ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 389/QĐ-UBND
|
Bình Định, ngày
01 tháng 02 năm 2021
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN TẬP TRUNG, GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG NGƯỜI
LANG THANG, CƠ NHỠ, XIN ĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Căn cứ Nghị định số
136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội
đối với đối tượng bảo trợ xã hội;
Căn cứ Nghị định số
103/2017/NĐ-CP ngày 12/9/2017 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức, hoạt
động, giải thể và quản các cơ sở trợ giúp xã hội;
Căn cứ Thông tư liên tịch số
29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2014 của liên Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định
số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ;
Căn cứ Công văn số
3284/LĐTBXH-TE ngày 21/8/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc
tăng cường các biện pháp phòng, chống tình trạng trẻ em, người khuyết tật, người
cao tuổi bị lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc lang thang xin ăn;
Căn cứ Quyết định số
06/2017/QĐ-UBND ngày 14/02/2017 của UBND tỉnh ban hành Quy định mức trợ giúp
các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Định;
Theo đề nghị của Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội tại Tờ trình số 03/TTr-SLĐTBXH ngày 08/01/2021 và của Sở
Tư pháp tại Công văn số 76/STP-XDKTVB,TDTHP ngày 22/01/2021.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án tập trung, giải
quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh giai đoạn
2021 - 2025.
Điều 2.
Giao Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối
hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố và các cơ quan, đơn vị
liên quan tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án nêu trên.
Điều 3.
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc các Sở:
Lao động -Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Y tế, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư,
Giáo dục và Đào tạo, Thông tin và Truyền thông, Văn hóa và Thể thao, Du lịch;
Giám đốc Công an tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố và
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này kể từ ngày ký./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- CT, PCT Lâm Hải Giang;
- PVPVX;
- Lưu VT, K20.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lâm Hải Giang
|
ĐỀ ÁN
TẬP TRUNG, GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG NGƯỜI LANG THANG, CƠ NHỠ,
XIN ĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
(Kèm theo Quyết định số 389/QĐ-UBND ngày 01/02/2021 của UBND tỉnh
Phần I
I. ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG NGƯỜI LANG THANG, CƠ NHỠ, XIN ĂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
1. Đánh
giá kết quả thực hiện
- Thực hiện Quyết định số
955/QĐ-UBND ngày 28/3/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án tập trung đối
tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 với mục
tiêu: Đảm bảo đến cuối năm 2020, trên địa bàn tỉnh từ nông thôn đến thành thị
mà nhất là thành phố Quy Nhơn cơ bản không còn tình trạng người già, người khuyết
tật, trẻ em cơ nhỡ, lang thang, xin ăn; không để những người lang thang, không
nghề nghiệp ngủ trên các vỉa hè, góc chợ và nơi công cộng; không để người có sức
khỏe nhưng lười lao động đi xin ăn và gây rối trật tự xã hội. Góp phần làm cho
cảnh quan môi trường đô thị sạch đẹp, văn minh và đảm bảo an ninh trật tự.
- Việc triển khai thực hiện Đề
án tập trung giải quyết người lang thang, cơ nhỡ xin ăn trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2016 - 2020 luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND và
UBND tỉnh. Hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức kiểm tra, đánh
giá việc triển khai thực hiện Đề án, chỉ đạo các đơn vị chức năng liên quan
tăng cường tổ chức kiểm tra, giám sát tại các địa bàn như nhà ga, bến xe, các
chợ, các tuyến đường có nhiều quán ăn, uống và các điểm tham quan du lịch để kịp
thời phát hiện, tập trung xử lý các đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn.
- Việc ban hành Đề án giải quyết
tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh đã góp phần tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và nhân
dân trong tỉnh, góp phần làm cho cảnh quan, mỹ quan đô thị sạch đẹp, môi trường
du lịch văn minh, thân thiện, đảm bảo an ninh trật tự góp phần vào sự thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các ngành du lịch, dịch vụ.
- Qua 05 năm thực hiện giải quyết
tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số
kết quả tích cực, đã tập trung 365 đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn (người
có hộ khẩu tại tỉnh 240 đối tượng; hộ khẩu tỉnh khác 125 đối tượng) bàn giao
vào Cơ sở Cai nghiện ma túy để tạm quản lý, giáo dục, giải quyết theo Đề án,
bình quân hàng năm có khoảng 73 đối tượng lang thang, cơ nhỡ xin ăn bị tập
trung. Việc tập trung người lang thang xin ăn đã từng bước giảm đáng kể số người
lang thang, xin ăn tại các khu di tích lịch sử, các khu danh lam thắng cảnh,
công viên, bến xe, các chợ... trên địa bàn tỉnh, góp phần tạo cảnh quan môi trường
văn minh, lịch sự và tạo mỹ quan đô thị.
Giải quyết tình trạng người
lang thang, cơ nhỡ, xin ăn được tập trung theo quy định của pháp luật bằng nhiều
biện pháp như: Nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội đối với số đối
tượng không tìm được thân nhân, đối tượng neo đơn không có người thân chăm sóc,
nuôi dưỡng tại cộng đồng; trả về nơi cư trú đối với các đối tượng trong độ tuổi
lao động đã xác minh được địa chỉ, quê quán.
2. Một số
khó khăn, tồn tại
Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện công tác giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn vẫn còn một
số bất cập, tồn tại sau:
- Công tác tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền trực quan mặc dù đã triển khai thực
hiện nhưng chưa thường xuyên liên tục, thời lượng phát thanh giành cho nội dung
này còn hạn chế, việc cung cấp đường dây nóng tại các nhà hàng, khách sạn, các
điểm khu du lịch… chỉ được một thời gian ngắn vì các đối tượng xin ăn lén lút
tháo gỡ.
- Trước tình hình các cơ quan
chức năng ráo riết tập trung giải quyết đối tượng xin ăn, đối tượng chuyển sang
hình thức trá hình như lợi dụng bán kẹo, vé số… để xin tiền. Một số đối tượng
lang thang, xin ăn là những trường hợp đau ốm nặng hoặc người thân bị đau ốm nặng
đang điều trị trong bệnh viện có hoàn cảnh khó khăn hoặc giả danh là đau ốm nặng
để đi xin ăn, người nêu hoàn cảnh do bị mất tài sản nhỡ tàu xe về quê, dẫn đến
cản trở trong công tác xử lý tập trung.
- Một số hộ gia đình có người bị
tâm thần, vì không đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc nên để xảy ra tình trạng
lang thang, một số đối tượng hung hãn gây thương tích cho những người xung
quanh; đối tượng xin ăn là người đồng bào dân tộc thiểu số (đa số là người già,
phụ nữ và trẻ em) ở một số huyện miền núi thuộc tỉnh Phú Yên, huyện Vân Canh
thường xuyên tổ chức đi ăn xin theo số đông, tái xin ăn nhiều lần.
- Công tác phối hợp của cộng đồng
dân cư chưa cao, nên việc báo tin đối tượng lang thang, xin ăn cho lực lượng chức
năng chưa kịp thời. Việc một số đối tượng tháo gỡ các tờ rơi, số điện thoại đường
dây nóng được dán tại các nhà hàng, khách sạn, quán cà phê… nhằm hạn chế việc
người dân báo tin cho lực lượng chức năng đến thực hiện công tác tập trung.
- Đối tượng lang thang, cơ nhỡ,
xin ăn có giảm nhiều song chưa phải là hết, trong thời gian qua số đối tượng mất
khả năng hành vi từ các tỉnh khác đến có xu hướng tăng lên, do việc sử dụng rượu
bia, các chất kích thích như ma túy đá, nên số đối tượng lang thang này hiện
nay rất nhiều và khó kiểm soát.
- Đối tượng được trả về gia
đình và địa phương sau đó trở lại lang thang xin ăn đã bị tập trung lần 2, 3,
cá biệt có người tái phạm nhiều lần, chủ yếu đối tượng người cao tuổi, người
khuyết tật nặng, điều đó cho ta thấy việc quản lý, giáo dục và áp dụng các
chính sách xã hội tại địa phương chưa được tốt; sự quan tâm giúp đỡ của gia
đình và chính quyền địa phương nhằm ổn định cuộc sống cho đối tượng chưa đúng mức.
- Nhiều người dân thương xót
trước cảnh người ăn xin, lang thang, yếu thế không nơi nương tựa mà không biết
mình đang dung túng cho một số người lười lao động, thích sống tự do không chấp
nhận sự chăm sóc của gia đình, giúp đỡ của làng xóm, nhiều người có sức khỏe
nhưng giả làm người khuyết tật để lợi dụng tấm lòng hảo tâm của xã hội. Mặt
khác tình trạng một số đối tượng bảo kê, cưỡng ép trẻ em, người già hay những
người yếu thế đi ăn xin thành nhóm để thu lợi bất chính từ những đối tượng này
hiện đang là vấn đề nhức nhối của cả nước nói chung và tỉnh Bình Định nói
riêng.
- Chưa có chế độ, chính sách ưu
đãi cho cán bộ làm công tác giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn nên chưa thật sự tạo động lực cho cán bộ phải làm việc trong môi trường tiềm
ẩn yếu tố nguy hiểm cao.
3. Nguyên
nhân
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Chưa có chế tài hữu hiệu để xử
lý người ăn xin nên việc tập trung chưa đủ sức răn đe. Các đối tượng khi bị tập
trung vào Cơ sở Cai nghiện ma túy để giáo dục, phân loại xử lý chỉ được một thời
gian ngắn, khi có gia đình bảo lãnh, hoặc hết thời gian tập trung, tái hòa nhập
cộng đồng, sau đó tiếp tục tái lang thang, xin ăn. Đây cũng là một vấn đề gây
khó khăn trong việc quản lý khi tập trung đối tượng trong cộng đồng dân cư hiện
nay.
- Nhận thức của một số người
dân hiện nay vẫn còn tư tưởng ban phát từ thiện cho các trường hợp xin ăn, dẫn
đến tình trạng người xin ăn có xu hướng càng đông, lập nhóm để xin ăn, nhất là
các ngày rằm, mùng Một hàng tháng, các ngày lễ và tết cổ truyền dân tộc.
- Số đối tượng tâm thần có xu
hướng ngày càng tăng cao, trong khi đó trên địa bàn tỉnh chỉ có 01 Trung tâm
Nuôi dưỡng người tâm thần Hoài Nhơn nên Trung tâm luôn trong tình trạng nuôi dưỡng
vượt số người quy định. Bên cạnh đó, công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị
cho đối tượng tâm thần tại Trung tâm được thực hiện theo chính sách xã hội hóa
nên nhiều gia đình của người bị tâm thần có hoàn cảnh khó khăn, không đủ kinh
phí để đóng góp chăm sóc, nuôi dưỡng tại Trung tâm. Vì vậy, người bị tâm thần vẫn
tiếp tục sống tại gia đình, cộng đồng và tiếp tục đi lang thang với những hành
vi gây phản cảm, hung hãn, đập phá, gây thương tích cho người khác.
- Lực lượng làm công tác tập
trung đối tượng là kiêm nhiệm, nên công tác tập trung không thường xuyên và
liên tục.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Một số địa phương chưa chú trọng
công tác tuyên truyền (hoặc có tuyên truyền nhưng chưa thường xuyên liên tục)
nhằm nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân biết và cùng với chính quyền địa
phương xóa bỏ tình trạng người lang thang, xin ăn.
- Nhiều đối tượng trong độ tuổi
lao động nhưng lười lao động, trình bày hoàn cảnh khó khăn, gặp nạn nhằm lợi dụng
lòng tốt của người dân để xin ăn kiếm sống; một số đối tượng là người cao tuổi,
người đồng bào dân tộc thiểu số tranh thủ thời gian nông nhàn vào thành phố để
xin ăn, xem đây là một nghề tăng thu nhập.
- Chính quyền cơ sở chưa theo
dõi thường xuyên để xử lý kịp thời các đối tượng lang thang, xin ăn, đặc biệt
là các đối tượng tái lang thang, xin ăn nhiều lần; sự quan tâm, giúp đỡ của
chính quyền, các hội đoàn thể địa phương nhằm ổn định cuộc sống cho đối tượng một
số nơi chưa đảm bảo; không kịp thời tập trung đối tượng khi có tin báo của nhân
dân, đây cũng là lý do người dân không báo tin cho địa phương thực hiện công
tác tập trung khi phát hiện đối tượng.
4. Bài học
kinh nghiệm
- Để việc triển khai thực hiện
có hiệu quả của Đề án giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn,
đòi hỏi phải có sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, sự
quyết tâm thực hiện của chính quyền địa phương và sự tham gia đồng hành của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc, của các ngành liên quan và các hội đoàn thể nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và nhân
dân trong tỉnh trong việc giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn góp phần bảo đảm an toàn xã hội, mỹ quan đô thị, tạo môi trường thuận lợi và
hấp dẫn để thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
- Tăng cường công tác tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân nắm bắt chủ trương
và đồng hành cùng chính quyền địa phương trong công tác giải quyết tình trạng
người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh. Phát huy vai trò của cơ
quan tham mưu triển khai thực hiện và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các
ngành cùng với chính quyền địa phương trong việc thực hiện Đề án.
II. THỰC TRẠNG
NGƯỜI LANG THANG, CƠ NHỠ, XIN ĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1. Tập
trung đối tượng
Cùng với sự phát triển của tỉnh
và thu hút khách du lịch đến Bình Định, người lang thang, xin ăn từ các nơi
khác cũng đến Bình Định để lang thang, xin ăn kiếm sống. Trong 05 năm (2016 -
2020), qua các đợt đã tập trung 365 đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn (người
có hộ khẩu tại tỉnh 240 đối tượng; hộ khẩu tỉnh khác 125 đối tượng) bàn giao
vào Cơ sở Cai nghiện ma túy để tạm quản lý, giáo dục, giải quyết theo Đề án, cụ
thể: Thành phố Quy Nhơn tập trung 324 đối tượng; thị xã An Nhơn 07 đối tượng;
thị xã Hoài Nhơn 09 đối tượng; Tuy Phước 09 đối tượng; Phù Cát 03 đối tượng;
Phù Mỹ 02 đối tượng; An Lão 05 đối tượng; Vĩnh Thạnh 02 đối tượng; Tây Sơn 03 đối
tượng; Hoài Ân 01 đối tượng. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện tốt việc
tiếp nhận, khám và điều trị cho người bệnh là đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn, số lượng khám và điều trị là 167 người.
2. Phân
loại xử lý
Sau các đợt tập trung các đối
tượng được tập trung vào Cơ sở Cai nghiện ma túy để phân loại. Cơ sở Cai nghiện
ma túy tiến hành phối hợp lấy lời khai, khám bệnh, tuyên truyền, giáo dục và lập
hồ sơ phân loại đối tượng theo quy định như sau:
- Tiếp nhận nuôi dưỡng tại
Trung tâm Nuôi dưỡng người tâm thần Hoài Nhơn 35 đối tượng. Số đối tượng này hầu
hết bị rối nhiễu tâm trí ở thể nặng, có nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
gia đình không quản lý nuôi dưỡng được, cá biệt số đối tượng từ các tỉnh khác
theo các quốc lộ, tỉnh lộ đến tỉnh ta có chiều hướng gia tăng. Số đối tượng còn
lại không khai thác được họ, tên, quê quán và quan hệ gia đình nên việc xác định
được nhân thân, nơi cư trú gặp rất nhiều khó khăn, do đó không thể thông báo
cho gia đình và địa phương biết để phối hợp nhận về quản lý tại gia đình.
- Tiếp nhận nuôi dưỡng tại
Trung tâm Công tác xã hội và Bảo trợ xã hội Bình Định 19 đối tượng, số đối tượng
này chủ yếu là người cao tuổi đơn thân, người tàn tật nặng không nơi nương tựa
và trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ không xác định được nhân thân... (đã hoàn
thành c c thủ tục thông báo cho gia đình và địa phương, nhưng gia đình, người
thân không có khả năng nuôi dưỡng và quản lý).
- Phối hợp cùng các địa phương
trong tỉnh và ngoài tỉnh tái hòa nhập cộng đồng 311 đối tượng, thực hiện các
chính sách an sinh xã hội của Nhà nước đối với số đối tượng là người trong tỉnh
được tái hòa nhập cộng đồng, số đối tượng được gia đình và chính quyền bảo lãnh
về được giúp đỡ để ổn định cuộc sống, một số có nơi cư trú rõ ràng thì giáo dục
và vận động cho đối tượng về gia đình và có thông báo cho chính quyền địa
phương biết để có biện pháp quản lý tại cộng đồng.
Người lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn được chia làm nhiều loại đối tượng như: Người không có khả năng lao động phải
đi lang thang, xin ăn để kiếm sống (trẻ em mồ côi, trẻ em lang thang, người cao
tuổi cô đơn không nơi nương tựa, người khuyết tật nặng); người khuyết tật dạng
thần kinh tâm thần đi lang thang; người trong độ tuổi lao động nhưng lười lao động
đi xin ăn kiếm sống; các đối tượng lang thang, xin ăn trá hình; các đối tượng tệ
nạn xã hội (ma túy, mại dâm) không có nơi cư trú ổn định phải lang thang,...
Phần II
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ
ÁN
Bình Định là tỉnh thuộc khu vực
Duyên hải Nam Trung bộ, phía Đông giáp Biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai,
phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi. Toàn tỉnh có 11 huyện,
thị xã, thành phố (trong đó 01 thành phố, 02 thị xã, 03 huyện đồng bằng, 02 huyện
trung du và 03 huyện miền núi); 159 đơn vị hành chính cấp xã. Dân số toàn tỉnh
có gần 1,5 triệu người. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu
là Chăm, Ba Na và Hrê.
Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh trong
việc tập trung, giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn, góp phần
làm cho cảnh quan môi trường đô thị sạch đẹp, môi trường du lịch văn minh, thân
thiện, đảm bảo an ninh trật tự, tạo môi trường thuận lợi và hấp dẫn để thu hút
khách du lịch, các nhà đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong đó
việc tập trung, giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn là một
trong các nhiệm vụ cần phải thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả. Chính
vì vậy, việc xây dựng Đề án tập trung, giải quyết tình trạng người lang thang,
cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 là cần thiết.
Phần III
TẬP TRUNG, GIẢI QUYẾT
TÌNH TRẠNG NGƯỜI LANG THANG, CƠ NHỠ, XIN ĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2021 -
2025
I. MỤC
TIÊU
1. Mục
tiêu chung
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc
giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn. Phấn đấu đến hết năm
2025, trên địa bàn tỉnh cơ bản hạn chế không còn tình trạng người lang thang,
cơ nhỡ, xin ăn, góp phần làm cho cảnh quan, môi trường đô thị sạch đẹp, môi trường
du lịch văn minh thân thiện và đảm bảo an ninh trật tự.
2. Mục
tiêu cụ thể
- Thực hiện tốt quy định của
pháp luật về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội theo
quy định tại Điểm b, c Khoản 2, Điều 25 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP của Chính
phủ được tiếp nhận vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
- Phấn đấu đến hết năm 2025,
trên địa bàn tỉnh không có người dân nào của địa phương có hành vi lang thang,
cơ nhỡ, xin ăn.
II. PHẠM
VI, ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN
1. Phạm
vi: Đề án được triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh.
2. Đối tượng
áp dụng
- Người lang thang xin ăn: Là
những người trực tiếp đi xin ăn; người vừa kết hợp làm việc khác với việc xin
ăn như: Đánh giày, bán báo, bán vé số, bán hàng rong hoặc giả danh nhà sư đi khất
thực, giả danh đi tìm người thân, bị mất cắp trên đường, nhỡ tàu xe để xin ăn.
- Người tâm thần lang thang: Là
những người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần đi lang thang, có biểu hiện hành vi
gây nguy hiểm cho người khác, gây mất trật tự xã hội nơi công cộng.
- Các đối tượng có hành vi sống
lang thang, xin ăn nơi công cộng: Là những người có nơi cư trú nhưng đi lang
thang kiếm sống và xin ăn, ở tại những nơi công cộng như: Vỉa hè, chợ, bến xe,
nhà ga, công viên.
3. Thời
gian thực hiện Đề án: Từ năm 2021 đến hết năm 2025.
III. NỘI
DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Công
tác tuyên truyền nâng cao nhận thức
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là công tác tuyên
truyền trên hệ thống đài phát thanh của xã, phường, thị trấn nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành, các hội đoàn
thể và người dân trong việc giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn; mục đích, ý nghĩa, tính nhân văn của việc tập trung, trợ giúp đối tượng; kịp
thời phản ánh thực trạng, kết quả thực hiện việc tập trung, trợ giúp đối tượng;
nêu gương những đơn vị, tổ chức, cá nhân có thành tích, nghĩa cử cao đẹp trợ
giúp đối tượng.
- Tăng cường vận động cơ sở
kinh doanh ăn, uống, vui chơi giải trí, các địa điểm du lịch, đền, chùa... cam
kết không để đối tượng lang thang, bán hàng rong, hoặc xin ăn trong khuôn viên,
địa bàn đơn vị kinh doanh, quản lý; đồng thời tuyên truyền vận động trực tiếp
cho người lang thang nhất là người lang thang xin ăn để họ tự nguyện trở về với
gia đình, hòa nhập cộng đồng.
2. Công
tác tập trung đối tượng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn
- Chủ tịch UBND các huyện, thị
xã, thành phố chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo tổ chức tập trung người lang thang,
cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn quản lý; chỉ đạo các phòng, ban liên quan, UBND các
xã, phường, thị trấn, trạm y tế xã, phường, thị trấn phối hợp chặt chẽ trong việc
tập trung, tư vấn, động viên đối tượng, vận động người thân, gia đình đưa đối
tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn về với gia đình.
- Phát hiện kịp thời đối tượng
lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn; phân loại, xác định rõ tình trạng đối
tượng, đối với đối tượng có nơi cư trú ổn định thì thực hiện thông báo, phối hợp
đưa đối tượng về địa phương, gia đình, người thân của đối tượng.
- Trong trường hợp người lang
thang, cơ nhỡ, xin ăn không xác định được nơi cư trú, không có gia đình, người
thân hoặc gia đình, người thân đặc biệt khó khăn không đủ điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng thì lập hồ sơ thủ tục đưa đối tượng vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại các
cơ sở Bảo trợ xã hội tạm thời hoặc lâu dài;
- Thời gian thực hiện: Tổ chức
tập trung thường xuyên, nhất là các dịp lễ, tết.
3. Thực
hiện đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, nhất là số đối tượng từ địa phương
khác đến cư trú trên địa bàn
- Tăng cường công tác quản lý
hành chính về trật tự trị an, đặc biệt là việc kiểm tra, quản lý nhân khẩu, hộ
khẩu, tạm trú đối với những đối tượng từ nơi khác đến cư trú trên địa bàn; thường
xuyên kiểm tra xử lý nghiêm các nhà nghỉ, nhà trọ cho tạm trú, lưu trú mà không
có giấy tờ tùy thân, không khai báo tạm trú, lưu trú theo quy định nhằm kịp thời
phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp phối hợp giải quyết không để phát sinh
tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn.
- Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát tại các địa bàn trọng điểm như nhà ga, bến xe, các chợ, các tuyến đường
có nhiều quán ăn, điểm tham quan du lịch nhằm phát hiện các đối tượng lang
thang, cơ nhỡ, xin ăn, đeo bám khách hoặc tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật.
- Phối hợp thực hiện các biện
pháp tuyên truyền, giáo dục, răn đe, xử lý kịp thời các đối tượng lang thang,
ăn xin, đeo bám khách; đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, tại các điểm dịch
vụ công cộng, khu du lịch, các danh lam thắng cảnh; Xử lý nghiêm các đối tượng
lợi dụng chăn dắt trẻ em, người cao tuổi để xin ăn nhằm trục lợi; các chủ nhà
trọ, nhà nghỉ chứa chấp các đối tượng lang thang, xin ăn.
4. Lồng
ghép thực hiện chính sách an sinh xã hội, dạy nghề, tạo việc làm và huy động sự
tham gia của cộng đồng trợ giúp đối với các đối tượng bảo trợ xã hội
- Triển khai thực hiện đầy đủ,
kịp thời chính sách trợ giúp xã hội; quan tâm hỗ trợ, trợ cấp đột xuất đối với
những trường hợp có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như trẻ em mồ côi, người cao tuổi,
người khuyết tật, người tâm thần, tổ chức thăm hỏi tặng quà động viên kịp thời
trong các dịp lễ, tết.
- Thực hiện các chính sách trợ
giúp, phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho người bị bệnh tâm thần, giáo dục
hòa nhập cho trẻ em khuyết tật để họ ổn định cuộc sống tại gia đình, không đi
lang thang; đối với những đối tượng trong độ tuổi lao động, các địa phương cần
vận động đối tượng tham gia các lớp đào tạo nghề, tạo việc làm để ổn định cuộc
sống.
- Thông qua các hoạt động phối
hợp với các tổ chức xã hội, đoàn thể như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Hội Nông dân...
nhận hỗ trợ đỡ đầu cho các trẻ em lang thang, giúp đỡ cho gia đình có người tâm
thần lang thang.
- Khuyến khích các tổ chức nhân
đạo, từ thiện hỗ trợ tại cộng đồng cho những người, hộ gia đình có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, nhất là trẻ em nghèo, người khuyết tật, người cao tuổi cô đơn
không nơi nương tựa, giúp họ khắc phục khó khăn để không phải lang thang kiếm sống.
5. Nâng cấp
cơ sở, vật chất, trang thiết bị các cơ sở bảo trợ xã hội
- Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở
vật chất, trang thiết bị cho Trung tâm Công tác xã hội và Bảo trợ xã hội Bình Định,
Trung tâm Nuôi dưỡng người tâm thần Hoài Nhơn, Cơ sở Cai nghiện ma túy đảm bảo
nhu cầu thiết yếu để quản lý, phục vụ đối tượng xã hội và chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục đối tượng lang thang tập trung.
- Bố trí cán bộ nhân viên (bao
gồm cả nhân viên y tế) để quản lý, giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng, chữa bệnh,
phục hồi chức năng, đặc biệt chú trọng tổ chức lao động sản xuất phù hợp với đối
tượng được tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
- Xây dựng kế hoạch, kinh phí đảm
bảo tiếp nhận, chăm sóc nuôi dưỡng tập trung dài hạn, ngắn hạn và khẩn cấp cho
các đối tượng.
6. Kiểm
tra, giám sát, tổ chức sơ kết, tổng kết
Các sở, ngành, địa phương, đơn
vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình và kết quả thực hiện các nội dung của Đề
án, định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổng
hợp báo cáo UBND tỉnh theo quy định.
IV. QUY
TRÌNH THỰC HIỆN
1. Quy
trình tập trung chuyển giao đối tượng
- Đối với những đối tượng có hộ
khẩu thường trú, tạm trú tại tỉnh Bình Định (có Biên bản lấy lời khai của
đơn vị tập trung): Đơn vị tập trung phải liên hệ gia đình đối tượng đến làm
thủ tục bảo lãnh và lập cam kết không để đối tượng tái lang thang, xin ăn; trường
hợp gia đình không đến bảo lãnh, đơn vị tập trung có trách nhiệm chuyển đối tượng,
bàn giao đến chính quyền địa phương nơi đối tượng sinh sống để có biện pháp quản
lý, giáo dục và tạo điều kiện cho đối tượng ổn định cuộc sống tại cộng đồng.
- Đối với những đối tượng không
có hộ khẩu thường trú, tạm trú tại tỉnh Bình Định hoặc đối tượng chưa xác định
được địa chỉ nơi cư trú, không có giấy tờ tùy thân thì đơn vị tập trung lập
biên bản, chuyển đối tượng về Cơ sở Cai nghiện ma túy (thuộc Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội Bình Định) để phân loại, tạm quản lý giáo dục, chăm sóc,
nuôi dưỡng.
2. Quản
lý, phân loại và di chuyển đối tượng
a) Tiếp nhận, phân loại đối tượng
Trong thời gian 10 (mười) ngày
làm việc kể từ ngày tiếp nhận đối tượng, Cơ sở Cai nghiện ma túy có trách nhiệm
quản lý, phân loại, lập văn bản đề xuất báo cáo về Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội để xem xét, giải quyết: Hồi gia, hòa nhập cộng đồng, chuyển giao đối tượng
về địa phương hoặc chuyển đến nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội của tỉnh.
b) Thực hiện di chuyển đối tượng
- Đối với đối tượng là trẻ em,
người khuyết tật, người cao tuổi không có con cháu, người thân đến bảo lãnh: Cơ
sở Cai nghiện ma túy thông báo, phối hợp với Trung tâm Công tác xã hội và Bảo
trợ xã hội tiếp nhận tiếp tục nuôi dưỡng theo quy định.
- Đối với đối tượng lang thang,
cơ nhỡ, xin ăn trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao động (người từ đủ 16 tuổi):
Nếu xác định nơi cư trú, Cơ sở Cai nghiện ma túy có trách nhiệm liên hệ và
thông báo bằng văn bản đến gia đình làm thủ tục cam kết bảo lãnh về gia đình quản
lý nuôi dưỡng; đồng thời thông báo cho chính quyền địa phương (xã, phường, thị
trấn) nơi đối tượng cư trú để phối hợp quản lý, giáo dục. Trường hợp đối tượng
tái lang thang, cơ nhỡ, xin ăn (lần 2), Cơ sở Cai nghiện ma túy thông báo đến
chính quyền địa phương tổ chức việc giao - nhận đối tượng tại trụ sở UBND cấp
xã, đồng thời có cam kết của gia đình và chính quyền trong việc chăm sóc, quản
lý công dân trên địa bàn, không tái diễn tình trạng lang thang, xin ăn. Trường
hợp tái lang thang, cơ nhỡ, xin ăn (lần 3 trở lên) Cơ sở Cai nghiện ma túy
thông báo, tổ chức bàn giao đối tượng tại trụ sở UBND cấp huyện. Đối với các đối
tượng tái lang thang, cơ nhỡ, xin ăn là người ngoài tỉnh, Cơ sở Cai nghiện ma
túy không tổ chức giao nhận tại địa phương.
Trường hợp đối tượng không xác
định được nơi cư trú hoặc xác định được nơi cư trú (lần đầu) nhưng trong thời hạn
15 (mười lăm) ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận và đã phân loại đối tượng, Cơ
sở Cai nghiện ma túy đã liên hệ và thông báo bằng văn bản đến gia đình nhưng
gia đình không đến bảo lãnh thì Cơ sở Cai nghiện ma túy giải quyết cho tái hòa
nhập cộng đồng. Nếu trường hợp là người ngoài tỉnh, được hỗ trợ tiền vé xe và
tiền ăn dọc đường theo quy định hiện hành.
- Đối với đối tượng là người bị
tâm thần (có Bệnh án tóm tắt của Bệnh viện tâm thần tỉnh) Cơ sở cai nghiện ma
túy thông báo về gia đình, địa phương nơi cư trú (nếu xác định được địa chỉ nơi
cư trú) để làm thủ tục cam kết, bảo lãnh về quản lý nuôi dưỡng tại gia đình.
Trường hợp gia đình không đến bảo lãnh hoặc các đối tượng không xác định được
nơi cư trú thì Cơ sở Cai nghiện ma túy thông báo, phối hợp với Trung tâm Nuôi
dưỡng người tâm thần Hoài Nhơn để tiếp nhận, nuôi dưỡng theo quy định.
- Trường hợp các đối tượng
trong thời gian quản lý, phân loại, nuôi dưỡng để giải quyết theo Đề án nếu xảy
ra bệnh nặng thì chuyển đến cơ sở y tế để điều trị bệnh.
c) Giải quyết bảo lãnh cho đối
tượng
Cơ sở Cai nghiện ma túy trực tiếp
giải quyết bảo lãnh cho đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn. Hồ sơ giải quyết
bảo lãnh gồm:
- Đơn xin bảo lãnh của gia
đình, người thân (ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột), người
giám hộ theo quy định của pháp luật các xác nhận của UBND cấp xã. Đơn xin bảo
lãnh cần thể hiện các nội dung sau: Thông tin người bảo lãnh và người được bảo
lãnh (họ và tên, năm sinh, hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú, mối quan hệ giữa
người bảo lãnh với người được bảo lãnh); cam kết của gia đình đối tượng trong
việc quản lý, giáo dục và ổn định cuộc sống cho đối tượng khi được bảo lãnh trở
về gia đình.
- Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu
và các giấy tờ liên quan đến người được bảo lãnh.
3. Phối hợp
với các bên liên quan
Cơ sở Cai nghiện ma túy phối hợp
với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện:
- Có văn bản gửi Đài Phát thanh
và Truyền hình Bình Định, Báo Bình Định để tìm thân nhân cho đối tượng (hồ sơ
bao gồm: Công văn, hình ảnh kèm theo).
- Liên hệ Bệnh viện Tâm thần tỉnh
đến khám, lập bệnh án các đối tượng có biểu hiện bệnh tâm thần.
- Thông báo đến Trung tâm Công
tác xã hội và Bảo trợ xã hội tiếp nhận đối tượng là trẻ em, người khuyết tật,
người cao tuổi không có con cháu, người thân đến bảo lãnh sau khi đã thông tin
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thông báo đến Trung tâm Nuôi
dưỡng người tâm thần Hoài Nhơn tiếp nhận đối tượng tâm thần (có bệnh án của Bệnh
viện tâm thần tỉnh) không có con cháu, người thân đến bảo lãnh sau khi đã thông
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
V. KINH PHÍ
THỰC HIỆN
- Sử dụng nguồn kinh phí đảm bảo
xã hội cân đối hàng năm cho Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội (đối với
cấp tỉnh); ngân sách huyện, thị xã, thành phố và ngân sách xã, phường, thị trấn
hàng năm theo phân cấp quản lý.
- Lồng ghép nguồn lực từ các
chương trình, kế hoạch, đề án có liên quan.
- Huy động sự đóng góp hợp pháp
của các đơn vị, cá nhân trong nước và nước ngoài.
VI. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội
a) Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan chức năng tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của Đề án trên phạm vi
toàn tỉnh.
b) Chủ trì, phối hợp với các
đơn vị liên quan hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố thực hiện nghiêm các chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ về bảo vệ trẻ em, bảo đảm quyền của các đối tượng yếu
thế và pháp luật trợ giúp xã hội.
c) Phối hợp, xử lý trách nhiệm
theo quy định đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương để tái diễn tình trạng
người lang thang xin ăn hoặc không hỗ trợ, can thiệp, xử lý kịp thời các vụ việc
vi phạm quyền trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi.
d) Chỉ đạo Cơ sở Cai nghiện ma
túy thực hiện tiếp nhận, quản lý tạm thời trong thời gian phân loại, giải quyết
các đối tượng tái hòa nhập cộng đồng hoặc xem xét đưa vào các cơ sở bảo trợ xã
hội theo quy định.
e) Chỉ đạo Phòng Lao động -
Thương binh và Xã hội các huyện, thị xã, thành phố phối hợp với các ngành chức
năng cấp huyện và UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện chế độ được hỗ trợ, cứu
trợ xã hội theo quy định tại Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính
phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.
2. Sở Y tế
a) Chỉ đạo các bệnh viện, Trung
tâm Y tế cấp huyện, cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc tiếp nhận, khám, điều trị
cho người lang thang ốm yếu suy kiệt và người tâm thần lang thang được cơ quan
chức năng chuyển đến, đồng thời lập hồ sơ bệnh án cho những người tâm thần lang
thang, người khuyết tật.
b) Phối hợp quản lý và điều trị
các trường hợp được tập trung khi mắc bệnh truyền nhiễm như: Lao, HIV/AIDS đang
sống tại các cơ sở trợ giúp xã hội.
c) Trạm y tế xã, phường, thị trấn
thực hiện khám, chăm sóc sức khỏe cho đối tượng lang thang, cơ nhỡ, tâm thần
trên địa bàn khi có yêu cầu của cơ quan chức năng.
3. Sở Văn
hóa và Thể thao
a) Tuyên truyền, vận động nhân
dân tham gia thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh đô thị và thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với thực hiện giải quyết
tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn khu dân cư.
b) Chỉ đạo các ban quản lý di
tích, các điểm lễ hội… khi phát hiện có người lang thang xin ăn thì phải thông
báo kịp thời cho chính quyền địa phương để thực hiện tập trung, giải quyết theo
quy định.
4. Sở Du
lịch
Hướng dẫn ban quản lý các khu,
điểm du lịch khi phát hiện có người lang thang xin ăn thì phải thông báo kịp thời
cho chính quyền địa phương để thực hiện tập trung, giải quyết theo quy định.
5. Sở
Thông tin và Truyền thông
Chỉ đạo, định hướng các cơ quan
báo chí, Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao các huyện, thị xã, thành phố,
các Đài phát thanh cơ sở tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hành động của cơ
quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc chăm sóc trẻ em,
người khuyết tật, người cao tuổi không nơi nương tựa, các đối tượng yếu thế
trong xã hội, không để tình trạng bỏ rơi, bị dụ dỗ, ép buộc lang thang xin ăn.
6. Sở
Giáo dục và Đào tạo
a) Chỉ đạo, theo dõi, quản lý
và phát hiện những em học sinh có nguy cơ bỏ học, để kịp thời có biện pháp động
viên, giúp đỡ, làm tốt vai trò cầu nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội,
không để xảy ra tình trạng bỏ học, bỏ nhà đi lang thang. Nêu cao các tập thể,
cá nhân có nghĩa cử tốt đẹp, giúp đỡ học sinh có nguy cơ bỏ học được tiếp tục đến
trường.
b) Chỉ đạo các Phòng Giáo dục
và Đào tạo và các trường trực thuộc tham gia tuyên truyền nâng cao nhận thức
cho phụ huynh học sinh trong việc giải quyết tình trạng lang thang, cơ nhỡ, xin
ăn trên địa bàn.
7. Sở Kế hoạch
và Đầu tư
Phối hợp với Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội tham mưu về đầu tư cơ sở vật chất cho các Trung tâm, cơ sở
trợ giúp xã hội đảm bảo đủ điều kiện tiếp nhận và quản lý người lang thang, cơ
nhỡ, xin ăn.
8. Sở Tài
chính
a) Phối hợp với các sở, ngành
tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí thực hiện công tác tập trung, giải quyết
tình trạng người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn tỉnh.
b) Chủ trì, phối hợp với các sở,
ngành hướng dẫn các đơn vị, địa phương quản lý, sử dụng kinh phí có hiệu quả và
quyết toán kinh phí theo đúng quy định hiện hành của nhà nước.
9. Công an
tỉnh
a) Chỉ đạo Công an các huyện,
thị xã, thành phố phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu
cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp thực hiện thường xuyên việc rà soát, phân loại,
quản lý và xử lý các đối tượng lang thang xin ăn theo quy định.
b) Tăng cường công tác quản lý
tạm trú, tạm vắng, chủ trì, phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và
các cơ quan chức năng tiến hành ngay việc kiểm tra, xác minh và xử lý nghiêm
các vụ việc có dấu hiệu lợi dụng, dụ dỗ, môi giới, xúi dục, ép buộc, trục lợi
trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi lang thang xin ăn. Kịp thời xử lý vi
phạm hành chính hoặc chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu vi phạm hình sự tới các
cơ quan chức năng để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
10. Đài
Phát thanh và Truyền hình Bình Định, Báo Bình Định
a) Đẩy mạnh thông tin tuyên
truyền chủ trương của tỉnh về giải quyết tình trạng người lang thang, cơ nhỡ,
xin ăn. Kịp thời nêu gương điển hình, biểu dương những địa phương, đơn vị làm tốt
công tác quản lý người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn xuất trên địa bàn quản lý.
b) Phối hợp tìm thân nhân của
các đối tượng lang thang, cơ nhỡ, xin ăn không khai thác được thông tin cụ thể;
tuyên truyền xóa bỏ tình trạng lười lao động, lợi dụng người già, trẻ em lang
thang, cơ nhỡ, người mất năng lực hành vi để kiếm tiền bất hợp pháp.
11. Đề nghị
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các hội, đoàn thể tỉnh
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của
mình, tổ chức vận động, cảm hóa, giáo dục, phát động toàn dân tham gia phòng ngừa
và giải quyết tốt vấn đề người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn. Đồng thời, đẩy mạnh
các hoạt động nhân đạo, từ thiện, vận động xã hội giúp đỡ có tổ chức đối với
người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn là người già cô đơn, người khuyết tật, trẻ mồ
côi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để các đối tượng ổn định cuộc sống.
12. Ủy ban
nhân dân các huyện, thị xã, thành phố
a) Chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn, phối hợp với mặt trận, đoàn thể địa phương đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến sâu rộng trong nhân dân về tác động xã hội của việc
lang thang xin ăn gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.
Trường hợp tổ chức, cá nhân có nhu cầu làm việc thiện thì địa phương chọn và giới
thiệu, cá nhân trực tiếp trao tiền, quà cho đối tượng có hoàn cảnh thật sự khó
khăn.
b) Tổ chức các đợt cao điểm tập
trung, phân loại, giải quyết người lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn; chỉ
đạo UBND các xã, phường, thị trấn theo dõi, quản lý, giáo dục các trường hợp
tái lang thang xin ăn nhiều lần.
c) Thành lập, kiện toàn Tổ công
tác liên ngành cấp huyện (Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Công an, UBND
cấp xã, Trưởng thôn/Khu phố) thường xuyên tập trung, giải quyết người lang
thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn; hàng năm dự toán, bố trí kinh phí cho Tổ
công tác liên ngành thực hiện nhiệm vụ.
d) Tổ chức giao - nhận đối tượng
tái lang thang, cơ nhỡ, xin ăn (lần 3 trở lên) do Cơ sở Cai nghiện ma túy bàn
giao tại UBND cấp huyện, ngân sách cấp huyện đảm bảo chi phí trong công tác bàn
giao đối tượng tại địa phương.
đ) Chỉ đạo UBND các xã, phường,
thị trấn:
- Theo dõi tình trạng người
lang thang, cơ nhỡ, xin ăn trên địa bàn một cách chặt chẽ, hiệu quả; tổ chức tiếp
nhận đối tượng của địa phương mình do các lực lượng chức năng giao hoặc các cơ
sở trợ giúp xã hội tổng hợp chuyển giao; có kế hoạch tiếp nhận, quản lý và trợ
giúp các đối tượng hồi hương như: Nhà ở, đất sản xuất, giúp con em họ đến trường,
không để đối tượng quay trở lại tái lang thang xin ăn.
- Tổ chức tiếp nhận đối tượng
khi Cơ sở Cai nghiện ma túy, Tổ công tác tập trung của các địa phương chuyển đối
tượng đến trụ sở UBND cấp xã bàn giao và có cam kết trong việc quản lý đối tượng
tại cộng đồng.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời
đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ
giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, để giúp đỡ và không có người dân trên địa
bàn phải lang thang xin ăn.
- Thực hiện xác định mức độ
khuyết tật đối với các đối tượng bảo trợ xã hội tại các cơ sở trợ giúp xã hội
đóng trên địa bàn theo quy định khi có đề nghị của cơ sở trợ giúp xã hội.
- Thực hiện công tác giám sát,
đánh giá, định kỳ báo cáo kết quả thực hiện theo quy định.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
liên quan và Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố phối hợp tổ chức triển
khai thực hiện Đề án này. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc,
đề nghị các đơn vị, địa phương kịp thời phản ánh về Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội để được hướng dẫn thực hiện hoặc báo cáo, đề xuất UBND tỉnh xem xét
chỉ đạo./.