BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 4480/BKHĐT-TH
|
Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2013
|
KHUNG HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
NĂM 2014
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2013 của
Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán
ngân sách nhà nước năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi đến quý cơ quan Khung
hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014(bao gồm các
phụ lục mẫu biểu báo cáo kèm theo)[1] như
sau:
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ
HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XIII
đã thông qua Nghị quyết số 31/2012/QH13 ngày 08 tháng 11 năm 2012 về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, với mục tiêu tổng quát là: Tăng cường
ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy
mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu
quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và
bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho
những năm tiếp theo.
Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội về
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ
ngân sách trung ương năm 2013,Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định giao chỉ
tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và kế
hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình mục tiêu
quốc gia), vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013[2].
Đồng thời với việc giao kế hoạch và
dự toán ngân sách nhà nước, ngày 07/01/2013 Chính phủ đã ban hành các Nghị
quyết: số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; và số
02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Dưới đây là đánh giá về tình hình
kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, dự báo khả năng thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013 và một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện
trong 6 tháng cuối năm:
I. VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6
THÁNG ĐẦU NĂM 2013
Trong 6 tháng đầu năm 2013, dưới sự
chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của
các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện các giải pháp đã đề ra trong
các Nghị quyết số 01/NQ-CP , số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 và Nghị quyết các phiên
họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế xã hội đã có những chuyển biến
bước đầu, tích cực và đúng hướng. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực
trong nền kinh tế đều có cải thiện, góp phần làm tăng mức tăng trưởng GDP Quý
II lên 5%, cao hơn mức tăng của Quý I và đưa tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm lên
4,9%.Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo đã có những chuyển
biến đáng kể tuy còn nhiều khó khăn. Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển với
tốc độ tăng trưởng cao hơn cùng kỳ và đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng GDP.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có cải thiện. Lạm phát tiếp tục
được kiềm chế, giá cả, thị trường khá ổn định. Lãi suất giảm mạnh, cùng nhiều
biện pháp miễn giảm thuế, giãn thuế,... đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh; thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn
định. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra;hoạt
động nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ đầu
tư và sản xuất kinh doanh cải thiện đáng kể; tỷ lệ nhập siêu thấp. An sinh xã
hội tiếp tục được bảo đảm; đời sống của người dân, đặc biệt là những người
nghèo, người dân tộc thiểu số, người mất việc làm, hộ gia đình bị thu hồi đất
sản xuất được quan tâm, các chính sách hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã hội, nhà
thương mại đối với người có thu nhập thấp đã được triển khai. An ninh chính
trị, trật tự xã hội được giữ vững;…
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều
khó khăn, thách thức: kinh tế vĩ mô vẫn chưa thật ổn định; lạm phát tuy được
kiềm chế nhưng vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại; lãi suất tuy giảm
nhưng việc tiếp cận vốn vay còn nhiều trở ngại do khó khăn trong việc xử lý nợ
xấu; dư nợ tín dụng tăng chậm. Tổng cầu, sức mua vẫn còn yếu. Tổng vốn đầu tư
phát triển đạt thấp. Tiến độ thu NSNN không đạt kế hoạch và thấp hơn cùng kỳ
các năm trước. Tình hình tai nạn giao thông tiếp tục diễn biến phức tạp, tăng
cả về số vụ lẫn số người thương vong so với cùng kỳ năm trước. Đời sống nhân
dân, nhất là người nghèo, người mất việc làm, đồng bào dân tộc, vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn.
Dưới đây là tình hình cụ thể về phát
triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013:
1. Về ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm
chế lạm phát:
a) Về giá cả, lạm phát:
- Lạm phát tiếp tục được kiềm chế
nhờ thực hiện quyết liệt, kiên trì các biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô về
tài chính, tiền tệ, tăng cường quản lý giá cả thị trường, cung cầu hàng hoá,...
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tốc độ tăng giá tiêu dùng có xu hướng giảm. So với
tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,25%, tháng 2 tăng 1,32%, tháng
3 giảm (-) 0,19%, tháng 4 tăng 0,02%, tháng 5 giảm (-) 0,06%, tháng 6 tăng
0,05%. Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2013 tăng 2,4% so với tháng
12/2012. Bên cạnh tác động của các chính sách chủ động kiềm chế lạm phát, có
được kết quả nêu trên còn do các yếu tố khác, như:mặt bằng giá thế giới giảm;
nguồn cung lương thực dồi dào; tổng cầu thấp, sức mua vẫn còn yếu.
Diễn biến chỉ số giá trong 6 tháng
đầu năm cho thấy lạm phát cả năm 2013 có thể kiềm chế thấp hơn năm 2012 và đạt
chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, CPI còn ở mức khá
cao: CPI tháng 6/2013 tăng 6,69%; bình quân 6 tháng tăng 6,73%.Trong 6 tháng
cuối năm vẫn còn có những yếu tố tác động đến mặt bằng giá trong nước, đòi hỏi
phải theo dõi, kiểm soát chặt chẽ các cân đối lớn, giá các yếu tố đầu vào quan
trọng, như: điện, xăng dầu, phân bón, và giá các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu
khác, tăng cường quản lý thị trường.
- Chỉ số giá vàng tháng 6/2013 giảm
7,83%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,68% so với cùng kỳ năm trước.
b) Về tiền tệ, tín dụng và tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng:
Tổng phương tiện thanh toán (M2) tính
đến ngày 20/6/2013ước tăng khoảng 7,1% so với tháng 12/2012 (cùng kỳ tăng
7,51%). Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng
khoảng 8,18% so với cuối năm 2012, trong đó: huy động vốn VND tăng 8,25%, huy
động vốn bằng ngoại tệ tăng 7,77%.
Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
tính đến ngày 20/6/2013ước tăng khoảng 3,31% so với cuối năm 2012, cao gấp hơn
2 lần tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước (tăng 1,54%). Dư nợ tín dụng bằng VND
có sự cải thiện, tăng 6,02%, trong khi đó dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ giảm
9,02%.
Lãi suất trong 6 tháng đầu năm đã
được điều hành theo diễn biến kinh tế vĩ mô và biến động của lạm phát. Lãi suất
huy động và cho vay có xu hướng giảm[3].
Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương
đối ổn định. Dự trữ ngoại hối của Nhà nước tăng cao,bảo đảm đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ của nền kinh tế và ổn định thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, từ tháng 4
đến nay, tỷ giá có xu hướng tăng do áp lực về cầu ngoại tệ do nhập siêu quay
trở lại. Thị trường vàng từng bước được quản lý và bước đầu hoạt động ổn định
song chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế (quy đổi) vẫn còn
ở mức cao.
Về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Đã
cơ bản kiểm soát được tình hình của các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém
cần xử lý; khả năng chi trả của các ngân hàng yếu kém được cải thiện đáng kể và
quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm, nguy cơ mất an toàn từng bước được
giảm bớt. Hoàn thành căn bản việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước
(trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và đang triển khai cơ cấu
lại một số ngân hàng liên doanh. Các tổ chức tín dụng đã quan tâm hơn đến đổi
mới, nâng cao hiệu quả hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm
toán nội bộ; tiếp tục hoàn thiện, hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin. Hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân được củng cố, phát triển.
c) Về xuất nhập khẩu:
- Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng
đầu năm ước đạt 62,05 tỷ USD, tăng 16,1%so với cùng kỳ năm 2012 (cùng kỳ tăng
22,2%). Xuất khẩu tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao là nhờ đóng góp
chủ yếu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất khẩu của khu vực này
không kể dầu thô ước đạt 37,4 tỷ USD, tăng 28,3% (cùng kỳ tăng 41,5%) và chiếm
60,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, xuất khẩu của khu vực 100% vốn
trong nước ước đạt 20,9 tỷ USD, chỉ tăng 2,2%, thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm
ngoái (cùng kỳ năm ngoái tăng 4%).
Trong 6 tháng đầu năm, các mặt hàng
dầu thô và than đá đều có lượng xuất khẩu tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu lại
giảm[4].
