
“Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” đã đạt được những kết quả tích cực
trên các nội dung: Xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu công
chức, viên chức([33]); hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức([34]); nâng
cao chất lượng thi tuyển, thi nâng ngạch công chức; đổi mới
phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp phòng; chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức, để nâng
cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ([35]); thực
hiện chính sách tinh giản biên chế để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức([36]); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức v.v...
5.6. Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn của các doanh
nghiệp nhà nước, rút dần vốn ra khỏi các lĩnh vực ngoài ngành nghề kinh doanh
chính và có nhiều rủi ro([37]). Công tác sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh([38]).
Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 đã
được tích cực triển khai thực hiện và thu được một số kết quả tích cực.
5.7. Trong sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng của nhân dân: Trong 10 năm qua, nhất là thời gian gần đây ý thức tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng của
nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều tập tục lạc hậu gây lãng phí tiền
của, thời gian của nhân dân đã từng bước được xóa bỏ.
6. Tổ chức và hoạt động của các
cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN từng bước được kiện toàn, phát huy hiệu quả
6.1. Ban Chỉ đạo Trung ương về
PCTN và cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo:
Ngày 01-02-2013 Bộ Chính trị đã ban
hành Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, do đồng
chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban.
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã chỉ
đạo nghiên cứu, xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW ngày
07-12-2015 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”; chỉ đạo các cơ quan chức
năng hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế
- xã hội và PCTN; chỉ đạo đưa 08 vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp ra xét xử và đang chỉ đạo tiếp tục đưa các vụ án tham nhũng, kinh tế
nghiêm trọng, phức tạp ra xét xử trong năm 2017...
Đồng thời với việc
tổ chức lại Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Quyết
định số 158-QĐ/TW, ngày 28-12-2012 thành lập Ban Nội chính Trung ương làm nhiệm
vụ Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo.
6.2. Các đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ, Bộ
Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục
được củng cố, kiện toàn, là những lực lượng chủ
công trong chống tham nhũng
Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra
Chính phủ được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2006.
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
tham nhũng (C48), trực thuộc Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an được thành lập năm
2007. Ngày 07-4-2015, Bộ trưởng Bộ Công an đã ra Quyết định số 1735/QĐ-BCA hợp
nhất Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ với Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng thành Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
kinh tế và tham nhũng (C46).
Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra án tham nhũng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập
và đi vào hoạt động từ năm 2007. Đến
ngày 20-11-2015, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành Quyết định số 05/QĐ-VKSTC-V5 kèm theo quy chế tổ chức và hoạt động của
Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, chức vụ.
6.3. Các ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy:
Thực hiện Quy định số 183-QĐ/TW, ngày
08-4-2013 của Ban Bí thư, 63 ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung
ương đã được thành lập.
7. Giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với công tác PCTN, LP được quan tâm hơn
Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với
công tác PCTN, LP được quan tâm và hiệu quả hơn thông qua việc thảo luận, chất
vấn, cho ý kiến đối với các báo cáo của Chính phủ, các bộ, ngành chức năng về công
tác PCTN, LP; ban hành Nghị quyết của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu
tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội phạm về kinh
tế, chức vụ và tham nhũng.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân các cấp, của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc các cấp, của các Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
cộng đồng đã được phát huy, giúp nâng cao vai trò giám sát của xã hội ở cơ sở,
góp phần hạn chế tiêu cực, tham nhũng.
8. Hợp tác quốc tế về PCTN
Quan hệ hợp tác quốc tế về PCTN giữa
Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục mở rộng và củng cố. Việt Nam
đã phê chuẩn, ban hành Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Chống tham
nhũng; nhiều nội dung Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng từng
bước được nội luật hóa; tổ chức thi hành nghiêm túc các Nghị quyết của
Hội nghị quốc gia thành viên Công ước và các thỏa thuận hợp tác trong khu vực.
Việt Nam đã tham gia tích cực, hiệu
quả các diễn đàn, sáng kiến khu vực về PCTN. Các cơ quan chức năng của Việt Nam
đã phối hợp với các cơ quan chức năng của các nước tiến hành điều tra, xử lý các vụ
án, vụ việc tham nhũng, kinh tế liên
quan đến nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật, đạt kết quả tích cực.
II. Những hạn chế,
yếu kém và nguyên nhân
1. Hạn chế, yếu kém
1.1. Công
tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN, LP hiệu quả chưa cao, chưa tạo được sự chuyển
biến căn bản về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và người dân đối với công tác PCTN, LP. Người dân và doanh nghiệp còn tâm
lý cần phải chấp nhận chi phí không chính thức để thuận lợi
hơn khi giải quyết công việc; tâm lý thờ ơ, ngại đấu tranh với các biểu hiện
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, công chức, viên chức khá phổ biến; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của báo chí và nhân dân trong
phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí. Việc xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng chưa được quan
tâm đúng mức.
1.2. Nhiều
chi bộ đảng chưa quản lý tốt đảng viên, chưa phát hiện và đấu tranh kịp thời những
trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí. Chưa có quy định và thiếu kiên quyết
điều chuyển, thay thế cán bộ khi có dư luận hoặc có biểu
hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu
khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, vướng mắc, hiệu quả thấp.
Tình trạng tham nhũng thông qua chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp v.v... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
1.3. Cơ
chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn thiếu
chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn. Nhiều quy định về các giải pháp phòng ngừa
tham nhũng còn mang tính hình thức, khó khăn, vướng mắc,
hiệu quả thấp trong tổ chức thực hiện, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Cải cách hành chính
hiệu quả chưa cao, nhiều quy định về công khai, minh bạch chưa được thực hiện
nghiêm túc.
1.4. Công
tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát
hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị; nhiều trường hợp
xử lý chưa nghiêm, còn có tình trạng lạm dụng xử lý hành
chính, số vụ việc, vụ án được phát hiện, xử lý chưa tương xứng, chưa phản ánh
đúng thực trạng tham nhũng, lãng phí hiện nay. Công tác tự kiểm tra, phát hiện
tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đủ sức răn
đe, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí. Hoạt động thanh tra, kiểm toán phát hiện
nhiều sai phạm về kinh tế, nhưng việc phát hiện tham nhũng để chuyển cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật còn ít. Tiến độ điều
tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng, kinh tế, nhất là các vụ án đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp còn bị kéo dài, có vụ chất lượng chưa cao. Tỷ lệ thu hồi
tài sản tham nhũng vẫn còn rất thấp so với số tài sản thực sự bị chiếm đoạt,
thiệt hại.
1.5. Công
tác giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp về PCTN, LP chưa thường
xuyên, có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả chưa cao, nhất là giám sát của Hội
đồng nhân dân các cấp. Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối
với công tác PCTN, LP còn hạn chế.
1.6. Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được quan tâm đúng mức; lãng phí trong cơ
quan nhà nước và trong xã hội còn rất nghiêm trọng. Công
tác PCTN, LP chưa đạt mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí”. Tham nhũng, lãng phí với biểu hiện ngày
càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng, cản trở sự phát triển kinh tế -
xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, đang là vấn đề thách
thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém
2.1. Việc
quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết ở nhiều nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa
cao; một số chủ trương, giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) và Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa
XI) chưa hoặc chậm được thể chế hóa, chưa
được triển khai thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm.
Giữa quyết tâm chính trị của Đảng,
Nhà nước và hành động thực tiễn của không ít cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn
vị, cán bộ, đảng viên, công chức còn khoảng cách, nói không đi đôi với làm. Nhiều
cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm
tra, đôn đốc và thực hiện công tác PCTN, LP. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có cả cán bộ cao cấp còn thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
sa vào chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, tiền tài, tham nhũng, lãng phí.
2.2. Việc
rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới cơ chế, chính sách, pháp luật về kinh tế
- xã hội và PCTN, LP còn chậm, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng một
số văn bản chưa cao, chưa có giải pháp đủ mạnh để làm triệt tiêu động cơ tham
nhũng, một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí còn hình thức, vướng mắc
trong thực hiện nhưng chậm được tháo gỡ, làm giảm hiệu quả
công tác PCTN, LP. Việc thực thi pháp luật nói chung và các quy định về PCTN,
LP của Đảng và Nhà nước nói riêng nhìn chung chưa nghiêm. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm minh.
2.3. Chưa
kiên quyết sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí chưa đủ mạnh. Chưa xây dựng được những tiêu chuẩn, định mức phù hợp để định hướng việc tiết kiệm
trong nhân dân.
2.4. Mô
hình tổ chức các cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN thiếu ổn định; quyền hạn,
địa vị pháp lý chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Năng lực,
trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác PCTN chưa đáp ứng yêu cầu.
2.5. Chưa
có cơ chế tốt để phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cơ quan dân cử, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân và báo chí trong PCTN,
LP; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân
trong PCTN, LP.
2.6. Tham
nhũng là hệ quả của quyền lực bị lạm dụng, bị tha hóa;
trong khi cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực còn bất cập, hiệu quả chưa
cao nhưng chậm được khắc phục, điều chỉnh kịp thời; chưa có cơ chế hữu hiệu
ngăn chặn sự tác động không đúng vào quá trình phát hiện, điều tra, xử lý tham
nhũng, lãng phí. Việc thực thi pháp luật nói chung và các quy định về PCTN, LP
của Đảng và Nhà nước nói riêng nhìn chung chưa nghiêm.
