Với thời đại công nghiệp hóa và công nghệ 4.0 như hiện này thì việc giao dịch thông qua đàm phán qua internet không còn là điều quá xa lạ với các doanh nghiệp. Để thuận tiện cho quá trình giao kết, tiết kiệm được thời gian, chi phí của các bên thì việc giao kết hợp đồng điện tử là một giải pháp thích hợp.
>> Doanh nghiệp và kinh tế chia sẻ
>> Người không có thẩm quyền đại diện vẫn ký kết được hợp đồng kinh tế?
Theo quy định của Luật Giao dịch điện tử 2005 thì “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật giao dich điện tử”. Theo đó, “Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử” và “Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.”
Từ đó, có thể hiểu Hợp đồng điện tử là giao dịch điện tử được các bên thoả thuận về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ và được gửi đi, được nhận lại và được lưu giữ các thông tin bằng phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Ngoài hai bên giao dịch, đàm phán trong hợp đồng thì hợp đồng điện tử còn có chủ thể thứ ba đó là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực chữ ký điện tử.
Bên thứ ba không tham gia trực tiếp vào quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng mà tham gia với tư cách hỗ trợ cho việc thực hiện hợp đồng và đảm bảo tính hiệu quả cũng như giá trị pháp lý của hợp đồng.
Hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng điện tử sẽ căn cứ vào thời điểm nào trong quá trình gửi và nhận thông điệp dữ liệu giữa người khởi tạo và người nhận thông điệp dữ liệu điện tử, thì Luật Giao dịch điện tử quy định:
+ Thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo. Với quy định này thì có thể hiểu là thời điểm gửi thông điệp dữ liệu được xác định là thời điểm thông điệp dữ liệu ra khỏi hệ thống máy chủ của người gửi.
+ Thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định trong trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu; nếu người nhận không chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận.
Luật giao dịch điện tử 2005 không quy định địa điểm giao kết hợp đồng mà chỉ quy định địa điểm gửi và nhận các thông điệp dữ liệu điện tử. Địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở của người khởi tạo, trường hợp người khởi tạo có nhiều trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.
- Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết và thực hiện hợp đồng.
- Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng như:
+ Các bên tự nguyện, bình đẳng trong giao kết hợp đồng;
+ Tự do giao kết nhưng không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
- Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên quan đến hợp đồng điện tử đó.
- Sử dụng chữ ký điện tử để giao kết hợp đồng.
Quý thành viên có thể tham khảo thêm bài viết:
- Bạn đã hiểu biết về chữ ký số chưa?
Căn cứ pháp lý:
- Luật giao dịch điện tử 2005;
Anh Đào