trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, khi xét xử đối với loại tội này, Tòa án cần phân tích để người bị hại và những người tham dự phiên tòa thấy được tội lỗi của người bị hại và hành vi phạm tội của bị cáo để mọi người không có ấn tượng vì sao gây thương tích nặng, rất nặng thậm chí dẫn đến chết người nhưng hình phạt tối đa có năm năm tù
phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Theo quy đinh của Bộ luật hình sự thì trường hợp phạm tội này là phạm tội ít nghiêm trọng nhưng thương tích của người bị hại là thương tích nặng nên khi xét xử loại tội này, Tòa án cần phân tích để người bị hại và những
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây thương tích nặng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân có tỷ lệ thương tật
Mục 6 phần I Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10-06-2002 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn như sau:
Khi xét xử vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích, trong đó bị cáo là chồng (hoặc là vợ), người bị hại là vợ (hoặc là chồng) thì có buộc người chồng (hoặc người vợ) phải bồi thường
thể phạm tội trong trường hợp bị kích động tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại ( bạn của bạn nhìn thấy anh mình bị chém vào tay). Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm được quy định tại khoản 1 điều 46 BLHS.
Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 , tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới
nhân sự ít nên các tòa án và cơ quan thi hành án thường phát hành chậm, hoặc cá biệt có trường hợp bị thất lạc. Với nhiệm vụ mới nêu trên, các thừa phát lại sẽ tạo thuận lợi cho người dân được thực hiện các quyền và nghĩa vụ luật định.
Lập vi bằng. Vi bằng là văn bản do thừa phát lại lập để ghi nhận một sự kiện, một hành vi và có thể được dùng
đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm.
Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án. Vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
1. Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
2. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Toà án ra quyết định tuyên bố một văn bản công chứng vô hiệu; trong quyết định này, Toà án phải xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên văn bản công chứng vô hiệu theo quy
1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là ba mươi ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn đó, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
2. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu văn bản công chứng là vô hiệu, Tòa án có thẩm quyền thông báo cho Phòng công chứng, Văn phòng công chứng hoặc
1. Công chứng viên đã thực hiện việc công chứng, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về công chứng.
2. Đơn yêu cầu Tòa án
, Luật Công chứng “Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.”
Như vậy, khi hợp đồng, giao dịch về đất đai đã được công chứng mà không có vi phạm
thông báo bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do, gửi cho Sở Tư pháp và người đề nghị bổ nhiệm.”
Luật cũng quy định các trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên tại Điều 13 như sau:
1. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do vô ý mà chưa được xóa án tích
Theo thông tin bạn cung cấp, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa ông A và ông B có chứa đựng yếu tố có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Cụ thể:
(i) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể bị tuyên vô hiệu do có sự lừa dối về chủ thể: Điều 132 Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa như
các quyền, nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hơn nữa, Điều 5 Luật công chứng đã quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham
kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
- Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
- Bản
bị miễn nhiệm chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết;
+ Văn phòng công chứng không bảo đảm duy trì điều kiện hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
- Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra, rà soát và lập hồ sơ đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thu hồi quyết định cho phép thành
ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
Thủ tục bổ nhiệm công chứng viên:
1. Người hoàn thành tập sự hành nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên gửi Sở Tư pháp ở
lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc;
+ Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
+ Thuộc các trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên theo quy định tại thời điểm được bổ nhiệm.
- Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát, kiểm tra việc bảo đảm tiêu chuẩn hành nghề của công chứng viên tại
Những trường hợp sau đây không được bổ nhiệm công chứng viên:
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do vô ý mà chưa được xóa án tích hoặc về tội phạm do cố ý.
- Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm