Kính
gửi:
|
- Đoàn Đại biểu Quốc hội các tỉnh,
thành phố: Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đắk Lắk, Hải Dương, Hưng Yên, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận, Phú
Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Tây Ninh, Thừa Thiên Huế, Trà Vinh;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ.
|
Thực hiện Công văn số 368/BDN ngày
05/7/2013 của Ban Dân nguyện - Ủy ban thường vụ Quốc hội và Công văn số 6103/VPCP-V.III ngày 24/7/2013 của Văn phòng Chính phủ về việc giải quyết 36
kiến nghị của cử tri gửi tới kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII (34 kiến nghị do
Ban Dân nguyện chuyển (trong đó kiến nghị số 2 và số 14 của
cử tri tỉnh Hải Dương là trùng nhau)[1], 02 kiến nghị do Văn phòng Chính phủ chuyển)
thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Tư pháp, sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp xin
tổng hợp và trả lời các kiến nghị của cử tri như sau:
I. Kiến nghị của cử tri về công
tác xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) và theo dõi thi
hành pháp luật
1. Kiến nghị của cử tri các tỉnh
Bình Định, Thừa Thiên Huế, Tây Ninh, Quảng Nam, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Bình Dương và Nghệ An:
- Tỉnh Bình Định: Đề nghị Chính phủ sớm chỉ đạo
các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác xây dựng các dự thảo VBQPPL theo
đúng lộ trình đã được xác định trong nghị quyết của Quốc hội về chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm, khắc phục tình trạng chậm trễ và chưa bảo đảm
chất lượng của các dự thảo văn bản luật do Chính phủ trình xin ý kiến tại các
phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian gần đây; đồng thời sớm
khắc phục tình trạng chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhất là
các văn bản hướng dẫn thi hành các luật có hiệu lực trong năm 2013 như: Luật Hợp
tác xã (sửa đổi) có hiệu lực ngày 01/7/2013, Bộ luật Lao động (sửa đổi), Luật Phòng,
chống tác hại của thuốc lá có hiệu lực từ ngày 01/5/2013.
- Tỉnh Thừa Thiên Huế: Hiện nay, một số luật đã được ban hành có hiệu lực thi hành nhưng hệ
thống VBQPPL như nghị định hướng dẫn thi hành luật, thông tư hướng dẫn thực hiện
nghị định quá chậm, gây ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi VBQPPL, dẫn đến việc
triển khai rất bị động và không đảm bảo thời hiệu của
VBQPPL. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ
đạo các Bộ, ngành cần có biện pháp kiên quyết để sớm giải quyết tình trạng
trên.
- Tỉnh Tây Ninh: Đề nghị
Chính phủ quan tâm xem xét, tăng cường kiểm tra, nâng cao
chất lượng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật,
VBQPPL thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Bộ, ngành đảm bảo thống nhất với quan điểm của luật gốc, kịp thời, khả thi, đồng bộ, ổn định, tạo điều
kiện cho địa phương thực hiện thuận lợi. Bởi vì thời gian qua có nhiều văn bản
chậm được ban hành, chưa mang tính đồng bộ, ổn định, địa phương không thực hiện hoặc thực hiện không được... Ví dụ:
Chính sách miễn thuế đối với Khu kinh tế Mộc Bài bị bãi bỏ
từ ngày 31/12/2012 đã tác động rất lớn đến môi trường thu hút đầu tư; việc thực
hiện Nghị định số 21/2010/NĐ-CP về quản lý biên chế nhà nước Bộ Nội vụ đã giao
và phân bổ biên chế cụ thể cho từng
cơ quan, đơn vị hành chính địa phương trong khi đó Hội đồng nhân dân là cơ quan
được giao thẩm quyền quyết định phân bổ biên chế tại địa phương (làm cho Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chỉ mang tính hình thức);
tình trạng kiên quyết “giữ nghèo bền vững” ở một số địa phương để trông chờ vào sự trợ cấp của nhà nước; tình trạng
Bộ, ngành đua nhau tìm cách ban hành các chế độ chính sách để có lợi cho một
nhóm người thuộc Bộ, ngành ngày càng diễn ra khá phổ biến làm phá vỡ hệ thống tiền lương,
mất công bằng giữa các nhóm cán bộ, công chức, trong khi đó
chế độ của những người hoạt động ở cơ sở
không được quan tâm, nhất là lực lượng hoạt động không chuyên trách cấp xã.
- Tỉnh Quảng Nam: Phản ánh việc Quốc hội thông qua các luật, pháp lệnh nhưng việc hướng
dẫn thực hiện của Chính phủ và các Bộ, ngành quá chậm trễ
làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện.
- Tỉnh Ninh Thuận: Hiện nay, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật
(Thông tư) còn bất cập. Hầu hết các nghị định của Chính phủ khi ban hành dù đã
cụ thể, chi tiết nhưng cơ quan hữu quan vẫn chờ thông tư hướng dẫn, dẫn đến việc
áp dụng và thực thi các chính sách pháp luật chậm. Mặt khác, còn nhiều thông tư
của các Bộ, ngành có nội dung quy định theo hướng có lợi cho sự quản lý của
ngành mình. Cử tri đề nghị thời gian
tới, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành hạn chế tối đa việc
ban hành thông tư. Các Bộ, ngành khi tham mưu cho Chính phủ ban hành nghị định
cần quy định luôn các nội dung chi tiết, để khi ban hành
nghị định sẽ được áp dụng, thực hiện ngay.
- Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương khi
ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới luật cần tuân thủ
chặt chẽ Luật Ban hành VBQPPL. Đánh giá tác động toàn diện của
văn bản đối với đời sống xã hội, hợp lòng dân để có tính khả thi cao, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Như
khi ban hành các nghị định: Nghị định số 18/2012/NĐ-CP
ngày 13/3/2012 quy định Quỹ bảo trì đường bộ; Nghị định số 71/2012/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đã vấp phải phản ứng xã hội, gây bức xúc trong nhân dân.
- Tỉnh Bình Dương: Trong thời gian vừa qua có một số nghị định, văn bản dưới luật được
ban hành nhưng không có hiệu quả khi áp dụng vào cuộc sống (quy định thịt heo bán không quá 8 tiếng sau khi giết mổ, xử phạt
hành vi nghe điện thoại tại cây xăng; xử phạt hành vi hút thuốc lá nơi công cộng; ghi tên bố, mẹ lên chứng minh
thư kiểu mới...), gây ra bức xúc trong dư luận. Đông đảo cử
tri yêu cầu các cơ quan chức năng trước khi ban hành quy định nào cần phải khảo sát thật kỹ ý kiến của người dân vào thực tế cuộc sống để sau khi ban hành có hiệu quả cao khi áp dụng
vào đời sống người dân; thu hồi các quy định sai phạm pháp
luật.
- Tỉnh Nghệ An: Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Thông tư hướng dẫn
Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về việc theo dõi tình hình thi hành pháp luật để các
địa phương thực hiện.
2. Bộ Tư pháp có ý kiến đối với
các kiến nghị của cử tri như sau:
2.1. Đúng như ý kiến của các cử tri
đã nêu, trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng
pháp luật ở nước ta còn có một số bất cập, hạn chế, trong đó nổi lên là: (1)
Tình trạng chậm trễ và chưa bảo đảm chất lượng của các dự thảo văn bản luật,
pháp lệnh do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội; (2) Chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp
lệnh, nhất là tình trạng luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật từ một số
năm, nhưng văn bản quy định chi tiết vẫn chưa được ban hành; (3) Văn bản được
ban hành không phù hợp với tình hình thực tế; (4) Hệ thống văn pháp luật chưa
mang tính đồng bộ, ổn định; (5) Việc ban hành thông tư,
thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị định còn bất cập...,
gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
này là do:
Về khách quan:
- Trong thời gian qua, công việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN, đặt ra yêu cầu cấp bách đối với công tác xây dựng pháp luật cả về mặt
chất lượng và khối lượng công việc. Hàng năm, số lượng luật, pháp lệnh mà Quốc
hội giao Chính phủ chủ trì soạn thảo là tương đối lớn, khoảng 90% tổng số các dự án luật, pháp lệnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội. Nhiều Bộ, ngành được giao chủ trì soạn thảo cùng lúc 2 - 3 dự
án luật để trình Quốc hội trong một kỳ họp, tạo ra sức ép công việc rất lớn. Nội
dung quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh nhiều, thường là
các vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi phải quy định chi tiết nhiều điều khoản mới
thi hành được. Qua thống kê cho thấy trung bình một luật, pháp lệnh có đến 12 nội
dung ủy quyền cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành, trong đó, Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội ủy quyền cho Chính phủ
quy định 53% và ủy quyền cho Bộ trưởng quy định 47% (tính
trung bình là 3,6 văn bản hướng dẫn 01 luật, pháp lệnh, thực tế có trường hợp trên 10 văn bản). Nhiều Bộ, ngành vừa phải soạn thảo nghị
định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, vừa
phải xây dựng các thông tư thuộc thẩm quyền ban hành. Việc này đòi hỏi đầu tư
thời gian, công sức nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo, trong khi các Bộ chủ trì soạn
thảo lại đồng thời phải thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều
hành công việc chuyên môn. Mặt khác, việc soạn thảo, trình,
thông qua văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), nếu bảo đảm
chặt chẽ, tuân thủ theo đúng quy
trình cũng đòi hỏi không ít thời gian. Trong khi đó,
việc giải thích pháp luật - biện pháp góp phần hạn chế ban hành văn bản quy định chi tiết - trong thời gian qua hầu
như chưa được thực hiện. Công tác tham mưu đề xuất xây dựng văn bản quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh còn chưa hiệu quả, do có sự cắt khúc với công tác theo dõi đôn đốc xây dựng luật, pháp lệnh.