III. Nhiệm vụ và
giải pháp
Trong thời gian tới, cần tiếp tục
quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ mục tiêu, quan điểm, chủ trương, giải
pháp về phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng,
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” và Kết luận 21 Hội nghị Trung ương 5
khóa XI, trong đó tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau
1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu
Cấp ủy, tổ chức đảng phải xác định
công tác PCTN, LP là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, cấp bách để tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo. Gắn công tác
PCTN, LP với việc thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Bí thư cấp ủy, Bí thư ban cán sự đảng,
đảng đoàn và người đứng đầu chính quyền các cấp, tổ chức, đơn vị phải gương mẫu, quyết liệt, trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, LP...
Xây dựng quy định về tiêu chí đánh
giá hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí và hoàn
thiện chế tài xử lý người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục hoàn thiện quy định về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, quy định về những điều đảng viên không được
làm. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện nghiêm quy định của Đảng và Nhà
nước về PCTN, LP; đảng viên phải gương mẫu hơn quần chúng, cán bộ phải gương mẫu
hơn nhân viên, cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương
mẫu.
2. Tăng cường công tác quản lý,
giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên; hoàn thiện, thực hiện nghiêm các quy định
về công tác tổ chức, cán bộ làm công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Khẩn trương rà soát, bổ sung, khắc phục
những sơ hở, bất cập trong công tác tổ chức, cán bộ. Cấp ủy,
tổ chức đảng và người đứng đầu phải tăng cường quản lý, giám sát cán bộ, đảng
viên. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ
công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm, xác minh, kết luận khi có dấu hiệu
tham nhũng, lãng phí.
Quy định và thực hiện nghiêm việc xử
lý, điều chuyển, miễn nhiệm, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện
tham nhũng, lãng phí gây nhiều dư luận. Quy định cụ thể và thực hiện hiệu quả
chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh,
cấp huyện không phải là người địa phương; không bố trí những người có quan hệ
gia đình cùng làm một số công việc dễ xảy ra tham nhũng.
Đẩy mạnh cải cách hành chính; kiên
quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, đồng bộ
với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và
đổi mới chính sách tiền lương.
3. Kiểm soát có hiệu quả tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện nghiêm
các quy định về công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ
Tiếp tục hoàn thiện quy định bảo đảm
kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất
là các nội dung về quản lý bản kê khai; kiểm tra, giám sát, xác minh việc kê
khai; trách nhiệm giải trình việc tăng, giảm tài sản, những khoản chi tiêu,
giao dịch có giá trị lớn. Quy định rõ chế tài xử lý đối với người kê khai không
trung thực.
4. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh rà soát, bổ
sung, sửa đổi,
xây dựng, ban hành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Trước
mắt tập trung sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Phòng chống tham nhũng, Bộ luật Hình
sự, Luật Tố cáo, Luật Giám định tư pháp để khắc phục những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc trong công tác PCTN, lãng phí. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm
toán theo hướng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, quan hệ phối hợp với cơ
quan điều tra, viện kiểm sát trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng.
5. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án, vụ việc tham nhũng, lãng phí; thực hiện tốt công tác giám định và nâng cao hiệu quả thu hồi
tài sản tham nhũng, lãng phí.
Tập trung xác minh, điều tra làm rõ,
xử lý kịp thời, nghiêm minh những vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí. Những vụ
việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và
Nhà nước.
Áp dụng kịp thời các biện pháp kê
biên, phong tỏa, tạm giữ tài sản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Trước mắt, tập trung đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Thanh
tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiên quyết xử lý nghiêm minh các tổ chức,
cá nhân có sai phạm liên quan các dự án lớn thua lỗ, kéo dài, gây lãng phí lớn,
dư luận xã hội quan tâm.
6. Nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để
ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; xây dựng văn hóa
tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí
Thường xuyên kiểm tra, giám sát công
tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí của các cơ quan, đơn vị có chức năng
phòng, chống tham nhũng.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và
cơ quan truyền thông trong công tác PCTN, LP.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức về PCTN, LP; xây dựng văn hóa
tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí, trước hết là trong cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức.
7. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ
máy và chức năng, nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham
nhũng
Nghiên cứu, đề xuất mô hình cơ quan,
đơn vị chuyên trách chống tham nhũng theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm,
tính độc lập tương đối trong thực hiện nhiệm vụ. Trước mắt, đổi mới phương thức
hoạt động, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường phương tiện
làm việc của các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng.
8. Từng bước mở rộng hoạt động
phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng
Đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các hiệp
định tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm với các nước, nhất là các nước có quan hệ truyền thống hoặc
có đông người Việt Nam sinh sống. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp của
các nước để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội lẩn trốn và thu hồi tài sản
tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài.