|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
1079/CĐ-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Công điện
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Phạm Minh Chính
|
Ngày ban hành:
|
14/08/2021
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1079/CĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 8 năm 2021
|
CÔNG ĐIỆN
VỀ
VIỆC RÀ SOÁT PHÁP LUẬT ĐỂ THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO ĐẦU TƯ, KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN
DỊCH COVID-19 DIỄN BIẾN PHỨC TẠP
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ điện:
- Đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Đồng chí Hồ Đức Phớc, Bộ
trưởng Bộ Tài chính;
- Đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Bộ
trưởng Bộ Công Thương;
- Đồng chí Trần Hồng Hà, Bộ
trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường;
- Đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Bộ
trưởng Bộ Xây dựng;
- Đồng chí Nguyễn Văn Thể, Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải;
- Đồng chí Lê Minh Hoan, Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ
trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông;
- Đồng chí Lê Thành Long, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp;
- Đồng chí Phạm Thị Thanh Trà,
Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng tại phát biểu bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành trung ương
Đảng lần thứ 3 khóa XIII; Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 16 tháng 4 năm 2021 và
Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ đạo các đồng chí Bí thư tỉnh ủy, thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức rà soát các vướng mắc, bất
cập trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư, sản
xuất, kinh doanh và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung[1].
Kết quả rà soát kiến nghị của 63
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nêu cụ thể những vướng mắc, khó khăn
do các quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa thống nhất, chưa phù
hợp với thực tế thuộc các lĩnh vực quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư,
sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp liên quan đến 79 luật, 03
Nghị quyết của Quốc hội, 188 Nghị định, 20 Quyết định của Thủ tướng và 135 Thông
tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của 21 bộ, cơ quan ngang bộ. Qua tổng hợp,
rà soát của Văn phòng Chính phủ có một số nội dung cần thiết phải nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung ngay để tháo gỡ vướng mắc quy định trong 29 luật thuộc lĩnh
vực quản lý nhà nước của 10 Bộ2.
Để kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, khơi thông các “điểm nghẽn”, huy động mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là trong điều kiện đại dịch Covid-19 diễn biến
phức tạp, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các đồng chí Bộ trưởng trực tiếp chỉ đạo,
ưu tiên các nguồn lực cho công tác rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành mình, cụ thể như
sau:
1. Tập trung cao nhất, đẩy nhanh
tiến độ sửa đổi, bổ sung ngay các quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn,
chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn, đang gây khó khăn, cản trở các
hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực: đầu tư, quy hoạch,
quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, thuế, phí, xây dựng... quy định tại
29 luật thuộc lĩnh vực quản lý của 10 bộ (Phụ lục 1-10, gửi kèm). Đồng thời,
hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng luật theo quy định của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, bổ sung trong Đề nghị xây dựng luật
sửa đổi các luật trước ngày 22 tháng 8 năm 2021, Bộ Tư pháp trình Chính
phủ trước ngày 30 tháng 8 năm 2021 để trình Quốc hội khóa XV tại Kỳ họp thứ hai
(tháng 10 năm 2021) cho ý kiến về dự án Luật này.
2. Đối với các kiến nghị còn lại
của địa phương về việc sửa đổi, bổ sung quy định trong các Luật, Pháp lệnh,
Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Thông tư3, giao Văn phòng Chính phủ gửi các bộ,
cơ quan ngang bộ để tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành
theo thẩm quyền. Nhiệm vụ này hoàn thành trong quý III năm 2021. Các bộ,
cơ quan ngang bộ gửi báo cáo kết quả thực hiện đến Bộ Tư pháp trước ngày 05
tháng 10 năm 2021 (trong đó nêu rõ những nội dung đã đề xuất sửa đổi, bổ
sung; đối với những nội dung không sửa đổi, bổ sung phải giải trình rõ lý do
không sửa đổi) để Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ trước ngày 15 tháng 10 năm
2021.
3. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu
các đồng chí Bộ trưởng thực hiện nghiêm chỉ đạo này và chịu trách nhiệm trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện./..
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng CP, các Phó Thủ tướng CP;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VPCP: BTCN, các PCN;
Trợ lý, Thư ký của TTg và các PTTg các Vụ: KGVX, TH, KTTH, CN, NN, QHĐP, QHQT,
TCCV, TKBT, V.I, ĐMDN, NC, PL; Cục KSTT; TGĐ cổng TTĐT;
- Lưu: VT. PL (2). Th
|
THỦ
TƯỚNG
Phạm Minh Chính
|
___________________
[1] Công văn 4611/VPCP-PL ngày
10/7/2021 của VPCP
[2] 29 luật gồm: Bộ KH&ĐT 7
luật (Luật đầu tư, Luật đầu tư công, Luật quy hoạch, Luật doanh nghiệp, Luật
đấu thầu, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật PPP); Bộ Tài chính 6 luật
(Luật NSNN, Luật phí, lệ phí, Luật quản lý sử dụng tài sản công, Luật quản lý
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, Luật thuế TNDN, Luật dự trữ quốc
gia); Bộ Công Thương 1 luật (Luật điện lực); Bộ TN&MT 2 luật (Luật khoáng
sản, Luật bảo vệ môi trường); Bộ Xây dựng 5 luật (Luật xây dựng, Luật nhà ở,
Luật quy hoạch đô thị, Luật kinh doanh bất động sản, Luật kiến trúc); Bộ
GTVT 2 luật (Luật đường sắt, Luật hàng không VN); Bộ NN&PTNT 1 luật (Luật
lâm nghiệp), Bộ TTTT 1 luật (Luật giao dịch điện tử); Bộ Tư pháp 2 luật (Luật
công chứng, Luật đấu giá tài sản); Bộ Nội vụ 2 luật (Luật tổ chức chính quyền
địa phương, Luật Tổ chức Chính phủ).
[3]Các kiến nghị liên quan đến
79 luật, 03 Nghị quyết của Quốc hội, 188 Nghị định, 20 Quyết định của Thủ tướng
và 135 Thông tư trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước của 21 bộ, cơ quan ngang bộ.
Phụ lục 1 – BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
DANH
MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(07 luật, 20 vấn đề).
STT
|
Tên
văn bản
|
Nội
dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Đề
xuất phương án xử lý
|
Địa
phương đề xuất
|
1
|
Luật
Đầu tư công 2019
|
1. Thẩm quyền quyết định chủ trương
đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư (Mục 1, Chương II)
Luật Đầu tư công quy định Thủ tướng
Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án. (1) Dự án
không phân biệt tổng mức đầu tư quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này; (2)
Dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách trung ương do Bộ, cơ quan trung ương quản
lý; (3) Chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ nước ngoài (trừ chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
đầu tư công thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ); Chương trình, dự án
đầu tư sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại, Dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng
vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong một số trường
hợp.
|
1. Nghiên cứu, sửa đổi quy
định nâng mức vốn dự án Nhóm A1 để giảm số dự án thuộc thẩm quyền
quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, phân cấp quyết định chủ
trương đầu tư Chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi
của các nhà tài trợ nước ngoài cho cơ quan chủ quản (trừ các dự án tác động
đến cân đối vĩ mô);
|
VPCP
|
|
|
2. Thẩm quyền quyết định đầu
tư, điều chỉnh quyết định đầu tư (Mục 2, Chương II)
Luật Đầu tư công về thẩm quyền
quyết định đầu tư (Điều 35) quy định: Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư chương
trình, dự án sau đây: (1) Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng
quốc gia đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; (2) Chương trình đầu
tư công đã được Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư; (3) Chương trình, dự
án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tôn giáo và các chương trình, dự án khác theo
quy định của Chính phủ.
|
2. Sửa đổi quy định phân cấp
quyết định chủ trương đầu tư cho các bộ, cơ quan ngang bộ quyết định đầu tư
đối với các dự án theo ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ. Người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, địa phương quyết
định đầu tư chương trình, dự án chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư các
chương trình, dự án được phê duyệt.
|
VPCP
|
|
|
3. Về cơ quan được giao lập
Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư.
Điều 27, Luật Đầu tư công 39/2019/QH14
quy định cơ quan lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư là cơ quan chuyên môn
trực thuộc UBND các cấp hoặc UBND cấp dưới (quy định tại điểm a, khoản 1,
Điều 27, Luật Đầu tư công), không giao cho các cơ quan trực thuộc UBND
tỉnh được giao làm chủ đầu tư (như các Ban QLDA ĐTXD chuyên ngành, Ban QLDA
khu vực).
Theo quy định trên, các cơ
quan chuyên môn trực thuộc được giao lập Báo cáo đề xuất chủ trương phải
thành lập hoặc giao bộ phận chuyên môn hoạt động kiêm nhiệm như một Ban QLDA
trực thuộc để tổ chức lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, việc lập Báo cáo
đề xuất chủ trương đầu tư thường phải thuê đơn vị tư vấn để thực hiện. Do
vậy, phải thực hiện các thủ tục lựa chọn đơn vị tư vấn, quản lý thực hiện hợp
đồng, nghiệm thu, thanh toán, quyết toán hợp đồng như một Ban QLDA trực
thuộc. Trong khi đó, các Ban QLDA đầu tư xây dựng chuyên ngành hoặc Ban QLDA
khu vực có đủ năng lực, nhân sự để triển khai các công việc nêu trên, đồng
thời cũng là các cơ quan được giao làm chủ đầu tư dự án sau khi chủ trương
đầu tư được duyệt (theo quy định của Luật Xây dựng).
Điều 27, Luật Đầu tư công năm
2019 quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm giao
cơ quan chuyên môn hoặc Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp lập báo cáo đề
xuất chủ trương đầu tư”. Đối với dự án do các đơn vị không phải là cơ quan
chuyên môn trực thuộc UBND các cấp làm chủ đầu tư, việc giao cho cơ quan
chuyên môn trực thuộc UBND các cấp lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chưa
thực sự phù hợp, không đủ năng lực, không nắm rõ dự án...
|
Đề nghị chỉnh sửa quy định của
pháp luật về Đầu tư công (điểm a, khoản 1. Điều 27, Luật Đầu tư công),
giao các cơ quan, đơn vị trực thuộc UBND các cấp (định hướng là chủ đầu tư dự
án các đơn vị quản lý trực tiếp được lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư (như
Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Ban Quản lý khu công nghệ cao) tổ chức lập
Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án để các cơ quan này chủ động nắm bắt
dự án ngay từ ban đầu, đồng thời các cơ quan chuyên môn trực thuộc không phải
thành lập các Ban, tổ thực hiện kiêm nhiệm để lập Báo cáo đề xuất chủ trương
đầu tư.
Các cơ quan chuyên môn đã xây
dựng kế hoạch đầu tư công, trong quá trình xây dựng kế hoạch đầu tư công đã
xem xét đến sự cần thiết đầu tư và sự phù hợp đến quy hoạch theo từng lĩnh
vực; các cơ quan chuyên môn đều tham gia ý kiến trong quá trình thẩm định báo
cáo thẩm định chủ trương đầu tư. Do vậy, không cần thiết các cơ quan chuyên
môn phải tổ chức lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư.
|
An Giang, Hà Nam, Hải Phòng, Đồng Nai, Hà Nam...
|
|
|
4. Về điều chỉnh Kế hoạch đầu
tư công trung hạn của địa phương:
Tại điểm c, khoản 7, Điều 67,
Luật đầu tư công 39/2019/QH14 quy định: "Hội đồng nhân dân các cấp
điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách địa
phương do thay đổi nhu cầu sử dụng hoặc khả năng triển khai thực hiện vốn kế
hoạch hằng năm giữa các cơ quan, đơn vị của địa phương". Điều này
dẫn đến khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện, việc điều chỉnh kế
hoạch vốn kế hoạch hằng năm giữa các cơ quan, đơn vị phải chờ đến kỳ họp
HĐND, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải ngân thấp do
không thể điều chuyển vốn từ những dự án ít hoặc không có khả năng giải ngân
sang những dự án đang cần vốn, tiến độ thi công đạt hoặc vượt so với kế hoạch.
|
Đề nghị chỉnh sửa khoản 7,
Điều 67, Luật Đầu tư công 39/2019/QH14 theo hướng: Giao cho UBND các cấp
quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công hằng năm giữa các cơ quan, đơn vị
và báo cáo HĐND cùng cấp tại kỳ họp gần nhất.
|
An Giang, Vĩnh Phúc
|
|
|
5. Về việc tách riêng công tác
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành các dự án đầu tư
Theo quy định tại khoản 1 Điều
5 Luật Đầu tư công về đối tượng đầu tư công đối với đầu tư chương trình dự án
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: “Trường hợp thật sự cần thiết tách riêng
việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc
lập, đối với dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định; đối
với dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ, HĐND cấp tỉnh xem xét, quyết định
theo thẩm quyền. Việc tách riêng dự án độc lập được thực hiện khi phê duyệt
chủ trương đầu tư dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A”
Vướng mắc, bất cập: Với
quy định trên, các dự án nhóm B, nhóm C không được tách riêng việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập. Nhiều
dự án nhóm B, nhóm C quan trọng, cần đẩy nhanh tiến độ và thực hiện công tác
bồi thường giải phóng mặt bằng trước không thể triển khai thực hiện được, làm
ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, giải ngân các dự án và phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
|
Đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc
hội xem xét sửa đổi khoản 1 Điều 5 Luật Đầu tư công theo hướng mở rộng phạm
vi, cho phép UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế quyết định việc tách
riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án
độc lập đối với dự án nhóm B và nhóm C (nếu thấy cần thiết) để đẩy nhanh tiến
độ triển khai dự án, nâng cao hiệu quả đầu tư
|
Bắc Giang, Hà Nam
|
2
|
Luật
Đầu tư 2020
|
6. Quy định về thẩm quyền chấp
thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ:
Điều 31, Luật Đầu tư 2020 quy
định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ đối với
các dự án đầu tư sau đây:
1. Dự án đầu tư không phân
biệt nguồn vốn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“g) Dự án đầu tư xây dựng nhà
ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị trong các trường hợp: dự án
đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 50 ha trở lên hoặc có quy mô dưới 50 ha nhưng
quy mô dân số từ 15.000 người trở lên tại khu vực đô thị; dự án đầu tư có quy
mô sử dụng đất từ 100 ha trở lên hoặc có quy mô dưới 100 ha nhưng quy mô dân
số từ 10.000 người trở lên tại khu vực không phải là đô thị.
h) Dự án đầu tư xây dựng và
kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất”;
|
1. Nghiên cứu, phân cấp thẩm
quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để
bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị có quy mô sử dụng đất dưới 200ha. Dự
án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế
xuất có quy mô sử dụng đất dưới 500ha cho UBND cấp tỉnh.
|
Bắc Giang, Ninh Bình
|
|
|
7. Thẩm quyền chấp thuận
chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ
Khoản 2, Điều 56, Luật Đầu tư
2020 quy định:
“2. Trừ các dự án đầu tư quy
định tại khoản 1 Điều này, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư
ra nước ngoài đối với các dự án đầu tư sau đây:
a) Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn
thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên;
b) Dự án đầu tư không thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản này có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800
tỷ đồng trở lên”.
|
Tiếp tục nghiên cứu, phân cấp
thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án nêu trên theo hướng tăng
quy mô vốn đầu tư dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ
tướng Chính phủ. Phân cấp các dự án dưới quy mô vốn cho Bộ KH&ĐT.
|
VPCP
|
|
|
8. Pháp luật đất đai và pháp
luật đầu tư chưa có quy định thống nhất trong việc quyết định chủ trương đầu
tư thực hiện dự án (đối với dự án ngoài ngân sách) có với kế hoạch sử dụng
đất hàng năm cấp huyện.
Cụ thể: Theo Điều 33 Luật Đầu
tư năm 2020 thì "Nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu
tư bao gồm: a) Đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị và quy hoạch đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt (nếu có); b) Đánh giá nhu cầu sử dụng đất:....;
nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp
thuận nhà đầu tư bao gồm:....b) Khả năng đáp ứng điều kiện giao đất, cho thuê
đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền
sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư: khả năng đáp ứng điều kiện chuyển
mục đích sử dụng đất đối với dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất:
Việc xác định dự án cần có
trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện được phê duyệt mới quyết
định chủ trương đầu tư. Quy định này không rõ quyết định chủ trương đầu tư
trước sau đó mới phê duyệt bổ sung dự án vào Kế hoạch sử dụng đất hàng năm
cấp huyện hay Dự án phải có trong Kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện do
UBND Tỉnh phê duyệt mới được chấp thuận chủ trương đầu tư. Gây khó khăn cho
địa phương.
|
Trong khi chưa sửa đổi, bổ
sung Luật Đất đai. Quy hoạch tỉnh chưa được phê duyệt. Đề nghị bổ sung quy
định của Luật Đầu tư về nội dung này theo hướng đối với dự án chưa có trong
kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì vẫn được chấp thuận chủ
trương đầu tư sau đó cập nhật bổ sung vào Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.
|
Bắc Kạn, Quảng Ngãi
|
|
|
9. Vướng mắc về thủ tục đầu tư
(liên quan đến Khoản 4, Điều 29 Luật Đầu tư và Điều 62, Điều 73 Luật Đất đai,
Luật Đấu thầu).
- Điều 29 Luật Đầu tư quy định
các hình thức lựa chọn nhà đầu tư gồm đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định
của Luật Đất đai, đấu thầu thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, chấp thuận
chủ trương đầu tư dự án đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư không thông qua
đấu giá, đấu thầu áp dụng khi nhà đầu tư được cơ quan có thẩm quyền cho phép
nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực
hiện dự án phi nông nghiệp.
Thủ tục này thực hiện theo
khoản 13 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ và chỉ
áp dụng đối với dự án thuộc Điều 73 Luật Đất đai.
Luật Đấu thầu quy định chung
phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
Các quy định nêu trên chưa
phân biệt rõ các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư gồm đấu giá quyền sử dụng đất
theo quy định của Luật Đất đai, đấu thầu thực hiện dự án đầu tư có sử dụng
đất, chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư
không thông qua đấu giá, đấu thầu gây khó khăn, ách tắc cho các địa phương.
Quy định của Luật Đầu tư yêu
cầu thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư trước khi tổ chức đấu giá quyền
sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư gây rất nhiều khó khăn cho địa
phương khi thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư.
|
Trong khi chưa sửa Luật Đất
đai, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 29 Luật Đầu tư theo hướng:
- Các Dự án thuộc trường hợp
đấu giá quyền sử dụng đất chỉ áp dụng đối với quỹ đất đã giải phóng mặt bằng
thuộc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước và việc thực hiện chấp thuận chủ
trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi Nhà đầu tư đã trúng đấu
giá quyền sử dụng đất;
Các trường hợp Dự án thực hiện
theo hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư chỉ áp dụng đối với Dự án do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền lập, phê duyệt Phương án lựa chọn Nhà đầu tư đối với
dự án đã có quỹ đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà nước; việc thực hiện
chấp thuận chủ trương đầu tư (để quản lý dự án) thực hiện sau khi Nhà đầu tư
trúng thầu dự án được lựa chọn;
- Đối với tất cả các Dự án
khác có quỹ đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà đầu tư do đã hoàn thành
việc nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, đất khác (trừ đất thuộc quyền sử
dụng của Nhà nước), dự án sản xuất kinh doanh phi thương mại chuyển thành dự
án nhà ở, khu đô thị... thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương, giao đất,
cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu.
- Đồng thời hủy bỏ các quy
định của Luật Đất đai trái với quy định của Luật Đầu tư.
|
An Giang, Bắc Giang, Bắc Kạn,
Bình Định, Hải Phòng, Hải Dương, Ninh Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh
Phúc, Cà Mau, Sơn La, Hà Nội, Tuyên Quang. Đắc Lắk, Quảng Trị, Thái Bình
|
|
|
10. Vướng mắc giữa Luật Đầu tư
và Luật Nhà ở liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở.
Điều 75. Sửa đổi, bổ sung một
số điều của các luật có liên quan đến đầu tư kinh doanh
Điều 75 Luật Đầu tư 2003 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 trong đó:
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều
23 Luật Nhà ở về hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà
ở thương mại như sau: “1. Có quyền sử dụng đất ở hợp pháp và các loại đất
khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
sang làm đất ở.”;
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều
170 như sau: “2. Đối với dự án xây dựng nhà ở khác thuộc diện chấp thuận chủ trương
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu
tư.”.
Các quy định này đang gây rất nhiều
vướng mắc cho các địa phương, quy định này được hiểu là tất cả các dự án nhà
ở thì phải có đất ở. Quy định này là không phù hợp. Chủ đầu tư có quỹ đất hợp
pháp khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất sang làm đất ở đã được xem xét sự phù hợp quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng thì được thực hiện thủ tục chấp thuận chủ
trương đầu tư dự án Nhà ở.
|
Đề nghị bãi bỏ quy định này,
theo đó sửa đổi Luật Đầu tư về hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư xây dựng nhà ở thương mại theo đó, Nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hoặc
các loại đất khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất sang làm đất ở.
|
Hà Nội, Đồng Nai, Gia Lai,
Quảng Ngãi, Bình Phước, Hưng Yên...
|
|
|
11. Quy định vướng mắc giữa
Luật Đầu tư và Luật Lâm nghiệp liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng rừng:
Tuy nhiên, trong Luật Đầu tư
và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP lại không quy định trước hay sau Chấp thuận chủ
trương đầu tư (Chỉ quy định trình tự đối với dự án thuộc thẩm quyền Quyết định
chủ trương đầu tư của Chính phủ. không hướng dẫn đối với địa phương).
Việc chuyển mục đích sử dụng
rừng theo Luật Lâm nghiệp: Khoản 4 Nghị định số 83/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020
quy định: “Đối với dự án đầu tư có chuyển mục đích sử dụng rừng thì chủ
trương chuyển mục đích sử dụng rừng là một nội dung trong chấp thuận chủ
trương đầu tư dự án.
|
Sửa đổi Luật Đầu tư quy định
rõ trong giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư có ý kiến thẩm định của Bộ
NN&PTNT về việc đủ điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Việc thực hiện
trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng rừng của Dự án khi đủ điều kiện
theo quy định của Luật Lâm nghiệp có thể được thực hiện trước hoặc sau khi dự
án được chấp thuận chủ trương đầu tư.
|
Hòa Bình, Khánh Hòa
|
3
|
Luật
Đấu thầu
|
12. Do quy định hiện hành chưa
có sự thống nhất giữa Luật Đất đai năm 2013 và pháp luật về đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư, cụ thể: Theo khoản 3 Điều 1 Luật Đấu thầu năm 2013 và điểm b
khoản 1 Điều 1 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Chính
phủ quy định dự án sử dụng đất thuộc trường hợp đấu thầu để lựa chọn nhà đầu
tư. Trong khi đó tại Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định việc giao
đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất mà không quy định
trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Bên cạnh đó, theo điểm b khoản
1 Điều 119 Luật Đất đai năm 2013 quy định đất đã được giải phóng mặt bằng thì
phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất; tuy nhiên, theo Luật Đấu thầu và Luật
Nhà ở quy định đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất
đối với đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng. Như vậy, đối với
trường hợp đất hỗn hợp gồm đất chưa thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng
và đất do Nhà nước quản lý (đất sạch) khi thực hiện dự án gặp khó khăn trong
việc áp dụng hai hình thức đấu giá và đấu thầu.
|
Bổ sung quy định đối với
trường hợp đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, thủ
tục xác định giá thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong đấu thầu dự án. Do
pháp luật đất đai hiện hành chưa quy định cụ thể trường hợp giao đất, cho
thuê đất theo kết quả đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng
đất. Đồng thời, đề nghị bổ sung quy định để làm rõ nguyên tắc, điều kiện áp
dụng hình thức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất đối với đất
hỗn hợp (ví dụ như xác định tối thiểu tỷ lệ đất sạch trong dự án có sử dụng
đất bắt buộc phải đấu giá).
|
Cần Thơ, Bình Định...
|
4
|
Luật
Quy hoạch
|
13. Luật Quy hoạch số
21/2017/QH14 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019) quy định tại Khoản 1
Điều 9: “Chi phí lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt công bố và
điều chỉnh quy hoạch được sử dụng từ nguồn vốn đầu tư công theo quy định của
pháp luật về đầu tư công". Tuy nhiên Luật Đầu tư công và các nghị định,
thông tư không có hướng dẫn về quy trình, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt,
bố trí vốn, cơ chế giải ngân, điều khoản chuyển tiếp, việc áp dụng đối với
các loại hình quy hoạch khác (thiết kế đô thị riêng, quy chế quản lý kiến
trúc...) dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện.
|
Sửa đổi Luật Quy hoạch theo
hướng sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế để lập các quy hoạch, thiết kế đô thị,
quy chế... phù hợp với thực tiễn.
|
Hà Nội
|
|
|
14. Theo quy định tại điểm b,
khoản 4, điều 16, Luật Quy hoạch về quy trình lập quy hoạch tỉnh thì: "Cơ
quan lập quy hoạch lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch; chủ trì, phối hợp
với các cơ quan, tổ chức có liên quan, Ủy ban nhân dân cấp huyện nghiên cứu,
xây dựng quy hoạch...”
Theo khoản 3, điều 1, Nghị
định số 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quy
hoạch quy định trách nhiệm của cơ quan lập quy hoạch tỉnh là: “3. Lựa chọn
tổ chức tư vấn lập quy hoạch đáp ứng điều kiện về năng lực chuyên môn...
Như vậy, theo quy định của
Luật quy hoạch và văn bản hướng dẫn thi hành thì cơ quan lập quy hoạch tỉnh
(hiện nay là Sở Kế hoạch và đầu tư) là đơn vị lựa chọn tổ chức tư vấn để lập
toàn bộ các nội dung của quy hoạch tỉnh, trong đó bao gồm “Phương án khai
thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra”.
Tuy nhiên, Luật số
35/2018/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều của 37 luật liên quan đến Luật quy
hoạch, tại khoản 4, điều 5 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tài nguyên
nước quy định: "Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn
về tài nguyên nước tổ chức lập nội dung phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ
tài nguyên nước và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trong quy hoạch
tỉnh căn cứ vào quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tổng hợp
lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh”.
Theo quy định tại khoản 9,
điều 1 Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 24/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thì Sở Tài nguyên và Môi trường có chức năng tham mưu, giúp
UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
Như vậy có sự không thống nhất
giữa Luật số 35/2018/QH14 và Luật số 21/2017/QH14 về cơ quan chủ trì lập Phương
án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra trong quy hoạch tỉnh.
|
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật
số 35/2018/QH14 cho phù hợp với Luật quy hoạch.
|
Vĩnh Phúc
|
5
|
Luật
Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP)
|
15. Điều chỉnh quy định về
thẩm quyền thẩm định của Hội đồng thẩm định tại Điều 6 Luật Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư (Luật PPP) ngày 18/6/2020 của Quốc hội
Theo quy định tại Điều 6 Luật
PPP, Hội đồng thẩm định liên ngành thực hiện nhiệm vụ thẩm định báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP do Thủ tướng
Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, báo cáo nghiên cứu khả thi
dự án thuộc trường hợp này là do Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt.
|
Đề xuất Trung ương ủy quyền
cho Tỉnh thực nhiệm vụ thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi để đảm bảo đồng
bộ với thẩm quyền phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án
|
Cao Bằng
|
|
|
16. Vướng mắc liên quan đến
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 Hiện nay Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư và các quy định hiện hành chỉ có quy định về xác
định lãi vay trong thời gian xây dựng và được tính trong tổng mức đầu tư của
dự án PPP, chưa có quy định cụ thể về việc xác định chi phí lãi vay ngoài
thời gian thực hiện hợp đồng dự án theo hình thức đối tác công tư; chưa có
quy định cụ thể về việc quyết toán chi phí lãi vay ngoài thời gian thực hiện
hợp đồng dự án theo hình thức đối tác công tư. Do vậy, đề nghị Chính phủ giao
Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính quy định, hướng dẫn thực hiện việc xác định chi phí
lãi vay ngoài thời gian thực hiện hợp đồng dự án theo hình thức đối tác công
tư
|
|
Hải Phòng
|
|
|
17. Về cơ chế chia sẻ phần
tăng, giảm doanh thu đối với dự án đầu tư PPP
Tại khoản 3 Điều 82 Luật PPP
quy định: “Cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu quy định tại khoản 2 Điều này
phải được xác định tại quyết định chủ trương đầu tư. Chi phí xử lý cơ chế
chia sẻ phần giảm doanh thu được sử dụng từ nguồn dự phòng ngân sách trung
ương đối với dự án do Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, người đứng
đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác quyết định chủ trương đầu tư hoặc dự
phòng ngân sách địa phương đối với dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết
định chủ trương đầu tư”. Tuy nhiên, hiện nay có một số dự án đầu tư trên địa
bàn tỉnh Lào Cai và một số tỉnh khác có quy mô lớn được đầu tư theo phương
thức đối tác công tư PPP trong đó Thủ tướng Chính phủ là cấp quyết định chủ
trương đầu tư, giao cho UBND các tỉnh là cơ quan có thẩm quyền và chỉ có vốn
góp bằng ngân sách địa phương. Khi đó việc quy định cơ chế chia sẻ phần giảm
doanh thu nêu trên là chưa phù hợp.
|
Đề nghị Chính phủ và các Bộ,
ngành xem xét kiến nghị Quốc hội tháo gỡ
|
Lào Cai
|
6
|
Luật
Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017
|
18. Tại khoản 2 Điều 3 Luật Hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày 12 tháng 6 năm 2017: Chưa có quy định tiêu
chí cụ thể để xác định doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh do đó không
có cơ sở xác định được doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo để thực
hiện hỗ trợ
|
Đề nghị bổ sung tiêu chí cụ
thể để xác định doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác
tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới
|
An Giang
|
|
|
19. Điểm b khoản 1 Điều 16
Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy định điều kiện để Doanh
nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được hỗ trợ về các nội dung tại
khoản 2 Điều 16 Luật Hỗ trợ DNNVV là “Hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất,
kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp lần đầu”
|
- Kiến nghị bỏ cụm từ “liên
tục”
Chỉ quy định điều kiện “Hộ
kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh ít nhất là 01 năm tính đến ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu”
Lý do:
- Trong quá trình hoạt động,
Hộ kinh doanh gặp khó khăn phải tạm nghỉ một thời gian ngắn, khi có điều
kiện, cơ hội kinh doanh thì đăng ký hoạt động lại và chuyển đổi thành Doanh
nghiệp thì không được hưởng các nội dung hỗ trợ theo quy định khoản 2 Điều 16
Luật Hỗ trợ DNNVV vì không đáp ứng điều kiện hoạt động liên tục.
- Để khuyến khích Hộ kinh
doanh chuyển đổi thành Doanh nghiệp.
|
Đồng Tháp
|
7
|
Luật
Doanh nghiệp
|
Sửa đổi quy định về việc doanh
nghiệp nhà nước công bố báo cáo tài chính giữa năm đã được kiểm toán bởi tổ chức
kiểm toán độc lập tại điểm d khoản 1 Điều 109 theo hướng tiết kiệm thời gian,
chi phí cho doanh nghiệp.
|
Đề nghị sửa thành: doanh
nghiệp nhà nước công bố báo cáo tài chính giữa năm do doanh nghiệp tự lập và
chịu trách nhiệm.
|
BKHĐT
|
______________________________
1 Điều 8. Tiêu chí
phân loại dự án nhóm A
Trừ dự án quan trọng quốc gia
quy định tại Điều 7 của Luật này, dự án thuộc một trong các tiêu chí sau đây là
dự án nhóm A:
1. Dự án không phân biệt tổng
mức đầu tư thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Dự án thuộc lĩnh vực quốc
phòng, an ninh có mức độ tuyệt mật; b) Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ; c)
Dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao;
2. Dự án có tổng mức đầu tư từ
2.300 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây: a) Giao thông, bao gồm cầu, cảng
biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ; b) Công nghiệp điện; c)
Khai thác dầu khí: d) Hóa chất phân bón, xi măng; d) Chế tạo máy, luyện kim; e)
Khai thác, chế biến khoáng sản; g) Xây dựng khu nhà ở;
3. Dự án có tổng mức đầu tư từ
1.500 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây: a) Giao thông, trừ dự án quy định
tại điểm a khoản 2 Điều này; b) Thủy lợi; c) cấp thoát nước, xử lý rác thải và
công trình hạ tầng kỹ thuật khác; d) Kỹ thuật điện; đ) Sản xuất thiết bị thông
tin, điện tử; e) Hóa dược; g) Sản xuất vật liệu, trừ dự án quy định tại điểm d
khoản 2 Điều này; h) Công trình cơ khí, trừ dự án quy định tại điểm đ khoản 2
Điều này; i) Bưu chính, viễn thông;
4. Dự án có tổng mức đầu tư từ
1.000 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây: a) Sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản; b) Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên: c) Hạ
tầng kỹ thuật khu đô thị mới; d) Công nghiệp, trừ dự án thuộc lĩnh vực công
nghiệp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này;
5. Dự án có tổng mức đầu tư từ
800 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây: a) Y tế, văn hóa, giáo dục; b)
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình; c) Kho tàng;
d) Du lịch, thể dục thể thao; đ) Xây dựng dân dụng, trừ xây dựng khu nhà ở quy
định tại điểm g khoản 2 Điều này; e) Dự án thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
trừ dự án quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
Phụ
lục 2 - BỘ TÀI CHÍNH
NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(06
luật, 11 vấn đề).
STT
|
Tên
văn bản
|
Quy
định vướng mắc
|
Đề
xuất sửa đổi, bổ sung
|
Địa
phương, cơ quan đề xuất
|
1.
|
Luật
Ngân sách nhà nước
|
1. Giữa Luật NSNN năm 2015 với
các văn bản quy định về 2 khoản thu: phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng
sản và thu tiền bảo vệ đất trồng lúa (Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016
của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; Nghị
định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất
trồng lúa và Nghị định số 62/2019/NĐ-CP ngày 11/7/2019 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP) còn có sự mâu thuẫn về việc
thực hiện các nhiệm vụ chi. Đối với 2 khoản thu này theo quy định của Chính
phủ là 2 khoản thu đã gắn nhiệm vụ chi cụ thể, cho từng địa phương cụ thể,
không thể sử dụng nguồn thu này để cân đối cho các nhiệm vụ chi thường xuyên
khác. Tuy nhiên, theo Luật NSNN năm 2015 chỉ có 2 khoản thu gắn với nhiệm vụ
chi cụ thể là thu tiền sử dụng đất và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. Để
đảm bảo cho các địa phương trong cân đối ngân sách và triển khai thực hiện
đúng các quy định hiện hành, đề nghị xem xét, nghiên cứu cho phép loại trừ 2
khoản thu trên khi tính cân đối ngân sách, tính số bổ sung cân đối cho các
địa phương.
|
Đề nghị xem xét, nghiên cứu bổ
sung điểm b khoản 2 Điều 40 Luật NSNN năm 2015 nội dung: Phí bảo vệ môi trường
đối với khai thác khoáng sản và thu tiền bảo vệ đất trồng lúa không dùng để
xác định tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách
Trung ương và ngân sách địa phương và xác định số bổ sung cân đối từ ngân
sách Trung ương cho ngân sách địa phương.
|
Thái
Nguyên, Bắc Kạn
|
|
|
2. Luật NSNN năm 2015 quy định
sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách địa phương vẫn còn bó hẹp,
ngoài những nhiệm vụ được quy định tại khoản 2 Điều 59 của Luật thì địa
phương còn nhu cầu chi đối với nhiều nhiệm vụ quan trọng khác như chi khắc
phục thiên tai, bão lụt, dịch bệnh ...
|
Đề nghị bổ sung vào khoản 2
Điều 59 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 nội dung sử dụng cho các nhiệm vụ
khác cho phù hợp theo yêu cầu thực tiễn của từng địa phương.
|
Bắc
Kạn
|
|
|
3. Tại khoản 1 Điều 35 Luật
Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định các khoản thu ngân sách trung ương hưởng
100%; trong đó tại điểm k quy định ”k) Thu tiền bán tài sản nhà nước, kể cả
thu tiền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị
thuộc trung ương quản lý” là một trong số khoản thu ngân sách trung ương
hưởng 100%. Thực tế hiện nay tiền bán tài sản có gắn liền với đất do các cơ
quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý, chủ yếu là tiền sử dụng đất,
tiền tài sản rất nhỏ hoặc không có. Trong khi Luật NSNN năm 2015 (điểm đ khoản
1 Điều 37) quy định khoản thu tiền sử dụng đất là khoản thu ngân sách địa
phương hưởng 100% để cân đối chi đầu tư phát triển hạ tầng địa phương.
|
Đề nghị nghiên cứu sửa đổi
khoản 1 Điều 35 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 cho phù hợp, theo hướng đối
với khoản thu bán tài sản có gắn liền với đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị
thuộc trung ương quản lý thành 2 phần: Phần thu tiền bán tài sản trên đất ngân
sách trung ương hưởng 100%, còn phần thu tiền sử dụng đất ngân sách địa phương
hưởng 100%.
|
Quảng
Ninh
|
|
|
4. Tại khoản 4 Điều 9 Luật
Ngân sách nhà nước năm 2015 có quy định như sau: "4. Nhiệm vụ chi
thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm; việc ban hành và thực
hiện chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có giải pháp bảo đảm
nguồn tài chính, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp: việc
quyết định đầu tư các chương trình, dự án sử dụng vốn ngân sách phải bảo đảm
trong phạm vi ngân sách theo phân cấp”.
|
Đề nghị nghiên cứu sửa đổi
khoản 4 Điều 9 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 theo hướng bổ sung quy định
trong các trường hợp cần thiết, ngân sách các cấp có thể thực hiện nhiệm vụ
chi của các cấp khác để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
|
Quảng
Ninh
|
2.
|
Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp
|
5. Hiện nay, trong điều kiện
vốn Ngân sách chưa đáp ứng được yêu cầu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn
tỉnh, địa phương đã thực hiện chủ trương kêu gọi các doanh nghiệp tham gia
đóng góp kinh phí cùng với địa phương xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng, đường giao thông phục vụ cho việc lưu thông được thuận tiện, chỉnh
trang khu, cụm công nghiệp và đô thị... Các doanh nghiệp đã đóng góp kinh phí
đầu tư các công trình nêu trên đề nghị được tính khoản đóng góp này vào khoản
chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Tuy nhiên các khoản
chi đóng góp của doanh nghiệp ủng hộ địa phương xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng không thuộc các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp theo khoản 5 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và
Điều 9 Nghị định 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ. Điều này đã
gây khó khăn trong việc huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp để cùng địa
phương đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trên địa bàn tỉnh.
|
Đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung quy định tại khoản 5 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 để tạo điều kiện cho địa
phương kêu gọi và nhận được sự đóng góp của các doanh nghiệp, thu hút vốn ngoài
ngân sách tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại địa phương.
|
Long
An
|
|
|
6. Khoản 1 Điều 10 Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định: Doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng
có thời hạn mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất thông thường áp
dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế TNDN. Tuy nhiên, pháp
luật thuế TNDN hiện hành chưa quy định về mức thuế suất thuế TNDN cụ thể đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà đang áp dụng thuế suất thông thường.
|
Đề xuất cần bổ sung quy định
về mức thuế suất thuế TNDN và thời hạn áp dụng thuế suất thuế TNDN đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
|
Hà
Nội
|
3.
|
Luật
Phí và lệ phí
|
7. Cần thiết nghiên cứu sửa
đổi Luật phí và lệ phí với mục tiêu:
(i) Phù hợp với chủ trương,
đường lối của Đảng tại Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 18-NQ/TW liên
quan đến cơ chế quản lý tài chính và thu nhập của các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước;
(ii) Đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ của hệ thống pháp luật (cần rà soát Danh mục phí và lệ phí hiện nay
để loại bỏ những khoản phí, lệ phí không còn triển khai trên thực tế hoặc bổ
sung khoản phí và lệ phí, do pháp luật chuyên ngành đã được sửa đổi hoặc để
phù hợp với thực tiễn).
|
Đề nghị nghiên cứu để sửa đổi,
bổ sung Luật Phí và lệ phí hiện hành, ví dụ:
- Sửa đổi quy định về cơ quan
nhà nước thu phí thuộc diện khoán chi được để lại 1 phần tiền phí để trang
trải chi phí hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí theo hướng phí thu từ các
hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện phải nộp toàn bộ vào NSNN,
trừ trường hợp đặc thù như đối với khoản phí do cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài thu.
- Bổ sung danh mục phí và lệ
phí đối với: phí sử dụng đường cao tốc đối với các tuyến đường cao tốc do nhà
nước đầu tư; phí khai thác, sử dụng thông tin cơ sở dữ liệu của các tổ chức
hành nghề công chứng phí đăng ký vi bằng: phí thẩm định báo cáo kết quả tập
sự; phí kiểm tra, xác minh việc tập sự theo NĐ 80/2020/NĐ-CP ;...
|
Đà
Nẵng, Văn phòng
Chính
phủ
|
4.
|
Luật
Quản lý, sử dụng tài sản công
|
8. Xác định giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thu 1 lần cho cả thời hạn thuê:
- Luật đất đai quy định nhà
đầu tư được lựa chọn một trong hai hình thức trả tiền thuê đất: Trả hàng năm
hoặc trả một lần suốt thời hạn thuê đất.
- Luật Quản lý, sử dụng tài
sản công chỉ cho phép áp dụng một hình thức trả tiền thuê đất một lần khi bán
đấu giá tài sản trên đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Nội dung này
được hướng dẫn tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 151/2017/NĐ-CP như sau: Giá khởi
điểm của tài sản trên đất phải bảo đảm phù hợp với giá trị thực tế còn lại
theo kết quả đánh giá lại; giá khởi điểm của quyền sử dụng đất thuộc trụ sở
làm việc được xác định phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất phổ
biến trên thị trường theo mục đích sử dụng mới của khu đất tại thời điểm có
quyết định bán của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định hiện hành về
xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử
dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê một lần cho cả thời gian thuê, không
thấp hơn giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh ban hành tương ứng với mục đích sử dụng mới nhân (x) với hệ số điều
chỉnh giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Một số địa phương không có lợi
thế về phát triển kinh tế, mặc dù có khu đất có giá trị thương mại cao (giá
đất rất cao) nhưng không thể bán tài sản trên đất và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vì không thể có nhà đầu tư đủ năng lực vừa mua tài sản, vừa nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 50 năm và vừa thực hiện dự án đầu tư.
|
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để tạo điều kiện các địa phương thu hút
đầu tư theo hướng cho phép địa phương xác định giá khởi điểm bán tài sản công
đối với quyền sử dụng đất theo hình thức trả hàng năm hoặc trả một lần.
|
Huế
|
|
|
9. Đề nghị nghiên cứu sửa đổi
cơ chế phân công, phân cấp thẩm quyền trong quản lý, sử dụng tài sản công để nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản công cũng như tạo thuận lợi, đơn giản thủ tục
hành chính, ví dụ: nghiên cứu sửa đổi quy định về sử dụng tài sản công vào
mục đích liên doanh, liên kết; phân cấp thẩm quyền quyết định việc bán nhà,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thu hồi nhà, đất của cơ quan trung ương.
|
Đề nghị nghiên cứu sửa đổi
Luật Quản lý sử dụng tài sản công gắn với mục tiêu sửa đổi như nêu trên.
|
Văn
phòng Chính phủ
|
5.
|
Luật
Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
|
10. Các quy định tại Luật chưa
tách bạch triệt để thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính
Nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Hiện nay các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước vẫn đồng thời là cơ quan thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ
sở hữu Nhà nước đối với tập đoàn, tổng công ty, công ty dẫn đến tình trạng
chồng chéo, thiếu minh bạch về vai trò, chức năng của cơ quan nhà nước.
|
Kiến nghị cần phải có quy định
tách biệt chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành
chính Nhà nước cho phù hợp và để quản lý chặt chẽ hơn.
|
Hải
Phòng
|
6.
|
Luật
Dự trữ Quốc gia
|
11. Điểm b khoản 2 Điều 36
Luật Dự trữ quốc gia quy định về nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia trong tình
huống đột xuất, cấp bách quy định: “2. Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn quyết định nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia theo quy định sau:... b)
Nhập, xuất cấp ngay hàng dự trữ quốc gia có giá trị tương ứng với thẩm quyền
quyết định chi ngân sách của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tại Luật ngân
sách nhà nước để phục vụ kịp thời cho mỗi nhiệm vụ phát sinh
Đề xuất phân cấp nhiệm vụ này
của Thủ tướng Chính phủ cho Bộ, ngành, vì theo quy định nêu trên thì Bộ
trưởng Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có thẩm quyền quyết định nhập, xuất cấp ngay hàng DTQG cho tình
huống đột xuất, cấp bách với giá trị hàng dự trữ quốc gia tương ứng với thẩm
quyền quyết định chi NSNN để phục vụ cho mỗi nhiệm vụ phát sinh (3 tỷ VN
đồng). Bộ trưởng các Bộ quản lý hàng DTQG khác như Bộ Công thương, Bộ y tế,
Bộ GTVT... chưa được phân cấp các quyền này dẫn đến hạn chế tính chủ động,
linh hoạt trong sử dụng hàng DTQG cho các tình huống đột xuất, cấp bách thuộc
phạm vi chức năng của các bộ ngành này như dịch bệnh, các sự cố thảm họa về
giao thông hoặc sự cố ảnh hưởng tới an ninh năng lượng. Ngoài ra, quy trình
trình, thẩm định và phê duyệt xuất cấp hàng DTQG liên quan đến nhiều bộ,
ngành, mất nhiều thời gian, trong khi nhu cầu xuất cấp hàng DTQG thường rất
cấp bách để đảm bảo tính kịp thời của công tác cứu trợ, hỗ trợ. Do vậy, đề
xuất bổ sung quy định phân cấp quyền nhập, xuất cấp ngay hàng DTQG cho thủ
trưởng các bộ, ngành quản lý hàng DTQG khác ngoài Bộ Tài chính, Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an... trong các tình huống cấp bách nhằm làm tăng tính linh
hoạt, hiệu quả trong việc đảm bảo mục tiêu DTQG.
|
Đề nghị nghiên cứu sửa đổi quy
định về phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền trong quyết định nhập, xuất hàng dự trữ
quốc gia trong tình huống đột xuất, cấp bách tại điểm b khoản 2 Điều 36 Luật
Dự trữ quốc gia hiện hành.
|
Văn
phòng Chính phủ
|
Phụ
lục 3 - BỘ XÂY DỰNG
NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG CÁC LUẬT CẦN
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
Thuộc
lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng (5 Luật, 02 NQ với 38 vấn đề)
STT
|
Tên
văn bản được rà soát
|
Nội
dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Phương
án xử lý
|
Địa
phương Đề xuất
|
I.
|
Luật
Xây dựng
|
1. Điều 49 (được sửa đổi
bởi khoản 1 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật liên quan
đến quy hoạch 2018) Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà
chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất
được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo
quy định của pháp luật.
(Bất cập: Theo quy định tại
Khoản 2 Điều 91, Điểm a Khoản 1 Điều 93 và Khoản 2 Điều 94 Luật Xây dựng đối
với điều kiện cấp phép các công trình xây dựng trong đô thị, nhà riêng lẻ và
cấp phép xây dựng có thời hạn thì phải "Phù hợp với mục đích sử dụng
đất theo quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt" nên thực tế tại các
địa phương không thể tiến hành cấp giấy phép xây dựng.)
|
Đề nghị sửa đổi các Điều này
để tháo gỡ.
|
Sơn
La
|
|
|
2. Theo khoản 4 Điều 34 Luật
Xây dựng và khoản 2 Điều 28 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có
liên quan đến quy hoạch (Luật số 35/2018/QH14) quy định: "4. UBND các
cấp tổ chức lập quy hoạch xây dựng có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định trước khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,
phê duyệt.”
Hiện nay, kỳ họp HĐND thường
chỉ diễn ra 02 lần trong 1 năm, do vậy nếu bắt buộc phải trình HĐND thông qua
đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến độ
thực hiện các dự án. Bên cạnh đó, tại khoản 6 Điều 44 Luật Quy hoạch đô thị
cũng chỉ quy định cơ quan lập quy hoạch thông qua HĐND cùng cấp đối với đồ án
quy hoạch chung đô thị. Đồng thời, HĐND các cấp chỉ nên xem xét, phê duyệt
đối với đồ án quy hoạch vùng và quy hoạch chung xây dựng để quyết định những
chủ trương, định hướng phát triển lớn. Quy hoạch phân khu và quy hoạch chi
tiết xây dựng là bước cụ thể hóa quy hoạch chung nên không cần thiết phải
trình HĐND các cấp để giảm bớt thủ tục, rút ngắn thời gian thực hiện.
|
Đề nghị xem xét sửa đổi khoản
4 Điều 34 Luật Xây dựng và khoản 2 Điều 28 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
37 Luật có liên quan đến quy hoạch (Luật số 35/2018/QH14) như sau: “4. UBND
các cấp tổ chức lập quy hoạch xây dựng có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định trước khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,
phê duyệt đối với đề án quy hoạch vùng và quy hoạch chung xây dựng.”
|
Bắc
Giang, Điện Biên
|
|
|
3. Khoản 2 Điều 37 Luật Xây
dựng và khoản 11 Điều 28 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có
liên quan đến quy hoạch (Luật số 35/2018/QH14) quy định nội dung điều chỉnh
cục bộ quy hoạch xây dựng khu chức năng, không áp dụng đối với quy hoạch nông
thôn.
Theo quy định tại Điều 15 Luật
Xây dựng năm 2014 thì việc rà soát định kỳ quy hoạch chỉ được triển khai thực
hiện 5 năm một lần. Trong khi đó, quy hoạch nông thôn bao gồm cả quy hoạch chung
xây dựng toàn xã và quy hoạch chi tiết điểm dân cư nông thôn nên đối với các
xã tiếp giáp với các đô thị và khu công nghiệp có tốc độ đô thị hóa nhanh và
khó khăn trong công tác dự báo thì việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể sẽ tốn
kém kinh phí và thời gian thực hiện kéo dài (5 năm điều chỉnh một lần). Do
vậy sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
|
Đề nghị xem xét sửa đổi, bổ
sung các quy định trên theo hướng:
“2. Điều chỉnh cục bộ quy
hoạch xây dựng khu chức năng và quy hoạch nông thôn được tiến hành khi nội
dung dự kiến điều chỉnh không làm thay đổi tính chất, chức năng, quy mô và
các giải pháp quy hoạch chính của khu vực lập quy hoạch; bảo đảm không làm
quá tải hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của khu vực dự kiến điều chỉnh quy
hoạch.”
|
|
|
|
4. Khoản 1 Điều 29 quy định
quy hoạch nông thôn gồm các loại quy hoạch: a) Quy hoạch chung xây dựng được
lập cho toàn bộ địa giới hành chính của xã; b) Quy hoạch chi tiết xây dựng
được lập cho điểm dân cư nông thôn.
Điểm a khoản 2 Điều 30 quy
định nội dung đồ án quy hoạch chung xây dựng xã gồm xác định tiềm năng, động
lực phát triển, quy mô dân số, mạng lưới điểm dân cư nông thôn; định hướng tổ
chức không gian tổng thể toàn xã; định hướng phát triển các khu chức năng sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, nhà, dịch vụ và
hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật.
Điểm d khoản 2 Điều 30 quy
định đồ án quy hoạch chung xây dựng xã được phê duyệt là cơ sở lập quy hoạch
chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn gồm trung tâm xã, khu dân cư, khu
chức năng khác trên địa bàn xã.
Hiện nay có các dự án đầu tư
xây dựng về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn như: Trang trại chăn
nuôi heo, trang trại chăn nuôi bò, trang trại nuôi gà,... đã được Ủy ban nhân
dân tỉnh cấp quyết định chủ trương đầu tư. Các dự án này hầu hết thuộc địa bàn
xã nông thôn, phù hợp với quy hoạch phát triển chăn nuôi của tỉnh, nằm cách
xa các khu dân cư và có quy mô diện tích tùy thuộc vào công suất từng trang
trại (hầu hết có quy mô diện tích lớn hơn 05 héc ta); như vậy, ngoài các khu
chức năng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề,
nhà ở, dịch vụ và hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật (theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 30 Luật Xây dựng năm 2014) thì các dự án như điện mặt
trời, điện gió, các điểm kinh doanh dịch vụ du lịch, các khu sản xuất vật
liệu xây dựng, trồng trọt kết hợp chăn nuôi,... không thuộc quy định tại điểm
d khoản 2 Điều 30 Luật Xây dựng năm 2014.
|
Đề nghị quy định cụ thể về khu
chức năng khác bao gồm các khu gì, loại hình dự án gì?
|
Bình
Thuận
|
|
|
5. Các trường hợp được điều
chỉnh dự án tại Khoản 1, Điều 61 Luật Xây dựng năm 2014 và Khoản 2, Điều 43
Luật Đầu tư công năm 2019 chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ
|
Đề nghị sửa đổi, điều chỉnh
Luật Xây dựng năm 2014 hoặc Luật Đầu tư công năm 2019 để đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ trong quy định về điều chỉnh dự án
|
Đồng
Tháp
|
|
|
6. Điều 25 Luật Xây dựng năm
2014 quy định:
“1. Quy hoạch chung xây
dựng được lập cho khu chức năng có quy mô từ 500 héc ta trở lên làm cơ sở lập
quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết xây dựng.
2. Quy hoạch phân khu xây
dựng được lập cho khu vực chức năng đặc thù có quy mô dưới 500 héc ta làm cơ
sở lập quy hoạch chi tiết xây dựng.
3. Quy hoạch chi tiết xây
dựng được lập cho các khu vực trong khu chức năng làm cơ sở cấp giấy phép xây
dựng và lập dự án đầu tư xây dựng". Trong khi thực tế có rất nhiều
các khu chức năng có diện tích nhỏ (<100 ha, thậm chí chỉ vài ha), ví dụ:
Khu nghiên cứu, đào tạo; khu thể dục thể thao; khu di tích lịch sử - văn hóa,
cách mạng theo quy định của Luật Xây dựng vẫn phải lập QHPK làm cơ sở để lập
QHCT dẫn đến tốn kém về thời gian, tiền bạc làm mất nhiều cơ hội đầu tư.
|
1. Đề nghị xem xét, bổ sung
thêm quy định: Với quy mô diện tích dưới 100ha thì Khu chức năng chỉ phải lập
quy hoạch chi tiết để làm cơ sở cấp giấy phép xây dựng và lập dự án đầu tư
xây dựng.
|
Phú
Thọ, Điện Biên
|
|
|
7. Tại khoản 29 Điều 3 Luật
Xây dựng quy định “Nhà ở riêng lẻ là công trình được xây dựng trong khuôn
viên đất ở thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân theo quy định của
pháp luật”. Theo quy định này thì tổ chức không có quyền sử dụng đối với “nhà
ở riêng lẻ”. Tại khoản 2 Điều 3 Luật Nhà ở quy định “Nhà ở riêng lẻ là nhà ở được
xây dựng trên thửa đất ở riêng biệt thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân, bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề và nhà ở độc lập".
Theo quy định này, tổ chức có quyền sử dụng hợp pháp đối với “nhà ở riêng lẻ”.
Như vậy, khái niệm “nhà ở
riêng lẻ" đang được Luật Xây dựng và Luật Nhà ở giải thích khác nhau,
đặc biệt về chủ thể có quyền sử dụng đối với loại tài sản này. Điều này gây
khó khăn trên thực tế triển khai khi tổ chức xin cấp giấy phép xây dựng cho
nhà ở riêng lẻ theo Luật Xây dựng nhưng lại không có căn cứ để cấp phép,
trong khi theo Luật Nhà ở thì lại có quyền.
|
Đề nghị sửa đổi Luật Xây dựng
cho phù hợp với Luật Nhà ở
|
Thanh
Hóa
|
|
|
8. Theo quy định Luật Xây dựng
thì các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở được chuyển nhượng quyền sử
dụng đất dưới hình thức phân lô phải lấy ý kiến của các Bộ, ngành (mặc dù
Chính phủ đã quy định về điều kiện) gây khó khăn cho các địa phương và doanh nghiệp.
|
Đề nghị bỏ quy định này.
|
Yên
Bái
|
|
|
9. Có sự chồng chéo về giấy
phép hoạt động điện lực và chứng chỉ năng lực hoạt động điện lực giữa Luật
Điện lực và Luật Xây dựng gây khó khăn trong công tác lựa chọn nhà thầu. Cụ
thể là:
- Theo quy định tại điểm a,
khoản 1, Điều 45 Luật Điện lực hợp nhất số 03/VBHN-VPQH ngày 29 tháng 6 năm
2018 quy định: đơn vị tư vấn chuyên ngành điện lực có các quyền hoạt động tư
vấn theo giấy phép hoạt động điện lực. Vì vậy, tổ chức hoạt động tư vấn đầu
tư xây dựng công trình điện như: Lập dự án đầu tư, thiết kế cơ sở, thiết kế
kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật thi công, đấu thầu cho công trình nhà máy thủy
điện, nhà máy nhiệt điện, đường dây và trạm biến áp phải có giấy phép hoạt
động điện lực.
- Mặt khác, theo khoản 4, Điều
148 Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2014; Luật số
62/2020/QH14 ngày 28 tháng 6 năm 2020 Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật
Xây dựng và Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2021 quy định chi
tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng thì đơn vị tư vấn
chuyên ngành điện lực như: Thiết kế, thẩm tra thiết kế xây dựng công trình
công nghiệp năng lượng (Nhiệt điện, điện địa nhiệt; Điện hạt nhân; Thủy điện;
Điện gió, điện mặt trời, điện thủy triều; Điện sinh khối, điện rác, điện khí biogas;
Đường dây và trạm biến áp) phải có chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng.
|
Sđbs Luật Xây dựng và Luật
Điện lực thống nhất quy định về giấy phép hoạt động và chứng chỉ năng lực
hoạt động vào một loại văn bản và do một cơ quan cấp
|
Hải
Dương
|
|
|
10. Theo Quy định tại Khoản 1
Điều 92 Luật Xây dựng: Điều kiện cấp giấy phép xây dựng công trình không theo
tuyến ngoài đô thị phải phù hợp với vị trí và tổng mặt bằng của dự án đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản.
Như vậy, các dự án có quy mô
nhỏ như trên không phải lập quy hoạch chi tiết xây dựng, chỉ thực hiện thủ
tục chấp thuận tổng mặt bằng dự án. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định
trình tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền chấp thuận tổng mặt bằng. Mặt khác,
nội dung thẩm định thiết kế cơ sở theo Luật Xây dựng và pháp luật có liên
quan khác vẫn yêu cầu đánh giá phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng. Dẫn
đến các doanh nghiệp có dự án quy mô nhỏ vẫn phải tổ chức lập quy hoạch chi
tiết xây dựng, gây phát sinh thủ tục, đặc biệt là quy trình, tục thẩm định,
phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng,
Luật Xây dựng và các văn bản dưới
Luật chưa quy định rõ điều chỉnh thiết kế cơ sở với nội dung, quy mô như thế nào
thì mới phải điều chỉnh dự án. Trên thực tế, nhiều hồ sơ điều chỉnh thiết kế
kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công đều có điều chỉnh thiết kế cơ sở (Ví
dụ: Phân chia lại các phòng chức năng, thay đổi bước cột, bước gian, khẩu độ,
chiều cao tầng, kiến trúc mặt đứng, bố trí lại cầu thang, hành lang, kích thước
đường ống...). Do vậy, phải thực hiện thẩm định, phê duyệt điều chỉnh từ bước
điều chỉnh dự án, từ đó phát sinh thủ tục hành chính, làm chậm, gián đoạn quá
trình đầu tư.
|
Đề nghị sửa đổi bổ sung quy
định để tháo gỡ.
|
|
|
|
11. Tại điểm a khoản 1 Điều
164 Luật Xây dựng (đã được sửa đổi, bổ sung lại điểm a khoản 63 Điều 1 Luật
số 62/2020/QH14) quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền, phân cấp
cho Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế
tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ, đồ án quy hoạch phân khu xây
dựng, quy hoạch chi tiết xây dựng khu chức năng. Tại khoản 13 Điều 3 Luật Xây
dựng (đã được sửa đổi, bổ sung tại điểm d khoản 1 Điều 1 Luật số
62/2020/QH14) quy định Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế là cơ quan chuyên môn về xây dựng.
|
Đề nghị bổ sung nội dung quy
định về việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Ban Quản lý các khu
công nghiệp, khu kinh tế thẩm định và phê duyệt nhiệm vụ và đề án quy hoạch
chi tiết (tỷ lệ 1/500) thuộc phạm vi quản lý vào Điều 34 Luật Xây dựng năm
2014.
|
Hải
Phòng
|
|
|
12. Theo quy định của Luật Xây
dựng và nội dung sửa đổi bổ sung bởi Luật số 35/2018/QH14, Quy hoạch phân khu
xây dựng tỷ lệ 1/2.000 lập cho khu vực chức năng có quy mô dưới 500 ha làm cơ
sở lập quy hoạch chi tiết xây dựng (Khoản 2 Điều 25 và Điểm b Khoản 2 Điều
27); UBND cấp tỉnh tổ chức lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch phân khu xây dựng
Khu chức năng (Khoản 2 Điều 24).
Trong thực tiễn khi triển khai
thực hiện, một số Khu chức năng (<500ha) nằm trong khu vực đã có đồ án Quy
hoạch phân khu đô thị (tỷ lệ 1/5000 hoặc 1/2000) được phê duyệt; Để tổ chức lập
quy hoạch chi tiết, dự án đầu tư đối với các khu chức năng (<500ha) căn cứ
theo Luật Xây dựng và Nghị định số 44/2015/NĐ-CP sẽ vẫn phải lập Quy hoạch
phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 đối với Khu chức năng. Việc này dẫn tới lãng
phí ngân sách và thời gian, do phải thực hiện 2 loại quy hoạch tại cùng 1 khu
đất.
|
Sửa đổi theo hướng tại một khu
vực, chỉ lập 01 quy hoạch phân khu và các quy hoạch trong khu vực đô thị, việc
thẩm định, phê duyệt quy hoạch thực hiện theo quy trình của Luật Quy hoạch đô
thị.
|
Hà
Nội
|
|
|
13. Khoản 25 Điều 3 Luật Xây
dựng sửa đổi 2018 quy định: “Khu chức năng đặc thù là khu vực phát triển theo
các chức năng chuyên biệt hoặc hỗn hợp như khu kinh tế, khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao; khu du lịch, khu sinh thái; khu bảo tồn, khu di
tích lịch sử - văn hóa; khu nghiên cứu đào tạo; khu thể dục thể thao; cảng
hàng không, cảng biển; khu đầu mối hạ tầng kỹ thuật; khu chức năng đặc thù
khác được xác định theo quy hoạch xây dựng vùng được phê duyệt hoặc được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập “Nay Luật số 35/2018/QH14
ngày 20/11/2018 sửa đổi khái niệm “khu chức năng đặc thù" thành
“khu chức năng Khu chức năng bao gồm khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao; khu du lịch: khu nghiên cứu, đào tạo: khu thể dục thể
thao. Như vậy các: khu sinh thái; khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn
hóa; cảng hàng không, cảng biển; khu đầu mối hạ tầng kỹ thuật không thuộc khu
chức năng do vậy không rõ quy định và không có cơ sở để hướng dẫn các tổ chức,
cá nhân thực hiện lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch cho các khu này.
|
Sửa đổi, bổ sung quy định đối
với việc lập quy hoạch các loại hình trên để tháo gỡ vướng mắc trong quá
trình triển khai thực hiện. Đề nghị giữ nguyên như khoản 25 Điều 3 của Luật
Xây dựng năm 2014, vì tính chất của các khu này là khu chức năng.
|
Hà
Nội, Điện Biên
|
II
|
Luật
Nhà ở
|
|
|
|
|
|
14. Khoản 1 Điều 122 Luật Nhà
ở năm 2014 quy định hợp đồng mua bán nhà ở thương mại phải thực hiện công chứng,
chứng thực trừ một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 122. Thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng. Khoản 2
Điều 17 Luật Kinh doanh bất động sản quy định, hợp đồng kinh doanh bất động
sản phải lập thành văn bản, việc công chứng, chứng thực do các bên thỏa
thuận, trừ hợp đồng mua bán, cho thuê nhà, công trình xây dựng, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà các bên là hộ gia đình, cá nhân thì phải công
chứng, chứng thực. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận
và ghi trong hợp đồng. Trường hợp hợp đồng có công chứng, chứng thực thì thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực. Trường hợp
các bên không có thỏa thuận, không có công chứng, chứng thực thì thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên ký kết hợp đồng. Giữa Luật Nhà ở
và Luật Kinh doanh bất động sản chưa thống nhất về hình thức của hợp đồng mua
bán nhà ở thương mại. Điều này còn ảnh hưởng đến thời điểm phát sinh hiệu lực
của hợp đồng và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của các bên khi
phát sinh tranh chấp trên thực tế.
|
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp.
|
Bình
Thuận
|
|
|
15. Điểm a khoản 2 Điều 57
Luật Nhà ở 2014 quy định: "Đối với nhà ở xã hội được đầu tư không
phải bằng nguồn vốn hoặc hình thức quy định tại khoản 1 Điều 53 của Luật này
thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện
lựa chọn chủ đầu tư theo quy định như sau:
a) Trường hợp Nhà nước giao
đất hoặc cho thuê đất để xây dựng nhà ở xã hội thì thực hiện lựa chọn chủ đầu
tư thông qua hình thức đấu thầu nếu có từ hai nhà đầu tư trở lên đăng ký làm
chủ đầu tư hoặc chỉ định chủ đầu tư nếu chỉ có một nhà đầu tư đăng ký làm chủ
đầu tư” Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về đầu tư, nhà ở xã hội là
lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư (điểm d khoản 1 Điều 15 Luật Đầu tư 2020 và
mục IV.1 Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ). Căn cứ quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 110 Luật Đất đai 2013. Đối chiếu quy định tại điểm d khoản 2
Điều 118 Luật Đất đai thì việc giao đất/cho thuê đất thực hiện dự án nhà ở xã
hội không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, không thông qua đấu
thầu dự án có sử dụng đất. Như vậy, hình thức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện
dự án nhà ở xã hội quy định tại khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở không thống nhất
với hình thức lựa chọn nhà đầu tư quy định tại Luật Đầu tư, Luật Đất đai.
|
Đề nghị sửa đổi quy định tại
khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở, trong đó quy định dự án nhà ở xã hội được nhà
nước giao đất không thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư để phù hợp với
pháp luật về đầu tư và pháp luật về đất đai
|
Nghệ
An
|
|
|
16. Luật Nhà ở năm 2014 và
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quan niệm về tài sản hình thành trong
tương lai mới chỉ dựa trên yếu tố vật chất, vật lý của tài sản mà bỏ qua yếu
tố về mặt pháp lý của tài sản đó là nhà ở, bất động sản đã hình thành nhưng
chưa xác lập quyền sở hữu cho chủ thể vào thời điểm xác lập giao dịch. Vì
vậy, các loại tài sản như nhà ở xây dựng xong, đã được nghiệm thu đưa vào sử
dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu sẽ không được coi là tài sản
hình thành trong tương lai vì đã hình thành. Do vậy, cần phải nghiên cứu kỹ
các quy định của Luật Nhà ở năm 2014, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
về tài sản hình thành trong tương lai đảm bảo thống nhất, đồng bộ với quy
định tại Điểm b Khoản 2 Điều 108 Bộ luật Dân sự năm 2015 để phát huy tối đa
giá trị của tài sản
|
Đề nghị sđbs cho thống nhất.
|
Bình
Phước
|
|
|
17. Tại khoản 1 Điều 18 Luật
Nhà ở quy định các trường hợp phát triển nhà ở bao gồm:
“1. Các trường hợp phát
triển nhà ở
a) Phát triển nhà ở thương
mại:
b) Phát triển nhà ở xã hội;
c) Phát triển nhà ở công vụ;
d) Phát triển nhà ở để phục
vụ tái định cư;
đ) Phát triển nhà ở của hộ
gia đình, cá nhân
Tuy nhiên, trên thực tế có
nhiều doanh nghiệp đã có đất có nhu cầu đầu tư nhà ở cho cán bộ, công nhân
viên, cho các chuyên gia, công nhân lao động bán, cho thuê, cho thuê
mua...Tuy nhiên đang có vướng mắc về trình tự thực hiện và các đối tượng được
mua, thuê, cho thuê mua.
|
Đề nghị xem xét sửa đổi bổ
sung quy định về phát triển nhà ở của các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở
cho cán bộ, chuyên gia, nhà ở công nhân... tại Khoản 1 Điều 18 Luật Nhà ở.
|
|
Ill
|
Luật
Kinh doanh bất động sản
|
|
|
|
|
|
18. Điều 51 Luật Kinh doanh
bất động sản quy định về thủ tục chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án
bất động sản, theo đó nhà đầu tư phải xin Quyết định cho phép chuyển nhượng
toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản của UBND cấp tỉnh.
Tuy nhiên, theo quy định tại
Điều 45 Luật Đầu tư, nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ
dự án cho nhà đầu tư khác khi đáp ứng đủ điều kiện. Khi thay đổi nhà đầu tư,
nhà đầu tư phải điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư theo thủ tục điều chỉnh
quyết định chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh.
Như vậy, để thực hiện chuyển nhượng
dự án trên thực tế, Nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư trước tiên. UBND cấp tỉnh sẽ tham vấn ý
kiến của các cơ quan tham mưu và cơ quan quản lý tại địa phương như Sở Xây
dựng. Sở Tài nguyên Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế trước khi quyết
định chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư cho nhà đầu tư
|
Đề nghị sđbs để thống nhất.
|
Bình
Phước
|
|
|
19. Tại Điều 54, 55 Luật Kinh doanh
bất động sản quy định về điều kiện bất động sản hình thành trong tương lai
"Điều 54. Quyền
kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai
1. Chủ đầu tư dự án bất
động sản có quyền bán, cho thuê, cho thuê mua nhà, công trình xây dựng hình
thành trong tương lai.
2. Việc bán, cho thuê, cho
thuê mua nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai được thực hiện
theo quy định của Chương này, các quy định tương ứng trong Chương II và các
quy định khác có liên quan của Luật này.
Điều 55. Điều kiện của
bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh
1. Có giấy tờ về quyền sử
dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng, giấy
tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng
theo tiến độ dự án; trường hợp là nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích
để ở hình thành trong tương lai thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành
xong phần móng của tòa nhà đó.
2. Trước khi bán, cho thuê
mua nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo
cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đủ điều kiện được bán, cho
thuê mua.
Trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được thông báo, cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm
trả lời bằng văn bản cho chủ đầu tư về nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê
mua; trường hợp không đủ điều kiện phải nêu rõ lý do”.
Tuy nhiên, trong Luật Kinh
doanh bất động sản, các Nghị định và Thông tư hướng dẫn chưa cụ thể đối với
loại bất động sản không phải nhà ở như: Các công trình thương mại, dịch vụ,
công trình xây dựng không phải nhà ở...
|
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật
Kinh doanh bất động sản theo hướng bổ sung quy định về kinh doanh bất động
sản hình thành trong tương lai đối với các công trình: thương mại, dịch vụ,
công trình xây dựng không phải nhà ở...
|
Quảng
Ninh
|
|
|
20. Tại khoản 1 Điều 10 quy
định điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành 1 lập
doanh nghiệp và có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng.
Luật Doanh nghiệp năm 2020
không có khái niệm về vốn pháp định, chỉ có khái niệm về vốn điều lệ
|
Đề nghị rà soát, chỉnh sửa cho
thống nhất giữa các Luật
|
Thái
Bình
|
IV
|
Luật
Quy hoạch đô thị
|
|
|
|
|
|
21. Khoản 1 Điều 20 Luật Quy
hoạch đô thị năm 2009 quy định: "Cơ quan tổ chức lập quy hoạch đô thị,
chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng quy định tại khoản 7 Điều 19 của Luật này có
trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên
quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị".
Khoản 4 Điều 21 Luật Quy hoạch
đô thị năm 2009 quy định: "Thời gian lấy ý kiến ít nhất là 15 ngày đối
với cơ quan, 30 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư".
Khoản 1 Điều 16 Luật Xây dựng
năm 2014 quy định: "Cơ quan, chủ đầu tư tổ chức lập quy hoạch xây
dựng có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có
liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng".
Khoản 4 Điều 17 Luật Xây dựng
năm 2014 quy định: "Thời gian lấy ý kiến về quy hoạch xây
dựng ít nhất là 20 ngày đối với cơ quan. 40 ngày đối với tổ chức, cá
nhân, cộng đồng dân cư".
Như vậy, quá trình tổ chức lập
quy hoạch xây dựng mất rất nhiều thời gian cho nội dung lấy ý kiến vào cả hai
bước Nhiệm vụ và Đồ án quy hoạch. Trong thực tế, các tổ chức, cá nhân, cộng đồng
dân cư thường ít (hoặc không) tham gia ý kiến ở bước lập nhiệm vụ quy hoạch
do bước nhiệm vụ quy hoạch mới chỉ xác định được phạm vi ranh giới, quy mô
diện tích và mục tiêu của quy hoạch chưa xác định được các phân khu chức năng
và định hướng hạ tầng kỹ thuật cụ thể. Các ý kiến tham gia, kiến nghị đề xuất
chủ yếu đều thực hiện ở bước lập đồ án quy hoạch.
|
Đề nghị Quốc hội sửa đổi khoản
1 Điều 20 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, Khoản 1 Điều 16 Luật Xây dựng năm 2014
theo hướng: Chỉ yêu cầu lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân
cư có liên quan đối với bước lập quy hoạch xây dựng (không cần thiết phải lấy
ý kiến đối với bước lập nhiệm vụ quy hoạch)
|
Lao
Cai
|
|
|
22. Khoản 2 Điều 44 Luật Quy
hoạch đô thị năm 2009 (được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 29 Luật sửa đổi, bổ sung
một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018) quy định:
"2. Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch
đô thị sau đây:
a) Quy hoạch chung thành
phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn, đô thị mới, trừ các quy hoạch đô thị quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này; đối với đồ án quy hoạch chung đô thị loại II,
III, IV và đô thị mới, trước khi phê duyệt phải có ý kiến thống nhất bằng văn
bản của Bộ Xây dựng;
Việc Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trước khi phê duyệt đối với đồ án quy hoạch
chung đô thị loại II, III, IV và đô thị mới phải có ý kiến thống nhất bằng
văn bản của Bộ Xây dựng sẽ không tạo được tính chủ động trong việc triển khai
thực hiện và phê duyệt đối với các đồ án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
|
Đề nghị đề án quy hoạch chung
đô thị loại III, IV và đô thị mới không phải có ý kiến thống nhất bằng văn
bản của Bộ Xây dựng.
|
|
|
|
23. Tại khoản 2 Điều 12 Luật
Quy hoạch đô thị và Khoản 2 Điều 19 Luật Xây dựng chỉ cho phép tài trợ kinh
phí để lập quy hoạch. Trong khi đó, thời gian qua các tổ chức và doanh nghiệp
đều đề xuất hình thức tài trợ sản phẩm quy hoạch. Như vậy, việc pháp luật
chưa quy định đối với trường hợp này thì giải quyết như thế nào.
|
Đề nghị nghiên cứu, bổ sung
cho phù hợp.
|
Quảng
Ngãi
|
|
|
24. Về trình HĐND các cấp
trước khi phê duyệt quy hoạch Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị hiện quy
định mang tính chung: quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị phải báo cáo,
trình HĐND trước khi phê duyệt: Luật chưa quy định rõ ràng, cụ thể là trình
HĐND đối với nhiệm vụ quy hoạch hay đồ án quy hoạch hay trình HĐND cả nhiệm
vụ lẫn đồ án quy hoạch (Nhiều địa phương hiện tại đang trình HĐND cả nhiệm vụ
lẫn đồ án quy hoạch - làm kéo dài thời gian thực hiện, do HĐND không họp
thường xuyên).
|
Đề nghị nghiên cứu, quy định
rõ trong các Luật về nội dung
|
|
|
|
25. Theo quy định tại Khoản 2,
Điều 18, Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12, quy định: “Quy hoạch hạ tầng
kỹ thuật là một nội dung trong đồ án quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy
hoạch chi tiết; đối với thành phố trực thuộc trung ương, quy hoạch hạ tầng kỹ
thuật được lập riêng thành đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật” Tuy
nhiên, một số lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị như: Đồ án Quy hoạch cao độ
nền và thoát nước mặt đô thị là cơ sở để phân lưu vực thoát nước cho các khu
vực trên địa bàn tỉnh (không thể thực hiện theo ranh giới hành chính như việc
quy định nội dung hạ tầng kỹ thuật có trong đồ án quy hoạch chung từng đô
thị) và phạm vi nghiên cứu mở rộng kết nối với các tỉnh, thành lân cận có
tính đến ứng phó với biến đổi khí hậu (tương tự đối với việc điều chỉnh các
đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật: cấp nước, thoát nước thải, cấp
điện, thoát nước, thu gom chất thải rắn, nghĩa trang...). Nhận thấy việc lập
các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật là rất cần thiết nhằm cụ thể hóa
các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật để địa phương có thể định hướng tổ chức đầu tư
xây dựng theo quy hoạch lâu dài.
|
Sđbs khoản 2, Điều 18, Luật
Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12, theo hướng cho phép Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố tùy theo điều kiện địa phương được tổ chức lập, thẩm định và phê
duyệt các đề án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật, để địa phương có kế
hoạch, chương trình, dự án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật
(cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, vv...) nhằm đảm bảo đầu tư hạ tầng
kỹ thuật đồng bộ và đúng định hướng quy hoạch và phát triển đô thị.
|
Bình
Dương
|
|
|
26. Điều 11 quy định "Việc
lập quy hoạch đô thị phải do tổ chức tư vấn thực hiện. Tổ chức tư vấn lập quy
hoạch đô thị được lựa chọn thông qua hình thức chỉ định hoặc thi tuyển và
khoản 2 Điều 3 Thông tư 20/2019/TT-BXD ngày 31/12/2019 hướng dẫn xác định, quản
lý chi phí quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị quy định "Chi phí
quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị được xác định theo hướng dẫn của Thông
tư này được sử dụng để lập và quản lý chi phí, làm cơ sở để tổ chức
thi tuyển hoặc chỉ định thầu xác định đơn vị thực hiện các công việc quy hoạch
phù hợp với quy định của pháp luật, tuy nhiên tại điểm b khoản 2 Điều 1
Nghị định số 72/2019/NĐ-CP ngày 30/8/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 37/2010/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm 2010 về lập, thẩm
định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị và Nghị định số 44/2015/NĐ-CP
ngày 06 tháng 5 năm 2015 quy định chi tiết một số nội dung về quy hoạch xây
dựng quy định ''việc lựa chọn tư vấn lập quy hoạch đô thị thực hiện theo
quy định pháp luật về đấu thầu". Do nội dung không đồng nhất trong
hình thức tổ chức lựa chọn đơn vị tư vấn lập quy hoạch nên không biết thực
hiện theo hình thức nào.
Điều 11, Luật Quy hoạch đô thị
(Điều này không bị Luật 35 điều chỉnh) quy định về lựa chọn tổ chức tư vấn lập
quy hoạch đô thị quy định: “Việc lập quy hoạch đô thị phải do tổ chức tư
vấn thực hiện. Tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị được lựa chọn thông qua hình
thức chỉ định hoặc thi tuyển Khoản 1 Điều 54. Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày
26/6/2014 của Chính phủ quy định Gói thầu được phép chỉ định thầu là
"Không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch
vụ phi tư vấn, dịch vụ công cộng;... Như vậy các gói thầu lập quy hoạch có
giá trị trên 500 triệu đồng phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi theo Điều
20 của Luật Đấu thầu hoặc đấu thầu hạn chế theo Điều 21 của Luật Đấu thầu.
Như vậy Luật quy hoạch, Luật
Xây dựng và Luật Đấu thầu còn có nội dung không thống nhất đối với việc Chỉ
định thầu hay đấu thầu lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch.
|
Đề nghị sửa đổi Điều 11 Luật
quy hoạch đô thị theo hướng thống nhất giữa các văn bản pháp luật như sau:
Sửa đổi khoản 1 Điều 11 Luật Quy hoạch đô thị: "Việc lập quy hoạch đô
thị phải do tổ chức tư vấn thực hiện. Tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị
được lựa chọn thông qua hình thức chỉ định hoặc thi tuyển" thành "Việc
lập quy hoạch đô thị phải do tổ chức tư vấn thực hiện. Tổ chức tư vấn lập quy
hoạch đô thị được lựa chọn theo quy định pháp luật về đấu thầu
|
Điện
Biên, Hà Nội
|
|
|
27. Theo quy định của Luật Quy
hoạch đô thị (Khoản 7, Điều 19) và Luật xây dựng (Khoản 3, Điều 24), Chủ đầu
tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập quy hoạch chi tiết khu vực được giao đầu
tư.
Theo các quy định của Luật Nhà
ở (Khoản 2, Điều 19), "Dự án đầu tư xây dựng nhà ở chỉ được lập, phê duyệt
và triển khai thực hiện tại khu vực đã có quy hoạch chi tiết được phê duyệt...”
Như vậy, theo các quy định của
Luật Quy hoạch đô thị và Luật Xây dựng nêu trên, phải xác định được chủ đầu tư
dự án, cấp thẩm quyền mới giao được đơn vị đó tổ chức lập quy hoạch chi tiết.
Ngược lại, theo Luật Nhà ở, việc giao chủ đầu tư thực hiện dự án nhà ở phải
căn cứ vào quy hoạch chi tiết được phê duyệt, mâu thuẫn trong các quy định
nêu trên dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện.
|
Sửa đổi Luật Quy hoạch đô thị
và Luật Xây dựng theo hướng UBND cấp tỉnh xem xét việc giao đơn vị đang quản
lý, sử dụng đất hợp pháp tổ chức lập quy hoạch chi tiết. Sau khi quy hoạch
chi tiết được duyệt, việc lựa chọn chủ đầu tư thực hiện ở bước sau theo quy
định hiện hành.
|
Hà
Nội
|
|
|
28. Theo Luật Quy hoạch đô thị
và các quy định hiện hành, UBND Thành phố sẽ phải tổ chức lập, phê duyệt điều
chỉnh cục bộ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu bằng nguồn vốn đầu tư công theo
các quy định về quản lý vốn đầu tư công. Sau đó, chủ đầu tư mới có cơ sở lập
quy hoạch chi tiết (hoặc lập điều chỉnh quy hoạch chi tiết) khu vực đã được
giao đầu tư. Thực hiện theo quy trình quy định nêu trên dẫn đến thời gian lập
quy hoạch chi tiết, lập và thực hiện dự án đầu tư kéo dài đồng thời vướng mắc
do quy định không được sử dụng vốn ngân sách để thực hiện quy hoạch các dự án
đầu tư theo hình thức kinh doanh.
|
Nghiên cứu sửa đổi luật theo
hướng đối với khu vực đã giao chủ đầu tư nay cần điều chỉnh cục bộ quy hoạch
chung, quy hoạch phân khu thì giao chủ đầu tư dự án tổ chức lập điều chỉnh.
Việc thẩm định và phê duyệt tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
|
|
|
|
29. Khoản 2, Điều 18 Luật Quy hoạch
đô thị: đối với thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật
được lập riêng thành đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật. Quy hoạch
hạ tầng kỹ thuật là một nội dung của đồ án quy hoạch đô thị, việc tách riêng
thành đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật dẫn đến thời gian triển
khai lâu. Ví dụ như: Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt năm 2011, tuy nhiên phải đến 2016 mới cơ bản phê duyệt xong các quy
hoạch chuyên ngành, ảnh hưởng đến công tác triển khai các đồ án quy hoạch
liên quan (có yêu cầu khớp nối thông nhất), công tác triển khai các dự án
ĐTXD các công trình hạ tầng kỹ thuật đầu mối, hạ tầng khung đô thị.
|
Xem xét sửa đổi (không yêu cầu
lập riêng các đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đối với thành phố
trực thuộc Trung ương). Các nội dung yêu cầu nghiên cứu đối với đồ án quy
hoạch chuyên ngành HTKT sẽ đưa vào nội dung nghiên cứu lập quy hoạch chung
xây dựng để đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, rút gọn
|
|
|
|
30. Theo quy định của Luật Quy
hoạch đô thị ngày 17/6/2009, đối với thành phố trực thuộc trung ương, quy hoạch
hạ tầng kỹ thuật được lập riêng thành đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ
thuật (Khoản 2 Điều 18) và thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
(Khoản 1 Điều 44).
|
Sửa đổi Luật theo hướng giao
thành phố phê duyệt điều chỉnh cục bộ các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ
thuật.
|
|
|
|
31. Nhằm đơn giản hóa thủ tục
hành chính, rút ngắn thời gian lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch
|
Đề nghị ủy quyền cho UBND cấp
tỉnh quyết định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung các đô thị loại I hoặc
cho phép tiến hành tổ chức lập đồ án song song với tổ chức lập nhiệm vụ quy
hoạch chung các đô thị loại I và trình duyệt đồng thời để rút ngắn thời gian
hoàn thành các đồ án
|
Quảng
Ninh
|
|
|
32. Nhằm đơn giản hóa thủ tục
hành chính, rút ngắn thời gian triển khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng
|
Đề nghị ủy quyền cho UBND cấp
tỉnh quyết định, phê duyệt điều chỉnh cục bộ đồ án quy hoạch chung thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ (đô thị loại I, Khu kinh tế) đảm bảo các điều kiện
điều chỉnh quy hoạch quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật Quy hoạch số 30/2009/QH12;
khoản 2 Điều 37 Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 (nội dung dự kiến điều chỉnh
không ảnh hưởng lớn đến tính chất ranh giới, định hướng phát triển chung của
đô thị; tính chất, chức năng, quy mô và các giải pháp quy hoạch chính của khu
vực lập quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết).
|
|
V
|
Luật
Kiến trúc
|
|
|
|
|
|
33. Luật Kiến trúc năm 2019 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2020/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc có hiệu lực từ ngày
07/9/2020, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BXD. Tuy nhiên,
việc cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc cho cá nhân có yêu cầu chưa thực hiện
được vì chưa có tài liệu phục vụ sát hạch, bộ câu hỏi sát hạch (quy định tại
Khoản 1 Điều 25 Nghị định 85/2020/NĐ-CP) và chưa có tổ chức xã hội - nghề
nghiệp về kiến trúc được Bộ Xây dựng công nhận thực hiện sát hạch.
Hiện tại, nhiều cá nhân tham
gia hoạt động về kiến trúc đề nghị được cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc
(gồm có: cấp mới, cấp lại do chứng chỉ cũ đã hết hạn) nhưng cơ quan chuyên
môn về xây dựng không cấp được chứng chỉ do thiếu kết quả sát hạch theo quy
định của Luật Kiến trúc vì lý do nêu trên. Từ đó, đã gây cản trở cho các tổ
chức, cá nhân hoạt động thiết kế kiến trúc.
|
Đề nghị nghiên cứu, sđbs quy
định về sát hạch hành nghề kiến trúc cho phù hợp.
|
Lào
Cai
|
|
|
34. Tại khoản 4 Điều 14 Luật
Kiến trúc (Quy chế quản lý kiến trúc) quy định:
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xây dựng quy chế quản lý kiến trúc và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông
qua trước khi ban hành: đối với quy chế quản lý kiến trúc của đô thị loại đặc
biệt, đô thị loại I là thành phố trực thuộc trung ương thì phải có ý kiến thống
nhất của Bộ Xây dựng
Nội dung quy định này chưa phù
hợp, gây khó khăn, ách tắc trong quá trình phê duyệt Quy chế quản lý kiến trúc
do có yêu cầu phải thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh tất cả các Quy chế quản
lý kiến trúc của đô thị (kể cả các thị trấn là đô thị loại V là chưa phù
hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương).
|
Kiến nghị xem xét chỉ quy định
thông qua Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với đô thị đặc biệt và đô thị loại I,
các loại đô thị còn lại chỉ thông qua Hội đồng nhân dân cấp huyện.
|
Bạc
Liêu
|
VI
|
Nghị
quyết Quốc hội
|
|
|
|
|
- Nghị quyết số
1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại
đô thị;
- Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13
ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành
chính và phân loại đơn vị hành chính
|
35. Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13
quy định về Nhà tang lễ đối với đô thị loại V là ≥ 01 cơ sở (đạt tối đa 01
điểm) hoặc có dự án (đạt tối thiểu 0,75 điểm); quy định này không phù hợp với
tình hình thực tế như sau: Đối với quy mô đô thị loại V đa số là các thị trấn
cấp huyện, dân số đô thị không cao, việc lập dự án, đầu tư xây dựng Nhà tang
lễ cấp huyện tại thị trấn là rất ít. Mặc khác, hiện nay các dự án xây dựng
nghĩa trang ở các huyện, trong đó có đầu tư xây dựng Nhà tang lễ thường nằm
ngoài phạm vi ranh giới đô thị loại V (thị trấn).
|
Quy định trên áp dụng cho đô
thị loại V chưa phù hợp, đề xuất chỉ tiêu này không áp dụng đối với đô thị
loại V.
|
Bình
Thuận
|
|
|
36. Hiện nay, theo Chương
trình phát triển đô thị của tỉnh đã được phê duyệt, đến năm 2025 nhiều đô thị
là các thị trấn dự kiến nâng cấp thành đô thị loại I, II, III, IV. Đối với
các tiêu chí, tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội hiện nay cơ bản
các địa phương phấn đấu đạt được. Tuy nhiên, tiêu chí về quy mô dân số không
riêng tỉnh Long An, mà các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long rất khó đạt
được, bình quân đa số dân số các thị trấn vào khoảng 20.000 - 25.000 dân,
trong khi quy định phải 50.000 dân đối với đô thị loại IV và 500.000 dân -
≥1.000.000 dân đối với đô thị loại I. Theo quy định phân loại đô thị theo
Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
về phân loại đô thị, khi tính điểm của 5 tiêu chí phải đạt trên mức tối thiểu
và tổng số điểm của các tiêu chí phải đạt từ 75/100 điểm trở lên và điều kiện
bắt buộc khi một trong các tiêu chí không đạt điểm tối thiểu dù có tổng số
điểm các tiêu chí đạt từ 75 điểm trở lên thì đô thị vẫn không được công nhận.
Do đó, địa phương gặp khó khăn trong quá trình thực hiện phân loại đô thị
theo kế hoạch của tỉnh và vấn đề này sẽ khó khắc phục được đối với tỉnh Long
An và các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, việc đầu tư từng bước hoàn
chỉnh hạ tầng của một đô thị các địa phương phấn đấu sẽ đạt được, khi hạ tầng
phát triển sẽ tạo điều kiện để phát triển dân số, góp phần rất lớn vào việc
phát triển kinh tế của địa phương.
Do vậy, để triển khai lộ trình
Chương trình phát triển đô thị phù hợp với thực tế phát triển của địa phương;
để các địa phương từng bước hình thành và phát triển các đô thị trên địa bàn tỉnh
khi đảm bảo các tiêu chí về điều kiện hạ tầng.
|
Đề nghị xem xét điều chỉnh
Khoản 3, Điều 10, Nghị quyết số
1210/2016/UBTVQH13 về tính
điểm phân loại như sau: "Đô thị được công nhận loại đô thị khi các
tiêu chí đạt mức tối thiểu (đối với tiêu chí quy mô dân số cho nợ hoặc có quy
mô dân số phù hợp từng vùng, miền)”
|
Long
An
|
|
|
37. Đối với lĩnh vực phát
triển đô thị: Hiện nay việc triển khai tổ chức thực hiện phân loại đô thị,
tiêu chuẩn đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính tại địa phương
gặp nhiều khó khăn do sự mâu thuẫn giữa các quy định tại Nghị quyết số
1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại
đô thị và Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành
chính.
Ngoài ra, qua đối chiếu các
quy định có liên quan đến quản lý phát triển đô thị, hiện nay chỉ có Nghị
định số 11/2013/NĐ-CP ngày 14/01/2013 của Chính phủ về quản lý đầu tư phát
triển đô thị, tuy nhiên Nghị định này đã không còn phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội.
- Đối với lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật
đô thị: Hiện nay vẫn chưa có khung pháp lý nào quy định về vai trò, trách
nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước và quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp
đối với hoạt động cấp nước, các quy định về bảo vệ quyền lợi người sử dụng
nước sạch.
|
Xem xét sửa đổi Nghị quyết số
1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 và Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 để đảm
bảo tính thống nhất trong quy định về phân loại đô thị với đơn vị hành chính.
|
Trà
Vinh
|
|
|
38. Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13
và Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phân
loại đô thị, phân loại đơn vị hành chính được ban hành là cơ sở thuận lợi,
phù hợp với thực tiễn để triển khai lập Chương trình phát triển đô thị toàn
tỉnh, Chương trình phát triển đô thị từng địa phương và Đề án phân loại đô
thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện
vẫn còn có một số khó khăn do chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị
quyết. Cụ thể:
(1) Hiện nay, xu hướng phát
triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh, đô thị ứng phó
biến đổi khí hậu... tuy nhiên tại Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 chưa có
các tiêu chuẩn để đánh giá hoặc cộng điểm đối với các đô thị trên.
(2) Đối với các tiêu chuẩn
đánh giá:
- Nhóm các tiêu chuẩn về giao thông:
thực tiễn cho thấy yêu cầu phát triển giao thông của các đô thị đang là vấn
đề phức tạp (tình trạng ùn, tắc đường; thiếu chỗ đỗ xe...).
+ Nhóm về tiêu chuẩn cấp điện:
Triển khai thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng
Ninh đã từng bước triển khai các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu
quả như: Thay thế hệ thống đèn Led chiếu sáng đô thị và công trình, lắp đặt
hệ thống điện mặt trời áp mái, thay thế các thiết bị sử dụng nhiều năng lượng
bằng thiết bị biến tần (invester) tiết kiệm năng lượng... Do đô thị phát
triển, áp dụng nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng thì tiêu chuẩn về cấp
điện sinh hoạt sẽ giảm.
|
(1) Đề nghị nghiên cứu bổ sung
các tiêu chuẩn để đánh giá hoặc cho điểm cộng đối với các đô thị phát triển
tốt các yếu tố này.
(2) Đề nghị:
- Tiếp tục quan tâm nghiên
cứu, đề xuất tăng tỷ lệ đất
giao thông đô thị, tăng tỷ lệ vận tải hành khách công cộng, đồng thời, cần có
số liệu cụ thể và tách tỷ lệ đất giao thông tỉnh (bến, bãi đỗ xe...) trong tỷ
lệ đất giao thông đô thị quy định tại Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13.
- Tham mưu cân đối tính toán
lại số liệu, chấm điểm tiêu chuẩn cấp điện cho phù hợp yêu cầu phát triển.
|
Quảng
Ninh
|
Phụ lục 4-
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
DANH MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH
TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
Thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường (02 Luật, 12 vấn đề)
STT
|
Tên văn bản được rà soát
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Địa phương đề xuất phương án xử lý
|
Tên địa phương đề xuất
|
1
|
Luật Khoáng sản
|
|
|
|
|
|
1 .Theo
quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 67 Luật Bảo vệ môi trường ngày 17 tháng 11
năm 2020 quy định “tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế
biến khoáng sản phải có phương án phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và phải
có phương án cải tạo, phục hồi môi trường và tiến hành cải tạo, phục hồi môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản theo quy định của Luật này và quy
định của pháp luật về khoáng sản
- Theo
Điều 73 Luật Khoáng sản ngày 17 tháng 11 năm 2010 quy định nghĩa vụ tổ chức,
cá nhân khai thác khoáng sản phải lập đề án đóng cửa mỏ. Thực tế, Đề án đóng
cửa mỏ là một phần của phương án cải tạo, phục hồi môi trường, do đó dẫn đến
có sự chồng chéo giữa Luật Bảo vệ môi trường với Luật Khoáng sản, gây lãng
phí thời gian, chi phí của chủ đầu tư khai thác khoáng sản khi thực hiện.
|
Khi dự
án thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản đã được phê duyệt phương án cải tạo,
phục hồi môi trường cho toàn bộ quá trình thăm dò, khai thác, đóng cửa mỏ, chế
biến khoáng sản thì không cần phải thực hiện Đề án đóng cửa mỏ.
|
Bình Dương
|
|
|
2. Theo
quy định Điều 74 Luật Khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải
lập đề án đóng cửa mỏ, trình cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt và tổ chức thực
hiện, nghiệm thu trước khi quyết định đóng cửa mỏ. Tuy vậy, một số đơn vị sau
khai thác không triển khai thực hiện mặc dù đã được cơ quan quản lý nhà nước
đôn đốc, yêu cầu bằng văn bản. Việc xử lý vi phạm hành chính và buộc các đơn
vị thực hiện công tác đóng cửa mỏ gặp khó khăn do đơn vị khai thác khoáng sản
không liên hệ được và không phối hợp làm việc. Trong khi đó, theo quy định Luật
Khoáng sản và Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật khoáng sản mới quy định về lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ năng
lực để lập, thực hiện đề án đóng cửa mỏ khoáng sản trong các trường hợp: Đơn
vị khai thác khoáng sản đã phá sản, giải thể hoặc đã lập đề án đóng cửa mỏ
nhưng không đủ năng lực để hoàn thành.
3. Theo
quy định tại Điều 74 Luật Khoáng sản 2010 chưa hợp lý đối với các mỏ khai
thác làm vật liệu xây dựng thông thường. Theo quy định, hồ sơ cấp phép khai
thác khoáng sản đã có dự án cải tạo, phục hồi môi trường đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt, dự án đã có phương án phục hồi môi trường, chi phí cho công tác
phục hồi môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường. Vì vậy, sau khi kết thúc
khai thác mỏ, chủ dự án chỉ cần thực hiện theo đúng phương án bảo vệ môi trường
của dự án, báo cáo kết quả thực hiện cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
kiểm tra, nghiệm thu, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định đóng cửa
mỏ chứ không cần thiết phải lập đề án đóng cửa mỏ gây tốn kém cho doanh nghiệp.
|
1. Đề
nghị bổ sung Điều 74 Luật Khoáng sản và Điều 46 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản về quy định lựa chọn tổ
chức, cá nhân có đủ năng lực để lập, thực hiện đề án đóng cửa mỏ khoáng sản trong
trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản không thực hiện lập đề án
đóng cửa mỏ trình cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép sau thời
hạn 06 tháng kể từ ngày Giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực.
2. Sửa đổi
Điều 74 Luật Khoáng sản 2010 ngày 17/11 /2010 để tháo gỡ.
|
Hà Tĩnh, Quảng Bình
|
|
|
4. Theo
quy định tại Điều 64 Luật Khoáng sản mới quy định khai thác làm VLXD thông
thường trong diện tích đất của dự án đầu tư xây dựng công trình đã được cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc cho phép đầu tư mà sản phẩm
khai thác chỉ được sử dụng cho công trình đó mới không phải đề nghị cấp Giấy
phép khai thác khoáng sản. Các trường hợp vận chuyển, tiêu thụ ra ngoài phải
thực hiện cấp phép khai thác theo quy định tại Điều 65 Luật Khoáng sản. Thực
tế, việc triển khai thi công các dự án công trình là mục tiêu chính của các
nhà đầu tư, quá trình thực hiện có dư thừa một số khối lượng khoáng sản làm
VLXD thông thường (đất, cát, sét...) cần phải vận chuyển ra ngoài phạm vi dự
án và cung cấp cho các công trình xây dựng, các nhà máy gạch có nhu cầu sử dụng
(do không có vị trí đổ thải). Trường hợp thực hiện trình tự thủ tục, hồ sơ cấp
Giấy phép khai thác khoáng sản theo quy định tại Điều 65 Luật Khoáng sản sẽ
kéo dài thời gian, chậm tiến độ đầu tư thi công Dự án theo giấy chứng nhận đầu
tư đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc cho phép. Mặt
khác, khoáng sản làm VLXD thông thường không phải là nhóm khoáng sản quan trọng
và thực tế tại khoản 2 Điều 53 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP đã cho phép thực
hiện hồ sơ đăng ký khối lượng cát thu hồi từ dự án nạo vét, khơi thông luồng
lạch mà không phải cấp Giấy phép khai thác khoáng sản. Do vậy để tháo gỡ khó
khăn cho các đơn vị thực hiện dự án xây dựng công trình có dư thừa khoáng sản
làm VLXD thông thường được thực hiện hồ sơ đăng ký khai thác mà không phải cấp
Giấy phép khai thác khoáng sản.
|
1. Đề
nghị xem xét sửa đổi điểm a, khoản 2, Điều 64 Luật Khoáng sản “Tổ chức,
cá nhân khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không phải đề
nghị cấp Giấy phép khai thác khoáng sản trong các trường hợp sau đây: a) Khai
thác trong diện tích đất của dự án đầu tư xây dựng công trình đã được cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt hoặc cho phép đầu tư. ”
2. Kiến
nghị cấp có thẩm quyền quy định giao cho địa phương chấp thuận khu vực được sử
dụng đất dôi dư trong quá trình san gạt, cải tạo mặt bằng tại vị trí đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất dôi dư chỉ được vận chuyển trong
phạm vi của huyện. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác làm đơn đăng ký
khối lượng, thời gian khai thác, cam kết việc khai thác không gây ảnh hưởng tới
cảnh quan, đường giao thông, vật kiến trúc công cộng, việc sử dụng đất, tài sản
của các hộ dân xung quanh, có các biện pháp bảo vệ môi trường, không đưa đất
ra đường, thu gom quét dọn đất rơi vãi; thực hiện việc nộp thuế phí theo quy
định.
|
Lâm Đồng
|
|
|
5. Theo
quy định tại Điều 64 Luật Khoáng sản năm 2010 quy định khoáng sản làm vật liệu
xây dựng thông thường, nhưng không có đất san lấp, do đó rất khó khăn trong
việc xử lý các trường hợp khai thác đất để san lấp mặt bằng. Hiện nay các hộ
gia đình, cá nhân có nhu cầu san gạt mặt bằng để sản xuất nông nghiệp, xây dựng
công trình nhà ở, sản xuất kinh doanh dịch vụ sẽ có một phần khối lượng
đất dôi dư không thể vận chuyển ra ngoài (do quy định hiện nay chỉ cho phép
san gạt tại chỗ).
|
|
|
|
6.Khoản
1 Điều 59 Luật Khoáng sản quy định hồ sơ cấp giấy phép khai thác khoáng sản
phải có Giấy chứng nhận đầu tư. Trong khi Điều 37 Luật Đầu tư 2020 quy định
nhà đầu tư trong nước không bắt buộc phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
|
Đề nghị
xem xét, sửa đổi Luật Khoáng sản, trong đó đề nghị sửa đổi nội dung này theo
hướng "có Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư; Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư hoặc các giấy tờ pháp lý tương đương’’ đảm bảo tính thống nhất
trong hệ thống pháp luật.
|
|
|
|
7.Theo
quy định tại Điều 78 Luật Khoáng sản năm 2010, việc cấp thăm dò, khai thác
khoáng sản đất san lấp phải thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013, dự án khai
thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại
các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản
không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà thuộc trường hợp sử dụng đất
thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh theo quy định tại Điều 73 Luật
Đất đai năm 2013. Khi các tổ chức, cá nhân trúng đấu giá quyền khai thác
khoáng sản phải tiến hành bồi thường, giải phóng mặt bằng trong hoạt động
khoáng sản bằng các hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất hoặc
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Do đó, các tổ chức
trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản khó triển khai thực hiện, tốn thời
gian, không có nguồn vật liệu san lấp để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương...
|
Sửa đổi,
bổ sung Điều 78 Luật Khoáng sản năm 2010 đối với đất vật liệu xây dựng thông
thường thuộc quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân thì không phải thực
hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
|
Tây Ninh
|
|
|
8.Tại
Khoản 2 Điều 53 quy định một trong những điều kiện để tổ chức, cá nhân được cấp
Giấy phép khai thác khoáng sản phải có dự án đầu tư khai thác khoáng sản ở
khu vực đã thăm dò, phê duyệt trữ lượng phù hợp với quy hoạch quy định tại
các điểm b, c và d khoản 1 Điều 10 của Luật này.
Tuy
nhiên tại Luật này và các văn bản pháp luật hướng dẫn liên quan không quy định
cụ thể, rõ ràng dự án đầu tự khai thác khoáng sản trong quy định nêu trên do
tổ chức, cá nhân tự lập và phê duyệt hay do cơ quan có thẩm quyền chấp thuận
phê duyệt theo quy định pháp luật.
|
Sửa đổi,
bổ sung quy định đối vướng mắc này.
|
Hải Phòng
|
|
|
9.Tại
khoản 1 Điều 2 Luật Khoáng sản quy định: '''‘Khoáng sản là khoáng vật,
khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại
trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của
mỏ
|
Đề nghị
xem xét sửa đổi lại theo các hướng sau:
a)
Đất, đất san lấp, đất đồi hay tài nguyên đất không phải là khoáng sản.
Lý do:
(1) Đất,
đất san lấp, đất đồi là tài nguyên đất, nên xếp riêng khác với tài nguyên
khoáng sản, cũng như các loại tài nguyên khác như tài nguyên nước, tài nguyên
sinh thái... để đảm bảo tính khoa học và thuận lợi cho công tác quản lý tài
nguyên.
(2) Nếu
xem đất là tài nguyên khoáng sản thì phát sinh nhiều bất cập sau:
- Tại Điều
65 Luật khoáng sản quy định về Khai thác khoáng sản ở khu vực có dự án đầu
tư xây dựng công trình, đều sử dụng cụm từ “phát hiện” có khoáng sản
trong quá trình thi công thì cơ quan quản lý có thẩm quyền phải cấp phép theo
quy định. Như vậy, hầu hết tất cả các dự án đầu tư xây dựng công trình (không
chỉ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, mà còn trên cả nước) đều có hoạt động đào -
đắp (đào móng, san nền...), đều "phát hiện” tài nguyên đất, đất san lấp,
do đó: nếu xem tài nguyên đất, đất san lấp là khoáng sản thì hầu hết tất cả
các dự án xây dựng công trình đều phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép khai thác khoáng sản theo quy định của Luật khoáng sản.
Như vậy thì thực tế việc đầu tư xây dựng hầu hết các công trình hiện nay (bao
gồm cả xây dựng nhà ở của dân, dự án đào đắp đê điều, cống rãnh...) đều đang
vi phạm các quy định của Luật Khoáng sản.
- Nếu
xem đất là khoáng sản thì việc quy hoạch thăm dò khoáng sản phải được triển
khai thực hiện trên toàn bộ diện tích của cả 1 tỉnh. ] quốc gia vì: trên toàn
bộ diện tích của tỉnh hay quốc gia đều có đất (đất, bùn đất, đất dưới mặt nước
ao hồ, sông, suối, biển...). Điều này đang mâu thuẫn với thực tiễn đang triển
khai thực hiện, quản lý và sử dụng tài nguyên đất.
- Quan
điểm và mục tiêu tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã xác định: "Phát
triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào ... đổi mới sáng tạo... Phải đổi mới
tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời... ”, mà muốn phát triển nhanh
và bền vững thì một trong những động lực quan trọng nhất là phát triển kinh tế
- xã hội và nhiệm vụ quan trọng trước hết là phải xây dựng, phát triển đồng bộ
cơ sở hạ tầng. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh cũng như các tình,thành khác đang đẩy
mạnh triển khai thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng, công trình (bao gồm cả
các dự án đầu tư công) cần phải thực hiện nhanh, đảm bảo tiến độ. Hầu hết tất
cả các dự án đều có hoạt động đào đắp, cần đất san lấp. Nếu xem đất là tài
nguyên khoáng sản thì để có nguồn đất phục vụ cho san lấp phải thực hiện một
loạt các thủ tục hành chính (đấu giá/không đấu giá, cấp phép thăm dò, thi
công thăm dò, phê duyệt trữ lượng, lập dự án khai thác đất, lập báo cáo đánh
giá tác động môi trường, cấp phép khai thác), ước tính mất khoảng 1 năm,
trong khi các dự án hầu hết chỉ có niên độ là 1-3 năm. Việc khai thác đất phải
thực hiện thủ tục như khai thác khoáng sản thực tế hiện nay đang là nguyên
nhân chính dẫn đến chậm các dự án (bao gồm cả dự án đầu tư công). Như vậy, việc
khai thác đất phải thực hiện thủ tục như khai thác khoáng sản hiện nay có rất
nhiều bất cập, gây cản trở cho thực hiện mục tiêu phát triển nhanh của các địa
phương và của cả quốc gia.
Do vậy,
cấp thiết cần phải sửa đổi ngay quy định về khái niệm “khoáng sản” theo hướng:
Đất san lấp, đất đồi hay tài nguyên đất không phải là khoáng sản.
b) Đất
đá thải mỏ than không phải là khoáng sản mà là chất thải rắn công nghiệp
thông thường.
Lý do:
(1)
Trong định nghĩa về khoáng sản tại Luật khoáng sản có quy định: ‘"Khoáng
sản là.... khoáng chất ở bãi thải của mỏ”: như vậy được hiểu rằng bản thân
bãi thải mỏ (hay chính là “đất đá thải mỏ” không phải là khoáng sản.
(2) Đất
đá thải mỏ thực chất là chất thải rắn công nghiệp thông thường, phát sinh từ
hoạt động khai thác, sản xuất than: điều này hoàn toàn phù hợp theo quy định
tại khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 “Chất thải là vật chất được
thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác” và
phù hợp với nội dung tại các báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các
dự án khai thác mỏ than (hiện trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đều
đánh giá đất đá thải mỏ than là một trong các loại chất thải rắn công nghiệp
thông thường và xác định các biện pháp xử lý, trong đó có thu gom, vận chuyển
về bãi thải theo quy định).
Nếu đã
xác định đất đá thải mỏ than là chất thải rắn công nghiệp thông thường thì
theo Điều 45 Luật bảo vệ môi trường 2014: “1. Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ có trách nhiệm giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải và thu hồi
năng lượng từ chất thải. 2. Nhà nước có chính sách khuyến khích giảm thiểu,
tái sử dụng, tái chế chất thải và thu hồi năng lượng từ chất thải. Như vậy,
nhà nước khuyến khích tái sử dụng đất đá thải mỏ.
(3) Ý
nghĩa của việc tái sử dụng đất đá thải mỏ: Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang có
khối lượng đất đá thải mỏ than rất lớn (khoảng 1.500 triệu m3). Hàng năm, các
mỏ than phát sinh hơn 100 triệu m3 đất đá thải, đang chiếm ngày càng nhiều diện
tích đất và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, cảnh quan và sạt lở đất. Việc
tái sử dụng đất đá thải mỏ làm vật liệu san lấp và làm nguyên vật liệu đầu
vào để sản xuất các sản phẩm khác sẽ giúp sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên
đất san lấp và tạo nguyên vật liệu mới cho quá trình sản xuất khác. Do vậy,
việc tái sử dụng đất đá thải mỏ là cấp thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng,
đặc biệt là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông, góp
phần phát triển nền kinh tế tuần hoàn, phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
phát triển nhanh và bền vững.
Tuy
nhiên, việc tái sử dụng đất đá thải mỏ hiện nay thực tế đang chưa được khuyến
khích mà lại còn đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về thủ tục hành chính,
do đất đá thải mỏ than đang được xem và quản lý như tài nguyên khoáng sản đi
kèm than. Để sử dụng đất đá thải mỏ phải thực hiện đầy đủ các một loạt các thủ
tục hành chính (đánh giá trữ lượng, lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường
của các dự án mỏ, lập hồ sơ xin cấp phép khai thác khoáng sản... (thẩm quyền
của Bộ Tài nguyên và Môi trường), với thời gian thực hiện mất khoảng 1 - 1,5
năm (ngay cả khi được Bộ Tài nguyên và Môi trường ủy quyền cho tỉnh đối với từng
dự án đơn lẻ). Việc này làm cho hoạt động tái sử dụng đất đá thải mỏ gặp nhiều
khó khăn, không giải quyết sớm được các nguy cơ gây hại về môi trường, cũng
không đáp ứng kịp nhu cầu sử dụng đất đá thải mỏ cho các mục đích phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
Do vậy,
cấp thiết cần phải sửa đổi ngay quy định về khái niệm khoáng sản theo hướng:
Đất đá thải mỏ than không phải là khoáng sản mà là chất thải rắn công nghiệp
thông thường.
|
Quảng Ninh
|
|
|
10. Theo
Luật khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thì không quy định khu
vực đấu giá phải là mặt bằng sạch. Theo Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn
thi hành luật thì đối với dự án khai thác mỏ không thuộc đối tượng thu hồi đất
mà việc bồi thường theo hình thức thỏa thuận (tài sản trên đất thuộc quyền sử
dụng của hộ gia đình, cá nhân). Như vậy, khi tổ chức đấu giá xong, đơn vị
trúng đấu giá mới triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trường
hợp đơn vị không thỏa thuận được để giải phóng mặt bằng thì dự án không triển
khai được.
Luật
khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật không quy định việc lấy ý
kiến thỏa thuận của chính quyền địa phương và nhân dân trong khu vực có mỏ
khai thác khi lập hồ sơ cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, hồ sơ tham
gia đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Vì vậy, khi đơn vị trúng đấu giá quyền
khai thác khoáng sản triển khai thăm dò, khai thác khoáng sản (ở khu vực
không phải đền bù giải phóng mặt bằng) mà nhân dân không đồng thuận thì dự án
không triển khai được.
|
Đề nghị
sđbs để tháo gỡ.
|
Quảng Trị
|
|
|
11. Luật
Khoáng sản chỉ quy định về chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản mà không
có quy định về thế chấp quyền khai thác khoáng sản. Thực tế, vốn dành cho
khai thác khoáng sản là rất lớn nên nhà đầu tư thường phải huy động qua tổ chức
tín dụng. Việc cho phép thế chấp quyền này là phù hợp với pháp luật về dân sự
và tháo gỡ cho nhà đầu tư.
|
Sửa đổi,
bổ sung Luật Khoáng sản, theo đó bổ sung quy định về việc ghi nhận quyền được
thế chấp/ nhận thế chấp quyền khai thác khoáng sản để có đầy đủ cơ sở pháp lý
thực hiện và đảm bảo đồng bộ với các văn bản pháp luật khác.
|
Thái Nguyên, Gia Lai.
|
II
|
Luật Bảo vệ môi trường 2020
|
|
|
|
|
|
12.Tại
điểm c khoản 2 Điều 58, khoản 2 Điều 75, điểm c khoản 5 Điều 86 và điểm d khoản
5 Điều 86 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có quy định giao UBND cấp tỉnh ban
hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm h khoản 9 Điều 30 Luật Ngân sách nhà nước
thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định các chế độ, chi ngân
sách đối với một số nhiệm vụ chỉ có tính chất đặc thù ở địa phương, khoản 2
Điều 27 Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định HĐND cấp tỉnh
ban hành Nghị quyết để quy định chính sách nhằm đảm bảo thi hành Hiến pháp,
luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, thẩm quyền ban hành các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường được quy
định tại Luật Bảo vệ môi trường không phù hợp, thống nhất với quy định của Luật
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và Luật Ngân sách nhà nước.
|
Sửa đổi
quy định về thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động liên
quan đến bảo vệ môi trường tại Luật Bảo vệ môi trường theo hướng giao cho Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh để thống nhất với Luật Ngân sách nhà nước và Luật ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật.
|
Nghệ An
|
Phụ lục 5- BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
DANH MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH
TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(02 Luật, 07 vấn
đề)
STT
|
Tên văn bản
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Đề xuất phương án xử lý
|
Địa phương đề xuất
|
|
|
|
|
|
I.
|
Luật Đường sắt
|
1. Về bổ
sung quy định phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương trong công tác quản
lý nhà nước về hoạt động vận tải đường sắt
a) Quy định
hiện nay của Luật Đường sắt:
- Điều
31 chưa quy định hoặc phân cấp cho chính quyền địa phương trong việc đăng
ký phương tiện giao thông đường sắt đô thị, đường sắt chuyên dùng trên địa
bàn quản lý.
- Điều
36 chưa quy định hoặc phân cấp cho chính quyền địa phương trong việc cấp
giấy phép lái tàu đường sắt đô thị, đường sắt chuyên dùng trên địa bàn quản
lý. Tại điều này cũng chưa có quy định việc cấp Giấy phép lái tàu cho những tuyến
đường sắt đô thị có công nghệ lần đầu tiên xây dựng tại Việt Nam.
- Theo
quy định tại Điều 73: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đầu tư, xây dựng, quản lý,
khai thác đường sắt đô thị nhưng không thực hiện việc đăng ký phương tiện
giao thông đường sắt đô thị, cấp Giấy phép lái tàu đường sắt đô thị mà việc
này do Bộ GTVT đang thực hiện.
- Về
công tác đăng ký phương tiện, cấp Giấy phép lái tàu thuộc nội dung quản lý
nhà nước về hoạt động đường sắt. Điều 84 của Luật Đường sắt cũng giao Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ
chức thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đường sắt.
b) Thực
hiện Nghị quyết 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 của Chính phủ về việc phân cấp quản
lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tại
Bộ GTVT và Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ phiên họp
chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 6/2021. Bộ GTVT đang thực hiện Đề án phân
cấp, ủy quyền trong lĩnh vực vận tải.
|
- Việc
phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật.
Đối với việc phân cấp cho chính quyền địa phương trong hoạt động vận tải đường
sắt cần phải được quy định trong Luật Đường sắt sau khi Đề án phân cấp, ủy
quyền trong lĩnh vực vận tải được cấp có thẩm quyền phê duyệt để phù hợp với
khoản 5 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức chính phủ,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2019.
- Việc
ban hành các Thông tư 33 và Thông tư 21 sửa đổi để phân cấp cho địa phương thực
hiện một số nhiệm vụ về hoạt động vận tải đường sắt chỉ thực hiện sau khi Luật
Đường sắt 2017 được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực mới có cơ sở thực hiện.
- Đề xuất:
+ Đề xuất
sửa, bổ sung khoản 5 và bổ sung mới khoản 6 Điều 31; sửa đổi, bổ sung khoản 4
và bổ sung mới khoản 5 Điều 36 Luật Đường sắt:
+ Đề xuất
đối với việc sửa đổi, bổ sung các Thông tư: Sau khi Luật Đường sắt 2017 được
sửa đổi theo kiến nghị trên thì mới sửa đổi, bổ sung Thông tư:
- Đối với
Thông tư 33: Điều 1, Điều 2 để điều chỉnh đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh
thuộc thẩm quyền của Bộ GTVT theo quy định của Luật Đường sắt sửa đổi và một
số điều, khoản khác có liên quan.
- Đối với
Thông tư 21: Điều 1, Điều 2 để điều chỉnh đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh
thuộc thẩm quyền của Bộ GTVT theo quy định của Luật Đường sắt sửa đổi và một
số điều, khoản khác có liên quan.
|
VPCP
|
|
|
2. Về
quy định độ tuổi của người được cấp Giấy phép lái tàu theo quy định của Luật
Đường sắt
a) Quy định
của Luật Đường sắt:
Điểm a
khoản 3 Điều 36 quy định: "3. Người được cấp giấy phép lái tàu phải
có các điều kiện sau đây:
a) Có
độ tuổi từ đủ 23 tuổi đến 55 tuổi đối với nam, từ đủ 23 tuổi đến 50 tuổi đối
với nữ: có giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn sức khỏe:"
b) Quy định
của Bộ Luật lao động 2019:
Bộ Luật
lao động 2019 đã thay thế Bộ Luật lao động 2012. Tại khoản 2 Điều 169 Bộ Luật
lao động 2019 theo đó tuổi nghỉ hưu đối với nam là 62 tuổi bắt đầu từ năm
2028 và đối với nữ là 60 tuổi bắt đầu từ năm 2025.
|
Đề xuất
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Bộ luật lao động
|
|
|
|
3. Về đường
sắt đô thị
a) Điều
77 Luật Đường sắt quy định:
"Điều
77. Quản lý an toàn đường sắt đô thị
1. Đường
sắt đô thị xây dựng mới hoặc nâng cấp trước khi đưa vào khai thác phải được
đánh giá, chứng nhận an toàn hệ thống: thẩm định, cấp Giấy chứng nhận thẩm định
hồ sơ an toàn hệ thống đường sắt đô thị.
2.
Doanh nghiệp kinh doanh đường sắt đô thị phải xây dựng và duy trì hệ thống quản
lý an toàn và được cấp Giấy chứng nhận định kỳ hệ thống quản lý an toàn vận
hành đường sắt đô thị.
3. Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định việc thực hiện đánh giá, chứng nhận an
toàn hệ thống đối với đường sắt đô thị và cấp Giấy chứng nhận thẩm định hồ sơ
an toàn hệ thống đường sắt đô thị, Giấy chứng nhận định kỳ hệ thống quản lý
an toàn vận hành đường sắt đô thị.".
b) Nhận
xét:
- Thực tế
hiện nay trên hai thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội đang xây dựng các tuyến đường
sắt đô thị có áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ khác nhau của mỗi nước
cho vay vốn để đầu tư như: Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản,...
Các tuyến
ĐSĐT: Tuyến Cát Linh-Hà Đông tiêu chuẩn công nghệ Trung Quốc; tuyến Nhổn-ga Hà
Nội tiêu chuẩn công nghệ Pháp; tuyến Bến Thành-Suối Tiên tiêu chuẩn công nghệ
Nhật Bản đang xây dựng ở Việt Nam và chưa đưa vào khai thác.
- Với
yêu cầu của tiêu chuẩn kỹ thuật mỗi nước khác nhau thì việc đòi hỏi, đánh giá
an toàn hệ thống DSĐT cũng khác nhau như: Đối với công nghệ Nhật Bản không có
quy định đánh giá an toàn hệ thống; đối với công nghệ của Trung Quốc chỉ quy
định đánh giá an toàn của một số hạng mục như: Tín hiệu, phanh điện kéo,...;
đối với Châu Âu quy định đánh giá an toàn hệ thống theo tiêu chuẩn của Châu
Âu.
|
Đề xuất:
Nghiên cứu để bổ sung, việc đánh giá. chứng nhận an toàn hệ thống cần xem xét
yếu tố công nghệ (Có thể bổ sung vào nội dung đánh giá tại TT31 /2018/1T-BGTVT)
|
|
|
|
4. Về đường
sắt tốc độ cao
a) Điều
82 Luật Đường sắt quy định quản lý an toàn đường sắt tốc độ cao như sau:
"Điều
82. Quản lý an toàn đường sắt tốc độ cao
1. Đường
sắt tốc độ cao xây dựng mới hoặc nâng cấp trước khi đưa vào khai thác phải được
đánh giá, chứng nhận an toàn hệ thống.
2.
Doanh nghiệp kinh doanh đường sắt tốc độ cao phải xây dựng và duy trì hệ thống
quản lý an toàn.
b) Nhận
xét:
- Đường
sắt tốc độ cao trên thế giới hiện nay được sử dụng ở mỗi nước có tiêu chuẩn,
công nghệ khác nhau như: Nhật Bản, Đài Loan - Shinkanshen; Pháp, Hàn Quốc -
TGV; Đức - Tiêu chuẩn Châu Âu; Trung Quốc
-
Tiêu chuẩn Châu Âu cải tiến.
- Ở
Việt Nam chưa có kinh nghiệm nghiên cứu đường sắt tốc độ cao; mặt khác các đề
xuất chủ trương đầu tư chưa chọn được công nghệ cho đường sắt tốc độ cao.
- Việc
quy định về đánh giá chứng nhận an toàn hệ thống của đường sắt tốc độ cao chỉ
có thể xác định được tiêu chuẩn, công nghệ đường sắt tốc độ cao đã được chọn.
Tuy
nhiên cũng cần phải xác định rõ chủ thể những nội dung đánh giá, chứng nhận
an toàn hệ thống; thẩm định, cấp giấy chứng nhận an toàn hệ thống đường sắt tốc
độ cao trong Luật Đường sắt để có sự chuẩn bị xây dựng khi đã xác định được
tiêu chuẩn, công nghệ.
Theo
quy định tại Điều 54 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP trong báo cáo nghiên cứu khả
thi phải có phương án công nghệ, kỹ thuật và thiết bị lựa chọn, tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật áp dụng.
|
Đề xuất,
kiến nghị:
Sửa đổi,
bổ sung Điều 82 Luật Đường sắt theo hướng bổ sung nội dung đánh giá: tiêu chuẩn,
kỹ thuật, công nghệ áp dụng của tuyến đường sắt và nội dung đánh giá chứng nhận
an toàn hệ thống đường sắt tốc độ cao được cấp có thẩm quyền phê duyệt cùng với
dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao.
|
|
II
|
Luật Hàng không dân dụng
|
1. Cơ
quan quản lý đất cảng HKSB: hiện nay theo quy định tại Điều 57, Điều 60 Luật
HKDD và điều 156 của Luật đất đai quy định, đất cảng HK, sân bay được giao
cho cảng vụ HK để quản lý và giao lại hoặc cho thuê đất...
Tuy
nhiên, hiện nay Cảng vụ không quản lý được (nhất là việc lấn chiếm, quản
lý...); các cảng HK tư nhân như Vân Đồn, Quảng Trị, đất lại được giao cho
Doanh nghiệp PPP nên không thống nhất; tại một số cảng HK hiện nay đất tại cảng
HK có rất nhiều chủ sở hữu khác nhau như quân đội, doanh nghiệp, cảng vụ...
không thể thống nhất như quy định trong Luật.
|
Cần sửa
đổi Điều 57 và 60 theo hướng bỏ nhiệm vụ quản lý toàn bộ diện tích đất cảng
hàng không của Cảng vụ, quy định: giao đất cho UBND tỉnh quản lý để giao và
cho thuê lại.
|
VPCP
|
|
|
2. Cảng
hàng không nội địa có hoạt động bay quốc tế: trên thực tế này sinh ra loại
hình cảng hàng không này, ví dụ Liên Khương, Điện Biên, Vinh... nhưng trong
Luật chưa có quy định, ngoài ra chưa có tiêu chuẩn để chuyển từ cảng HK nội địa
sang Cảng HK quốc tế.
|
Cần bổ
sung quy định cho hoạt động này
|
|
|
|
3. Chưa
quy định rõ khái niệm tàu bay, đăng ký tàu bay; đăng ký tàu bay không người
lái và phương tiện bay siêu nhẹ;
|
- Sửa đổi
Điều 13 theo hướng làm rõ khái niệm tàu bay, đăng ký tàu bay; đăng ký tàu bay
không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ.
- Sửa đổi
Điều 17 theo hướng quy định cơ quan cấp, công nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện
bay đối với tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ, để bảo đảm thống
nhất với khoản 2 Điều 21.
|
Bộ Quốc phòng
|
Phụ lục 6-BỘ TƯ PHÁP
DANH MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH
TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(02 luật, 18 vấn
đề)
STT
|
Tên văn bản
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Đề xuất phương án xử lý
|
Địa phương đề xuất
|
I
|
Luật Công chứng năm 2014
|
1. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 79 Luật Công chứng, Văn phòng công chứng được thành
lập trước ngày Luật Công chứng có hiệu lực thi hành được giữ nguyên tên gọi
đã đăng ký. Tuy nhiên, nếu thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng
công chứng thì phải thay đổi tên gọi của Văn phòng công chứng (khoản 3 Điều
22 Luật Công chứng).
Tại khoản
3 Điều 22 Luật Công chứng quy định: “Tên gọi của Văn phòng công chứng phải
bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc
họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các
công chứng viên hợp danh thỏa thuận,...”.
Quy định
trên là chưa phù hợp với thực tiễn, bởi tên gọi là tài sản, là thương hiệu của
Văn phòng công chứng được nhiều người biết đến. Việc thay đổi tên sẽ phần nào
ảnh hưởng thương hiệu đã xây dựng của Văn phòng công chứng, người dân cũng
khó khăn trong việc xác định Văn phòng công chứng mà mình đã từng công chứng.
Mặt khác, hầu hết trụ sở Văn phòng công chứng đều được thuê khi bên cho thuê
chấm dứt hợp đồng cho thuê thì Văn phòng đó sẽ phải thay đổi tên gọi (vấn đề
thay đổi tên văn phòng phải thực hiện thủ tục hành chính thay đổi nội dung
đăng ký hoạt động theo quy định pháp luật, kéo theo thay đổi bảng hiệu, con dấu,
in ấn lại hóa đơn,... gây tốn kém kinh phí và thời gian).
|
Điều chỉnh
quy định về tên gọi của Văn phòng công chứng tại khoản 2 Điều 79 và khoản 3
Điều 22 Luật Công chứng theo hướng đảm bảo phù hợp với thực tế.
|
UBND Thanh Hóa
|
|
2.Điều
44 Luật Công chứng năm 2014 quy định về nội dung công chứng ngoài trụ sở:
“...lý do chính đáng khác không thể đến tổ chức hành nghề công chứng” nhưng
không quy định rõ lý do chính đáng khác là gì? Luật Công chứng năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định công chứng viên hợp danh được đề
nghị xóa đăng ký hành nghề, thu hồi Thẻ theo nguyện vọng cá nhân dẫn đến tình
trạng khi công chứng viên hợp danh muốn tự chấm dứt hành nghề tại Tổ chức
hành nghề công chứng mà họ đang hoạt động nhưng Trưởng Văn phòng công chứng
không đề nghị Sở Tư pháp xóa đăng ký hành nghề và thu hồi thẻ công chứng viên.
|
Đề nghị
sửa đổi, bổ sung Điều 44 Luật Công chứng năm 2014 theo hướng quy định rõ “lý
do chính đáng khác”.
|
UBND tỉnh Bắc Giang
|
|
|
3.Hiện
nay, Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định về việc
tạm ngừng hoạt động của Văn phòng công chứng. Theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 30 Luật Công chứng quy định: “Văn phòng công chứng không hoạt động
liên tục từ 03 tháng trở lên, trừ trường hợp toàn bộ các công chứng viên hợp
danh bị tạm đình chỉ hành nghề công chứng” thì bị thu hồi quyết định cho phép
thành lập. Trong thực tiễn quản lý hoạt động của các Văn phòng công chứng đã
nảy sinh trường hợp Văn phòng công chứng phải tạm ngừng hoạt động do không có
công chứng viên hành nghề, tuy nhiên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 30
Luật Công chứng thì phải đủ thời gian 03 tháng không hoạt động liên tục mới
thu hồi quyết định thành lập của Văn phòng công chứng. Như vậy, trong thời
gian Văn phòng công chứng không hoạt động thì việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ
các hợp đồng giao dịch đã thực hiện tại Văn phòng công chứng đó không thực hiện
được, không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
|
Kiến nghị
bổ sung quy định về việc tạm ngừng hoạt động của Văn phòng công chứng để có
cơ sở áp dụng (Giao Sở Tư pháp chỉ định tổ chức hành nghề công chứng tạm thời
tiếp nhận hồ sơ công chứng để thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ các hợp
đồng giao dịch đã thực hiện tại Văn phòng công chứng tạm ngừng hoạt động nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân).
|
UBND Đà Nẵng
|
|
|
4.Theo
quy định tại Điều 64 Luật Công chứng “Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho
việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách
nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên quan.
Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại
tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng”. Như vậy, khi
thực hiện giám định chữ ký, chữ viết trong văn bản công chứng, cơ quan có thẩm
quyền phải thực hiện ngay tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng. Tuy
nhiên, việc giám định chữ ký, chữ viết cần sử dụng nhiều phương tiện, máy
móc, không thể đưa đến tổ chức hành nghề công chứng để thực hiện, do đó gây
vướng mắc, khó khăn trong quá trình kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án của cơ quan có thẩm quyền.
|
Đề nghị
sđbs cho phù hợp với thực tiễn
|
|
|
|
5. Khoản
2 Điều 15 Luật Công chứng quy định các trường hợp công chứng viên bị miễn nhiệm,
trong đó tại điểm b quy định công chứng viên “bị mất hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự’" thì bị miễn nhiệm, tuy nhiên Luật Công chứng không quy
định việc miễn nhiệm trong trường hợp công chứng viên chết.
|
Đề nghị
bổ sung trường hợp công chứng viên chết thuộc trường hợp bị miễn nhiệm cho đầy
đủ.
|
|
|
|
6.Bộ luật
Dân sự quy định về quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng, theo đó, một bên
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và phải thông báo ngay cho
bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế xảy ra tình trạng,
Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất,... còn trong thời hạn thuê nhưng không thể thực hiện tiếp cũng như hủy bỏ
do bên thuê đã chuyển khỏi nơi cư trú và bên cho thuê không thể liên lạc để
thực hiện thủ tục hủy bỏ hợp đồng thuê đã được công chứng chứng nhận. Trong
khi đó, Luật Công chứng quy định việc công chứng hủy bỏ hợp đồng, giao dịch
chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những
người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó.
|
Đề nghị
sđbs để tháo gỡ.
|
|
|
|
7.Khoản
1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 có sự mâu thuẫn với các văn bản pháp luật
khác trong việc xác định hiệu lực của hợp đồng, cụ thể như:
+ Điều
503 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực
kể từ thời điểm đăng ký theo quy định luật Đất đai.
+ Khoản
3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì các giao dịch có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký vào sổ địa chính.
+ Khoản
1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời
điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.
|
1. Kiến
nghị sửa đổi thống nhất hiệu lực của hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm được
công chứng, chứng thực.
|
UBND Đồng Tháp
|
|
|
8. Điểm
k khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “....hoặc kiêm nhiệm công
việc thường xuyên khác”.
Khó khăn
cho công tác quản lý nhà nước và tổ chức hành nghề công chứng trong việc quản
lý công chứng viên trong việc xác định “công việc thường xuyên khác” là những
loại công việc nào?
9. Trong
quy định về điều kiện hành nghề của công chứng viên và điều kiện thành lập văn
phòng công chứng trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng
ký thành lập
Khoản 1
Điều 27 Luật Công chứng năm 2014 quy định thay đổi thành viên hợp danh của
Văn phòng công chứng "1. Công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng
có thể chấm dứt tư cách thành viên hợp danh theo nguyện vọng cá nhân hoặc
trong các trường hợp khác do pháp luật quy định. Văn phòng công chứng có quyền
tiếp nhận công chứng viên hợp danh mới nếu công chứng viên đó được các công
chứng viên hợp danh còn lại chấp thuận. Việc chấm dứt tư cách công chứng viên
hợp danh và tiếp nhận công chứng viên hợp danh mới được thực hiện theo quy định
của Luật này và pháp luật về doanh nghiệp", điểm d khoản 1 Điều 30 Luật Công
chứng năm 2014 quy định "1. Văn phòng công chứng bị thu hồi quyết định
cho phép thành lập trong những trường hợp... d) Văn phòng công chứng chỉ còn
một công chứng viên hợp danh và không bổ sung được thành viên hợp danh mới
trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày thiếu công chứng viên hợp danh". Luật
Công chứng năm 2014 không quy định cụ thể thời gian tối thiểu"công chứng
viên hợp danh" hoạt động tại một tổ chức hành nghề công chứng, vì vậy thực
tế phát sinh "thị trường công chứng viên", một số cá nhân muốn thành
lập Văn phòng công chứng thực hiện việc thuê công chứng viên đứng tên hợp
danh trong khoảng thời gian nhất định để đảm bảo đủ điều kiện thành lập hoặc
duy trì thời hạn tìm kiếm công chứng viên khác; có công chứng viên thường
xuyên thay đổi tổ chức hành nghề công chứng (chỉ tham gia thành lập Văn phòng
công chứng, sau khi cơ quan chức năng cho phép thành lập và cấp giấy phép hoạt
động thì chấm dứt tư cách thành viên, đồng thời tham gia thành lập Văn phòng
công chứng khác,v.v.v...), khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, về lâu dài
ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của các bên giao kết hợp đồng
có công chứng, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề
công chứng, tiềm ẩn nhiều phức tạp trong các hợp đồng, giao dịch, dẫn đến nguy
cơ mất an toàn khi thực hiện công chứng tại các Văn phòng công chứng, ảnh hưởng
đến an ninh chính trị, trật tự xã hội, khó khăn trong quá trình quản lý Công
chứng viên và các Văn phòng công chứng...
|
2. Kiến
nghị sửa đổi bổ sung Luật Công chứng năm 2014, quy định loại công việc cụ thể
hoặc tính chất, mức độ công việc thường xuyên là như thế nào,...
Đề nghị
sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng theo hướng siết chặt điều kiện hành nghề của
công chứng viên và điều kiện thành lập văn phòng công chứng
|
UBND tỉnh Tuyên Quang
|
|
|
10. Khoản
2 Điều 48 Luật Công chứng quy định “Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong
trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không
ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng,
người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ
được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể
điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc
điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”. Quy định này vẫn chưa bao quát hết
trường hợp nếu người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch bị
cụt cả hai bàn tay không thể ký được và cũng không thể điểm chỉ được thì công
chứng viên sẽ phải giải quyết tình huống này như thế nào khi mà Luật Công chứng
vẫn chưa quy định cho trường hợp này. Do đó, đây được xem là “khoảng trống”
trong quy định của Luật Công chứng.
|
Đề nghị
sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng theo hướng sau: Đối với những người không thể
ký hoặc điểm chỉ do khuyến khuyết của cơ thể thì phải có 02 người làm chứng
ký hoặc điểm chỉ vào văn bản công chứng để xác nhận ý chí của người yêu cầu
công chứng trong giao dịch dân sự.
|
|
|
|
11. Hiện
nay, theo Luật Công chứng và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP có sự phân biệt lớn
giữa hoạt động công chứng và chứng thực. Khái niệm ‘‘Chứng thực” về mặt pháp
lý không có giải thích chung chính thức trong Nghị định 23/2015/NĐ-CP. Nói
riêng, về việc công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch, trong khi việc
công chứng hợp đồng giao dịch có sự bảo đảm về tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng, giao dịch, thì việc chứng thực hợp đồng, giao dịch cơ bản chỉ đảm bảo
được tính xác thực. Do đó, dịch vụ công về chứng thực là dịch vụ công không đầy
đủ, không đảm bảo được tính an toàn của giao dịch. Nhưng thực tế hiện nay
đang được sử dụng hầu như không có sự phân biệt về mặt giá trị so với hợp đồng,
giao dịch được công chứng, điều đó thể hiện rõ trong quy trình tiếp nhận, kiểm
tra, giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai đối với hợp đồng được công
chứng, chứng thực là giống nhau. Quy định trên không phù hợp trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế - xã hội đã có bước phát triển.
|
Đề nghị
bỏ việc chứng thực hợp đồng, giao dịch của UBND cấp xã, tập trung xây dựng hệ
thống công chứng chuyên nghiệp có xã hội hóa dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước.
|
UBND Phú Thọ
|
II
|
Luật Đấu giá tài sản năm 2016
|
|
|
|
|
12. Về
thủ tục đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản Khoản 2 Điều 31 Luật
Đấu giá tài sản quy định thủ tục chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp đấu giá
tài sản trong các trường hợp giải thể; hợp nhất, bị sáp nhập; phá sản; bị thu
hồi Giấy đăng ký hoạt động theo quy định mà không quy định chấm dứt hoạt động
trong trường hợp tự chấm dứt hoạt động và thành phần hồ sơ chấm dứt hoạt động
đối với các trường hợp nêu trên.
Vướng mắc,
bất cập. Đối với trường hợp doanh nghiệp đấu giá tài sản giải thể, hợp nhất,
bị sáp nhập (thuộc các trường hợp tự chấm dứt hoạt động) thì thủ tục chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản chưa được Luật Đấu giá tài sản năm
2016 quy định cụ thể về trình tự thực hiện, thành phần hồ sơ. Vì vậy, doanh
nghiệp đấu giá tài sản cũng như các cơ quan Nhà nước đều lúng túng trong việc
thực hiện quy định này.
13. Điều
54 Luật Đấu giá tài sản năm 2016
Điều 54
Luật Đấu giá năm 2016 quy định thời gian lưu trữ hồ sơ đấu giá là 05 năm kể từ
ngày kết thúc cuộc đấu giá.
Vướng mắc,
bất cập: Thực tế cho thấy thời hạn lưu trữ hồ sơ đấu giá 05 năm là quá ngắn,
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Bên cạnh đó, đã có trường hợp tại
thời điểm điều tra, truy tố, xét xử thì doanh nghiệp đấu giá tài sản đã chấm
dứt hoạt động, trong khi đó pháp luật chưa có quy định về bàn giao, lưu trữ hồ
sơ đấu giá tài sản khi tổ chức đấu giá tài sản chấm dứt hoạt động. Vì vậy, việc
thẩm định tính pháp lý của hồ sơ đấu giá cũng gặp nhiều khó khăn.
14. Điều
72 Luật Đấu giá tài sản năm 2016
Điều 72
Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy định về hủy kết quả đấu giá tài sản nhưng
không quy định trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước phát hiện việc đấu giá tài
sản có vi phạm về trình tự, thủ tục.
Khó
khăn, vướng mắc. Trên thực tế các tổ chức đấu giá có sai sót, vi phạm về
trình tự, thủ tục, trong đó có những vi phạm nghiêm trọng như tổ chức đấu giá
tài sản, tổ chức cuộc đấu giá không đúng quy định về hình thức đấu giá,
phương thức đấu giá theo Luật Đấu giá tài sản, Quy chế cuộc đấu giá dẫn đến
làm sai lệch kết quả đấu giá tài sản. Tại thời điểm phát hiện vi phạm, các
trường hợp này đã quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, vì vậy cơ quan quản
lý Nhà nước không thể xử phạt vi phạm hành chính. Hơn thế nữa, các trường hợp
này cũng không thuộc trường hợp phải hủy kết quả đấu giá tài sản dẫn đến bất
cập rất lớn, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
|
1.Đề nghị
sửa đổi bổ sung khoản 4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy định rõ về
các tiêu chí khác phù hợp với tài sản đầu giá do người có tài sản đấu giá quyết
định là những tiêu chí gì và việc thông báo công khai việc lựa chọn đơn vị thực
hiện quyền sử dụng đất để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức đấu giá
được cạnh tranh bình đẳng, ngoài các tiêu chí chung về lựa chọn tổ chức đấu
giá tài sản.
2. Đề
nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 31 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 theo hướng
quy định cụ thể, chi tiết thủ tục chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp đấu giá
tài sản trong trường hợp giải thể, hợp nhất, bị sáp nhập và tự chấm dứt hoạt
động.
3. Đề
nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 54 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 theo
hướng thời hạn lưu trữ hồ sơ đấu giá là 20 năm và bổ sung quy định về bàn
giao, lưu trữ hồ sơ đấu giá tài sản khi tổ chức đấu giá tài sản chấm dứt hoạt
động.
4. Đề
nghị sđbs quy định tại Điều 72 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 theo hướng quy định
về hủy kết quá đấu giá tài sản trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền phát hiện việc đấu giá tài sản có vi phạm về trình tự, thủ tục.
|
UBND tỉnh Bắc Giang
|
|
|
15.Điều
72 Luật Đấu giá tài sản quy định về các trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, các trường hợp hủy kết quả đấu giá lại Điều 72 còn chung chung,
chưa đảm bảo tính bao quát và dễ phát sinh việc bỏ sót, không xử lý được các
hành vi vi phạm pháp luật về đấu giá tài sản trên thực tế. Bên cạnh đó, Luật
Đấu giá tài sản chưa quy định cụ thể về thẩm quyền hủy kết quả đấu giá trong
một số trường hợp nên gây khó khăn trong việc áp dụng trên thực tế. Cụ thể:
- Khoản
2 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản quy định kết quả đấu giá bị hủy khi: “Hợp đồng
dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa án tuyên bố
vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp người trúng đấu
giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5 Điều 9 của Luật này”. Như
vậy, chỉ khi người trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản
5 Điều 9 của Luật Đấu giá tài sản mà hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sân, hợp đồng
mua bán tài sản bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì kết quả đấu giá mới bị hủy. Tuy
nhiên, quy định này gây ra nhiều bất cập trên thực tế, bởi lẽ nếu như người
trúng đấu giá không có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5 Điều 9 của
Luật thì Tòa án không thể tuyên vô hiệu hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp
đồng mua bán tài sản đấu giá. Trong khi đó, khoản 2 Điều 46 Luật Đấu giá tài
sản quy định: “Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được thực hiện theo quy định
của pháp luật về dân sự” và khoản 3 Điều 46 quy định: “3. Người trúng đấu giá
được coi như chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá kể từ thời
điểm đấu giá viên công bố người trúng đấu giá... Kể từ thời điểm này, quyền
và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự
và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Như vậy, đối với những trường hợp
hợp đồng bị vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mà không thuộc
trường hợp người trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5
Điều 9 của Luật Đấu giá tài sản thì xử lý như thế nào. Trường hợp này Tòa án
có được tuyên vô hiệu Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài
sản đấu giá hay không. Trong khi đó, về nguyên tắc sau khi ký kết hợp đồng
mua bán tài sản đấu giá thì các bên đã thực hiện quan hệ giao dịch dân sự, nếu
hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự thì được
Tòa án tuyên vô hiệu. Tuy nhiên, với cách quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Đấu
giá tài sản sẽ vô tình hạn chế các trường hợp hủy kết quả đấu giá đối với các
trường hợp Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng, giao dịch dân sự.
- Khoản
3 Điều 72 quy định: “3. Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định
tại khoản 6 Điều 33 của Luật này” và khoản 4 Điều 72 quy định: “4. Người có
tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, tổ chức đấu giá
tài sản, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá trong quá trình
tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ
tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản”. Tuy nhiên, Luật Đấu giá tài sản
chưa quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền hủy kết quả đấu giá tài sản trong
các trường hợp trên gây khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế. Bởi lẽ,
hiện nay liên quan đến việc đấu giá tài sản đang còn có nhiều cách hiểu khác
nhau về mối quan hệ hành chính hay quan hệ dân sự trong từng giai đoạn đấu
giá tài sản.
16. Khoản
1 và khoản 3 Điều 57 Luật Đấu giá tài sản quy định: “1. Ngoài quy định về
niêm yết việc đấu giá tài sản quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 35 của Luật
này, đối với tài sản đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng
trở lên và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai
ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử
chuyên ngành về đấu giá tài sản; mỗi lần thông báo công khai cách nhau ít nhất
02 ngày làm việc... 3. Thời gian thông báo công khai lần thứ hai ít nhất là
07 ngày làm việc đối với tài sản là động sản, 15 ngày đối với tài sản là bất
động sản trước ngày mở cuộc đấu giá. Việc thông báo công khai quy định tại
khoản 2 Điều này được thực hiện đồng thời với việc niêm yết đấu giá tài sản
quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này”.
Như vậy,
hiện nay Luật Đấu giá tài sản chỉ quy định về thời gian tối thiểu để tổ chức
đấu giá tài sản thực hiện việc thông báo công khai và bán hồ sơ cho khách
hàng tham gia đấu giá. Việc bán hồ sơ cho khách hàng tham gia đấu giá phải đảm
bảo thời gian tối thiểu theo quy định và được thực hiện theo như thông báo của
tổ chức đấu giá tài sản. Theo đó, khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản quy định:
“2. Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham
gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá
tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày”. Tuy nhiên, theo quy định
tại khoản 5 Điều 148 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “5. Khi ngày cuối cùng của
thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại
thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó”. Như vậy, trong trường
hợp nếu thời hạn cuối cùng là ngày nghỉ cuối tuần thì thời hạn kết thúc tại
thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.
Do Luật
Đấu giá tài sản hiện nay chưa có quy định cụ thể về cách tính ngày bán hồ sơ
tham gia đấu giá. trong trường hợp tổ chức đấu giá đã đảm bảo về thời gian
thông báo tối thiểu, tuy nhiên ngày kết thúc nhận hồ sơ tham gia đấu giá rơi
vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời điểm kết thúc nhận hồ sơ
có tính ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó hay không, tổ chức đấu giá tài sản
có trách nhiệm phải bán hồ sơ cho khách hàng trong ngày làm việc tiếp theo
hay không.
Ngoài
ra, trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư thì sau
khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện xét duyệt hồ sơ (để
bảo đảm các điều kiện, năng lực của nhà đầu tư). Tuy nhiên, việc Luật Đấu giá
quy định bán hồ sơ đến “trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày” sẽ gây áp lực nếu
lượng hồ sơ nộp quá nhiều thì không bảo đảm thời gian xét duyệt, đánh giá
năng lực nhà đầu tư.
|
Đề nghị
sửa đổi khoản 2 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản theo hướng: “Hợp đồng dịch vụ đấu
giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo
quy định của pháp luật về dân sự” để đảm bảo bao quát các trường hợp xảy ra
trên thực tế và thống nhất, phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đồng thời,
đề nghị cơ quan có thẩm quyền quy định rõ thẩm quyền hủy kết quả đấu giá tài
sản trong từng trường hợp để đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
Đề nghị
có hướng dẫn cụ thể về cách tính ngày bán hồ sơ tham gia đấu giá trong những
trường hợp này để thống nhất trong áp dụng.
|
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng
|
|
|
17.Khoản
2 Điều 8 Luật Đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu giá tài sản tiếp nhận hồ
sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu
giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày.
Tuy
nhiên tại khoản 2 Điều 39 Luật Đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu giá tài sản
chỉ được thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá trong thời hạn 3 ngày
làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá. Với các quy định nêu trên khi hết hạn tiếp
nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, người đăng ký vẫn có thể nộp tiền đặt
trước vào 02 ngày sau đó vì vậy quá trình triển khai thực hiện còn có tình trạng
nhiều khách hàng đã đăng ký tham gia đấu giá mà chưa nộp tiền đặt trước có thể
thông đồng, thoả thuận với nhau, sau đó chỉ có một hoặc vài người nộp tiền đặt
trước để mua tài sản, những người khác không nộp tiền đặt trước chỉ bị mất tiền
mua hồ sơ tham gia đấu giá.
|
Đề nghị
sửa đổi quy định về thời gian tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá tại Khoản 2 Điều
38 Luật Đấu giá tài sản. Đề hạn chế tính trạng nêu trên, tránh gây ảnh hưởng
đến hoạt động của các tổ chức đấu giá tài sản, nên quy định thời gian tiếp nhận
hồ sơ tham gia đấu giá trùng với thời gian nộp tiền đặt trước và đều trong thời
hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá.
|
UBND Lào Cai
|
|
|
18.Quy định
thời gian thẩm định hồ sơ theo quy định tại khoản 2, Điều 38 Luật Đấu giá tài
sản năm 2016 trong 02 ngày (quá ngắn) không đáp ứng với tình hình thực tế
|
Đề nghị
sửa đổi Khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 cho phù hợp với tình
hình thực tế
|
UBND Bình Phước
|
Phụ lục 7 - BỘ NÔNG NGHIỆP PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN
DANH MỤC NHỮNG
QUY ĐỊNH TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(01 luật, 5 vấn đề)
STT
|
Tên văn bản được rà soát
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Phương án xử lý
|
Cơ quan đề xuất
|
1
|
Luật lâm nghiệp
|
1.
Về phân cấp thẩm quyền chuyển đổi mục đích sử dụng rừng:
- Theo
quy định của Luật Lâm nghiệp (Điều 20): Việc chuyển mục đích sử dụng rừng
đặc dụng từ 50 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội; dưới 50 ha thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ. Việc chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ đầu
nguồn, rừng phòng hộ biên giới từ 50 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội;
từ 20 ha tới 50 ha thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; dưới 20 ha thuộc
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Việc chuyển mục đích sử dụng rừng
phòng hộ chắn gió, chắn cát bay và rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển từ 500
ha trở lên thuộc thẩm quyền của Quốc hội; từ 20 ha đến dưới 500 ha thuộc thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ; dưới 20 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh. Việc chuyển mục đích sử dụng rừng sản xuất từ 1.000 ha trở lên
thuộc thẩm quyền của Quốc hội; từ 50 ha đến dưới 1.000 ha thuộc thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ; dưới 50 ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Việc chuyển mục đích sử dụng rừng bảo vệ nguồn nước của cộng đồng dân cư thuộc
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, Luật Đất đai (Điều
58) quy định trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng từ 20 ha trở lên thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; dưới 20
ha thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; không quy định thẩm quyền
chuyển mục đích sử dụng đối với đất rừng sản xuất.
|
- Đề nghị
sửa đổi Điều 20 Luật Lâm nghiệp năm 20171 theo hướng phân cấp thẩm
quyền của Thủ tướng Chính phủ cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ
trương chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng dưới 20 ha (như đối với trường hợp
của phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ biên giới,... quy định tại khoản 3 Điều
20 Luật Lâm nghiệp năm 2017) và thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đất rừng của
Hội đồng nhân dân tỉnh quy định tại Điều 58 Luật Đất đai.
- Đối với
việc triển khai các dự án theo quy hoạch tình được Hội đồng thẩm định Quốc gia,
các Bộ, ngành Trung ương cho ý kiến, thẩm định, thông qua và được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, thì không cần thiết phải thực hiện thủ tục trình Thủ tướng Chính
phủ đồng ý cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng, chuyển mục
đích sử dụng rừng sang mục đích khác.... như hiện nay để giảm bớt thủ tục
hành chính, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án.
|
VPCP
|
|
|
2.
Về căn cứ, đối tượng chuyển mục đích sử dụng rừng:
- Khoản
3, Điều 15 Luật Lâm nghiệp năm 20172 quy định việc chuyển mục đích
sử dụng rừng sang mục đích khác đối với tổ chức sẽ được căn cứ vào ‘"nhu
cầu sử dụng rừng thể hiện trong dự án đầu tư”; đối với hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư căn cứ vào “đề nghị chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích
khác”. Tuy nhiên, tại khoản 3, Điều 19 Luật Lâm nghiệp năm 2017 lại quy định về
điều kiện chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, trong đó có điều kiện
“có dự án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”. Trên thực tế,
đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng rừng
sang mục đích khác nhằm xây dựng nhà ở riêng lẻ, cá nhân để phục vụ nhu cầu
nhà ở tối thiểu mà không phải chuyển mục đích rừng để phục vụ hoạt động kinh
doanh theo quy định của pháp luật đầu tư thì việc quy định điều kiện “có dự
án đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định” là không phù hợp
- Quy định
về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác và thực hiện trồng rừng thay
thế, thực tế khó khăn trong việc xác định đối tượng rừng đủ điều kiện để thực
hiện chuyển mục đích sử dụng là diện tích rừng tại thời điểm đề nghị chuyển mục
đích sử dụng hay diện tích rừng theo quy hoạch 3 loại rừng, theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, hay theo kết quả kiểm kê rừng, do một số dự án thực
hiện chuyển mục đích sử dụng rừng trên địa bàn tỉnh có sự không thống nhất về
hiện trạng rừng tại thời điểm kiểm tra thực tế với quy hoạch, kiểm kê, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn tới khó khăn trong việc xác định các dự án
nào khi thực hiện chuyển mục đích sử dụng rừng phải tổng hợp, trình cấp có thẩm
quyền quyết định chủ trương. Do vậy, đề nghị xem xét, hướng dẫn cụ thể rừng
được xác định tại thời điểm nào thì đủ điều kiện để thực hiện chuyển mục đích
sử dụng sang mục đích khác.
- Về
chuyển loại đất, rừng; chuyển mục đích sử dụng đất, rừng: Luật Lâm nghiệp (Điều
18) quy định về chuyển loại rừng (chuyển đổi giữa 3 loại rừng: đặc dụng,
phòng hộ, sản xuất), Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển loại rừng đối với
khu rừng do Thủ tướng Chính phủ thành lập; Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định
chuyển loại rừng còn lại sau khi được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định
chủ trương chuyển loại rừng. Trong khi đó, Luật Đất đai không quy định rõ trường
hợp này, việc chuyển đổi giữa các loại đất rừng (trong 03 loại đất rừng đặc dụng,
đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất) được thực hiện theo nhu cầu của chủ rừng
mà không cần được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Hướng
dẫn chuyển đổi liên quan đến rừng: Theo Luật lâm nghiệp thì việc chuyển loại
rừng giữa 03 loại rừng (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất) và chuyển đổi mục đích
sử dụng rừng sang mục đích khác có quy định về thẩm quyền, trình tự khác
nhau, tuy nhiên đề xuất quy định rõ việc áp dụng đối với các trường hợp chuyển
loại rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng đối với các vị trí đất trống chưa
có rừng thì có phải áp dụng quy định như trên hay không. Tại điểm c Khoản 1
Điều 57 Luật đất đai quy định trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được
phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là “Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng
phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích khác trong nhóm đất
nông nghiệp;”, tuy nhiên cần quy định rõ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất
giữa 03 nhóm đất rừng có thuộc diện phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hay không.
Về việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất với quy hoạch 03 loại rừng: việc điều chỉnh quy hoạch
03 loại rừng là việc làm được tiến hành thường xuyên để đáp ứng mục tiêu, mục
đích phát triển lâm nghiệp từng thời kỳ, tuy nhiên chưa có quy định, hướng dẫn
về việc chuyển đổi, điều chỉnh, cập nhật, chỉnh lý mục đích sử dụng đất trong
các hồ sơ địa chính (như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) khi quy hoạch rừng
của lô, khoảng, thửa đất lâm nghiệp bị thay đổi theo quy hoạch 03 loại rừng.
|
Đề nghị
sửa đổi Luật lâm nghiệp cho thống nhất với Luật đất đai:
|
VPCP
|
|
|
3.
Về đối tượng, trình tự, thủ tục cho thuê rừng:
- Đối tượng
cho thuê đất rừng đặc dụng, cho thuê rừng đặc dụng: Luật Lâm nghiệp (Điều
17) không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng đặc dụng, tổ chức
kinh tế chỉ có thể ký hợp đồng thuê môi trường rừng đặc dụng với Ban quản lý
rừng đặc dụng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí (Điều
75). Trong khi đó, Luật Đất đai (khoản 5 Điều 137) quy định Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng đặc dụng thuộc
khu vực được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái - môi trường
dưới tán rừng.
- Đối tượng
cho thuê đất rừng phòng hộ, cho thuê rừng phòng hộ: Luật Lâm nghiệp (Điều
17) không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng phòng hộ, tổ chức kinh tế
chỉ có thể ký hợp đồng thuê môi trường rừng phòng hộ với ban quản lý rừng phòng
hộ để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí (Điều 76). Trong
khi đó, Luật Đất đai (Khoản 4, Điều 136) quy định Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng phòng hộ thuộc khu vực được
kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái, môi trường dưới tán rừng.
- Đối tượng
cho thuê đất rừng sản xuất, cho thuê rừng sản xuất: Luật Lâm nghiệp (Điều 17)
không có quy định cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê rừng sản xuất,
chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng
rừng sản xuất. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn thực hiện dự án đầu
tư trồng rừng thì phải đăng ký thành lập doanh nghiệp để được nhà nước giao đất
trồng rừng. Trong khi đó, Luật Đất đai quy định Nhà nước cho thuê đất rừng sản
xuất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư trồng
rừng (khoản 2, Điều 135).
- Pháp
luật về đất đai không quy định cụ thể trình tự, thủ tục thuê đất có rừng cho
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, Nghị định số 156/NĐ-CP của Chính phủ
đã tích hợp trình tự, thủ tục thuê đất gắn với trình tự, thủ tục thuê rừng.
|
Đề nghị
quy định cụ thể và thống nhất giữa Luật lâm nghiệp và Luật đất đai
|
VPCP
|
|
|
4.
Về thu hồi đất, thu hồi rừng:
- Khoản
5, Điều 14 Luật Lâm nghiệp quy định nguyên tắc: Giao rừng, cho thuê rừng,
chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng thống nhất, đồng
bộ với giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất. Điểm
a, khoản 1, Điều 22 Luật Lâm nghiệp quy định "‘Nhà nước thu hồi rừng
trong các trường hợp sau đây: a) Chủ rừng sử dụng rừng không đúng mục đích, cố
ý không thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định của
pháp luật về lâm nghiệp;”. Trong trường hợp chủ rừng được giao quản lý, sử dụng
rừng tự nhiên mà phá rừng trái pháp luật để chuyển sang trồng rừng, trồng cây
nông nghiệp là vi phạm quy định của pháp luật về lâm nghiệp và sử dụng rừng
không đúng mục đích, cần phải được thu hồi rừng theo quy định. Việc thu hồi rừng
phải đồng bộ với thu hồi đất để đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của việc xử lý vi
phạm sử dụng rừng sai mục đích, phá rừng trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật
về đất đai không có quy định về thu hồi đất đối với trường hợp này.
- Luật
Lâm nghiệp quy định về rừng sản xuất. Luật đất đai quy định về điều kiện giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư quy định về dự án có sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các
mục đích khác, chưa quy định điều kiện giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư quy định về dự án có sử dụng đất
rừng sản xuất.
Nghị định
số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Lâm nghiệp quy định “1. Trình tự, thủ tục thu hồi
rừng, chuyển đổi rừng thống nhất, đồng bộ với trình tự, thủ tục thu hồi đất,
chuyển đổi đất và thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai”. Tuy
nhiên, hiện Luật Lâm nghiệp và Luật đất đai chưa quy định về trình tự, thủ tục
ban hành quyết định về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
|
Đề nghị
quy định thống nhất giữa Luật lâm nghiệp và Luật đất đai
|
VPCP
|
|
|
5.
Đối tượng cho thuê rừng:
- Luật
Lâm nghiệp (Điều 17) không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng đặc
dụng, tổ chức kinh tế chỉ có thể ký hợp đồng thuê môi trường rừng đặc dụng với
ban quản lý rừng đặc dụng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải
trí (Điều 75). Trong khi đó, Luật Đất đai năm 2013 (Khoản 5 Điều
137) quy định UBND cấp tỉnh quyết định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng
đặc dụng thuộc khu vực được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh
thái- môi trường dưới tán rừng.
- Đối tượng
cho thuê đất rừng phòng hộ, cho thuê rừng phòng hộ:
Luật Lâm
nghiệp (Điều 17) không quy định cho tổ chức kinh tế thuê rừng phòng hộ, tổ chức
kinh tế chỉ có thể ký hợp đồng thuê môi trường rừng phòng hộ với ban quản lý
rừng phòng hộ để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí (Điều
76). Trong khi đó, Luật Đất đai (Khoản 4 Điều 136) quy định UBND cấp tỉnh quyết
định cho tổ chức kinh tế thuê đất rừng phòng hộ thuộc khu vực được kết hợp với
kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng
- Điều
17, Luật Lâm nghiệp không có quy định cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thuê rừng sản xuất, chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước
cho thuế đất để thực hiện dự án đầu tư trồng rừng sản xuất. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn thực hiện dự án đầu tư trồng rừng sản xuất tại Việt Nam phải đăng ký thành lập doanh nghiệp để được Nhà nước giao đất trồng rừng. Tuy nhiên,
Khoản 2 Điều 135, Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước cho thuê đất rừng sản
xuất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư trồng
rừng.
- Khoản
1 Điều 79 Luật Lâm nghiệp, tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê rừng sản xuất
không có quyền chuyển nhượng rừng. Trong khi đó, Điều 174 Luật Đất đai quy định
tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất rừng thu tiền thuê đất một lần cho
cả thời gian thuê có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng. Quy định này
gây khó khăn trong quá trình tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nhất là việc
phát triển rừng trồng nguyên liệu.
|
Đề nghị
quy định thống nhất giữa Luật lâm nghiệp và Luật đất đai
|
VPCP
|
____________________
1 Khoản 2 Điều 20 Luật Lâm nghiệp quy định thẩm quyền
của Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang
mục đích khác đối với rừng đặc dụng dưới 50 ha: rừng phòng hộ đầu nguồn từ
20ha đến dưới 50ha.... rừng sản xuất từ 50ha đền dưới 1.000ha
2 Quy định một trong các căn cứ giao rừng, cho thuê
rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đó là: “Nhu cầu sử dụng
rừng thể hiện trong dự án đầu tư đối với tổ chức; đề nghị giao rừng, thuê rừng,
chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư.
Phụ lục 8 - BỘ CÔNG THƯƠNG
DANH MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH
TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(01 Luật, 01 vấn
đề)
STT
|
Tên văn bản được rà soát
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Phương án xử lý
|
Cơ quan đề xuất
|
1.
|
Luật Điện lực
|
1.Khoản
2 Điều 4: “Nhà nước độc quyền trong hoạt động truyền tải, điều độ hệ
thống điện quốc gia, xây dựng và vận hành các nhà máy điện lớn, có ý nghĩa
quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh"
Nhà nước
độc quyền trong hoạt động “truyền tải” dẫn đến việc thực hiện đầu tư lưới điện
hiện nay chỉ tập trung, phụ thuộc vào một đầu mối là EVN/EVNNPT. Nguồn vốn
cho đầu tư xây dựng phát triển lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối do
doanh nghiệp nhà nước thực hiện đòi hỏi rất lớn, thu xếp vốn vay chủ yếu từ
nguồn thương mại trong nước dẫn tới việc cấp tín dụng bị vượt tỷ lệ quy định,
trong khi nguồn lực từ xã hội hóa chưa được huy động, thu hút để giảm bớt áp
lực đầu tư vốn nhà nước vào lưới điện truyền tải.
|
Đề nghị
xã hội hóa hoạt động truyền tải điện (thu hẹp phạm vi độc quyền của Nhà nước
trong truyền tải điện) nhằm thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động
truyền tải phục vụ đấu nối nguồn điện.
|
VPCP
|
Phụ lục 9 - BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
DANH MỤC NHỮNG
QUY ĐỊNH TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(01 luật, 5 vấn đề)
STT
|
Tên văn bản được rà soát
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Phương án xử lý
|
Cơ quan đề xuất
|
1
|
Luật giao dịch điện tử 2005
|
1.
Quy định về thông điệp dữ liệu
- Nghiên
cứu, sửa đổi các quy định hiện còn chưa rõ ràng, bất cập, chưa phù hợp với thực
tiễn triển khai như: loại hình thông điệp dữ liệu, giá trị pháp lý, giá trị
chứng cứ của thông điệp dữ liệu, thời điểm ký thông điệp, thời gian, địa điểm
gửi và nhận thông điệp dữ liệu, lưu trữ thông điệp dữ liệu v.v.
- Nghiên
cứu, bổ sung quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý, xử lý các vấn đề trong thực tiễn,
còn chưa thống nhất như: mã hóa thông điệp dữ liệu, hồ sơ điện tử, thông điệp
dữ liệu an toàn, việc chuyển đổi chứng từ điện tử sang dạng giấy và ngược lại,
bản gốc, bản sao, bản chính và giá trị pháp lý của chứng từ sau khi chuyển đổi,
lưu trữ, mã hóa thông điệp dữ liệu, việc tiêu hủy chứng từ điện tử
|
|
|
|
|
2.
Quy định về định danh và xác thực điện tử
- Nghiên
cứu, bổ sung quy định về định danh và xác thực điện tử nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử.
Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi tham gia GDĐT với các
cơ quan nhà nước, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trong GDĐT.
- Nghiên
cứu, xem xét, bổ sung quy định về xác thực, cơ chế định danh xác thực theo hướng
đơn giản tạo điều kiện cho các sản TMĐT phát triển. Có cơ chế áp dụng những công
nghệ mới như QR Code, blockchain để xác thực và định danh. Công nhận nhận giá
trị pháp lý của các công nghệ này.
|
|
|
|
|
3.
Quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử
- Nghiên
cứu quy định hình thức của giao dịch, làm rõ giá trị pháp lý của hợp đồng điện
tử, các quy định mang tính chất đặc thù trong hoạt động giao kết (quy trình,
thủ tục giao kết hợp đồng điện tử, quy định về giá trị pháp lý của hợp đồng
điện tử, hợp đồng có hiệu lực và hợp đồng vô hiệu) khi tiến hành dưới hình thức
điện tử. Giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể đối với một số lĩnh vực chuyên
ngành. Đối với một số vấn đề chung cần dẫn chiếu sang Bộ Luật dân sự để có
căn cứ triển khai.
- Quy định
cụ thể về quy trình, thủ tục và pháp lý cụ thể của các bước trong giao kết hợp
đồng điện tử. Quy định về chứng từ, hồ sơ điện tử trong các giao kết, hợp đồng
điện tử; Quy định rõ hồ sơ, chứng từ điện tử chỉ có 1 bản, thay thế, bỏ các khái
niệm tương ứng với các quy định về “bản gốc”, “bản chính”, “bản sao” trong
pháp luật truyền thống.
- Ngoài
ra, cần nghiên cứu bổ sung quy định về bảo vệ người dùng, xử lý lỗi khi nhập
thông tin trong giao kết hợp đồng, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử qua
biên giới, thanh toán điện tử, giao kết hợp đồng tự động (hợp đồng thông
minh), công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng thông minh, nền tảng công nghệ
cần thiết khi triển khai.
|
|
|
|
|
4.
Quy định về dịch vụ tin cậy và cung cấp dịch vụ tin cậy
- Nghiên
cứu, bổ sung hành lang pháp lý chung đối với dịch vụ tin cậy và việc sử dụng
dịch vụ tin cậy. Việc nghiên cứu, quy định loại hình dịch vụ tin cậy sẽ được
thực hiện trong quá trình thực hiện dự án Luật sửa đổi.
- Nghiên
cứu, bổ sung quy định về điều kiện hoạt động của các tổ chức trung gian cung
cấp dịch vụ tin cậy phục vụ GDĐT theo hướng tạo hành lang pháp lý chung đối với
điều kiện về tài chính, nhân sự, hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm an toàn, an ninh mạng,
quy trình thực hiện cấp phép/ký hợp đồng giữa cơ quan quản lý nhà nước với tổ
chức trung gian, cần khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và tổ chức cung cấp
dịch vụ và chứng thực điện tử cho các bên với những cam kết và bảo đảm bằng bảo
hiểm dân sự. Giao Chính phủ quy định chi tiết đối với các lĩnh vực chuyên ngành
cụ thể.
Chữ ký
điện tử là một loại hình dịch vụ tin cậy, cần được khuyến khích sử dụng trong
GDĐT. Nghiên cứu, chỉnh sửa, chi tiết hơn các quy định về giá trị pháp lý của
chữ ký điện tử, chữ ký điện tử an toàn, chứng thực chữ ký và trường hợp sử dụng
theo các cấp độ chữ ký điện tử như chữ ký điện tử cơ bản, chữ ký điện tử bảo đảm:
quy định cụ thể hơn về công nhận, liên thông hệ thống chữ ký điện tử chuyên
dùng và công cộng, chữ ký điện tử, chứng thư số nước ngoài và trong nước; phân
định điều kiện bảo đảm an toàn cho chữ ký số cá nhân và chữ ký số cho doanh
nghiệp; xem xét bổ sung quy định công nhận giá trị pháp lý của cặp khóa công
khai, khóa bí mật sử dụng công nghệ sổ cái phân tán v.v.
Nghiên cứu,
quy định nguyên tắc áp dụng chữ ký điện tử với độ an toàn và tin cậy theo nhiều
mức độ, phù hợp theo từng trường hợp và thực tế triển khai, áp dụng, tránh cứng
nhắc, gây tăng chi phí, bất tiện, cản trở những giao dịch nhỏ, đơn giản trên không
gian mạng.
|
|
|
|
|
5.
Quy định về chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội
số
- Nghiên
cứu, chỉnh sửa, bổ sung quy định nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch,
thuận lợi, thông thoáng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia;
- Nghiên
cứu, quy định cụ thể về các hoạt động, quan hệ và các giao dịch, tương tác
trong xây dựng và phát triển chính phủ số;
- Nghiên
cứu, quy định pháp luật về các hoạt động, quan hệ và các giao dịch, tương tác
trong xây dựng và phát triển kinh tế số; Các chính sách ưu đãi, tạo nguồn lực
phát triển kinh tế số;
- Nghiên
cứu, quy định pháp luật về các hoạt động, quan hệ và các giao dịch, tương tác
nhằm xây dựng và phát triển văn hoá, xã hội số
|
|
|
Phụ lục 10-
BỘ NỘI VỤ
DANH MỤC NHỮNG QUY ĐỊNH
TRONG CÁC LUẬT CẦN NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGAY
(02 Luật, 01 vấn
đề).
STT
|
Tên văn bản
|
Nội dung quy định gây vướng mắc; lý do vướng mắc
|
Đề xuất phương án xử lý
|
Cơ quan đề xuất
|
1
|
Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương
|
Quy định
về phân cấp, ủy quyền thực hiện thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ
- Không
có quy định cho phép Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho các bộ, cơ
quan ngang bộ;
- Không
có quy định cho phép Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ;
|
Hoàn thiện
đồng bộ các quy định:
(1) cho phép
Chính phủ phân cấp, ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, chính quyền địa phương;
(2) Thủ
tướng Chính phủ phân cấp, ủy quyền cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương; (3) bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân cấp, ủy
quyền cho chính quyền địa phương đồng thời, đồng bộ với quy định cho phép cơ quan
được phân cấp, ủy quyền có quyền và trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được phân
cấp, ủy quyền.
|
VPCP
|
Công điện 1079/CĐ-TTg năm 2021 về rà soát pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, kinh doanh trong điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp do Thủ tướng Chính phủ điện
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Công điện 1079/CĐ-TTg ngày 14/08/2021 về rà soát pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, kinh doanh trong điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp do Thủ tướng Chính phủ điện
4.714
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|