- Đất nước ta
đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều quan hệ xã hội mới
được định hình, tính ổn định chưa cao. Công tác xây dựng
pháp luật ở nước ta mới được quan tâm thực hiện trong khoảng 20-25 năm nay. Bên
cạnh đó, việc chuyển đổi tư duy pháp
lý từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường chưa được triệt để, trong khi đó ở một số trường hợp, pháp luật đòi
hỏi cần phải đi trước để hình thành, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát
triển của các quan hệ xã hội, nhưng điều kiện tổ chức thực
hiện trên thực tế còn rất nhiều khó khăn.
Về chủ quan:
- Lãnh đạo một số Bộ, ngành chưa thực
sự quyết liệt trong việc chỉ đạo công tác xây dựng VBQPPL nói chung và văn bản
hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết nói riêng. Công tác phối hợp giữa
các Bộ, ngành trong xây dựng, thẩm định VBQPPL cũng chưa chặt chẽ, hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng,
thẩm định VBQPPL ở Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành còn thiếu về số lượng, năng lực
chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế,
trong khi số lượng văn bản ban hành nhiều dẫn đến quá tải. Quy trình xây dựng VBQPPL, nhất là khâu dự báo, đánh
giá tác động kinh tế - xã hội và lấy ý kiến tham vấn của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan chưa được tuân thủ nghiêm.
2.2. Đối với Bộ Tư pháp, theo quy định
của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, ngoài luật, pháp lệnh, nghị quyết chứa quy
phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Bộ
Tư pháp còn được giao nhiệm vụ thẩm định nghị định của
Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Riêng trách nhiệm thẩm định thông tư, thông tư liên tịch của các Bộ, ngành thì theo quy định
tại khoản 3 Điều 68 Luật Ban hành VBQPPL được giao cho pháp
chế các Bộ, ngành. Có thể nói công tác thẩm định các
VBQPPL của Bộ Tư pháp thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Quá
trình thẩm định, Bộ Tư pháp đã phát hiện nhiều quy định không đúng thẩm
quyền, mâu thuẫn, chồng
chéo với các quy định pháp luật hiện hành, qua đó kiến nghị cơ quan soạn thảo
chỉnh lý, hoàn thiện trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến, trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc
ký ban hành, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng
của văn bản và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn
bản pháp luật. Đối với các thông tư và thông tư liên tịch, theo Luật Ban hành
VBQPPL, Bộ Tư pháp chỉ có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ sau khi văn bản đã được ban hành theo
Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý
VBQPPL (hậu kiểm). Nhìn chung, qua việc kiểm tra theo thẩm
quyền đối với thông tư, thông tư liên tịch, Bộ Tư pháp cũng đã phát hiện nhiều sai sót và đã tiến hành xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Với trách nhiệm là cơ quan giúp Chính
phủ quản lý nhà nước về công tác xây dựng, thẩm định, kiểm
tra và theo dõi thi hành pháp luật nói chung, chúng tôi thấy rằng, để xảy ra tình trạng như cử tri phản ánh là có phần trách nhiệm của Bộ Tư
pháp. Để khắc phục các bất cập, vướng mắc nêu trên, trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ Tư pháp đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Các giải pháp đã và đang được
thực hiện:
- Tham mưu, trình Chính phủ ban hành
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP nhằm kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy Vụ
Pháp chế của tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Phòng Pháp chế của 14 Sở thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc triển khai Nghị định
này tuy còn gặp khó khăn, nhưng là bước khởi sắc mới trong công tác xây dựng,
hoàn thiện thể chế pháp luật.
- Tham mưu, trình Chính phủ ban hành
Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình
hình thi hành pháp luật tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để các Bộ, ngành, địa phương
thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, qua đó góp phần nâng
cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm
thi hành pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
- Đối với nội bộ cơ quan Bộ Tư pháp,
Lãnh đạo Bộ đã nghiêm túc chấn chỉnh, quán triệt các đơn vị xây dựng pháp luật
trong việc thẩm định VBQPPL theo hướng: bên cạnh việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất, đồng bộ và kỹ thuật soạn thảo văn bản theo quy định của
Luật Ban hành VBQPPL, thì cần chú trọng hơn nữa đến tính
khả thi, tính hợp lý của dự thảo văn bản. Ngày 14/8/2013, Bộ Tư pháp cũng đã tổ
chức Hội nghị về thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng
công tác thẩm định VBQPPL nhằm đề xuất các giải pháp ngắn hạn và dài hạn hoàn thiện
thể chế, tổ chức bộ máy, nhân lực làm công tác thẩm định.
Các giải pháp sẽ được tiếp tục
thực hiện hoặc đề xuất thực hiện:
- Phối hợp với Bộ Nội vụ hoàn thiện dự
thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính
phủ. Tổ chức bàn giao và triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đã được
Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 921/QĐ-TTg về việc chuyển giao trách
nhiệm theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp
lệnh từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp thực hiện, kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2013.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác xây dựng, thẩm định VBQPPL. Bổ sung hợp lý số lượng cán
bộ, công chức làm công tác thẩm định; tăng cường tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phân
tích, xây dựng chính sách pháp luật và kỹ năng soạn thảo, thẩm định văn bản pháp luật cho những người làm
công tác xây dựng pháp luật, bao gồm cả cán bộ, công chức pháp chế các Bộ, ngành.
- Có biện pháp thu hút sự tham gia của
nhân dân, huy động trí tuệ của chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, sự phản
biện từ các tổ chức xã hội, từ các phương tiện thông tin đại chúng... vào quá
trình xây dựng, thẩm định VBQPPL; cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phối
hợp giữa các Bộ, ngành và giữa các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong việc xây dựng,
thẩm định VBQPPL.
- Tăng cường công tác kiểm tra VBQPPL, kết hợp kiểm tra VBQPPL với công tác theo dõi thi hành
pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính nhằm phát hiện kịp
thời các văn bản có sai phạm chưa phù hợp với yêu cầu xã hội để có kiến nghị khắc
phục kịp thời.
- Về lâu dài, để nâng cao chất lượng
VBQPPL một cách căn cơ hơn, Quốc hội đã giao cho Chính phủ nghiên cứu xây dựng
Luật Ban hành VBQPPL (hợp nhất), với định hướng làm cho quy trình xây dựng pháp
luật dân chủ hơn, minh bạch hơn, chuyên nghiệp hơn, trách nhiệm giải trình cao
hơn. Đồng thời, nghiên cứu bổ sung vai trò giải thích pháp luật của Tòa án nhân
dân; vai trò xây dựng án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, qua đó sẽ góp phần hạn
chế ban hành thông tư, thông tư liên tịch quá nhiều như hiện nay.
- Trong quá trình triển khai thực hiện
Nghị định số 59/2012/NĐ-CP , Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, tổ chức lấy
ý kiến các Bộ, ngành và địa phương và sẽ ban hành trong thời gian tới.
II. Kiến nghị của cử tri về công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)
1. Kiến nghị của cử tri các tỉnh,
thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Trà Vinh, Phú Yên, Cà Mau:
- Các tỉnh Hải Dương, Trà Vinh,
Phú Yên: Đề nghị Nhà nước cần sớm
nghiên cứu để có giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
PBGDPL về phương pháp, hình thức tuyên truyền sinh động
giúp người nghe dễ cảm nhận, tiếp thu; góp phần nâng cao
nhận thức chính trị, tư tưởng pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân, giảm tình
trạng vi phạm pháp luật do không am hiểu pháp luật.
- Tỉnh Cà Mau: Phản ánh hiện nay đa số người dân sống ở những vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, miền núi... vẫn chưa tiếp cận được các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Rất nhiều trường hợp vi phạm
pháp luật vì không biết được việc mình làm trái với quy định pháp luật của Nhà
nước, ví dụ như các trường hợp tảo hôn. Cử tri kiến nghị Chính phủ sớm có giải
pháp chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ
chức tuyên truyền sâu, rộng các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Đề nghị tăng cường công tác tuyên truyền, PBGDPL sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân.
- Tỉnh Phú Yên: Đề nghị sau khi Hiến pháp 1992 sửa đổi và Luật Đất đai (sửa đổi) được
Quốc hội thông qua, trong quá trình ban hành cần tổ chức học
tập rộng rãi để cho mọi công dân được thực hiện nghiêm túc.
2. Bộ Tư pháp có ý kiến đối với
các kiến nghị của cử tri như sau:
2.1. Công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trong những năm qua luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các
ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhiều Chỉ thị, Kết luận của
Ban Bí thư Trung ương Đảng; Chương trình, Kế hoạch và văn
bản về công tác PBGDPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được ban hành, đã góp
phần từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL trong cả nước, trong đó phải kể đến Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày
16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ
biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012;
Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành Chương
trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa XI) và nhiều Chương trình, kế hoạch
PBGDPL của các Bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương... Tuy nhiên, đúng như
cử tri phản ánh, công tác này chưa có sự đổi mới, đa dạng, phù hợp với các đối
tượng, địa bàn nên hiệu quả chưa được như mong muốn. Những hạn chế, bất cập trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu là:
- Thể chế về
PBGDPL đang được hoàn thiện nên chưa tạo sự chuyển biến đồng
bộ trong cả nước.
- Một số bộ, ngành, địa phương còn
chưa quan tâm đến công tác PBGDPL, nhất là phổ biến những
chính sách pháp luật mới liên quan trực tiếp đến người
dân, doanh nghiệp.
- Kinh phí, điều kiện bảo đảm cho hoạt
động PBGDPL của các địa phương còn thiếu. Hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL
các cấp chưa hiệu quả.
2.2. Với trách nhiệm là cơ quan giúp
Chính phủ quản lý nhà nước về PBGDPL, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ xây
dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Phổ biến, giáo dục
pháp luật với nhiều giải pháp nhằm tăng cường, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp
phần nâng cao dân trí pháp lý, ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức
và nhân dân. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện đồng bộ các
giải pháp sau:
- Về hoàn thiện thể chế, Chính phủ đã
ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định về thành phần, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng phối
hợp PBGDPL các cấp và Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính đang hoàn thiện, chuẩn bị ban
hành các Thông tư, Thông tư liên tịch liên quan;
- Về kiện toàn Hội đồng phối hợp công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ trung ương đến cấp huyện, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định thành lập Hội đồng phối hợp PBGDPL TW. Hội đồng này
đã họp phiên thứ nhất vào cuối tháng
7/2013, cũng đã cho ý kiến về việc hướng dẫn việc kiện toàn Hội đồng cấp tỉnh
và cấp huyện trong những tháng tới.
- Phối hợp với các bộ, cơ quan ngang
Bộ xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 07 Đề án trọng tâm về PBGDPL
giai đoạn 2013-2016, cụ thể là: (1) Tiếp tục tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn;
(2) Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành
pháp luật trong cộng đồng dân cư; (3) Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo; (4) Tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật; (5) Tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Truyền
hình Việt Nam; (6) Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Tiếng
nói Việt Nam; (7) Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật và trợ giúp pháp lý.
- Để tăng cường các
điều kiện bảo đảm, đáp ứng một cách đầy đủ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật được triển khai trên diện rộng, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Bộ Tài
chính có Công văn hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc TW lập dự toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong năm 2014.
- Bộ Tư pháp định kỳ hàng tháng đã ra
thông cáo báo chí về các văn bản pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
ban hành. Bên cạnh đó, thực hiện quy định tại Điều 8 của Luật,
Bộ Tư pháp cũng đang xây dựng Hướng dẫn việc tổ chức Ngày Pháp luật đầu
tiên vào ngày 9/11/2013 tới đây.
2.3. Về việc phổ biến, tổ chức học tập
rộng rãi Hiến pháp, Luật Đất đai (sửa đổi) sau khi được Quốc
hội thông qua, trong phạm vi chức năng, quyền hạn được của
mình, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tham mưu cho
Chính phủ triển khai thực hiện và tổ chức phổ biến, tổ chức
học tập rộng rãi để cho mọi công dân được thực hiện nghiêm túc.
Bộ Tư pháp xin ghi nhận những kiến
nghị của cử tri và sẽ khẩn trương hoàn thiện thể chế, triển khai các hoạt động
cụ thể nêu trên nhằm tạo chuyển biến
cơ bản, đồng bộ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao hiệu quả
công tác này trong thời gian tới.
III. Kiến nghị của cử tri về
công tác trợ giúp pháp lý (TGPL)
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Tây Ninh:
- Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 11
Câu lạc bộ TGPL, hoạt động rất hiệu quả, nhưng kinh phí địa phương còn hạn hẹp
chưa đáp ứng yêu cầu về kinh phí của
các Câu lạc bộ. Đề nghị Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hỗ
trợ thêm kinh phí hoạt động của các Câu lạc bộ này.
- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các
Bộ, ngành có liên quan sớm sửa đổi Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
ngày 28/12/2007 về hướng dẫn áp dụng một số quy định về TGPL trong hoạt động tố
tụng, vì đã phát sinh nhiều bất cập trong quá trình thực hiện.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Về hoạt động của Câu lạc bộ TGPL,
qua báo cáo của địa phương và rà soát của Bộ Tư pháp cho thấy, 11 Câu lạc bộ
TGPL tại huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh trước đây được thành lập và hoạt
động từ nguồn hỗ trợ của Dự án “Tăng cường trợ giúp pháp lý ở Việt Nam giai đoạn
2005 - 2009”. Sau khi Dự án kết thúc, năm 2011, để tiếp tục duy trì sinh hoạt của
các Câu lạc bộ TGPL, Bộ Tư pháp đã đề nghị Bộ Tài chính hỗ trợ kinh phí từ ngân
sách Trung ương thông qua Quỹ TGPL Việt Nam.
Năm 2012, do kinh phí của Quỹ TGPL Việt
Nam bị cắt giảm và chỉ tập trung nguồn lực cho các xã
nghèo, xã đặc biệt khó khăn nên không có kinh phí hỗ trợ cho các Câu lạc bộ
không thuộc xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Năm 2013, Quỹ TGPL Việt Nam cũng đã
quan tâm hỗ trợ cho 04/11 Câu lạc bộ TGPL ở tỉnh Tây Ninh từ nguồn ngân sách
Trung ương với tổng kinh phí là 24 triệu đồng.
Để tạo điều kiện
cho các Câu lạc bộ TGPL đã được thành lập và hoạt động bằng các nguồn kinh phí
khác nhau tiếp tục duy trì hoạt động sau khi các nguồn hỗ
trợ kết thúc, bảo đảm tính bền vững, ngày 22/7/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có
Công văn số 5463/BTP-TGPL đề nghị đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ
đạo việc rà soát, củng cố, kiện toàn các Câu lạc bộ TGPL đã thành lập; không nhất
thiết phải thành lập Câu lạc bộ TGPL ở tất cả các xã, phường,
thị trấn mà phải trên cơ sở đánh giá nhu cầu TGPL của người
dân và đánh giá tính khả thi bảo đảm hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động
của các Câu lạc bộ TGPL. Bên cạnh đó, Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Tây Ninh cần
chủ động lập dự toán kinh phí hỗ trợ sinh hoạt cho các Câu lạc bộ TGPL hoạt động
có hiệu quả trên địa bàn tỉnh trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định và
tổ chức thực hiện dự toán sau khi được phê duyệt.
- Về kiến nghị sửa đổi Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
ngày 28/12/2007 về hướng dẫn áp dụng một số quy định về TGPL trong hoạt động tố
tụng, đúng như ý kiến cử tri đã nêu trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch
số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC đã phát
sinh một số bất cập. Ngày 04/7/2013, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân
dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về TGPL trong hoạt động tố tụng
(thay thế Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC),
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/8/2013, sẽ được tháo gỡ
những bất cập trong thời gian trước.
2. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Đắk Lắk: Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ trình
Chính phủ xem xét bổ sung đối tượng được hưởng phụ cấp
công vụ 25% cho cán bộ, viên chức, Trợ giúp viên pháp lý ở
các Trung tâm TGPL nhà nước của tỉnh nhằm đảm bảo quyền lợi
cho những người làm việc trong lĩnh vực đặc thù này.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Theo quy định của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP
ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật TGPL và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập thì Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công
lập không có thu do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động. Do
đó, chế độ áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (trong đó có Trung tâm
TGPL nhà nước) được thực hiện theo chính sách chung.
Đối với những đối tượng chưa được hưởng
phụ cấp tại các Trung tâm TGPL nhà nước, Bộ Tư pháp tiếp thu ý kiến của cử tri
và đang phối hợp nghiên cứu đề xuất chế độ, chính sách đối với người làm công tác TGPL theo chế độ đối với đơn vị
sự nghiệp hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
IV. Kiến nghị của cử tri về công
tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Tây Ninh: Đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi Điều 6 Nghị định
số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao
từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Theo quy định
thì “Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng
thực từ bản chính không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu.
Trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ bản sao là giả mạo thì có quyền xác minh”. Như vậy, bản sao được chứng thực từ bản
chính có giá trị pháp lý thay cho bản chính trong các giao dịch, nhưng hiện nay
chưa có văn bản nào quy định thời hạn sử dụng của bản sao
đã chứng thực. Do đó sẽ nảy sinh những vướng mắc trong quá trình thực hiện các
giao dịch, vì hiện nay có một số loại giấy tờ trong quá
trình giao dịch có sự thay đổi về nội
dung như Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, sổ hộ khẩu gia đình, giấy khai sinh... Kiến nghị
Chính phủ xem xét có quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Theo quy định của Nghị định số
79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 thì “Bản sao được chứng thực
từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị pháp lý sử dụng thay
cho bản chính trong các giao dịch”. Đúng như ý kiến cử tri đã nêu, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không có quy định về thời hạn
sử dụng các bản sao đã được chứng thực.
Đối với những bản chính giấy tờ, văn
bản ghi rõ thời hạn sử dụng (như: giấy chứng nhận sức khỏe, giấy chứng minh
nhân dân, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân...), thì thời
hạn sử dụng bản sao chứng thực cũng sẽ có thời hạn tương tự như bản chính.
Đối với các bản chính giấy tờ, văn bản
không ghi về thời hạn sử dụng và trong thực tế những giấy tờ, văn bản này đã có sự thay đổi về nội dung do phụ thuộc vào các sự kiện pháp lý khác (như Giấy khai sinh khi đã thay đổi, cải chính nội dung,
Giấy chứng nhận kết hôn khi đã ly hôn, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi đã tách thửa hoặc bán một phần...) thì bản sao chứng
thực từ bản chính trước khi có sự thay đổi (bản chính cũ) không có giá trị sử dụng
thay cho bản chính đó nữa. Vì về bản chất, giá trị của bản sao, thời hạn sử dụng
bản sao phụ thuộc vào bản chính.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, để đảm bảo
an toàn pháp lý khi sử dụng bản sao đã được chứng thực, Bộ Tư pháp đang nghiên
cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP , đồng thời sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này để quy định
trong quá trình xây dựng dự án Luật Chứng thực.
2. Kiến nghị của cử tri tỉnh
thành phố Cần Thơ: Trường hợp
trẻ em có cha là người nước ngoài, mẹ là người Việt Nam và đang sinh sống với mẹ
ở Việt Nam nhưng không được làm giấy khai sinh nên việc hòa
nhập xã hội về sau này gặp khó khăn. Đề nghị Bộ Tư pháp
nghiên cứu, đưa ra quy định nhằm tháo gỡ bất cập nêu trên, đồng thời cũng nhằm điều chỉnh kịp thời mối quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài đang phổ biến hiện nay.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (tại Khoản
1 Điều 8, Khoản 1 Điều 13, Điều 49, Điều 50, Khoản 1 Điều 96) và Thông tư số
01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định
của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP , tại mục 1 phần II về Thẩm
quyền đăng ký khai sinh đã quy định cụ thể về các trường hợp được đăng ký khai
sinh. Theo đó, trường hợp trẻ em có cha là người nước ngoài, mẹ là người Việt
Nam và đang sinh sống mẹ tại Việt Nam như cử tri phản ánh, sẽ được cấp Giấy
khai sinh tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn theo
trình tự, thủ tục nêu tại các văn bản trên.
Tuy nhiên, thực tế triển khai các quy định trên trong thời gian trước đây cho thấy, một số địa
phương chưa chủ động nghiên cứu đầy đủ quy định pháp luật mà đề nghị Bộ Tư pháp
có hướng dẫn cụ thể. Trên cơ sở kiến nghị của địa phương,
Bộ Tư pháp cũng đã kịp thời hướng dẫn để triển khai thực hiện. Đối với trường hợp
cử tri nêu, Bộ Tư pháp chỉ đạo Sở Tư pháp thành phố Cần Thơ rà soát, chỉ đạo giải
quyết dứt điểm.
3. Kiến nghị của cử tri tỉnh Đắk
Lắk: Đề nghị
sớm xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Hộ tịch (thay thế Nghị định số
158/2005/NĐ-CP , Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, Nghị định số
69/2006/NĐ-CP... của Chính phủ), vì đây là những vấn đề cơ bản
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân từ khi sinh ra đến khi chết và qua
thực tiễn thi hành thì lĩnh vực này còn nhiều bất cập chồng
chéo. Do đó, cần ban hành luật để điều chỉnh nhằm nâng cao
tính hiệu lực pháp lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Thực hiện Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội năm 2012, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho
Chính phủ xây dựng, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý
kiến dự án Luật Hộ tịch. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, Ngành có liên quan xây dựng,
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành
chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020 (Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 08/6/2013), đồng
thời hoàn chỉnh một bước dự án Luật, trình lại Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp thứ
20. Tuy nhiên, do còn băn khoăn về một số quy định của dự án luật như: mối liên
hệ giữa hộ tịch, hộ khẩu; việc đơn giản hóa các giấy tờ
sau khi Luật hộ tịch được thông qua và nhất là tính khả thi của các quy định về
cấp Số định danh cá nhân trong điều kiện thực tế của nước ta..., Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ sớm triển
khai Đề án để có cơ sở thuyết phục
hơn cho dự án Luật này.
Ngày 6/9/2013, Ban chỉ đạo Đề án đã họp
phiên thứ nhất, thông qua kế hoạch triển khai Đề án để tổ chức thực hiện trong thời
gian tới. Cùng với việc triển khai Đề án, Bộ Tư pháp cũng
sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan chỉnh lý hoàn thiện dự án Luật Hộ tịch
để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8.
V. Kiến nghị của cử tri về công
tác bổ trợ tư pháp
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
An Giang:
- Phản ánh toàn huyện chỉ có 1 phòng
công chứng, nhân viên ít, hồ sơ nhiều nên quá tải, khi người dân đến công chứng
gặp nhiều khó khăn, phải đi lại nhiều lần. Đề nghị nghiên cứu chấn chỉnh cho phù hợp và đề nghị
giao cho chính quyền địa phương chứng thực như cũ.
- Mỗi huyện chỉ có
một phòng công chứng, nhưng hiện nay thủ tục làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quá rườm rà, gây không ít khó khăn cho người dân. Đề nghị xem xét cải cách
thủ tục hành chính.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Công chứng là một hoạt động dịch vụ công, có chức năng chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch. Về mặt nguyên tắc và theo thông lệ của hầu hết các nước theo hệ thống pháp luật tương tự
như Việt Nam, ví dụ như Pháp, Đức, Trung Quốc... thì để bảo đảm an toàn pháp
lý, phòng ngừa tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến các hợp đồng, giao dịch về
quyền sử dụng đất, nhà ở - những tài sản lớn và có ý nghĩa
quan trọng đối với người dân, việc chứng nhận các đều phải do công chứng viên
thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay do mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng
còn mỏng, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu, nên Luật Đất đai, Luật
Nhà ở vẫn giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch về
đất đai, nhà ở cho UBND cấp xã, cấp huyện.
Thực hiện chủ trương tách bạch công
chứng và chứng thực, chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng, tăng cường an toàn
pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đồng thời tạo điều kiện
cho cán bộ của UBND tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình,
Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất, đã giao UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình
phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện địa lý thực tế tại địa
phương quyết định việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng,
giao dịch từ UBND cấp xã sang các tổ chức
hành nghề công chứng. Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đã ban hành Quyết định chuyển giao với những phạm vi khác
nhau. Bên cạnh đó, để bảo đảm phát triển các tổ chức hành
nghề công chứng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của tổ
chức, cá nhân, Bộ Tư pháp đã chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công
chứng đến năm 2020 và chỉ đạo tổ chức thực hiện trên toàn quốc.
Đối với tỉnh An Giang, trên cơ sở Quy
hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng phê duyệt,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã phê duyệt Quy hoạch
phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 -
2015. Hiện nay, toàn tỉnh An Giang đã thành lập được 16 tổ chức hành nghề công chứng phân bổ trên toàn bộ 11 địa bàn cấp
huyện với 29 công chứng viên đang hành nghề (chỉ còn thiếu 01 tổ chức hành nghề
công chứng được phép thành lập tại thành phố Châu Đốc).
Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của cử
tri, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục theo dõi, hướng dẫn tỉnh An Giang nói riêng và các
địa phương trong cả nước nói chung trong việc thực hiện Quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 để phù hợp với thực tế phát triển nhu cầu công chứng tại địa phương, đảm bảo
công tác chuyển giao được tiến hành thuận lợi, hiệu quả.
- Về thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất: Để khắc phục một số tồn tại về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo nhiều biện pháp nhằm
đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể: Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 30/2012/QH13 ngày 21/6/2013 yêu cầu căn bản hoàn thành
việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu trong
phạm vi cả nước vào ngày 31/12/2013. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24/8/2011 và Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày
04/4/2013 về tập trung chỉ đạo và tăng cường biện pháp thực hiện để trong năm
2013 hoàn thành cơ bản việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Với vai trò của cơ
quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục
phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan có liên quan rà soát
các quy định của pháp luật, nhất là các quy định có chứa thủ tục hành chính liên
quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để kiến nghị
đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
2. Kiến nghị của
cử tri tỉnh Đắk Lắk: Theo quy định của pháp luật hiện hành, lĩnh vực công chứng, chứng thực hiện được điều chỉnh bằng nhiều văn
bản luật chuyên ngành (Luật Đất đai,
Luật Nhà ở, Luật Công chứng và các Nghị định của Chính phủ về chứng thực), qua
thực tiễn thi hành thì các quy định tại các văn bản này còn nhiều mâu thuẫn, thiếu đồng bộ,
thống nhất trong thực hiện (như trong việc công chứng, chứng thực các giấy tờ
liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở...). Do đó, đề nghị
sớm sửa đổi, bổ sung các luật trên nhằm tháo gỡ những bất cập hiện nay và tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa các luật chuyên ngành
trong tổ chức thi hành.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Theo quy định của Luật Đất đai năm
2003 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng; trường hợp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của hộ gia đình, cá nhân thì được
lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2005 thì hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng
hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp
huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã; đối với nhà ở tại nông thôn. Hai Luật này được ban hành
khi chưa có Luật Công chứng, chưa có chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng,
số lượng các Phòng công chứng còn ít, nên quy định cho phép người dân lựa chọn
công chứng hoặc chứng thực là phù hợp với điều kiện tại các thời điểm đó.
Thực hiện chủ trương tách bạch công
chứng và chứng thực, Quốc hội đã thông qua Luật công chứng, Chính phủ ban hành
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, có hiệu lực
từ 01/7/2007, theo đó, các tổ chức hành nghề công chứng thực
hiện việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch, còn Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp
huyện thực hiện việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký. Tuy nhiên, trong điều kiện mạng lưới tổ chức
hành nghề công chứng chưa phát triển kịp để đáp ứng yêu cầu của người dân, Nghị định số
88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã giao UBND cấp tỉnh
căn cứ vào tình hình phát triển của các tổ chức hành nghề
công chứng, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện địa
lý thực tế tại địa phương quyết định việc chuyển giao thẩm
quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã
sang các tổ chức hành nghề công chứng; ở những địa bàn chưa có tổ chức hành nghề công chứng, UBND cấp huyện, cấp xã vẫn thực hiện nhiệm vụ
chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trong thời gian tới, cùng với việc đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức hành nghề công chứng đến năm 2020, việc chuyển giao
thẩm quyền sẽ tiếp tục được thực hiện và tiến tới hạn chế
việc UBND thực hiện nhiệm vụ này.
Hiện nay, Luật Công chứng, Luật Đất
đai, Luật Nhà ở đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung, Luật chứng thực đang được
nghiên cứu xây dựng. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến công chứng, chứng thực trong thời
gian tới cũng vẫn sẽ đảm bảo phù hợp với chủ trương tách bạch,
chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng và chứng thực, đồng
thời giải quyết những điểm còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa
Luật Công chứng và các luật có liên quan như hiện nay.
Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của cử
tri, sẽ bảo đảm tiến độ xây dựng, trình Quốc hội ban hành các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Công chứng, Luật Chứng thực và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan
trong việc xây dựng các luật chuyên ngành bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong
hoạt động công chứng, chứng thực.
3. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Tây Ninh: Đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán
đấu giá tài sản, cụ thể như sau:
- Bổ sung quy định về trường hợp mất
tiền đặt trước do trả giá dưới giá khởi điểm trong bán đấu giá, vì giá khởi điểm
đã được thông báo trước khi đăng ký tham gia đấu giá để tránh sự liên kết dìm
giá.
- Xem xét lại quy định tại khoản 1, Điều 28 về việc niêm yết, thông báo công khai việc
bán đấu giá tài sản "Đối với bất động sản, tổ chức
bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản
tại nơi bán đấu giá, nơi có bất động sản bán đấu giá và Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi có bất động sản...". Thực tế việc niêm yết
tại nơi có bất động sản thực hiện chỉ mang tính hình thức, không có tác dụng.
Kiến nghị nên tổ chức việc niêm yết tại nhà Tổ trưởng Tổ Dân cư tự quản, Ban Quản lý khu phố, ấp.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Trong thời gian qua, công tác bán đấu
giá tài sản theo quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần tăng thu cho ngân sách
nhà nước, giảm bội chi ngân sách, hạn chế tham nhũng, lãng phí. Tuy nhiên,
trong thực tế vẫn còn để xảy ra một số hiện tượng tiêu cực,
như thông đồng, dìm giá. Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của cử tri về việc bổ
sung quy định người tham gia đấu giá sẽ mất tiền đặt trước nếu trả
giá dưới giá khởi điểm để tiếp tục nghiên cứu, đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy định của pháp luật về
bán đấu giá tài sản trong thời gian tới.
- Về khoản 1, Điều 28
của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định "Đối với bất động sản, tổ chức
bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản tại nơi bán đấu giá,
nơi có bất động sản bán đấu giá và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
bất động sản...”, Bộ Tư pháp nhận thấy ngoài việc niêm yết tại nơi bán đấu giá
và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có bất động sản thì việc niêm yết thông báo bán đấu
giá tài sản tại nơi có bất động sản là yêu cầu cần thiết của trình tự, thủ tục bán đấu giá nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch của
tài sản bán đấu giá. Tuy nhiên, ghi nhận kiến nghị cử tri Bộ Tư pháp sẽ nghiên
cứu thêm việc niêm yết công khai việc bán đấu giá tại một
số địa điểm phù hợp khác nhằm tăng cường hơn nữa tính công
khai, minh bạch của việc bán đấu giá trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về bán đấu giá.
VI. Kiến nghị của cử tri về công
tác kiểm soát thủ tục hành chính
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
An Giang: Đề nghị nghiên cứu
giảm bớt quy định thủ tục hành chính của phòng công chứng
về giải quyết đất đai để tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đến quan hệ, hạn chế
đi lại quá nhiều lần tốn kém tiền của người dân.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Luật Công chứng năm 2006 đã quy định
về trình tự thực hiện, thành phần hồ sơ, thời hạn công chứng,
yêu cầu điều kiện công chứng, địa điểm công chứng, thẩm quyền công chứng... về cơ bản
các quy định của Luật đã đáp ứng được yêu cầu công khai,
minh bạch, đồng thời đảm bảo tính chặt chẽ, an toàn của hợp
đồng, giao dịch, phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu các tranh
chấp pháp lý có thể phát sinh.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai
thực hiện Luật cũng đã bộc lộ một số bất cập, vướng mắc. Tiếp thu ý kiến của cử
tri, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Công chứng theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi cho người
dân trong việc thực hiện các thủ tục về công chứng hợp đồng, giao dịch, đồng thời
vẫn phải đảm bảo tính chặt chẽ và an toàn của hợp đồng, giao dịch.
2. Kiến nghị của cử tri thành
phố Cần Thơ: Phản ánh về sự bất
cập của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực chữ ký:
Nội dung nghị định này yêu cầu mỗi loại văn bản chứng thực đều phải lưu lại 2 bản
sao tại cơ quan có thẩm quyền. Đây là quy định không cần thiết và gây lãng phí
vì các văn bản lưu trữ phải được tiêu hủy sau đó 2 năm. Đề
nghị Bộ Tư pháp xem xét để có thể thay đổi bằng những quy định khả
thi hơn.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Khoản 2, Điều 21 Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực chữ ký quy định: “đối với việc chứng thực bản sao từ bản chính thì cơ
quan chứng thực phải lưu một bản sao để làm căn cứ đối chiếu khi cần thiết.
Thời hạn lưu trữ bản sao tối thiểu là 2 năm. Khi hết
hạn lưu trữ, việc tiêu hủy bản sao được thực hiện
theo quy định của pháp luật về lưu trữ”.
Mục đích của việc lưu trữ một bản sao
chứng thực là để làm căn cứ đối chiếu khi cần thiết theo quy định của Nghị định
số 79/2007/NĐ-CP. Mặt khác, bản lưu chứng thực còn phục vụ
cho công tác thanh tra, kiểm tra để phát
hiện được những sai sót của người thực hiện chứng thực (chứng thực bản sao từ bản
chính đã bị tẩy xóa, sửa chữa, bản chính được cấp không đúng thẩm quyền...).
Tuy nhiên, do hiện nay số lượng bản lưu
chứng thực ngày càng tăng, trong khi đó tại rất nhiều địa phương
không có điều kiện để lưu trữ và kinh phí để tiêu hủy (khi hết hạn lưu trữ), vì vậy, tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ
Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để có phương án lưu trữ khả thi hơn bảo đảm tiết
kiệm và hiệu quả.
3. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Hưng Yên, Nam Định, thành phố Hồ Chí Minh: Đề nghị Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, nhất là đối với lĩnh vực đất
đai; rà soát các quy định hiện hành để đơn giản hóa thủ tục
và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, của Quốc
hội, Chính phủ đã xác định cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của cải cách hành chính và xác định mục tiêu “Tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm
giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính” (Nghị quyết số
30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ). Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành
chính tạo cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát chất lượng quy
định về thủ tục hành chính từ khâu dự thảo cho đến tổ chức thực hiện theo hướng
chỉ ban hành, thực hiện thủ tục hành chính thực sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp
và hiệu quả, cũng như đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thực hiện thủ tục
hành chính.
Theo quy định tại Chương III và Chương
V Nghị định số 63/2010/NĐ-CP , Chính phủ đã quy định rõ nội dung, trách nhiệm,
quyền hạn công bố, công khai thủ tục hành chính; quy định hoạt động rà soát,
đánh giá thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước là hoạt động
thường xuyên thuộc trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương để phát hiện, loại
bỏ, sửa đổi, bổ sung các thủ tục hành chính không cần thiết,
không hợp lý, không hợp pháp và không hiệu quả.
Trong lĩnh vực đất đai, việc cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực này đang được Chính phủ nghiên cứu, hoàn thiện
các quy định về thủ tục hành chính trong quá trình xây dựng dự án Luật Đất đai
(sửa đổi). Bên cạnh đó, tại Kế hoạch rà soát thủ tục hành
chính trọng tâm năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường
phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát các thủ tục hành chính liên quan
đến đất đai trong quy trình đầu tư - đất đai - xây dựng (Quyết
định số 263/QĐ-TTg ngày 05/3/2012). Hiện nay, Chính phủ cũng đang giao Bộ
Tư pháp chủ trì, phối hợp với bộ, ngành, địa phương có liên quan xây dựng trình Chính phủ Nghị quyết về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách thủ
tục hành chính trong thực hiện dự án đầu tư để cải thiện môi trường kinh doanh,
thu hút đầu tư (Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ và Chỉ thị số 11/CT-TTg
ngày 19/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó dự
kiến sẽ có các phương án đơn giản hóa, sáng kiến cải cách thủ tục hành chính đối
với lĩnh vực đất đai của các dự án đầu tư có sử dụng đất.
Thời gian tới, theo chỉ đạo của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Tư vấn cải
cách thủ tục hành chính và các bộ, ngành, địa phương có liên quan tập trung đẩy
mạnh việc thực hiện Đề án tổng thể đơn
giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020 để tiếp tục tạo thuận lợi cho cá
nhân, tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính nói chung
và thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai nói riêng.
4. Kiến nghị của cử tri tỉnh Đắk
Lắk: Đề nghị
Chính phủ sớm sửa đổi Nghị định số 63/2010/NĐ-CP
của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính, nhất là quy
định về tổ chức bộ máy kiểm soát thủ tục hành chính ở Trung ương và địa phương
đảm bảo đồng bộ, thống nhất.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Đúng như cử tri phản ánh, Bộ Tư pháp
đã tham mưu cho Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát
thủ tục hành chính, trong đó có nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của
Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính.
Một trong những nội dung quan trọng
được điều chỉnh tại Nghị định số 48/2013/NĐ-CP là quy định về tổ chức bộ máy kiểm
soát thủ tục hành chính ở Trung ương và địa phương phù hợp với yêu cầu mới (Điều 5, Nghị định số 48/2013/NĐ-CP). Theo quy định của Nghị định
trên, tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính được tổ chức
thống nhất như sau: Ở Trung ương có Cục Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Bộ
Tư pháp, các Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính thuộc Tổ chức pháp chế các Bộ,
cơ quan ngang Bộ; ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các Phòng Kiểm
soát thủ tục hành chính thuộc các Sở Tư pháp.
Để triển khai thực
hiện Nghị định số 48/2013/NĐ-CP , Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 05/7/2013, trong đó có yêu
cầu các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện việc chuyển giao, tiếp nhận nhiệm vụ, tổ chức, biên chế hành chính được giao cho
Phòng Kiểm soát thủ tục hành chính và các điều kiện cần thiết khác từ Văn phòng Bộ, cơ quan, Văn phòng
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sang Tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan, Sở
Tư pháp.
VII. Kiến nghị của cử tri về
công tác thi hành án dân sự
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Long An: Đề nghị mở rộng đối tượng được hưởng chế độ phụ cấp (chuyên viên, cán sự...);
rút ngắn thời gian tổ chức thi nâng
ngạch, thi tuyển Chấp hành viên để đảm bảo quyền lợi cho
công chức.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Về việc mở rộng đối tượng được hưởng
chế độ phụ cấp: Đúng như ý kiến cử tri đã nêu, hiện nay theo quy định của pháp
luật các đối tượng (chuyên viên, cán sự...) tại các cơ
quan thi hành án dân sự chưa được hưởng phụ cấp. Trong thời
gian qua, Bộ Tư pháp đã kiến nghị sửa đổi các văn bản theo hướng các đối tượng là chuyên
viên, cán sự... của các cơ quan thi hành án dân sự cũng được hưởng chế độ phụ cấp. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn,
có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều Bộ, ngành
(Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính…); bên cạnh đó, hiện nay, mã ngạch
của những đối tượng này cũng chưa thể hiện rõ tính đặc
thù, nên các cơ quan có thẩm quyền đề nghị tạm thời chưa xem xét vấn đề này. Thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối
hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề xuất phương án giải quyết phù
hợp cho các đối tượng nêu trên.
- Về kiến nghị rút ngắn thời gian thi
nâng ngạch, thi tuyển Chấp hành viên để đảm bảo quyền lợi cho công chức: Trong
năm 2011, Bộ Tư pháp đã tổ chức 01 kỳ thi tuyển Chấp hành
viên sơ cấp (tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh); mới đây, trong các ngày 27 và 28/7/2013, Bộ Tư pháp đã tổ
chức kỳ thi nâng ngạch công chức lên ngạch cán sự, chuyên viên và
tương đương ngành Thi hành án dân sự năm 2013. Tiếp thu ý kiến của cử tri, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chỉ
đạo Tổng cục Thi hành án dân sự đề xuất việc tổ chức các kỳ thi tiếp theo theo hướng rút ngắn thời gian tổ chức thi nâng ngạch, thi tuyển Chấp hành viên, theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của
cán bộ, công chức.
2. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Đồng Tháp: Đề nghị Bộ Tư pháp
có giải pháp hiệu quả hơn để giải quyết dứt điểm việc thi hành án tồn đọng, kéo
dài gây bức xúc trong nhân dân.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Xác định công tác chỉ đạo nghiệp vụ
và giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, thời gian qua, Lãnh đạo Bộ Tư pháp thường xuyên quan tâm, chỉ đạo thực
hiện tốt công tác này trong toàn Ngành Tư pháp nói chung và đối với công tác
thi hành án dân sự nói riêng. Liên quan đến các vụ việc thi hành án tồn đọng,
kéo dài, Lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo việc rà soát toàn bộ các vụ
việc thi hành án tồn đọng, kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân, trên cơ sở đó
làm rõ nguyên nhân dẫn đến tồn đọng, kéo dài và đưa ra biện pháp giải quyết dứt
điểm.
Về các biện pháp cụ thể, Bộ Tư pháp
đã chỉ đạo triển khai như sau:
- Các Cơ quan Thi hành án dân sự địa
phương báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cùng cấp
để có phương án chỉ đạo, giải quyết dứt điểm vụ việc.
- Đối với những vụ việc có vướng mắc
về nghiệp vụ thi hành án dân sự, phải kịp thời xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn của
cơ quan Thi hành án dân sự cấp trên. Tổng cục Thi hành án
dân sự phải kịp thời giải đáp những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ của các Cục Thi hành án dân sự; các
Cục Thi hành án dân sự phải kịp thời giải đáp vướng mắc đối với đề nghị của các
Chi cục Thi hành án dân sự.
- Đối với những vụ việc thi hành án tồn
đọng, kéo dài do bản án tuyên không rõ, khó thi hành hoặc do chưa nhận được sự
phối hợp hiệu quả từ các cơ quan chức năng, thì cơ quan Thi hành án dân sự tổ
chức họp liên ngành để thống nhất giải quyết.
Trường hợp các ban, ngành ở địa phương còn có quan điểm khác nhau, chưa thống
nhất quan điểm giải quyết vụ việc thì báo cáo, đề xuất Tổng
cục Thi hành án dân sự để báo cáo
Lãnh đạo Bộ tổ chức họp liên ngành ở cấp Trung ương để chỉ đạo giải quyết.
- Đối với những vụ việc thi hành án tồn
đọng, kéo dài xuất phát từ các quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự, Tổng cục Thi hành án dân sự tổng hợp, báo cáo Lãnh đạo Bộ, đề
xuất đưa vào nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định
pháp luật có liên quan.
- Thường xuyên tập huấn nghiệp vụ cho
Chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án, đặc biệt là kỹ năng làm việc
với các bên đương sự để giải thích, hướng dẫn cho đương sự
biết và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định pháp
luật; giải quyết dứt điểm việc khiếu nại tố cáo ngay tại
cơ sở, hạn chế để xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài.
- Tăng cường công tác kiểm tra, trực
tiếp hướng dẫn về nghiệp vụ cho các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương nhằm
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, nhất là
việc thi hành các bản án phức tạp, kéo dài nhiều năm.
- Đối với các vụ việc thi hành án dân
sự tồn đọng, kéo dài phát sinh khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền xem xét của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự phối hợp chặt chẽ với Thanh tra
Bộ để tham mưu cho Lãnh đạo Bộ xem xét, giải quyết vụ việc theo đúng quy định của
pháp luật.
VIII. Kiến nghị của cử tri về
công tác đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức, xây dựng Ngành
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Long An: Có giải pháp hoặc tiếp
tục có chủ trương cho Ngành Tư pháp được tuyển dụng công chức có trình độ Cử
nhân luật hệ tại chức vào làm việc tại các bộ phận tư pháp
vùng sâu, vùng xa để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải quyết
tình trạng thiếu biên chế và khó thi tuyển công chức như
hiện nay.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Theo quy định của Luật cán bộ, công
chức, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày
30/12/2010 quy định chi tiết một số điều về tuyển dụng
và nâng ngạch công chức của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP thì việc
tuyển dụng công chức tại cơ quan tư pháp địa phương (Sở Tư
pháp, Phòng Tư pháp, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã) thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện;
việc tuyển dụng công chức tại các cơ quan thi hành án dân
sự địa phương (Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự) được thực hiện
theo quy định tại Thông tư số 17/2010/TT-BTP ngày 11/10/2010 quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ
quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền quyết định
của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (trừ trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định
của Bộ trưởng và Tổng cục trưởng Tổng
Cục thi hành án dân sự).
Mặt khác, Điều 1
Thông tư số 13/2010/TT-BNV quy định: “theo yêu cầu của vị trí dự tuyển do cơ quan sử dụng công chức xây dựng trên cơ sở bản mô tả công việc
gắn với chuyên ngành đào tạo, các kỹ năng, kinh nghiệm theo yêu cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức của vị trí dự tuyển”, Thông tư không quy định người dự tuyển phải có trình độ cử nhân chính quy hay cử nhân tại chức khi tham gia
dự tuyển.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Tư pháp
sẽ yêu cầu các đơn vị trong Ngành và đề nghị các địa phương có chính sách tuyển dụng đối với công chức tư pháp tại vùng sâu,
vùng xa cho phù hợp, khắc phục được tình trạng thiếu biên
chế và đảm bảo triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác
tư pháp ở địa phương.
2. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Đắk Lắk:- Hiện nay, theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp, Ngành Tư pháp được giao nhiệm vụ mới, theo đó, cơ
quan tư pháp từ tỉnh, huyện, xã đều được giao thêm nhiều nhiệm vụ (tăng thêm 08
nhóm nhiệm vụ so với trước khi triển khai thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020). Tuy nhiên, biên chế được giao thêm vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhất là ở cấp xã chỉ có 01 công chức Tư pháp - Hộ tịch. Đề nghị quy định tăng thêm biên chế công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã ít nhất là 02 người để đảm bảo hoạt động.
- Mặc dù một số văn bản quy phạm pháp
luật của Trung ương đã quy định giao thêm chức năng, nhiệm
vụ cho ngành tư pháp, tuy nhiên các nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ,
bộ máy, biên chế của ngành Tư pháp, nghị định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực Tư pháp vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung, cập nhật kịp thời gây khó khăn trong công
tác quản lý nhà nước tại địa phương, do đó, đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ
Nội vụ sớm tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung các nghị định trên.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Về tổ chức, bộ máy, biên chế của
các cơ quan tư pháp địa phương:
Đúng như ý kiến cử tri đã nêu, trong
thời gian qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương đã được giao thêm
nhiều nhiệm vụ mới theo quy định tại Luật lý lịch tư pháp, Luật trách nhiệm bồi
thường của nhà nước, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày
4/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ
máy của tổ chức pháp chế, Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính
phủ về theo dõi thi hành pháp luật... Để bảo đảm đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ để ban hành hoặc
trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản triển khai thực hiện các nhiệm vụ
trên như: Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011 hướng dẫn
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện về bồi thường nhà nước,
Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án “Xây dựng Trung tâm lý lịch tư pháp quốc
gia và kiện toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý
lịch tư pháp”.
Qua theo dõi tình hình tổ chức các cơ
quan tư pháp địa phương trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp nhận thấy còn có những
hạn chế, vướng mắc nhất định trong việc triển khai thực hiện
các văn bản trên tại địa phương. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp
với Bộ Nội vụ xây dựng Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư
pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tuy nhiên, hiện nay, Bộ Nội vụ đang
xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị
định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và Nghị định thay thế Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày
04/02/2008 của Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Do vậy, để các quy định của dự thảo Thông tư liên tịch thay thế
Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV phù hợp với các quy định
của Nghị định thay thế Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số
14/2008/NĐ-CP , Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ để hoàn chỉnh dự thảo Thông tư liên tịch ngay sau khi Chính phủ ban hành
Nghị định thay thế Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP .
Với việc ban hành Thông tư liên tịch
thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV , Bộ Tư pháp tin tưởng rằng
các vướng mắc trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp địa
phương sẽ được khắc phục về cơ bản.
Mặt khác, theo quy định của Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Nghị định số
21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định về quản
lý biên chế công chức thì việc xây dựng, thẩm định và phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính của
địa phương thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân và Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Do vậy, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về công
tác này, Bộ Tư pháp cũng sẽ có chỉ đạo Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp các tỉnh,
thành phố cần chủ động, tích cực phối hợp với cơ quan có
liên quan trong việc kiến nghị bổ sung biên chế cho đội
ngũ cán bộ tư pháp ở địa phương nói chung và công chức Tư
pháp - Hộ tịch cấp xã nói riêng.
- Về việc nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực Tư pháp chưa được sửa đổi, bổ sung gây khó khăn trong
công tác quản lý nhà nước tại địa phương:
Thực hiện Quyết định số 1473/QĐ-TTg
ngày 5/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch
triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi hành pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư
pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự và phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã để thay thế Nghị định số 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Dự thảo Nghị định đã được các thành viên Chính phủ cho ý
kiến và dự kiến sẽ được Chính phủ ban hành trong tháng 9/2013. Bộ
Tư pháp tin tưởng rằng, sau khi các văn bản trên được Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành sẽ góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tư pháp trong cả nước nói chung.
3. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Đắk Lắk: Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột tiếp tục có
các hình thức liên kết mở các lớp đào
tạo về nghiệp vụ công chứng, luật sư, chấp hành viên, thẩm
phán... đồng thời tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên sâu về các lĩnh vực
chuyên môn, nhất là các nhiệm vụ mới để nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ, công chức, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện
các nhiệm vụ mới, đáp ứng nhu cầu đào
tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Đắk Lắk và các tỉnh trong khu vực Duyên hải miền
Trung - Tây Nguyên.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột
được thành lập theo Quyết định số 1808/QĐ-BTP ngày 23/7/2009 của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp và đi vào hoạt động từ đầu năm 2010. Trường có chức năng chính là đào tạo
trung cấp luật, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ,
công chức Ngành Tư pháp và nghiên cứu khoa học pháp lý. Tháng 10/2010 Nhà trường
đã liên kết với Học viện Tư pháp mở lớp đào tạo nghiệp vụ luật sư với 80 học
viên và đến tháng 5/2011 có 76 học viên tốt nghiệp ra trường; việc mở các lớp
đào tạo về nghiệp vụ công chứng, chấp hành viên, thẩm phán... còn chưa được thực
hiện.
Tiếp thu ý kiến cử tri đã nêu, trong
thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ chỉ đạo các đơn vị chức năng của Bộ nghiên cứu, đề
xuất để tiếp tục mở các lớp đào tạo về nghiệp vụ công chứng,
luật sư, chấp hành viên, thẩm phán... đồng thời tăng cường công tác bồi dưỡng
chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên môn, nhất là các nhiệm vụ mới để nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp của tỉnh Đắk Lắk và các tỉnh
trong khu vực Duyên hải miền Trung - Tây Nguyên.
X. Kiến nghị về
các nội dung khác
1. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Tây Ninh: Một trong những vướng
mắc khó giải quyết trong các giao dịch liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho hộ gia đình vì hiện nay khái niệm hộ gia đình
giữa các văn bản pháp luật chưa có tính thống nhất (Điều 106,
107 BLDS, Điều 181/2004/NĐ-CP) và
chưa có quy định cụ thể nào để xác định chính xác số nhân khẩu trong hộ, điều
này sẽ phát sinh một số bất cập như: người đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nhưng không phải là chủ hộ trong sổ hộ khẩu;
có trường hợp tách nhập hộ khẩu mới để đăng ký kinh doanh,
đăng ký điện... hoặc người có chung hộ khẩu chết thì phát sinh thừa kế theo luật
sẽ khó xác định chính khối tài sản mà người đó để lại... Kiến nghị cần có khái
niệm chung, thống nhất về hộ gia đình trong các văn bản pháp luật.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Bộ Tư pháp nhận thấy ý kiến của cử
tri về vấn đề nêu trên là hoàn toàn xác đáng, phản ánh đúng thực tiễn thi hành
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 trong thời gian qua.
Hiện nay, theo quy định của BLDS hiện
hành, hộ gia đình là một chủ thể trong các quan hệ dân sự khi các thành viên có
tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế
chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này. Quy định
như vậy sẽ phù hợp khi đặt hộ gia đình trong trạng thái “tĩnh”. Tuy nhiên, trên
thực tế cuộc sống gia đình và các quan hệ xã hội trong gia đình luôn ở trạng thái “động”, luôn có sự thay đổi, biến động về các
thành viên gia đình (chịu tác động bởi các sự kiện sinh, ly, tử, biệt, tách, nhập...),
dẫn tới nhiều quy định về hộ gia đình, đặc biệt về chủ thể
là không rõ ràng, tính khả thi còn thấp, từ đó việc xây dựng văn
bản hướng dẫn còn gặp khó khăn, vướng mắc. Do đó, để khắc phục tình trạng này,
cần sửa đổi, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, như Luật Đất
đai, Bộ luật Dân sự...
Trên thực tế, hiện nay, dự thảo Luật
Đất đai (sửa đổi) đã đưa ra khái niệm về “hộ gia đình sử dụng đất” như sau: "Hộ gia đình sử dụng đất là những người có
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế quyền sử dụng đất" (khoản 29 Điều 3 dự thảo
Luật Đất đai).
Đồng thời, để giải quyết những bất cập,
hạn chế trong thực tiễn về hộ gia đình, trong xây dựng BLDS (sửa đổi), vấn đề địa vị pháp lý của hộ gia đình, với tư cách là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự, cũng đang được xem xét sửa đổi, bổ sung theo hướng
BLDS (sửa đổi) không tiếp tục ghi nhận hộ gia đình với tư cách là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự mà thay vào đó, được điều chỉnh bằng chế định khác
trong BLDS phù hợp với bản chất pháp lý của chúng, như: điều chỉnh hộ gia đình
bằng chế định sở hữu chung, đại diện và các chế định khác có liên quan.
Tuy nhiên, việc BLDS tiếp tục quy định hay không quy định hộ gia đình là chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự có tác động to lớn, không chỉ thuần túy về
mặt học thuật mà còn trên cả phương diện chính trị, xã hội. Bộ Tư
pháp với vai trò là cơ quan chủ trì, giúp Chính phủ soạn thảo BLDS (sửa đổi), đồng thời là cơ quan phối hợp trong quá trình xây dựng, sửa đổi
các dự án luật có liên quan sẽ nghiêm túc nghiên cứu để tìm ra cơ sở vững chắc
hơn nữa về vấn đề này trước khi trình Chính phủ và Quốc hội.
2. Cử tri tỉnh Quảng Bình: Cử tri cho rằng, việc xử
phạt hành chính chưa có tính răn đe, đề nghị Chính phủ khi ban hành nghị định về
xử phạt hành chính cần quy định mức phạt cao để có tính răn đe, đồng thời có giải
pháp kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm những cán bộ thực thi pháp luật lợi dụng
chức vụ, quyền hạn thu lợi bất chính (một số lĩnh vực như
vi phạm an toàn giao thông, môi trường, chặt phá rừng...) người vi phạm “làm luật”
để không phải nộp phạt với mức cao hơn, vô tình nâng mức xử phạt chỉ đem lại lợi
ích cho cán bộ thực thi nhiệm vụ tha hóa, biến chất; nguy hại hơn là pháp luật
không nghiêm, tiêu cực và vi phạm pháp luật không được ngăn chặn.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
Đúng như cử tri đã phản ánh, trước
đây các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính căn cứ theo Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính chưa có tính răn đe cao, nhiều quy định còn thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng vi phạm của người dân cũng như việc thực
thi pháp luật của người thi hành công vụ còn chưa nghiêm. Nhận thức được điều
này, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật
xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013. Trong đó, cùng với việc
quy định mức xử phạt cao hơn (như phạt tiền tối đa tăng lên 2 tỷ đồng), Luật
còn có những quy định cụ thể hơn về trách
nhiệm của người có thẩm quyền XLVPHC (Điều 16); quy định về
trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC (Điều
17), về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong công tác XLVPHC (Điều 18), về giám sát công tác XLVPHC (Điều 19)
và về khiếu nại, tố cáo và khởi kiện trong XLVPHC (Điều 15)...
Việc triển khai thực hiện tốt các quy định nêu trên sẽ góp phần tăng cường tính
răn đe, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế mà cử tri đã nêu trong việc
thực thi công vụ của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính, góp phần thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Hiện nay, để triển khai Luật XLVPHC, Bộ
Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật, trong đó, khoản
2, Điều 2 của Nghị định đã quy định các tiêu chí làm căn cứ cho việc quy định
hình thức xử phạt, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính tại các
nghị định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có tiêu chí về mức độ giáo dục,
răn đe và tính hợp lý, tính khả thi của việc áp dụng hình thức, mức phạt; quy định
trình tự, thủ tục xử phạt chặt chẽ hơn, có tính khả thi cao hơn; bổ sung quy định
về kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính...
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp cũng
sẽ nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng và trình Chính phủ nghị định về công tác
kiểm tra, kiểm soát, xử lý trách nhiệm trong việc thực thi pháp luật của người
có thẩm quyền XLVPHC; tổ chức thẩm định và phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cho
Chính phủ ban hành các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước bảo đảm tính nghiêm khắc, răn đe và phòng ngừa đối với
các hành vi vi phạm hành chính.
3. Kiến nghị của cử tri tỉnh
Đắk Lắk:
- Đề nghị sớm ban hành các nghị định
hướng dẫn thi hành Luật XLVPHC;
- Đề nghị sớm ban hành văn bản hướng
dẫn về tổ chức bộ máy triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi hành
pháp luật về XLVPHC của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương; tổ chức bộ
máy triển khai thực hiện hoạt động bồi thường của Nhà nước,
tạo thuận lợi trong quá trình triển khai Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng như xác định rõ ràng trách nhiệm của các đơn
vị có liên quan trong triển khai hoạt động này.
Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:
- Ngày 20 tháng 6 năm 2012, Quốc hội
thông qua Luật XLVPHC. Để triển khai thi hành Luật kịp thời,
đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 1473/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch
triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi
hành Luật XLVPHC theo hướng giảm số lượng các nghị định quy định chi tiết cần
ban hành (từ gần 130 nghị định hiện hành xuống 56 nghị định), góp phần kiểm
soát tình hình ban hành văn bản; bảo đảm tính đơn giản, gọn nhẹ, minh bạch,
tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các nghị định; tạo điều kiện thuận
lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc chấp hành pháp luật và
cho các công chức trong thực thi công vụ; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của
hệ thống pháp luật và chấm dứt tình trạng trước đây về nợ đọng văn bản quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh XLVPHC.
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 1473/QĐ-TTg , Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số
3889/QĐ-BTP về việc thành lập Tổ công tác liên ngành triển khai Luật XLVPHC để
theo dõi, đôn đốc và hướng dẫn việc soạn thảo các nghị định, nhằm hạn chế tối
đa tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các nghị định và đẩy nhanh tiến độ soạn thảo.
Do các nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật XLVPHC có nội dung phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nên
ngày 17/01/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Quyết định số 82/QĐ-BTP
về việc thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định các dự thảo nghị định xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Hội đồng gồm các thành viên là
đại diện của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các chuyên gia để tư vấn thẩm định tất cả các dự thảo nghị định nhằm bảo đảm chất lượng cũng như
tính khả thi, tính hợp lý, tính đồng bộ, tính thống nhất của các nghị định. Đây
được coi là một trong những giải pháp đột phá trong công tác thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật nói chung và các nghị định quy định chi tiết luật, pháp lệnh
nói riêng.
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có 51
Nghị định đã được Hội đồng tư vấn thẩm định liên ngành tiến hành thẩm định,
trong đó, 05 Nghị định đã được Chính phủ ban hành, 20 Nghị định đã được lấy ý
kiến thành viên Chính phủ; 26 dự thảo Nghị định đang được chỉnh lý theo ý kiến
của Hội đồng tư vấn thẩm định và phấn đấu những nghị định này sẽ được Chính phủ
ban hành trong tháng 9 năm 2013.
Như vậy, có thể khẳng định trong thời
gian qua với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự
quan tâm sát sao của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cùng với sự nỗ lực
của Bộ Tư pháp, một khối lượng công việc lớn đã được triển khai thực hiện. Tuy nhiên, cho đến
thời điểm này, số lượng văn bản cần ban hành để kịp có hiệu
lực với Luật XLVPHC chưa bảo đảm tiến độ là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng các nghị định xử phạt vi phạm hành chính, có
khó khăn lớn trong việc phân định phạm vi điều chỉnh giữa
các nghị định cũng như việc xử lý các vấn đề chồng lấn, chồng chéo giữa các nghị
định trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Thứ hai, Luật XLVPHC có nội dung phức tạp, nhiều điểm mới so với Pháp lệnh trước
đây; tư duy về cách thể hiện kỹ thuật xây dựng văn bản cũng có sự thay đổi lớn,
nội dung của nhiều nghị định rất phức tạp, có phạm vi ảnh hưởng rộng, trực tiếp
đến người dân và doanh nghiệp (ví dụ: các nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông vận tải, đặc biệt là giao thông đường bộ; lĩnh vực bảo
vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, thương mại...), nên việc soạn thảo phải
hết sức thận trọng, phải bảo đảm trình tự, thủ tục ban hành văn bản theo quy định
của pháp luật, nhất là yêu cầu tổ chức lấy kiến sâu rộng
các đối tượng chịu sự tác động của văn bản. Do đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ rất
cần có thêm thời gian nghiên cứu soạn thảo các nghị định, đặc biệt là mô tả cụ
thể, chính xác hành vi vi phạm hành chính, quy định hình thức xử phạt, đặc biệt
là phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép đối với một số hành vi cần chỉnh sửa
để phù hợp tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, với điều kiện kinh tế - xã hội,
thu nhập của người dân. Quá trình này cần rất nhiều thời gian công sức, vì vậy
việc ban hành các nghị định chưa theo đúng tiến độ đề ra.
Tuy nhiên, Luật XLVPHC với số lượng
142 điều, được quy định tương đối cụ thể, do đó, rất nhiều các quy định của Luật
có thể thực hiện được ngay kể từ ngày có hiệu lực, mà
không phải chờ ban hành nghị định, như các quy định về hình thức, thủ tục và thẩm
quyền xử phạt, thẩm quyền tạm giữ người, thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm... Đối với việc các nghị định quy định chi tiết Luật XLVPHC chưa ban
hành kịp với thời điểm Luật XLVPHC có hiệu lực thi hành, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho phép báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội (Báo
cáo số 248/BC-CP ngày 24/6/2013 về tình hình xây dựng các văn bản quy định chi tiết
thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính). Trên cơ sở Báo cáo này, Bộ Tư pháp đã
đề xuất Chính phủ đưa vào Nghị quyết số 83/NQ-CP về phiên họp thường kỳ tháng 6
năm 2013 của Chính phủ chủ trương tiếp tục áp dụng quy định tại các Nghị định
hiện hành và các biểu mẫu quyết định, biên bản kèm theo các Nghị định này nếu
không trái với tinh thần của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Thực hiện Quyết định số 1473/QĐ-TTg
ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch
triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi hành pháp luật về
XLVPHC, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự thảo Đề án “Xây dựng tổ chức bộ máy, biên chế
triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về XLVPHC của
Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương”, dự thảo Đề án đã được gửi lấy ý
kiến của các Bộ, ngành và địa phương và chỉnh lý, hoàn chỉnh. Hiện nay dự thảo
Đề án đã được Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Về tổ chức bộ máy làm công tác bồi
thường của Nhà nước, trên cơ sở Luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của nhà nước, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ thành lập Cục
Bồi thường nhà nước trực thuộc Bộ Tư pháp; phối hợp với Bộ
Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011 của
Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Sở
Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện về bồi thường nhà nước. Theo đó, Phòng chuyên
môn thuộc Sở Tư pháp được giao thực hiện nhiệm vụ về hành chính tư pháp đảm nhận
nhiệm vụ tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ về bồi thường
nhà nước. Bên cạnh đó, hiện nay Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng
dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ,
trong đó dự kiến có quy định về tổ chức thuộc Sở Tư pháp thực hiện nhiệm vụ
này.
Trên đây là ý kiến của Bộ Tư pháp trả
lời 36 kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII (34 kiến nghị do Ban Dân nguyện, Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyển;
02 kiến nghị do Văn phòng Chính phủ chuyển) liên quan đến
lĩnh vực quản lý của Bộ, xin kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Ban Dân nguyện - Ủy ban thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc
hội, Văn phòng Chính phủ để tổng hợp, trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Phó TTgCP Nguyễn Xuân Phúc (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Các đơn vị thuộc Bộ (để theo dõi, thực hiện);
- Các Sở Tư pháp, Cục THADS (nơi có kiến nghị);
- Lưu: VT, TH.
|
BỘ TRƯỞNG
Hà Hùng Cường
|