Tăng thời gian làm thêm giờ cho người lao động không quá 40 giờ/tháng;
Tăng độ tuổi nghỉ hưu của người lao động từ năm 2021;
Tăng ngày nghỉ lễ Quốc khánh thêm 01 ngày trước hoặc sau ngày 02/9 hằng năm.
>> Doanh nghiệp có bắt buộc tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho nhân viên?
>> 03 việc doanh nghiệp cần làm khi lương tối thiểu vùng tăng
Về thời giờ làm thêm, so với Bộ luật Lao động 2012 thì số giờ làm thêm của người lao động không được quá 30 giờ/tháng thì nay, tại Bộ luật Lao động 2019, số giờ làm thêm đã được tăng lên, không quá 40 giờ/tháng.
Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ/năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:
- Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản;
- Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
- Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời;
- Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn, do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước do hậu quả thời tiết, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;
- Trường hợp khác do Chính phủ quy định.
- Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
- Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ.
- Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định nêu trên.
- Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, so với quy định hiện hành tại Bộ luật Lao động 2012 thì tuổi nghỉ hưu trong điều kiện bình thường của người lao động (nam từ đủ 60 tuổi và nữ từ đủ 55 tuổi) đã được điều chỉnh tăng lên.
Tuy nhiên, theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019 thì người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn mà không cần lý do, chỉ cần thông báo trước cho người sử dụng lao động theo đúng thời hạn quy định tương ứng với các loại hợp đồng.
Theo Bộ luật Lao động 2019 thì bổ sung 01 ngày nghỉ vào lễ Quốc khánh. Như vậy, vào lễ Quốc khánh (02/9 năm Dương lịch), người lao động sẽ được nghỉ 02 ngày, có thể trước hoặc sau ngày 02/09 Dương lịch.
- Người lao động Việt Nam, người học nghề, tập nghề và người lao động khác được quy định tại Bộ luật này;
- Người sử dụng lao động;
- Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2019 quy định đối tượng điều chỉnh bao gồm cả người làm việc không có quan hệ lao động. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh này nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả những người lao động có hay không có phát sinh quan hệ lao động.
Theo đó, ngoài các hành vi đã được quy định hiện hành cấm trong quan hệ lao động như cấm phân biệt đối xử, cấm ngược đãi, cưỡng bức, quấy rối tình dục v.v thì các hành vi lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo gian dối hoặc thủ đoạn khác để tuyển dụng người lao động với mục đích mua bán người, bóc lột, cưỡng bức lao động cũng bị nghiêm cấm.
Theo quy định mới từ Bộ luật Lao động 2019 thì hình thức của hợp đồng lao động được bổ sung thêm hình thức giao kết thông qua phương tiện điện tử. Theo đó, hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.
Căn cứ pháp lý: Bộ luật Lao động 2019