BỘ
NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
112/QĐ-BNN-QLCL
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 01 năm 2009
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VẬT TƯ
NÔNG NGHIỆP VÀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM NÔNG LÂM SẢN VÀ THỦY SẢN ĐẾN NĂM 2015
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Căn cứ Nghị định số
01/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Nghị định số 79/2008/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2008 quy định hệ thống tổ
chức quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 61/2008/TTLT-BNN-BNV ngày 15/5/2008 của liên Bộ
NN&PTNT – Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện và nhiệm vụ quản lý nhà nước
của UBND xã về nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Ban hành kèm theo Quyết định này “Đề án tăng cường
năng lực quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm
nông, lâm sản và thủy sản đến năm 2015” gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
I. QUAN ĐIỂM
1. Hoàn thiện khung pháp lý kết
hợp với tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, nguồn nhân lực cho từng đơn vị được
Bộ giao nhiệm vụ quản lý, thanh tra chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp
và an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) nông lâm thủy sản.
2. Tăng cường phối hợp liên
ngành giữa các cơ quan trong và ngoài Ngành, giữa trung ương và các địa phương
trong triển khai các nhiệm vụ quản lý, thanh tra chuyên ngành chất lượng vật
tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản;
3. Làm rõ trách nhiệm của các
bên (cơ quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng…)
trong công tác đảm bảo chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm nông
lâm thủy sản; Huy động được sự tham gia của các nguồn lực vào quá trình quản
lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát.
4. Tăng cường trách nhiệm các cấp
chính quyền địa phương trong công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và
an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản.
5. Xây dựng phòng kiểm chứng quốc
gia kết hợp xã hội hóa công tác xét nghiệm kiểm nghiệm, kiểm tra chứng nhận của
bên thứ Ba phục vụ công tác quản lý.
II. MỤC TIÊU
1. Hoàn thiện khung pháp lý:
- Các văn bản hướng dẫn thực hiện
Luật Chất lượng đối với vật tư nông nghiệp, Luật an toàn vệ sinh thực phẩm đối
với nông lâm thủy sản được ban hành.
- Các tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ
thuật về chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP cho các nhóm thực phẩm nông
lâm thủy sản được ban hành.
2. Hệ thống tổ chức, năng lực quản
lý Nhà nước được hoàn thiện từ trung ương đến địa phương:
- Các đơn vị sự nghiệp phục vụ
quản lý nhà nước trực thuộc các Cục quản lý chuyên ngành được thành lập. 100% tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có Chi cục Quản lý Chất lượng, ATVSTP nông lâm
thủy sản. Các đơn vị đảm trách công tác quản lý chất lượng, ATVSTP từ cấp huyện
đến cấp xã/ phường được xác định, giao nhiệm vụ.
- Hệ thống phòng kiểm chứng chất
lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm sản được thiết lập. Mạng lưới các
phòng xét nghiệm, kiểm nghiệm công lập và ngoài công lập được hình thành đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của quản lý và của cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Nguồn nhân lực được bổ sung
đáp ứng yêu cầu công việc; 100% cán bộ chuyên môn được đào tạo cơ bản, 70% được
đào tạo nâng cao.
Cơ chế tài chính phù hợp với đặc
thù các Cục quản lý chuyên ngành về chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP
nông lâm thủy sản được ban hành.
- 100% cơ sở sản xuất, kinh
doanh vật tư nông nghiệp (thuốc BVTV, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, phân bón,
giống), cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm sản được thanh tra, kiểm tra, giám
sát định kỳ, đột xuất; kịp thời phát hiện và xử lý hiệu quả các vi phạm về chất
lượng, ATVSTP.
III. NỘI DUNG
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ
chế chính sách:
1.1. Phối hợp với Bộ Y tế, Bộ
Khoa học Công nghệ xây dựng và sớm trình Quốc hội, Chính phủ ban hành Luật và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật về chất lượng và ATVSTP; các văn bản hướng
dẫn nhằm phân rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp hỗ trợ giữa các Bộ, ngành trong
quá trình quản lý chất lượng, ATVSTP tránh chồng chéo, bỏ sót.
1.2. Phối hợp Bộ Y tế xây dựng
trình Chính phủ ban hành chiến lược đảm bảo ATVSTP nông lâm thủy sản đến 2015,
tầm nhìn 2020.
1.3. Xây dựng các văn bản phân
công, phân cấp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành trong Ngành nông nghiệp về
chất lượng vật tư nông nghiệp và VSATTP nông lâm thủy sản.
1.4. Rà soát và tổ chức xây dựng
mới/chuyển đổi để hình thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo phủ kín toàn bộ chuỗi quản lý theo phân công, đảm bảo
hài hoà với các qui định quốc tế và phù hợp với thực tế sản xuất của Việt Nam.
1.5. Rà soát, bổ sung, sửa đổi
chế tài xử lý các vi phạm chất lượng, ATVSTP đủ mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng
vi phạm. Có biện pháp chế tài xử lý nghiêm khắc (phạt tiền, đình chỉ sản xuất,
thu hồi, tiêu hủy sản phẩm) đối với các hình thức sản xuất không đảm bảo
ATVSTP, gây hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe người tiêu dùng.
1.6. Nghiên cứu, đề nghị cơ chế
tài chính phù hợp với đặc thù của các Cục quản lý chuyên ngành; hoàn thiện
trình ban hành biểu mức thu phí kiểm nghiệm đối với các chỉ tiêu chất lượng vật
tư nông nghiệp, an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản.
1.7. Xây dựng quy định truy xuất
các lô hàng vật tư nông nghiệp không đảm bảo chất lượng; thực phẩm nông, lâm,
thủy sản không đảm bảo ATVSTP.
1.8. Xây dựng tiêu chuẩn và thủ
tục đánh giá chỉ định/ công nhận phòng kiểm chứng, phòng kiểm nghiệm.
2. Hoàn thiện hệ thống tổ chức
quản lý, thanh tra, kiểm tra:
2.1. Phối hợp với Bộ Y tế và các
Bộ Ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, Quốc hội đề án tổ chức lại hệ thống
cơ quan quản lý chất lượng, ATVSTP của Việt Nam.
2.2. Các cơ quan quản lý chuyên
ngành xây dựng đề án điều chỉnh hệ thống tổ chức của từng đơn vị nhằm triển
khai được đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ Bộ giao về quản lý, thanh tra chuyên
ngành chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm nông, lâm, thủy
sản. Trình Lãnh đạo Bộ xem xét, phê duyệt và tổ chức thực hiện.
2.3. Thành lập đầu mối chịu
trách nhiệm về công tác chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP với nguồn lực phù
hợp tại mỗi đơn vị.
2.4. Có kế hoạch quy hoạch, tuyển
dụng, đào tạo, đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ quản lý chất lượng
vật tư nông nghiệp; ATVSTP nông lâm thủy sản từ trung ương đến các địa phương.
2.5. Nhanh chóng kiện toàn, hình
thành và ổn định tổ chức thanh tra chuyên ngành tại các đơn vị; bổ sung trang
thiết bị và tập trung đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn thanh tra viên, kiểm
tra viên..
2.6. Tăng cường hoạt động thanh
tra, kiểm tra chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm thủy sản; Kịp thời
phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm.
3. Nâng cấp cơ sở vật chất, hệ
thống phòng kiểm nghiệm:
3.1. Nâng cấp cơ sở, phương tiện,
trang thiết bị làm việc, kiểm tra, thanh tra; bổ sung trang thiết bị cho các
phòng kiểm nghiệm hiện tại đáp ứng yêu cầu trở thành các phòng kiểm chứng cấp
quốc gia.
3.2. Xây dựng cơ chế gắn kết các
phòng kiểm nghiệm trong ngành; tận dụng trang thiết bị, tay nghề kiểm nghiệm
viên, hiệu quả sử dụng thiết bị, máy móc… của các phòng kiểm nghiệm của các Cục
quản lý kỹ thuật chuyên ngành.
4. Huy động nguồn lực từ bên
ngoài tham gia quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản:
4.1. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động
kiểm nghiệm; đánh giá, chỉ định/ công nhận các phòng kiểm nghiệm trong và ngoài
ngành có đủ điều kiện; tham gia kiểm nghiệm chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản.
4.2. Hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở sản
xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xây dựng và vận hành hệ thống tự kiểm tra và
truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
4.3. Tăng cường huy động các nguồn
vốn ODA, vốn vay ưu đãi để đầu tư nâng câp cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực quản
lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản.
5. Về khoa học, công nghệ:
5.1. Áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ trong quản lý, kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ
sinh thực phẩm nông lâm thủy sản. Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về
nông lâm thủy sản (hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về chất lượng vật tư nông
nghiệp; cơ sở dữ liệu về các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản; các mặt
hàng sản xuất, xuất nhập khẩu chủ yếu; thị trường chính; phòng kiểm nghiệm…).
5.2. Áp dụng tiến bộ khoa học
trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản (nghiên cứu
chuyển giao giống tốt, sản phẩm mới, kỹ thuật mới phục vụ trong trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến…)
6. Tăng cường truyền thông, khuyến
nông, khuyến ngư:
6.1. Truyền thông nâng cao nhận
thức về ATVSTP của người sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp, thực phẩm nông
lâm thủy sản; nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về ATVSTP.
6.2. Hướng dẫn, hỗ trợ nông dân
áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP, GAHP), được chế biến theo tiêu
chuẩn GMP/SSOP/HACCP đảm bảo chất lượng, ATVS thực phẩm.
6.3. Quảng bá, tuyên truyền, tiếp
cận thị trường cho thực phẩm nông lâm thủy sản chất lượng, an toàn.
7. Xây dựng cơ chế tài chính ổn
định, bền vững:
Đánh giá hiệu quả tự chủ tài
chính của đơn vị đã áp dụng Nghị định 43/2006/NĐ-CP ; xây dựng trình Bộ
NN&PTNT, Bộ Tài chính xem xét, ban hành cơ chế tài chính ổn định bền vững
phù hợp với hoạt động của từng đơn vị.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Cục Quản lý Chất lượng
NLS&TS:
1.1. Đầu mối xây dựng và tổ chức
thực hiện các đề án, chương trình dự án tăng cường năng lực, quản lý chất lượng
vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm thủy sản cho toàn ngành.
1.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản
trên toàn quốc.
2. Các Cục Trồng trọt, Bảo vệ thực
vật, Chăn nuôi, Thú y, Chế biến Thương mại NLTS&NM, Nuôi trồng thủy sản,
Khai thác và Bảo vệ NLTS:
2.1. Phối hợp với Cục Quản lý Chất
lượng Nông lâm sản và Thủy sản xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự
án tăng cường năng lực cho toàn Ngành.
2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án thành lập các tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản của Cục;
2.3. Chủ trì xây dựng và thực hiện
các đề án, dự án theo phân công.
3. Các Vụ thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn:
3.1. Thẩm định các chương trình,
dự án trình Bộ phê duyệt và cân đối nguồn vốn thực hiện các chương trình, dự án
dược duyệt.
3.2. Phối hợp các Cục liên quan
xây dựng đề án kiện toàn tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP thuộc các Cục trình
Bộ trưởng phê duyệt.
3.3. Phối hợp với các Cục quản
lý chuyên ngành tìm nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư hỗ trợ các dự án,
chương trình, nội dung tăng cường năng lực cho hệ thống các đơn vị làm công tác
quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản.
4. Ủy ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương:
4.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và
ATVSTP nông lâm thủy sản tại địa phương;
4.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực phục vụ quản
lý chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm thủy sản tại địa phương;
4.3. Tham gia xây dựng và thực
hiện các chương trình, đề án, dự án do các Cục quản lý chuyên ngành tổ chức thực
hiện.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3.
Chánh Văn phòng Bộ, Cục trưởng các Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy
sản, Thú y, Chăn nuôi, Trồng trọt, Bảo vệ thực vật, Chế biến Thương mại Nông
Lâm Thủy sản và nghề muối, Nuôi trồng thủy sản, Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi
thủy sản; thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT; Giám đốc các Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, các tổ chức,
cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Như điều 3;
- Văn phòng Chính phủ;
- Lãnh đạo Bộ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư;
- Lưu VT, QLCL.
|
BỘ TRƯỞNG
|
BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
---------------------
ĐỀ ÁN
TĂNG
CƯỜNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP
VÀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM NÔNG, LÂM SẢN VÀ THỦY SẢN ĐẾN NĂM 2015
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 112 /QĐ-BNN-QLCL ngày 14 tháng 01 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
Hà
Nội, tháng 12 năm 2008
|
ĐỀ ÁN
“TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP
VÀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM NÔNG LÂM SẢN VÀ THỦY SẢN ĐẾN NĂM 2015”
PHẦN MỞ
ĐẦU
I. ĐẶT VẤN
ĐỀ:
Trong những năm qua, sản xuất
nông nghiệp tăng mạnh cung cấp nguồn hàng phong phú và thường xuyên cho thị trường
trong nước, giúp cho người tiêu dùng trong nước có thể tiếp cận thực phẩm đa dạng,
nhiều và rẻ. Thành công vượt bậc trong ngành nông nghiệp không chỉ giúp Việt
Nam tăng GDP trên 8% mà còn giúp giảm đói nghèo. Việc gia nhập tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) đã tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển thị trường các sản phẩm có
lợi thế cạnh tranh như cà phê, hạt điều, rau, chè, trái cây nhiệt đới… Bên cạnh
các thành tựu đã đạt được, các yếu kém trong thực hành sản xuất kinh doanh (kỹ
thuật sản xuất vẫn còn tập trung chủ yếu vào số lượng hơn là chất lượng sản phẩm;
việc áp dụng các qui phạm thực hành nông nghiệp tốt (GAP, GAHP), thực hành sản
xuất tốt (GMP), hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP)
trong quá trình sản xuất kinh doanh từ trang trại tới bàn ăn còn rất hạn chế…);
các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra trong quá trình sản xuất kinh doanh
do các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa được duy trì
thường xuyên, bài bản đã dẫn đến tỷ lệ các sản phẩm nông sản, thủy sản chưa đảm
bảo an toàn thực phẩm còn cao, gây ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng, bức
xúc trong xã hội và cản trở xuất khẩu và giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
Một trong những nguyên nhân cơ bản
của tình trạng nêu trên là năng lực quản lý của hệ thống các cơ quan trong
Ngành Nông nghiệp tham gia thực thi quản lý nhà nước chuyên ngành về chất lượng
giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống vật nuôi, thức ăn chăn
nuôi, thuốc thú y… (gọi chung là vật tư nông nghiệp) và an toàn thực phẩm nông
lâm sản và thủy sản còn nhiều tồn tại, bất cập. Chính vì vậy Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN&PTNT) giao Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và
thủy sản (Quản lý chất lượng NLTS) chủ trì phối hợp với các Cục, Vụ liên quan
xây dựng và tổ chức triển khai đề án “Tăng cường năng lực quản lý chất lượng vật
tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm nông lâm sản và thủy sản”.
II. CƠ SỞ
PHÁP LÝ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỀ ÁN:
- Luật Thủy sản;
- Luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa;
- Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật;
- Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực
phẩm; Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 Quy định chi tiết thi hành một
số điều của pháp lệnh VSATTP;
- Pháp lệnh Giống cây trồng,
Pháp lệnh Giống vật nuôi, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Kiểm dịch và Bảo vệ thực vật
và các Nghị định hướng dẫn thi hành;
- Quyết định số 28/QĐ-TTg ngày
06/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án quốc gia về kiểm
soát ô nhiễm vi sinh vật và tồn dư hóa chất trong thực phẩm giai đoạn đến năm
2010;
- Quyết định 43/2006/QĐ-TTg ngày
02/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động quốc
gia đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đến năm 2010;
- Chỉ thị số 06/2007/CT-TTg ngày
28/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai các biện pháp cấp bách bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
- Quyết định 149/2007/QĐ-TTg
ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu
quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2006 – 2010;
- Nghị định số 01/2008/NĐ-CP
ngày 03/1/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ NN&PTNT;
- Thông tư liên tịch số
61/2008/TTLT-BNN-BNV ngày 15/5/2008 của liên Bộ NN&PTNT – Bộ Nội vụ hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh, huyện và nhiệm vụ quản lý nhà nước của UBND xã về NN&PTNT;
- Nghị định 79/2008/NĐ-CP ngày
18/7/2008 của Chính phủ quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm
nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phần 1.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
I. CÁC KẾT
QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Khung pháp lý được hoàn thiện
1 bước:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật của Việt Nam về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) đã và đang
được bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện. Một số luật, pháp lệnh liên quan đến chất
lượng, ATVSTP đã được xây dựng và sửa đổi như Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa
(năm 2007), Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (năm 2006), Pháp lệnh Vệ sinh
an toàn thực phẩm (2004), Pháp lệnh Thú y (sửa đổi, năm 2004) và các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn thực hiện; các Thông tư liên Ngành về phân công trách nhiệm
quản lý nhà nước về ATVSTP…
Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 79/2008/NĐ-CP ngày 18/7/2008 quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh
tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngày 15/5/2008, liên Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số
61/2008/TTLT-BNV-BNN hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và nhiệm vụ quản lý nhà
nước của UBND cấp xã về nông nghiệp và phát triển nông thôn, tạo cơ sở pháp lý
cho việc thành lập hệ thống tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP nông, lâm, thủy
sản trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào các văn bản quy phạm
pháp luật nói trên, Bộ NN&PTNT đã phối hợp với Bộ Y tế kịp thời sửa đổi,
xây dựng và ban hành nhiều quyết định, chỉ thị, quy chế, quy định và các văn bản
hướng dẫn phù hợp với yêu cầu hội nhập, nhằm quản lý chất lượng ATVSTP nông,
lâm, thủy sản từ khâu sản xuất nguyên liệu đến bảo quản, chế biến, lưu thông sản
phẩm (Thông tư phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về ATVSTP giữa Bộ
NN&PTNT và Bộ Y tế; quy định quản lý sản xuất và kinh doanh rau, quả, chè
an toàn; quy trình kiểm soát giết mổ; Quy chế kiểm tra điều kiện đảm bảo ATVS
các cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản; Quy chế kiểm tra, chứng nhận chất lượng
hàng thủy sản; Tiêu chuẩn điều kiện đảm bảo ATVSTP đối với cơ sở chế biến chè;
Danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam; Danh mục
các loại thuốc thú y được phép lưu hành; Danh mục thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu
dùng chế biến thức ăn chăn nuôi được nhập khẩu thông thường; Danh mục thuốc bảo
vệ thực vật (BVTV) được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng…)
Bên cạnh việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật, Bộ NN&PTNT cũng đã ban hành các quy trình thực hành
nông nghiệp tốt (GAP) đối với rau, quả và chè; quy trình thực hành chăn nuôi tốt
(GAHP) đối với chăn nuôi gà, lợn, bò sữa và ong và đã đề xuất Chính phủ ban
hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi áp dụng
GAP, GAHP để nâng cao chất lượng, ATVSTP. Tổ chức soát xét 1100 tiêu chuẩn
ngành trên cơ sở lấy tiêu chuẩn của CODEX và một số nước trong khu vực và thực
tế của ngành làm căn cứ để đề xuất với Bộ Khoa học và Công nghệ chuyển tiêu chuẩn
ngành thành tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật hoặc hủy bỏ.
2. Hệ thống tổ chức các cơ quan
quản lý về chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm sản và thủy sản:
Bộ NN&PTNT đã thành lập Cục
Quản lý chất lượng NLTS thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối quản lý chất lượng,
ATVSTP nông lâm sản và thủy sản và triển khai các nhiệm vụ cụ thể như: tổ chức;
kiểm tra điều kiện ATVSTP trong sản xuất kinh doanh thủy sản; kiểm tra, thanh
tra chất lượng, ATVSTP nông lâm sản theo kế hoạch và đột xuất theo yêu cầu của
Bộ; kiểm tra chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nông lâm
thủy sản; điều tra truy xuất nguyên nhân và khắc phục sự cố về ATVSTP nông lâm
thủy sản.
Hệ thống tổ chức của Cục Quản lý
Chất lượng NLTS hiện tại bao gồm Cục và 6 Trung tâm vùng trực thuộc. Tại Cục và
mỗi Trung tâm vùng đều có các bộ phận chuyên trách quản lý chất lượng, ATVSTP
thủy sản; quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm sản. Ngoài ra, theo Thông tư
61/2008/TTLT-BNN-BNV tại mỗi địa phương sẽ hình thành Chi cục hoặc phòng quản
lý ATVSTP nông lâm sản và thủy sản, thuộc Sở NN&PTNT và hệ thống các đơn vị
trực thuộc tại từng địa phương.
Tham gia vào hoạt động quản lý
chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm sản và thủy sản, gồm nhiều đơn vị
khác thuộc Bộ NN&PTNT (Cục Chăn nuôi, Cục Thú y, Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ
thực vật, Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm thủy sản và Nghề muối; Cục Nuôi trồng
Thuỷ sản; Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản). Việc phân công này đã
bao quát toàn bộ quá trình sản xuất nông lâm thuỷ sản, tận dụng và kế thừa bộ
máy, nguồn lực hiện có, đồng thời tạo sự gắn kết công tác quản lý chất lượng và
tổ chức chỉ đạo sản xuất theo ngành hàng. Cụ thể như sau:
2.1. Trong lĩnh vực chăn nuôi,
thú y:
Cục Chăn nuôi và Cục Thú y trực
tiếp quản lý, kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP trong toàn bộ
quá trình chăn nuôi, giết mổ, sơ chế gia súc, gia cầm và các sản phẩm của
chúng.
Hệ thống các đơn vị trực thuộc của
Cục Thú y được hình thành rộng khắp từ trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
(cán bộ thú y xã). Cả nước có khoảng trên 54 ngàn cán bộ thú y thực thi các nhiệm
vụ thuộc công tác thú y, kể cả nhiệm vụ quản lý chất lượng thuốc thú y, vệ sinh
thú y trong giết mổ, sơ chế.
Hệ thống các đơn vị trực thuộc của
Cục Chăn nuôi hạn chế hơn so với Cục Thú y nhưng đã có đến cấp tỉnh (phòng chăn
nuôi, hoặc phòng nông nghiệp, phòng kỹ thuật) cùng với đơn vị sự nghiệp (Trung
tâm khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, Văn phòng dự án giống vật
nuôi) trực thuộc Cục Chăn nuôi được thành lập để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
được giao.
2.2. Trong lĩnh vực trồng trọt,
bảo vệ thực vật:
Cục Trồng trọt và Cục Bảo vệ thực
vật trực tiếp quản lý, kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp liên quan đến
quá trình trồng trọt và các sản phẩm trồng trọt.
Cục Bảo vệ thực vật đã có hệ thống
các đơn vị trực thuộc đến 63 tỉnh, thành phố, bên cạnh đó còn có 9 Chi cục Kiểm
dịch thực vật vùng và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục (4 Trung tâm Bảo vệ
thực vật, 2 Trung tâm Kiểm định và Khảo nghiệm thuốc BVTV, 2 Trung tâm Kiểm dịch
thực vật sau nhập khẩu và Trung tâm Giám định kiểm dịch thực vật), có khả năng
thực thi nhiệm vụ được giao về quản lý kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc, hướng
dẫn sử dụng thuốc BVTV hợp lý, hướng dẫn áp dụng thực hành sản xuất nông nghiệp
tốt trong trồng trọt.
Hệ thống các đơn vị trực thuộc
thuộc lĩnh vực trồng trọt cũng được hình thành tại 63 tỉnh, thành phố (tổ chức
phòng trồng trọt/ kỹ thuật hoặc phòng nông nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT).
Ngoài ra, Cục Trồng trọt có các đơn vị sự nghiệp trực thuộc (các Trung tâm Khảo
kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón, Văn phòng Bảo hộ giống cây
trồng mới) để triển khai nhiệm vụ được giao, tập trung chủ yếu kiểm tra chất lượng
giống cây trồng và phân bón, hướng dẫn áp dụng thực hành nông nghiệp tốt.
2.3. Trong lĩnh vực thuỷ sản:
Đối với chất lượng vật tư nông
nghiệp và ATVSTP trong toàn bộ quá trình sản xuất thuỷ sản do các Cục Thú y, Cục
Nuôi trồng thuỷ sản, Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản và Cục Quản lý
Chất lượng NLTS quản lý.
Hiện tại hệ thống tổ chức của Cục
Thú y như đã trình bày tại mục 2.1 đủ khả năng thực hiện kiểm soát chất lượng
thuốc thú y thủy sản.
Cục Nuôi trồng thủy sản được
thành lập theo Quyết định số 24/2008/QDD-BNN ngày 28/01/2008, có nhiệm vụ kiểm
soát chất lượng thức ăn nuôi thủy sản, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng
thủy sản. Cục có các đơn vị sự nghiệp trực thuộc để triển khai nhiệm vụ được
giao. Hiện nay, các địa phương có nuôi trồng thủy sản đã có các cơ quan quản lý
chất lượng và thú y thuỷ sản, hoặc Chi cục Nuôi trồng thủy sản địa phương làm
nhiệm vụ quản lý chất lượng chế phẩm sinh học, thức ăn phục vụ nuôi trồng thuỷ
sản.
Hệ thống các đơn vị trực thuộc của
Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản bao gồm các Cơ quan Khai thác và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản vùng, đơn vị sự nghiệp trực thuộc và các Chi cục Khai
thác và Bảo vệ Nguồn lợi tại các tỉnh có biển, đang đảm đương trách nhiệm quản
lý việc khai thác và nguồn lợi thủy sản.
Cục Quản lý Chất lượng NLTS có bộ
phận chuyên trách quản lý chất lượng, ATVSTP thủy sản thực hiện kiểm soát chất
lượng, ATVSTP thủy sản trong quá trình nuôi trồng (kiểm soát dư lượng các chất
độc hại, ATVS vùng thu hoạch NT2MV) đến chế biến và tiêu thụ. Bên cạnh đó, còn
có sự phối hợp của các cơ quan quản lý chất lượng và thú y thuỷ sản địa phương
trong kiểm soát chất lượng thủy sản sau thu hoạch, quản lý ĐKSX các cơ sở sản
xuất thủy sản quy mô thủ công…
Sự phân công hiện tại đảm bảo kiểm
soát được toàn bộ các đối tượng cần kiểm soát: thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y,
chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thuỷ sản và sản phẩm nông lâm thuỷ sản.
Tuy nhiên cần thiết có sự gắn kết giữa các đơn vị này để đảm bảo không bỏ sót đối
tượng, công đoạn cần quản lý.
2.4. Quá trình chế biến nông lâm
thuỷ sản do Cục Chế biến, Thương mại NLTS &NM và Cục Quản lý Chất lượng
NLTS quản lý.
Hệ thống tổ chức hiện tại của Cục
Chế biến, Thương mại NLTS&NM gồm Cục và bộ phận thường trực tại tp. Hồ Chí
Minh, chủ yếu tập trung quản lý công nghệ sản xuất nông lâm thủy sản, tham gia
kiểm tra điều kiện sản xuất, công nghệ chế biến của các cơ sở chế biến nông lâm
thủy sản.
Cục Quản lý Chất lượng NLTS có bộ
phận chuyên trách quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm sản, với hệ thống tổ chức
như đã trình bày tại mục 2 để thực hiện kiểm soát điều kiện đảm bảo ATVSTP
trong quá trình sản xuất nông lâm sản.
3. Hệ thống thanh tra chuyên
ngành chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm thủy sản:
Theo Quyết định số
29/2008/QĐ-BNN ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, thanh tra chuyên ngành về chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản được hình
thành tại Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản. Triển khai Nghị định
79/2008/NĐ-CP ngày 18/7/2008 của Chính phủ quy định hệ thống tổ chức quản lý,
thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm, hệ thống thanh tra
chuyên ngành về chất lượng, ATVSTP đang được hình thành tại các cơ quan được
giao nhiệm vụ quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản địa phương.
Mặc dù mới được thành lập, nhưng
Thanh tra chuyên ngành của Cục Quản lý chất lượng NLTS đã phối hợp với các đơn
vị liên quan (Thanh tra Bộ NN&PTNT, Thanh tra các Cục quản lý chuyên ngành,
Thanh tra các Sở NN&PTNT…) tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra về chất
lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm thủy sản như kiểm tra melamin trong
thức ăn chăn nuôi (gia cầm, thủy sản), trong sản phẩm chăn nuôi (trứng, sữa
bò), phân bón… Kịp thời phát hiện những sai phạm và đề xuất những biện pháp xử
lý phù hợp.
3.1. Trong lĩnh vực chăn nuôi,
thú y:
Hệ thống thanh tra chuyên ngành
thú y từ Trung ương đến địa phương đã tương đối hoàn chỉnh. Hàng năm, đã tiến
hành hàng trăm cuộc thanh tra, kiểm tra, đã phát hiện ra những sai phạm và kịp
thời xử lý, góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
thú y, trong đó có thanh tra chất lượng thuốc thú y và vệ sinh thú y trong chăn
nuôi giết mổ.
Bên cạnh hệ thống thanh tra thú
y, Phòng Thanh tra Pháp chế của Cục Chăn nuôi cũng đã phối hợp với thanh tra Sở
NN&PTNT thực hiện thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; phát hiện và xử lý vi
phạm trong lĩnh vực chăn nuôi (giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, chất bổ sung
thức ăn chăn nuôi...).
3.2. Trong lĩnh vực trồng trọt,
bảo vệ thực vật:
Giống như trong lĩnh vực chăn
nuôi, thú y, hệ thống thanh tra chuyên ngành bảo vệ và kiểm dịch thực vật được
thiết lập đồng bộ từ trung ương tới địa phương từ năm 1994. Các thanh tra viên
đều được đào tạo cơ bản, được tập huấn nghiệp vụ thường xuyên nên có đủ năng lực
làm công tác thanh tra chuyên ngành. Hàng năm, thanh tra bảo vệ và kiểm dịch thực
vật đã tổ chức thanh tra, kiểm tra thường xuyên và đột xuất về sản xuất, kinh
doanh thuốc BVTV, về chất lượng thuốc BVTV, sử dụng thuốc BVTV, phát hiện và xử
lý kịp thời các vi phạm.
Phòng Thanh tra Pháp chế của Cục
Trồng trọt đã phối hợp với thanh tra Sở NN&PTNT thực hiện thanh tra, kiểm
tra theo kế hoạch; phát hiện và xử lý vi phạm trong lĩnh vực trồng trọt (giống
cây trồng, phân bón).
3.3. Trong lĩnh vực thủy sản:
Hệ thống thanh tra chuyên ngành
của Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản đã được thiết lập đồng bộ từ
trung ương đến địa phương (tỉnh, thành phố ven biển), có chức năng thanh tra
chuyên ngành về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Hàng năm, thanh tra
chuyên ngành của đơn vị đã tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử
lý kịp thời các vi phạm trong lĩnh vực khai thác và nguồn lợi thủy sản.
Phòng Thanh tra, Pháp chế của Cục
Nuôi trồng thủy sản mới được thành lập, đang trong quá trình hình thành tổ chức
và ổn định nhân sự.
Hệ thống thanh tra chuyên ngành
của Cục Thú y và Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản như đã trình
bày ở trên tham gia thanh chuyên ngành về thuốc thú y thủy sản và chất lượng,
an toàn thực phẩm thủy sản.
3.5. Trong lĩnh vực công nghệ chế
biến nông lâm thủy sản:
Phòng Thanh tra Pháp chế của Cục
Chế biến, Thương mại NLTS và NM đã phối hợp với thanh tra Sở NN&PTNT thực
hiện thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; phát hiện và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
chế biến, thương mại.
Thanh tra chuyên ngành của Cục
Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản như đã trình bày tại các mục nêu
trên có khả năng thực hiện thanh tra chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản trong
công đoạn chế biến kinh doanh nông lâm thủy sản.
4. Năng lực quản lý, kiểm soát
chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP:
4.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Hiện tại, các Cục Quản lý chuyên
ngành đều đã được trang bị tương đối đầy đủ các phương tiện làm việc (ôtô, máy
vi tính, máy photo, máy điện thoại, máy fax...) để triển khai nhiệm vụ, đáp ứng
yêu cầu công việc.
Các Cục và các đơn vị trực thuộc
đều đã có trụ sở làm việc riêng. Tuy nhiên, diện tích sử dụng làm việc tại các
Cục đang rất hạn chế so với nhu cầu công tác. Thậm chí một số đơn vị còn sử dụng
chung khuôn viên và phòng họp, hội trường (Cục Chăn nuôi và Cục Trồng trọt), ảnh
hưởng đến công việc của cả 2 đơn vị khi giao dịch và khi cùng có nhu cầu sử dụng
phần diện tích chung.
4.2. Năng lực kiểm nghiệm:
4.2.1. Kiểm nghiệm chất lượng vật
tư nông nghiệp:
a. Trong lĩnh vực chăn nuôi, thú
y (bao gồm cả thủy sản):
- Phòng kiểm nghiệm hiện tại của
Cục Chăn nuôi mới đủ năng lực để thực hiện kiểm tra chất lượng giống vật nuôi
và thức ăn chăn nuôi về phần lớn các chất dinh dưỡng và một số chất cấm sử dụng
trong chăn nuôi. Cục đang tiến hành xây dựng 01 Trung tâm khảo kiểm nghiệm, kiểm
định giống và thức ăn chăn nuôi trực thuộc Cục Chăn nuôi, dự kiến năm 2010 sẽ
hoàn thiện. Thời gian tới Cục sẽ trình Bộ cho tiến hành xây dựng 3 trung tâm
vùng làm nhiệm vụ giám sát chất lượng giống và thức ăn chăn nuôi.
- Hệ thống phòng kiểm nghiệm của
Cục Thú y ở cấp trung ương và ở một số thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Cần Thơ... được trang bị các dụng cụ máy móc hiện đại như ELISA, PCR, hệ thống
sắc ký lỏng khối phổ, quang phổ hấp thụ nguyên tử... có khả năng phân tích dư
lượng các hóa chất, kháng sinh cấm, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, hooc
môn tăng trưởng, vi sinh vật gây bệnh chung cho người và động vật. Các Chi cục
Thú y đều có tương đối đầy đủ hệ thống dây chuyền lạnh (tủ lạnh và hộp lạnh) để
bảo quản vắc xin và mẫu bệnh phẩm chẩn đoán, để kiểm dịch các sản phẩm động vật
xuất nhập khẩu và tiêu thụ trong nước.
- Cục Quản lý CL NLTS có 6 phòng
kiểm nghiệm được trang bị các thiết bị hiện đại, có khả năng phân tích dư lượng
các hóa chất, kháng sinh cấm, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng...
trong thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y dùng trong nuôi trồng thủy sản.
Tại 1 số địa phương, Chi cục Thú
y, Cơ quan quản lý chất lượng và thú y thuỷ sản (một số tỉnh ven biển) đã được
đầu tư phòng kiểm nghiệm ở qui mô nhỏ, tập trung một số chỉ tiêu mang tính chuẩn
đoán, sàng lọc phục vụ kiểm tra thường xuyên và kiểm tra ban đầu. Một số địa
phương có phòng kiểm nghiệm được đầu tư khá tốt nhưng hoạt động còn yếu.
Ngoài ra, một số phòng kiểm nghiệm
của các Viện thuộc Bộ NN&PTNT (Viện Chăn nuôi, Viện KHKT miền Nam…) cũng được
sử dụng để phục vụ công tác quản lý chất lượng con giống, thức ăn, hoá chất sử
dụng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
b. Trong lĩnh vực trồng trọt, bảo
vệ thực vật:
- Cục Trồng trọt có 3 phòng kiểm
nghiệm giống cây trồng tại 3 miền trên cả nước, 2 phòng kiểm nghiệm phân bón, sản
phẩm cây trồng đặt tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, trong đó có 1 phòng được ISTA
công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế, 02 phòng đạt tiêu chuẩn cấp Bộ. Các phòng kiểm
nghiệm này có thể kiểm tra chất lượng giống cây trồng, một số chỉ tiêu phân bón
(yếu tố đa lượng). Ngoài ra, còn có một số phòng kiểm nghiệm khác trên cả nước
tham gia vào lĩnh vực kiểm nghiệm giống cây trồng (15 phòng) và kiểm tra chất
lượng phân bón (15 phòng).
- Cục BVTV có 2 Trung tâm kiểm định
và khảo nghiệm thuốc BVTV tại Hà Nội, tp. Hồ Chí Minh. Các Trung tâm này được
trang bị các thiết bị tương đối hiện đại có khả năng phân tích các chỉ tiêu chất
lượng thuốc bảo vệ thực vật, nguyên liệu thuốc bảo vệ thực vật và khảo nghiệm
thuốc BVTV. Hai Trung tâm này đã được công nhận ISO/17025 và hàng năm đều tham
gia chương trình kiểm tra liên phòng trong nước và nước ngoài.
Các Chi cục kiểm dịch thực vật
và các Trung tâm kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu, Trung tâm giám định kiểm dịch
thực vật đều được trang bị các thiết bị hiện đại như ELISA, PCR.
Một số phòng kiểm nghiệm của các
Viện Bảo vệ thực vật, Viện Thổ nhưỡng nông hoá... cũng được sử dụng để phục vụ
công tác quản lý chất lượng giống cây, con giống, phân bón, hoá chất sử dụng
trong trồng trọt.
4.2.2. Kiểm nghiệm ATVSTP nông,
lâm, thuỷ sản:
Cục Quản lý Chất lượng NLTS có 6
phòng kiểm nghiệm được trang bị các thiết bị kiểm nghiệm hiện đại, có khả năng
phân tích các chỉ tiêu ATTP, dư lượng các hóa chất, kháng sinh cấm, thuốc bảo vệ
thực vật, kim loại nặng… trong các sản phẩm thực phẩm thuỷ sản và một số các chỉ
tiêu đối với sản phẩm nông lâm sản. Các phòng kiểm nghiệm này đều đã được công
nhận ISO 17025 và thường xuyên tham gia các chương trình kiểm nghiệm thành thạo
với các phòng kiểm nghiệm chuẩn quốc gia và quốc tế và đạt kết quả tốt. Kết quả
phân tích của các phòng này đã được cơ quan thẩm quyền các nước EU, Mỹ, Hàn Quốc…
công nhận.
Hệ thống phòng kiểm nghiệm của Cục
Thú y ở cấp trung ương và ở một số thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần
Thơ... được trang bị các thiết bị hiện đại có khả năng phân tích các chỉ tiêu
ATTP, dư lượng các hóa chất, kháng sinh cấm, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng,
sinh vật gây bệnh đối với sản phẩm chăn nuôi.
Hai Trung tâm kiểm định chất lượng
thuốc và tồn dư hoá chất độc hại trong các sản phẩm nông sản của Cục Bảo vệ thực
vật có khả năng phân tích một số chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm sản phẩm
trồng trọt (dư lượng thuốc BVTV, kim loại nặng). Hai Trung tâm này đã được công
nhận ISO/17025 và hàng năm đều tham gia chương trình kiểm tra liên phòng trong
nước.
Một số phòng kiểm nghiệm của một
số địa phương (Chi cục Thú y, Cơ quan quản lý chất lượng và thú y thủy sản) đã
đầu tư, trang bị các thiết bị kiểm nghiệm hiện đại, có khả năng phân tích các
chỉ tiêu ATTP, dư lượng các hóa chất, kháng sinh cấm, thuốc bảo vệ thực vật,
kim loại nặng.
4.3. Nguồn nhân lực:
Hiện trạng cán bộ làm công tác
quản lý chất lượng nông lâm thủy sản của các Cục quản lý chuyên ngành và các cơ
quan địa phương được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1.
TT
|
Đơn
vị
|
Tổng
số cán bộ
|
Trong
đó, cán bộ tham gia công tác CL, ATVSTP
|
1
|
Các cơ quan
quản lý chuyên ngành của địa phương
|
59.810
|
|
2
|
Cục Chăn
nuôi
|
50
|
40
|
3
|
Cục Thú y
|
638
|
319
|
4
|
Cục Trồng
trọt
|
151
|
96
|
5
|
Cục BVTV
|
352
|
252
|
6
|
Cục Chế biến
TM NLTS
|
51
|
22
|
7
|
Cục Quản lý
CL NLTS
|
346
|
234
|
|
Tổng cộng
|
61.398
|
|
- Số cán bộ tham gia công tác
chuyên môn quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản tại các Cục quản lý
chuyên ngành có trình độ chuyên môn, có tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, đã được
đào tạo cơ bản về kiến thức quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP và
đang thực hiện nhiệm vụ quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP.
Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm
sản và Thủy sản có cán bộ chuyên trách thực hiện quản lý chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phẩm nông lâm sản và thủy sản. Ở hầu hết các Cục, nhiệm vụ quản lý an
toàn vệ sinh thực phẩm được giao lồng ghép cho các bộ phận và cán bộ chuyên môn
trong quá trình giao chức năng, nhiệm vụ và xây dựng kế hoạch hoạt động. Việc lồng
ghép nhiệm vụ vừa là một thuận lợi do gắn kết được nhiệm vụ quản lý an toàn vệ
sinh thực phẩm với chỉ đạo sản xuất nông lâm thủy sản.
- Các cơ quan quản lý địa
phương: Lực lượng chính triển khai công tác chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm
là Cơ quan quản lý chất lượng và thú y thủy sản (thuộc Sở Thủy sản cũ), Chi cục
Bảo vệ thực vật (đối với thuốc bảo vệ thực vật, phân bón), Chi cục Thú y (đối với
thuốc thú y, kiểm soát giết mổ, điều kiện vệ sinh thú y, thức ăn chăn nuôi). Một
số ít cán bộ các cơ quan địa phương đã được đào tạo kiến thức ATVSTP, nhưng
chưa đồng đều, một số chưa đảm bảo năng lực thực thi nhiệm vụ.
- Ở cấp huyện và cấp xã: Hiện tại,
cán bộ bảo vệ thực vật (đối với thuốc thú y, phân bón), cán bộ thú y (đối với
thuốc thú y, kiểm soát giết mổ, điều kiện vệ sinh thú y) cấp huyện thường được
giao nhiệm vụ kiêm nhiệm về quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Cán
bộ cấp xã hầu như không có, thường giao cho cán bộ khuyến nông hoặc cán bộ phụ
trách nông nghiệp kiêm nhiệm, song không được phân công theo dõi chất lượng thuốc
BVTV, một số xã cán bộ thú y xã đảm nhận toàn bộ công tác có liên quan đến chăn
nuôi thú y.
5. Cơ chế tài chính:
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và
cơ cấu tổ chức của từng đơn vị, căn cứ vào tình hình thu – chi từ nguồn phí, lệ
phí liên quan đến công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP các sản
phẩm nông, lâm, thuỷ sản hiện tại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thống
nhất với Bộ Tài chính cho phép áp dụng cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 tại một số Cục có các đơn vị sự nghiệp trực thuộc
như Cục Thú y, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thuỷ
sản. Một số đơn vị làm công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP sản
phẩm nông lâm thuỷ sản địa phương (như Chi cục Thú y, Cơ quan quản lý chất lượng
thuỷ sản của một số tỉnh, thành phố) cũng được Sở Tài chính và Sở NN&PTNT
cho phép áp dụng chế độ tự chủ tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Sau một
thời gian áp dụng cho thấy, cơ chế này đã tạo điều kiện để các đơn vị chủ động
triển khai các tác nghiệp quản lý, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Một số đơn vị như Cục Trồng trọt,
Cục Chăn nuôi, Cục Chế biến, Thương mại NLTS&NM và đa số các đơn vị làm
công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP sản phẩm nông lâm thuỷ sản
địa phương áp dụng cơ chế tài chính đối với đơn vị quản lý nhà nước (Nghị định
số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005). Cơ chế này chưa tạo điều kiện để các đơn vị
chủ động kinh phí triển khai nhiệm vụ được giao.
6. Kết quả đạt được trong công
tác đảm bảo chất lượng vật tư nông nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm:
6.1. Quản lý chất lượng vật tư
nông nghiệp:
6.1.1. Trong lĩnh vực chăn nuôi,
thú y (bao gồm cả thủy sản):
- Quản lý thuốc thú y: Việc thử
nghiệm, khảo nghiệm và ban hành danh mục thuốc thú y cấm sử dụng, được phép sử
dụng và hạn chế sử dụng được thực hiện đúng quy định pháp luật. Nhiều cơ sở sản
xuất thuốc thú y đã được cấp chứng chỉ ISO và GMP. Quy chế kiểm tra chất lượng
thuốc thú y, Quy định về thủ tục đăng ký, kiểm nghiệm, thử nghiệm và Hướng dẫn
triển khai áp dụng nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc thú y
(GMP) đã được ban hành. Công tác thanh kiểm tra, lấy mẫu thuốc thú y tiêu thụ
trên thị trường của cơ sở sản xuất, buôn bán thuốc thú y để kiểm tra chất lượng
được duy trì. Nhiều vụ việc vi phạm đã được phát hiện và xử lý kịp thời.
- Quản lý thức ăn chăn nuôi: Các
cơ quan thuộc Bộ đã duy trì kiểm soát chất lượng thức ăn chăn nuôi, tập trung
vào các chỉ tiêu hocmone tăng trưởng, kim loại nặng và kháng sinh cấm. Đến nay
về cơ bản tình trạng đưa chất kích thích tăng trưởng vào thức ăn đã giảm (1% số
mẫu).
6.1.2. Trong lĩnh vực trồng trọt,
bảo vệ thực vật:
- Quản lý chất lượng phân bón:
việc khảo nghiệm, kiểm nghiệm chất lượng phân bón bổ sung danh mục phân bón được
phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam được thực hiện theo đúng quy định.
- Quản lý thuốc bảo vệ thực vật:
Việc khảo nghiệm và ban hành danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng,
hạn chế sử dụng và cấm sử dụng ở Việt Nam được thực hiện theo đúng quy định. Tất
cả các loại thuốc và nguyên liệu thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam đều phải qua
kiểm định chất lượng nhà nước trước khi thông quan (90% lượng thuốc BVTV sử dụng
trong nước là qua nhập khẩu). Công tác thanh tra, kiểm tra, lấy mẫu thuốc bảo vệ
thực vật tiêu thụ trên thị trường của cơ sở sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực
vật để kiểm tra chất lượng được thực hiện thường xuyên.
6.2. Quản lý an toàn vệ sinh thực
phẩm:
6.2.1. Đối với sản phẩm chăn
nuôi:
- Về xây dựng các mô hình chăn
nuôi an toàn: Các mô hình chăn nuôi an toàn đang được phát triển tại nhiều địa
phương trong cả nước. Việc gắn kết chăn nuôi – chế biến – tiêu thụ đã được thực
hiện thí điểm tại một số địa phương. Bộ đã ban hành quy trình thực hành chăn
nuôi tốt (GAHP) và chỉ đạo các Cục, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quốc gia đẩy
mạnh hướng dẫn các cơ sở sản xuất áp dụng GAHP.
- Hệ thống kiểm dịch xuất, nhập
khẩu và kiểm dịch nội địa trong phạm vi toàn tuyến biên giới, các hải cảng, sân
bay quốc tế và các đầu mối giao thông quan trọng đã được thiết lập, gồm 47 trạm/chốt
kiểm dịch cửa khẩu và 48 trạm/chốt kiểm dịch nội địa, góp phần ngăn chặn dịch bệnh
từ nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam, cũng như kiểm soát sự vận chuyển động vật
trong nước, khống chế được sự lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên còn nhiều dịch bệnh
nguy hiểm chưa được kiểm soát, công tác kiểm soát vận chuyển gia súc gia cầm ở
biên giới, trong nước còn hạn chế tiếp tục là nguy cơ làm lây lan dịch bệnh,
làm giảm hiệu quả sản xuất và tính bền vững của ngành chăn nuôi.
- Việc giết mổ gia súc tập trung
được quan tâm hơn, bước đầu được tổ chức lại. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dây
chuyền công nghiệp, tự động, với công suất lớn, tổ chức sản xuất khép kín từ
chăn nuôi đến giết mổ và tiêu thụ sản phẩm.Ở một số thành phố lớn như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Long An, Bình Dương, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Phước, Thừa Thiên
Huế, Đắc Lắc… đã xây dựng nhiều cơ sở giết mổ gia cầm, nhưng chưa có sự chuyển
biến đáng kể (mới có 3,6% cơ sở giết mổ tập trung).
- Công tác kiểm tra vệ sinh thú
y được thực hiện tại các cơ sở chăn nuôi giống của nhà nước; các cơ sở cách ly
kiểm dịch động vật xuất nhập khẩu (XNK), các cơ sở, nhà máy giết mổ xuất khẩu;
cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh, bảo quản sản phẩm động vật tiêu dùng
trong nước hoặc để XNK, đã góp phần vào việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
- Chương trình kiểm soát dư lượng
các chất độc hại trong sản phẩm mật ong, sudan trong trứng vịt muối.... đang được
triển khai, tuy chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn nhưng bước đầu đã
có sự vận hành giám sát của các đơn vị có liên quan.
6.2.2. Đối với sản phẩm trồng trọt:
- Chương trình kiểm soát dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật trên rau, quả, chè đã được thực hiện hàng năm với 40 chỉ
tiêu hoạt chất thuốc BVTV được kiểm soát.
- Hệ thống kiểm dịch thực vật xuất,
nhập khẩu và kiểm dịch nội địa trong phạm vi toàn tuyến biên giới, các hải cảng,
sân bay quốc tế và các đầu mối giao thông quan trọng đã được thiết lập, gồm 77
trạm kiểm dịch cửa khẩu và 65 trạm/tổ kiểm dịch nội địa (thành phố HCM, Hà Nội
mỗi tỉnh có 02 trạm), góp phần ngăn chặn đối tượng kiểm dịch thực vật từ nước
ngoài xâm nhập vào Việt Nam, cũng như kiểm soát sự vận chuyển thực vật trong nước,
khống chế được sự lây lan của dịch bệnh.
- Quy hoạch sản xuất rau an
toàn: đến nay, 50/63 tỉnh, thành phố triển khai mô hình sản xuất rau an toàn.
Nhiều tỉnh đã xây dựng và hình thành vùng sản xuất rau an toàn có quy mô lớn
trong đó có 4183 ha rau được chứng nhận đủ điều kiện sản xuất an toàn.
- Quy hoạch sản xuất cây ăn quả
an toàn: Nhiều địa phương (như Bắc Giang, Hưng Yên, Tiền Giang, Bình Thuận,
Vĩnh Long...) đã thí điểm xây dựng vùng sản xuất cây ăn quả an toàn với quy mô
trên 200ha.
- Xây dựng vùng sản xuất chè an
toàn: diện tích sản xuất chè hiện nay gần 130.000ha. Trong đó, gần 3.000 ha diện
tích chè an toàn (2,9%), 5,8 ha diện tích chè hữu cơ.
- Các cơ sở sản xuất rau quả,
chè đã và đang tích cực triển khai áp dụng quản lý chất lượng theo HACCP. Đến
năm 2005, tổng công suất chế biến sản phẩm rau, quả của cả nước đã đạt trên
313.000 tấn. Nhờ có các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, công nghiệp chế
biến rau quả đã thu hút được đầu tư trong nước và quốc tế ở các quy mô chế biến
khác nhau. Nhiều loại hình công nghệ bảo quản rau quả như sấy gián tiếp, bảo quản
lạnh, chiên sấy, bảo quản bằng hoá chất đã được nghiên cứu ứng dụng và chuyển
giao, mang lại hiệu quả trong bảo quản, tiêu thụ tươi và chế biến, giảm đáng kể
tổn thất sau thu hoạch. Các kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch tiên tiến như sử dụng
màng bán thấm, hút chân không,… từng bước được nghiên cứu và ứng dụng.
6.2.3. Đối với sản phẩm thuỷ sản:
- Các chương trình kiểm soát chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đang được thực hiện trong hầu hết các công đoạn
của chuỗi sản xuất.
Chương trình kiểm soát ATVS vùng
thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ được thực hiện từ năm 1997, với các nhóm chỉ
tiêu cần kiểm soát: tảo độc, độc tố sinh học biển, vi sinh vật gây bệnh, dư lượng
kim loại nặng, dư lượng thuốc trừ sâu gốc chlore hữu cơ, váng dầu mỏ...).
Chương trình này đã được EU công nhận từ năm 2000 và nhuyễn thể thu hoạch từ 18
vùng thuộc Chương trình kiểm soát đủ điều kiện dùng làm thực phẩm xuất khẩu vào
thị trường EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc...
Chương trình kiểm soát dư lượng
các chất độc hại trong thuỷ sản và sản phẩm thuỷ sản nuôi: được triển khai từ
năm 1999, để kiểm tra dư lượng các hoá chất, kháng sinh cấm, hạn chế sử dụng; lấy
mẫu phân tích để giám sát việc sử dụng thức ăn, thuốc thú y trong nuôi trồng
thuỷ sản. Tháng 4/2000, Chương trình đã được EU công nhận và là cơ sở để thuỷ sản
Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có yêu cầu tương đương (EU, Mỹ,
Canada...). Đến nay, chương trình đang được triển khai trên 150 vùng nuôi/ 35 tỉnh,
thành phố với sản lượng 1.042.141 tấn.
Chương trình kiểm soát thuỷ sản
sau thu hoạch: tập trung chủ yếu vào điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh trong
thu mua, bảo quản, vận chuyển, sơ chế thuỷ sản sau đánh bắt, sau nuôi trồng; lấy
mẫu thuỷ sản để phân tích các chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm (tạp chất, vi
sinh vật, hoá chất, kháng sinh cấm).
- Kiểm soát điều kiện đảm bảo an
toàn vệ sinh các cơ sở sản xuất thuỷ sản. Đến nay đã có 410 cơ sở chế biến thuỷ
sản áp dụng HACCP, được công nhận đạt tiêu chuẩn Ngành, 269 cơ sở đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu vào thị trường EU, Thuỵ Sỹ, Nauy; 379 cơ sở được phép xuất khẩu vào
Hàn Quốc; 410 cơ sở xuất khẩu vào Trung Quốc; 38 cơ sở xuất khẩu vào Nga... Tuy
nhiên, việc kiểm soát mới tập trung và đạt hiệu quả đối với các cơ sở có qui mô
lớn, chủ yếu xuất khẩu.
- Thực phẩm thủy sản đáp ứng yêu
cầu của các thị trường nhập khẩu có quy định chặt chẽ về chất lượng, ATVSTP như
EU, Mỹ, Canada... Tuy nhiên, đối với thủy sản tiêu thụ trong nước vẫn chưa được
kiểm soát chặt chẽ.
II. TỒN TẠI,
HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN:
1. Tồn tại, hạn chế:
1.1. Khung pháp lý:
- Các văn bản Luật, văn bản hướng
dẫn dưới luật còn chậm ban hành (Luật thực phẩm, Nghị định hướng dẫn Luật chất
lượng sản phẩm hàng hóa...) và thiếu nhất quán; sự phân công quản lý giữa các Bộ,
ngành về quản lý chất lượng, ATVSTP (Bộ Y tế, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ
Khoa học và Công nghệ) thông qua các Thông tư liên tịch vẫn còn nhiều nội dung
chưa rõ ràng, chồng chéo (ví dụ: về sản phẩm thực phẩm luôn bị chi phối bởi các
văn bản pháp luật như Pháp lệnh Vệ sinh An toàn thực phẩm, Luật chất lượng sản
phẩm, hàng hóa và Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Cùng một sản phẩm thực
phẩm nhưng Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý tiêu chuẩn chất lượng, nhãn mác, Bộ
Y tế/ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý ATVSTP).
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản quy chuẩn kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng vật tư
nông nghiệp, nông lâm sản và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đầy đủ, đồng bộ,
chưa theo kịp được với thực tiễn sản xuất và đòi hỏi của người tiêu dùng, nhất
là trong xu thế hội nhập quốc tế. Nhiều văn bản ban hành quá lâu, không phù hợp
với điều kiện hiện nay, chưa hài hòa với quy định quốc tế, chậm được rà soát, sửa
đổi (ví dụ: Nghị định về thức ăn chăn nuôi ban hành từ năm 1993 đến nay chưa được
soát xét, sửa đổi). Việc phổ biến văn bản pháp luật còn nhiều hạn chế.
- Tính khả thi của văn bản quy
phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế (ví dụ: Thực phẩm
nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới chủ yếu là hàng nông sản, thường không có
đầy đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 8 Nghị định 163/2004/NĐ-CP mà chỉ có Hợp đồng
thương mại, chứng nhận xuất xứ, giấy giới thiệu, hóa đơn thuế, chứng nhận kiểm
dịch của Trung Quốc, nên không thực hiện đúng được vì thiếu hồ sơ như Bản công
bố tiêu chuẩn cơ sở, Giấy kết quả kiểm nghiệm, Giấy chứng nhận lưu hành tự
do...).
- Hệ thống các chế tài đảm bảo
cho việc thực thi các văn bản pháp lý dù đã được quan tâm xây dựng điều chỉnh
nhưng đến nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, đặc biệt là
chế tài xử lý các vi phạm ATTP chưa đủ mạnh (chưa có chế tài bắt buộc các cơ sở
sản xuất kinh doanh nông, lâm, thủy sản phải áp dụng và thực hiện các quy chuẩn
bắt buộc về điều kiện đảm bảo ATTP, cũng như thiếu chế tài để đình chỉ hoạt động
với các cơ sở không đáp ứng yêu cầu); chế tài xử phạt đối với cùng một vụ việc
chưa tương đương nhau (ví dụ: Nghị định 45/2005/NĐ-CP xử phạt cao hơn so với mức
xử phạt hành vi vi phạm tương đương quy định trong Nghị định 134/2003/NĐ-CP xử
lý vi phạm hành chính).
- Chưa có văn bản phân công,
phân cấp rõ ràng giữa các Cục quản lý chuyên ngành, giữa trung ương và địa
phương, ví dụ: phân công kiểm tra điều kiện đảm bảo ATVSTP trong khâu sau thu
hoạch và chế biến, hoặc quy định về đánh giá, chỉ định phòng kiểm nghiệm ATVSTP
giữa các Cục chưa rõ ràng; ví dụ: theo QĐ 29/2008/QĐ-BNN , Cục QLCL NLS&TS
được giao nhiệm vụ “tổ chức kiểm tra, đánh giá công nhận các phòng kiểm nghiệm,
kiểm chứng cấp quốc gia, quốc tế về CL, ATVSTP nông sản”, tuy nhiên theo QĐ 16/2008/QĐ-BNN ,
Cục Trồng trọt cũng được giao nhiệm vụ “chỉ định, công nhận phòng kiểm nghiệm sản
phẩm cây trồng”.
- Sự phối hợp hoạt động giữa các
tổ chức trong và ngoài ngành trong việc biên soạn các văn bản pháp lý còn chưa
liên tục, chặt chẽ..
1.2. Hệ thống tổ chức quản lý chất
lượng vật tư nông nghiệp, an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản:
- Tại trung ương, nhiệm vụ quản
lý chuyên ngành ATVSTP trong từng công đoạn của quá trình sản xuất được giao
cho từng Cục chuyên ngành. Tuy nhiên, ngoài Cục Quản lý chất lượng NLS&TS
đã có các phòng chuyên môn về chất lượng, ATVSTP nông sản, thủy sản, tại các Cục
Bảo vệ thực vật, Thú y, Trồng trọt, Chăn nuôi, Chế biến, Thương mại NLTS&NM
chưa có bộ phận chuyên trách về ATVSTP. Chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu
quả giữa các Cục quản lý chuyên ngành về chất lượng vật tư nông nghiệp và
ATVSTP tại những công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh nông
lâm thuỷ sản.
Tại phần lớn các địa phương, cơ
quan quản lý nhà nước về ATVSTP nông sản (Chi cục hoặc Phòng QLCL NLS&TS
thuộc Sở NN&PTNT) chưa được hình thành. Nhiệm vụ quản lý chất lượng, ATVSTP
Bộ NN&PTNT được phân công quản lý rất rộng, phức tạp (từ trang trại đến chế
biến, bán buôn), do vậy, nếu không có Chi cục chuyên ngành quản lý chất lượng,
ATVSTP tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ rất khó khăn cho việc tổ
chức triển khai các hoạt động quản lý chất lượng, ATVSTP tại các địa phương. Hiện
tại, nhiệm vụ quản lý ATVSTP nông sản tại địa phương thường được giao lồng ghép
cho Phòng Kỹ thuật hoặc Phòng Nông nghiệp hoặc Phòng Nghiệp vụ (bao gồm cả trồng
trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản) hoặc các Chi cục BVTV, Thú y. Ở
cấp huyện, cấp xã, chưa có cán bộ được giao nhiệm vụ và đào tạo để làm công tác
đảm bảo ATVSTP.
Việc lồng ghép nhiệm vụ có thuận
lợi là gắn kết được công tác quản lý ATVSTP với chỉ đạo sản xuất, tuy nhiên có
bất cập là nhiệm vụ quản lý ATVSTP nông sản không được xác định là nhiệm vụ ưu
tiên, khó xác định được đầu mối chịu trách nhiệm chính với nguồn lực phù hợp.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác
chuyên môn về ATVSTP còn thiếu về số lượng và chưa được được đào tạo nâng cao
chuyên môn, cập nhật phương thức quản lý tiên tiến; hoạt động phân tán, ở nhiều
đơn vị chỉ là nhiệm vụ kiêm nhiệm, thiếu tính hệ thống, chưa thực sự gắn kết để
phối hợp triển khai nhiệm vụ. Chưa tận dụng tối đa các nguồn lực tổ chức, nhân
sự sẵn có.
- Ở khía cạnh vệ sinh an toàn thực
phẩm nông, lâm, thuỷ sản việc kiểm soát cũng chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ,
mới tập trung kiểm soát thực phẩm thuỷ sản. Thực phẩm nông, lâm sản chưa được
triển khai bài bản, hệ thống, chủ yếu giải quyết sự cố, vụ việc cụ thể.
1.3. Hệ thống giám sát, kiểm
tra, thanh tra ATVSTP:
- Chưa có chương trình giám sát
cấp quốc gia về chất lượng vật tư nông nghiệp, ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa
chất trong nông sản thực phẩm. Hiện tại chỉ có chương trình giám sát thuốc bảo
vệ thực vật do Cục BVTV triển khai.
- Thiếu quy định về điều tra,
thanh tra truy xuất nguyên nhân, xử lý vi phạm, thu hồi sản phẩm nông sản. Do vậy,
sản phẩm nông sản thực phẩm không đảm bảo ATVSTP vẫn có thể đưa ra lưu thông
trên thị trường dẫn đến rủi ro cho sức khoẻ người tiêu dùng.
- Hệ thống thanh tra chuyên
ngành của các đơn vị trực thuộc Ngành Nông nghiệp chưa được tổ chức đồng bộ và
chưa huy động hợp lý nên hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với
sản phẩm không đảm bảo chất lượng và ATVSTP còn rời rạc, chủ yếu giải quyết sự
cố.
Ở Trung ương, ngoài Cục Bảo vệ
thực vật và Cục Thú y đã có hệ thống thanh tra chuyên ngành hoạt động tương đối
thường xuyên, hiệu quả, nhưng chủ yếu tập trung vào thanh tra, kiểm tra công
tác thú y và chất lượng thuốc bảo vệ thực vật. Tổ chức thanh tra chuyên ngành về
CL, ATVSTP đang trong giai đoạn hình thành thuộc Cục Quản lý chất lượng NLTS.
Ở địa phương, công tác thanh tra
chuyên ngành chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản thuộc thanh tra Sở
NN&PTNT. Đội ngũ thanh tra còn thiếu về số lượng, không đúng chuyên ngành,
chưa được tập huấn đầy đủ về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành chất lượng,
ATVSTP, chưa đảm bảo năng lực thực thi nhiệm vụ.
- Công tác thanh tra, kiểm tra
các yếu tố của quá trình sản xuất cấu thành nên chất lượng và ATVSTP các sản phẩm
chăn nuôi (như chất lượng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, giết mổ chế biến và vệ
sinh môi trường chăn nuôi...), trồng trọt phân bón, thuốc thuốc bảo vệ thực vật,
chất lượng cây giống...) gặp nhiều khó khăn, nhất là do thiếu kinh phí và nhân
lực, chưa tiến hành chủ động và thường xuyên, thiếu hiệu quả. Chế tài xử phạt
chưa đủ sức răn đe, do vậy hiệu quả còn thấp.
1.4. Năng lực quản lý, kiểm soát
chất lượng, ATVSTP:
1.4.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật:
- Diện tích sử dụng làm việc tại
các Cục đều thiếu so với nhu cầu. Đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị làm việc
thấp. Nhiều trang thiết bị cũ, không còn phù hợp với nhu cầu sử dụng nhưng chưa
được thay thế.
- Trang thiết bị, phương tiện đi
lại phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra của một số đơn vị còn hạn chế.
- Hệ thống thu thập, xử lý thông
tin quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông sản chưa được xây dựng
và đầu tư đầy đủ, vẫn chủ yếu dựa vào chế độ báo cáo hàng tháng, quí thông thường,
chưa tổ chức được mạng lưới thông tin điện tử thích hợp.
1.4.2. Năng lực kiểm nghiệm
- Hệ thống phòng kiểm nghiệm chất
lượng, ATVSTP nông sản đã được đầu tư ban đầu, tuy nhiên hoạt động còn phân
tán, rời rạc, chưa khai thác được hết công năng của các trang thiết bị và đội
ngũ kỹ thuật viên. Một số phòng kiểm nghiệm chuyên ngành chưa đủ năng lực phục
vụ công tác quản lý chất lượng, ATVSTP như kiểm nghiệm chất lượng phân bón, thức
ăn chăn nuôi (mới phân tích được 1 số chỉ tiêu (đa lượng), nhiều chỉ tiêu
(trung lượng, vi lượng) phải gửi các phòng kiểm nghiệm khác). Ngoài ra, các hoạt
động như kiểm nghiệm thành thạo, chứng nhận, công nhận phòng kiểm nghiệm mới được
thực hiện tại một số phòng kiểm nghiệm chuyên ngành.
- Công tác kiểm nghiệm ATVSTP
nông lâm sản cũng gặp khó khăn do các phòng kiểm nghiệm chưa cập nhật thường
xuyên các chỉ tiêu, phương pháp kiểm nghiệm mới, chưa có phòng kiểm chứng quốc
gia về ATVSTP nông lâm sản, do đó, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý, nhất
là khi phát sinh sự cố về ATVSTP như melamine trong sữa, salbutamol trong thức
ăn chăn nuôi,... Chưa có sự thống nhất về phương pháp phân tích, kiểm tra, đánh
giá an toàn vệ sinh thực phẩm giữa các phòng kiểm nghiệm, giữa các đơn vị.
- Chưa thực hiện đánh giá, để
xác định đầu tư trang thiết bị, nhân sự để hình thành các phòng kiểm nghiệm kiểm
chứng quốc gia.
- Chưa tận dụng hết nguồn lực xã
hội hóa của các phòng kiểm nghiệm tư nhân, nước ngoài... có đủ năng lực kiểm nghiệm,
phục vụ quản lý nhà nước.
1.5. Nguồn nhân lực:
- Đội ngũ cán bộ làm công tác
chuyên môn về chất lượng, ATVSTP còn thiếu về số lượng và chưa được đào tạo bài
bản, chuyên sâu.
- Trong lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm, các đơn vị chưa bố trí phù hợp lực lượng cán bộ làm công tác chuyên
trách về ATVSTP, thường được giao kiêm nhiệm.
- Thiếu đào tạo và đào tạo nâng
cao chuyên môn, cập nhật phương thức quản lý tiên tiến, trình độ ngoại ngữ yếu.
1.6. Cơ chế tài chính:
- Kinh phí chi cho hoạt động của
các cơ quan quản lý, đặc biệt là cơ quan địa phương còn hạn chế, nhất là cho
các hoạt động kiểm tra kiểm soát mang tính nhà nước (như kiểm tra điều kiện sản
xuất đảm bảo ATVSTP, điều kiện vệ sinh thú y, giám sát ô nhiễm vi sinh vật và tồn
dư hóa chất trong nông sản thực phẩm, kiểm tra chất lượng vật tư nông nghiệp...).
Điều này gây khó khăn rất lớn trong công tác quản lý, ảnh hưởng đến tính chủ động,
độc lập trong triển khai hoạt động, chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi của sự
phát triển, đặc biệt là tại các địa phương việc thu phí, lệ phí từ hoạt động quản
lý các đối tượng cơ sở sản xuất kinh doanh nông sản... (kiểm tra điều kiện vệ
sinh thú y) hết sức khó khăn.
- Một số Cục quản lý chuyên
ngành thuộc Bộ NN&PTNT mặc dù đã được áp dụng chế độ tự chủ tài chính theo
Nghị định 43/2006/NĐ-CP , tuy nhiên với thời hạn được phép áp dụng ngắn (sau 1 –
2 năm áp dụng, phải báo cáo Bộ xem xét để được phép áp dụng tiếp). Do vậy, vẫn
chưa hoàn toàn chủ động được nguồn kinh phí để triển khai nhiệm vụ cho kế hoạch
dài hạn, cần thiết phải có cơ chế tài chính riêng, bền vững, tạo điều kiện để
các Cục quản lý chuyên ngành cũng như các cơ quan quản lý địa phương chủ động
được kinh phí triển khai nhiệm vụ được giao.
- Chưa có quy định tài chính về
mức thu phí, lệ phí khi kiểm tra điều kiện đảm bảo ATVSTP cơ sở sản xuất kinh
doanh nông lâm sản và kiểm tra các chỉ tiêu ATTP nông, lâm sản.
- Chưa có cơ chế tài chính để
triển khai các biện pháp ứng phó kịp thời khi có vấn đề phát sinh về chất lượng
vật tư nông nghiệp (phân bón, chất kích thích tăng trưởng, thức ăn chăn nuôi…),
vệ sinh an toàn thực phẩm (rau có phẩy khuẩn tả, sữa, trứng gà có melamin…).
2. Nguyên nhân:
2.1. Nguyên nhân khách quan:
- Sản xuất nông, lâm, thủy sản ở
quy mô nhỏ còn chiếm tỷ lệ lớn, gây khó khăn cho việc áp dụng các kỹ thuật sản
xuất mới, quy trình thực hành sản xuất tốt và quản lý ATVSTP. Cơ chế, chính
sách khuyến khích sản xuất an toàn mới được xây dựng, chưa được triển khai rộng
khắp trong thực tế.
- Nhận thức về vấn đề ATVSTP từ
các cấp quản lý đến người sản xuất và tiêu dùng thực phẩm chưa thực sự đầy đủ
và nhất quán. Từ đó dẫn đến thiếu ý thức trách nhiệm với cộng đồng và đầu tư
các nguồn lực xã hội cho vấn đề này còn thấp, không thường xuyên.
- Chưa có cơ chế tài chính phù hợp
với mô hình tổ chức như các Cục quản lý chuyên ngành, nhằm tạo điều kiện cũng
như mức độ ổn định, chủ động về kinh phí cho các đơn vị khi triển khai nhiệm vụ.
2.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Thiếu chiến lược, định hướng đảm
bảo chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm sản, thủy
sản
- Chưa xác định trọng tâm và nguồn
lực cho công tác hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về ATVSTP
phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu vào kinh tế
thế giới. Công tác quy hoạch vùng sản xuất rau, quả, chè an toàn, cơ sở giết mổ
tập trung còn chậm, bị bỏ ngỏ tại một số địa phương. Hoạt động giết mổ lậu, giết
mổ mất vệ sinh, sản xuất rau, quả, chè không an toàn còn tồn tại, không bảo đảm
ATVSTP.
- Hệ thống tổ chức quản lý chất
lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản từ trung ương đến địa phương còn phân tán chậm
được kiện toàn, hoàn thiện. Thiếu chiến lược, qui hoạch phát triển hệ thống cơ
quan trực thuộc các Cục chuyên ngành; thiếu quy hoạch hệ thống các phòng kiểm
nghiệm. Chậm hướng dẫn, giám sát, hỗ trợ kiện toàn cơ quan cấp vùng, cơ quan cấp
tỉnh.
- Sự phối hợp giữa các Cục, Vụ
trong Bộ NN&PTNT; Bộ NN&PTNT với các Bộ ngành liên quan và các địa
phương trong quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP còn hạn chế, hiệu quả
chưa cao.
- Đầu tư của Nhà nước nâng cấp
cơ sở vật chất phục vụ quản lý còn ít. Trang thiết bị cho công tác kiểm soát chất
lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông, lâm, thủy sản thiếu và không đồng bộ. Tổ
chức hệ thống phòng kiểm nghiệm chất lượng, ATVSTP chưa hợp lý, chưa khai thác
được hết công năng của các trang thiết bị và đội ngũ kỹ thuật viên.
- Chưa có định biên tổng thể, kế
hoạch đào tạo bài bản cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng,
ATVSTP nông lâm thủy sản. Chưa có bộ phận chuyên trách về chất lượng, ATVSTP ở
tất cả các Cục quản lý chuyên ngành, đơn vị chức năng ở địa phương.
- Chưa có cơ chế tài chính phù hợp
với tính chất Cục quản lý kỹ thuật chuyên ngành và các đơn vị chức năng ở địa
phương đảm bảo có đủ nguồn lực để triển khai đầy đủ, hiệu quả cho các hoạt động
quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản theo quy định.
- Chính sách đầu tư chưa đủ mạnh,
đồng thời công tác chỉ đạo triển khai ở tuyến xã, thôn bản chưa được quan tâm,
thậm chí nhiều nơi thả nổi.
Phần 2.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI
DUNG, GIẢI PHÁP
1. Quan điểm
Hoàn thiện khung pháp lý kết hợp
với tăng cường cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho từng đơn vị được Bộ giao nhiệm
vụ quản lý, thanh tra chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ
sinh thực phẩm nông lâm thủy sản;
Hoàn thiện cơ chế phối hợp liên
ngành giữa các cơ quan trong và ngoài Ngành, giữa trung ương và các địa phương
trong triển khai các nhiệm vụ quản lý, thanh tra chuyên ngành chất lượng vật
tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản;
Làm rõ trách nhiệm của các bên
(cơ quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng…) trong
công tác đảm bảo chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn thực phẩm nông lâm thủy
sản; Huy động được sự tham gia của các bên vào quá trình quản lý, thanh tra,
kiểm tra, giám sát.
Tăng cường trách nhiệm các cấp
chính quyền địa phương trong công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và
ATVSTP nông lâm thủy sản.
Xây dựng phòng kiểm chứng quốc
gia kết hợp xã hội hóa công tác xét nghiệm kiểm nghiệm, kiểm tra chứng nhận của
bên thứ Ba phục vụ công tác quản lý.
2. Mục tiêu:
a. Hoàn thiện khung pháp lý:
- Các văn bản hướng dẫn thực hiện
Luật Chất lượng đối với vật tư nông nghiệp, Luật an toàn vệ sinh thực phẩm đối
với nông lâm thủy sản được ban hành.
- Các tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ
thuật về chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP cho các nhóm thực phẩm nông
lâm thủy sản được ban hành.
b. Hệ thống tổ chức và năng lực
quản lý Nhà nước được hoàn thiện từ trung ương đến địa phương:
- Các đơn vị sự nghiệp phục vụ
quản lý nhà nước trực thuộc các Cục quản lý chuyên ngành được thành lập. 100% tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có Chi cục Quản lý Chất lượng, ATVSTP nông lâm
thủy sản. Các đơn vị đảm trách công tác quản lý chất lượng, ATVSTP từ cấp huyện
đến cấp xã/ phường được xác định, giao nhiệm vụ.
- Hệ thống phòng kiểm chứng chất
lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm sản được thiết lập. Mạng lưới các
phòng xét nghiệm, kiểm nghiệm công lập và ngoài công lập được hình thành đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của quản lý và của cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Nguồn nhân lực được bổ sung
đáp ứng yêu cầu công việc; 100% cán bộ chuyên môn được đào tạo cơ bản, 70% được
đào tạo nâng cao.
Cơ chế tài chính phù hợp với đặc
thù các Cục quản lý chuyên ngành về chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP
nông lâm thủy sản được ban hành.
- 100% cơ sở sản xuất, kinh
doanh vật tư nông nghiệp (thuốc BVTV, phân bón, giống), cơ sở sản xuất kinh
doanh nông lâm sản được thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, đột xuất; kịp thời
phát hiện và xử lý hiệu quả các vi phạm về chất lượng, ATVSTP.
3. Các nội dung và giải pháp
3.1. Hoàn thiện khung pháp lý,
cơ chế chính sách:
3.1.1. Phối hợp với Bộ Y tế, Bộ
Khoa học Công nghệ xây dựng và sớm trình Quốc hội, Chính phủ ban hành Luật và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật về chất lượng và ATVSTP; các văn bản hướng
dẫn nhằm phân rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp hỗ trợ giữa các Bộ, ngành trong
quá trình quản lý chất lượng, ATVSTP tránh chồng chéo, bỏ sót.
3.1.2. Phối hợp Bộ Y tế xây dựng
trình Chính phủ ban hành chiến lược đảm bảo ATVSTP nông lâm thủy sản đến 2015,
tầm nhìn 2020.
3.1.3. Xây dựng các văn bản phân
công, phân cấp giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành trong Ngành nông nghiệp về
chất lượng vật tư nông nghiệp và VSATTP nông lâm thủy sản.
3.1.4. Rà soát và tổ chức xây dựng
mới/chuyển đổi để hình thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo phủ kín toàn bộ chuỗi quản lý theo phân công, đảm bảo
hài hoà với các qui định quốc tế và phù hợp với thực tế sản xuất của Việt Nam.
3.1.5. Rà soát, bổ sung, sửa đổi
chế tài xử lý các vi phạm chất lượng, ATVSTP đủ mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng
vi phạm. Có biện pháp chế tài xử lý nghiêm khắc (phạt tiền, đình chỉ sản xuất,
thu hồi, tiêu hủy sản phẩm) đối với các hình thức sản xuất không đảm bảo
ATVSTP, gây hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe người tiêu dùng.
3.1.6. Nghiên cứu, đề nghị cơ chế
tài chính phù hợp với đặc thù của các Cục quản lý chuyên ngành; hoàn thiện
trình ban hành biểu mức thu phí kiểm nghiệm đối với các chỉ tiêu chất lượng vật
tư nông nghiệp, an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản.
3.1.7. Xây dựng quy định truy xuất
các lô hàng vật tư nông nghiệp không đảm bảo chất lượng; thực phẩm nông, lâm,
thủy sản không đảm bảo ATVSTP.
3.1.8. Xây dựng tiêu chuẩn và thủ
tục đánh giá chỉ định/ công nhận phòng kiểm chứng, phòng kiểm nghiệm.
3.2. Hoàn thiện hệ thống tổ chức
quản lý, thanh tra, kiểm tra:
3.2.1. Phối hợp với Bộ Y tế và
các Bộ Ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, Quốc hội đề án tổ chức lại hệ
thống cơ quan quản lý chất lượng, ATVSTP của Việt Nam.
3.2.2. Các cơ quan quản lý
chuyên ngành xây dựng đề án điều chỉnh hệ thống tổ chức của từng đơn vị nhằm
triển khai được đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ Bộ giao về quản lý, thanh tra
chuyên ngành chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm nông,
lâm, thủy sản. Trình Lãnh đạo Bộ xem xét, phê duyệt và tổ chức thực hiện.
3.2.3. Thành lập đầu mối chịu
trách nhiệm về công tác chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP với nguồn lực phù
hợp tại mỗi đơn vị.
3.2.4. Có kế hoạch quy hoạch,
tuyển dụng, đào tạo, đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ quản lý chất
lượng vật tư nông nghiệp; ATVSTP nông lâm thủy sản từ trung ương đến các địa
phương.
3.2.5. Nhanh chóng kiện toàn, hình
thành và ổn định tổ chức thanh tra chuyên ngành tại các đơn vị; bổ sung trang
thiết bị và tập trung đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn thanh tra viên, kiểm
tra viên..
3.2.6. Tăng cường hoạt động
thanh tra, kiểm tra chất lượng vật tư nông nghiệp, ATVSTP nông lâm thủy sản; Kịp
thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm.
3.3. Nâng cấp cơ sở vật chất, hệ
thống phòng kiểm nghiệm:
3.3.1. Nâng cấp cơ sở, phương tiện,
trang thiết bị làm việc, kiểm tra, thanh tra; bổ sung trang thiết bị cho các
phòng kiểm nghiệm hiện tại đáp ứng yêu cầu trở thành các phòng kiểm chứng cấp
quốc gia.
3.3.2. Xây dựng cơ chế gắn kết
các phòng kiểm nghiệm trong ngành; tận dụng trang thiết bị, tay nghề kiểm nghiệm
viên, hiệu quả sử dụng thiết bị, máy móc… của các phòng kiểm nghiệm của các Cục
quản lý chuyên ngành.
3.4. Huy động nguồn lực từ bên
ngoài tham gia quản lý chất lượng, ATVSTP:
3.4.1. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động kiểm nghiệm; đánh giá, chỉ định/ công nhận các phòng kiểm nghiệm trong và
ngoài ngành có đủ điều kiện; tham gia kiểm nghiệm chất lượng, ATVSTP nông lâm
thủy sản.
3.4.2. Hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở sản
xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xây dựng và vận hành hệ thống tự kiểm tra và
truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
3.4.3. Tăng cường huy động các
nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi để đầu tư nâng câp cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực
quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản.
3.5. Về khoa học, công nghệ:
3.5.1. Áp dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ trong quản lý, kiểm soát chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn
vệ sinh thực phẩm nông lâm sản. Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về
nông lâm thủy sản (hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về chất lượng vật tư nông
nghiệp; cơ sở dữ liệu về các cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản; các mặt
hàng sản xuất, xuất nhập khẩu chủ yếu; thị trường chính; phòng kiểm nghiệm…).
3.5.2. Áp dụng tiến bộ khoa học
trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản (nghiên cứu
chuyển giao giống tốt, sản phẩm mới, kỹ thuật mới phục vụ trong trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến…)
3.6. Tăng cường truyền thông,
khuyến nông, khuyến ngư:
3.6.1. Truyền thông nâng cao nhận
thức về ATVSTP của người sản xuất, kinh doanh, sử dụng vật tư nông nghiệp, thực
phẩm nông lâm thủy sản; nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về ATVSTP.
3.6.2. Hướng dẫn, hỗ trợ nông
dân áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP, GAHP), được chế biến theo
tiêu chuẩn GMP/SSOP/HACCP đảm bảo chất lượng, ATVS thực phẩm.
3.6.3. Quảng bá, tuyên truyền,
tiếp cận thị trường cho thực phẩm nông lâm thủy sản chất lượng, an toàn.
3.7. Xây dựng cơ chế tài chính ổn
định, bền vững:
3.7.1. Đánh giá hiệu quả tự chủ
tài chính của đơn vị đã áp dụng Nghị định 43/2006/NĐ-CP ; xây dựng trình Bộ
NN&PTNT, Bộ Tài chính xem xét, ban hành cơ chế tài chính ổn định bền vững
phù hợp với hoạt động của từng đơn vị.
Phần 3.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Cục Quản lý Chất lượng
NLS&TS:
1.1. Đầu mối xây dựng và tổ chức
thực hiện các đề án, chương trình dự án tăng cường năng lực, quản lý chất lượng
vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm thủy sản cho toàn ngành.
1.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản
trên toàn quốc.
2. Các Cục Trồng trọt, Bảo vệ thực
vật, Chăn nuôi, Thú y, Chế biến Thương mại NLTS&NM, Nuôi trồng thủy sản,
Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản:
2.1. Phối hợp với Cục Quản lý Chất
lượng Nông lâm sản và Thủy sản xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự
án tăng cường năng lực cho toàn Ngành.
2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án thành lập các tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản của Cục;
2.3. Chủ trì xây dựng và thực hiện
các đề án, dự án theo phân công.
3. Các Vụ thuộc Bộ NN&PTNT:
3.1. Thẩm định các chương trình,
dự án trình Bộ phê duyệt và cân đối nguồn vốn thực hiện các chương trình, dự án
dược duyệt.
3.2. Phối hợp các Cục liên quan
xây dựng đề án kiện toàn tổ chức quản lý chất lượng, ATVSTP thuộc các Cục trình
Bộ trưởng phê duyệt.
3.3. Phối hợp với các Cục quản
lý chuyên ngành tìm nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư hỗ trợ các dự án,
chương trình, nội dung tăng cường năng lực cho hệ thống các đơn vị làm công tác
quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản.
4. Ủy ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương:
4.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện
đề án kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và
ATVSTP nông lâm thủy sản tại địa phương;
4.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện
các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực phục vụ quản
lý chất lượng vật tư nông nghiệp và ATVSTP nông lâm thủy sản tại địa phương;
4.3. Tham gia xây dựng và thực
hiện các chương trình, đề án, dự án do các Cục quản lý chuyên ngành tổ chức thực
hiện.
Phần 4.
CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN
1. Các chương trình, đề án, dự
án đang thẩm định:
1.1. Các chương trình:
- Chương trình phát triển giống
vật nuôi.
- Chương trình phát triển thức
ăn chăn nuôi.
- Chương trình tăng cường năng lực
cạnh tranh ngành chăn nuôi về an toàn vệ sinh thực phẩm.
1.2. Dự án: Tăng cường năng lực
quản lý nhà nước vệ sinh an toàn thực phẩm đối với rau, chè và một số cây ăn quả
chủ lực:
a) Quy mô: Cả nước.
b) Nội dung:
- Điều tra thực trạng và tổng kết
các mô hình về quản lý và chứng nhận chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm đối với
rau, chè, cây ăn quả.
- Tham quan nghiên cứu mô hình
Thái lan, Singgapor, Trung Quốc
- Xây dựng hoàn thiện các quy định
pháp lý, các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến sản xuất, chế biến, bảo quản
rau, chè và quả ATVSTP theo quy trình GAP.
- Đầu tư xây dựng được ít nhất 6
mô hình tại ĐBSH, ĐBSCL, Trung du miền núi phía Bắc (mỗi vùng 2 mô hình) từ sản
xuất, chế biến, bao gói, tiêu thụ rau, chè, cây ăn quả được chứng nhận ATVS đảm
bảo hoạt động bền vững có hiệu quả và có tính khả thi để nhân rộng ra sản xuất.
- Đào tạo, bồi dưỡng và công nhận
người lấy mẫu, ngườigiám sát, tổ chức chứng nhận ATVS đối với rau, chè, cây ăn
quả. Thực hiện giám sát các tổ chức cá nhân được công nhận.
- Tổ chức các lớp tập huấn, đào
tạo, phổ biến văn bản pháp quy và các tiêu chuẩn, quy chuẩn có liên quan cho
các tổ chức cá nhân làm quản lý nhà nước, sản xuất kinh doanh, chứng nhận chất
lượng, thanh tra kiểm tra giám sát chất lượng.
c) Thời gian thực hiện: 2009 –
2015.
d) Chủ đầu tư: Cục Trồng trọt
e) Dự kiến kinh phí: 32,4 tỷ đồng
1.3. Dự án “Tăng cường năng lực
giám sát chất lượng sản phẩm cây trồng, giống và phân bón thông qua lấy mẫu
trên thị trường”:
a) Quy mô: Cả nước.
b) Nội dung:
- Điều tra đánh giá thực trạng
công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng chất lượng giống, sản phẩm cây trồng và
phân bón trên thị trường hiện nay rút ra những hạn chế bất cấp cần hoàn thiện.
- Thăm quan mô hình tại Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc.
- Xây dựng quy định pháp lý với
các tiêu chí : chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, số lượng và
chất lượng cán bộ, cơ chế hoạt động, mối liên hệ và trách nhiệm giữa các tổ chức
cá nhân có liên quan để cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Đầu tư trang thiết bị dụng cụ,
phương tiện cho lực lượng giám sát tại Hà Nội, Quảng Ngãi và TP Hồ Chí Minh, tư
trang chuyên dùng cho lực lượng này...
- Đào tạo, bồi dưỡng phổ biến
quy định pháp lý và chuyên môn cho cán bộ và các tổ chức cá nhân liên quan.
c) Thời gian thực hiện: 2008 –
2010.
d) Chủ đầu tư: Cục Trồng trọt
e) Dự kiến kinh phí: 8 tỷ đồng
1.4. Dự án: Đầu tư nâng cấp các
phòng thí nghiệm kiểm soát chất lượng giống và thức ăn chăn nuôi:
a) Qui mô: 3 Trung tâm vùng.
b) Nội dung: Xây dựng 3 trung
tâm vùng kiểm soát chất lượng giống và thức ăn chăn nuôi (bao gồm xây lắp,
trang thiết bị).
c) Thời gian thực hiện: 2009 –
2013.
d) Dự kiến kinh phí:
- Trung ương: 35 tỷ đồng.
- Tài trợ: 15 tỷ đồng.
2. Các chương trình, đề án, dự
án đề xuất mới:
2.1. Các Chương trình:
- Chương trình phát triển vùng sản
xuất an toàn thực phẩm nông thủy sản.
- Chương trình giám sát ô nhiễm
sinh học và tồn dư các chất độc hại trong sản phẩm động vật.
- Chương trình giám sát ô nhiễm
sinh học và tồn dư các chất độc hại trong sản phẩm thực vật.
- Chương trình kiểm soát vệ sinh
an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản sau thu hoạch.
2.2. Dự án: Nâng cấp nguồn lực
kiểm nghiệm ATVSTP sản phẩm động vật:
a) Qui mô: 03 phòng kiểm nghiệm ở
3 miền (Bắc, Trung, Nam).
b) Nội dung: Bổ sung trang thiết
bị đảm bảo phân tích được tất cả các chỉ tiêu về ATVSTP lĩnh vực thú y; Xây dựng,
phê duyệt quy trình kiểm nghiệm chuẩn (GLP); Đào tạo nguồn nhân lực.
c) Chủ đầu tư: Cục Thú y
d) Thời gian thực hiện: 2009 –
2012.
e) Dự kiến kinh phí: 20 tỷ đồng.
2.3. Dự án: Tuyên truyền, giáo dục,
đào tạo tập huấn phục vụ quản lý chất lượng, ATVSTP:
a) Qui mô: Cả nước.
b) Nội dung: Hướng dẫn việc thực
hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATVSTP trong chăn nuôi, thú y; Đào tạo,
tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, thú y, giết mổ, chế biến thực phẩm đảm bảo ATVSTP
cho người sản xuất, kinh doanh sản phẩm chăn nuôi; Đào tạo, tập huấn nâng cao
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý các cấp về ATVSTP; Thông tin, tuyên truyền nâng
cao nhận thức về ATVSTP cho cộng đồng.
c) Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý
Chất lượng NLTS.
Đơn vị phối hợp: Các Cục quản lý
chuyên ngành, hệ thống khuyến nông, khuyến ngư.
d) Thời gian thực hiện: 2009 –
2015.
e) Dự kiến kinh phí: 06 tỷ đồng.
2.4. Đề án Kiện toàn tổ chức quản
lý chất lượng, ATVSTP thuộc các Cục quản lý chuyên ngành:
a) Quy mô: Cả nước.
b) Nội dung: Kiện toàn hệ thống
tổ chức các đơn vị quản lý chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản tại các Cục quản
lý chuyên ngành.
c) Đơn vị chủ trì: Các Cục Quản
lý chất lượng NLTS, Thú y, Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Chế biến,
Thương mại NLTS&NM, Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Nuôi trồng thủy
sản.
d) Thời gian thực hiện: 2008 -
2009
2.5. Đề án hoàn thiện khung pháp
lý và cơ chế tài chính:
a) Quy mô: Cả nước.
b) Nội dung:
- Tổ chức soát xét, sửa đổi, xây
dựng mới các quy chế, quy định, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về chất lượng,
ATVSTP các sản phẩm nông lâm sản phù hợp với điều kiện Việt Nam và hoài hòa với
quy định khu vực, quốc tế.
- Xây dựng quy định thu phí, lệ
phí kiểm tra chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm sản.
- Đề xuất cơ chế tài chính phù hợp
với điều kiện thực tế của đơn vị.
c) Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý
chất lượng NLTS;
Đơn vị phối hợp: Các Cục Thú y,
Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật, Trồng trọt, Chế biến Thương mại NLTS&NM, Khai
thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Nuôi trồng thủy sản.
d) Thời gian thực hiện: 2008 –
2012.
2.6. Dự án đầu tư nâng cấp cơ sở
vật chất các cơ quan thuộc Cục Quản lý CL NLTS:
a) Quy mô: 07 đơn vị (Cục và các
đơn vị trực thuộc Cục).
b) Nội dung:
- Đầu tư nâng cấp trụ sở làm việc
hiện có (cải tạo hoặc xây dựng mới).
- Bổ sung thiết bị văn phòng,
thông tin liên lạc, phương tiện đi lại.
c) Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý
chất lượng NLTS.
d) Thời gian thực hiện: 2008 –
2012.
e) Dự kiến kinh phí: 307 tỷ đồng.
2.7. Dự án hoàn thiện hệ thống
kiểm nghiệm, kiểm chứng và chứng nhận chất lượng:
a) Quy mô: các Cục quản lý chuyên
ngành và các đơn vị trực thuộc, các cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc các Sở
NN&PTNT.
b) Nội dung:
- Quy hoạch phát triển hệ thống
kiểm nghiệm, chứng nhận chất lượng nông lâm sản và thủy sản.
- Đầu tư xây dựng mới phòng kiểm
nghiệm, kiểm chứng.
- Đầu tư thiết bị phòng kiểm
nghiệm để kiểm tra các chỉ tiêu ATTP trong lĩnh vực nông lâm sản.
- Đầu tư thiết bị phòng kiểm
nghiệm, kiểm chứng quốc gia.
c) Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý
Chất lượng NLTS.
Đơn vị phối hợp: Các Cục Quản lý
chuyên ngành, Sở NN&PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
d) Thời gian thực hiện: 2009 –
2012.
e) Dự kiến kinh phí: 500 tỷ đồng.
2.8. Dự án xây dựng hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu về chất lượng, ATVSTP nông lâm thủy sản:
a) Quy mô: Toàn ngành.
b) Nội dung:
- Xây dựng hệ thống thông tin quản
lý nhà nước quản lý chất lượng nông lâm thủy sản.
- Hệ thống thống kê, báo cáo, quản
lý chuyên ngành.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về các
cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm sản;
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về các
mặt hàng nông sản sản xuất, xuất nhập khẩu chủ lực, thị trường chính;
- Các phòng kiểm nghiệm có khả
năng phân tích các chỉ tiêu ATTP.
c) Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý
Chất lượng NLTS.
Đơn vị phối hợp: Các Cục Quản lý
chuyên ngành.
d) Thời gian thực hiện: 2009 –
2010. Định kỳ cập nhật, bổ sung.
e) Dự kiến kinh phí: 50 tỷ đồng.