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng
khá cao[5]. Điện
thoại các loại và linh kiện (9,9 tỷ USD) đã vượt qua dệt may (8 tỷ USD) trở
thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các mặt hàng có kim ngạch lớn
và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp
FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện đóng góp 99%; máy vi tính linh kiện và
điện tử 98,2%; giầy dép 77,4%; hàng dệt may 60%; máy ảnh 99,6%.
Các mặt hàng nông sản có kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất là cà phê, gạo và cao su đều giảm cả về lượng và kim ngạch
so với cùng kỳ năm 2012[6]. Mặt
hàng thủy sản xuất khẩu đạt 2,9 tỷ USD, chỉ tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2012;
nguyên nhân là do (i) Nguồn cung nguyên liệu không ổn định, (ii) Nhu cầu nhập
khẩu tại các thị trường chính sụt giảm do ảnh hưởng suy thoái kinh tế, và (iii)
Các rào cản kỹ thuật và thuế quan tại các thị trường nhập khẩu.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, mặc dù
kinh tế EU còn gặp nhiều khó khăn nhưng ước xuất khẩu vào thị trường này tăng 25,4%
và chiếm tỷ trọng 18,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; thị trường Mỹ tăng
18,5% và chiếm tỷ trọng 17,7%; thị trường ASEAN tăng 17,7% và chiếm tỷ trọng
14,9%. Trong khi đó, thị trường Nhật Bản và Trung Quốc giảm nhẹ so với cùng kỳ
năm 2012, chiếm tỷ trọng tương ứng là 10,4% và 9,7%.
- Tổng kim ngạch nhập khẩu của cả
nước 6 tháng đầu năm ước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2012(cùng
kỳ năm ngoái tăng 6,9%).Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đạt 35,7 tỷ USD, tăng 27,8% và chiếm 56,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.Nhập khẩu
của khu vực doanh nghiệp trong nước có cải thiện, ước đạt 27,7 tỷ USD, tăng 6,3%(cùng
kỳ năm ngoái giảm 8,2%).
Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm
2013 của một số mặt hàng có tốc độ tăng khá là: máy móc thiết bị đạt 8,5 tỷ
USD, tăng 8,5%; máy tính và linh kiện 8,6 tỷ USD, tăng 52,3%; vải đạt 4,1 tỷ
USD, tăng 19,5%; nguyên phụ liệu dệt may 1,9 tỷ USD, tăng 22,4%; sắt thép tăng
14,4%; phân bón tăng 12%;…Trong khi đó, xăng dầu giảm 22,1% về lượng và 25,5%
về kim ngạch nhập khẩu so với cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, nhập
khẩu từ Châu Á chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Các thị
trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này
tăng 33,2%, tỷ trọng ước đạt 27,3%), ASEAN (tăng 5,3%, chiếm tỷ trọng 17,1%),
Hàn Quốc (tăng 39,8%, chiếm tỷ trọng 15,9%), Nhật Bản (tăng 4,1%, chiếm tỷ
trọng 8,8%) và EU (tăng 21,6%, chiếm tỷ trọng 7,5%).
- Trong 6 tháng đầu năm 2013, cả
nước nhập siêu 1,4 tỷ USD, bằng 2,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, là mức tăng thấp
và có thể kiểm soát được. Riêng Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu khoảng
1,65 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, xuất siêu khoảng 5,4 tỷ USD.
d) Về thu chi ngân sách nhà nước:
Tốc độ thu ngân sách đạt thấp so với
cùng kỳ các năm trước do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút cùng với việc thực hiện miễn giảm, giãn
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT...
Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng
đầu năm 2013 ước đạt 356,52 nghìn tỷ đồng, đạt 43,7% dự toán năm, cao hơn 4,5%
so với cùng kỳ năm 2012; trong đó: thu nội địa ước đạt 236,17 nghìn tỷ đồng,
bằng 43,3%; thu từ dầu thô ước đạt 55,43 nghìn tỷ đồng, đạt 56%; thu cân đối
ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 61,92 nghìn tỷ đồng,
bằng 37,2%.
Tổng chi ngân sách nhà nước luỹ kế đến
ngày 15/6/2013 ước đạt 448,91 nghìn tỷ đồng, bằng 45,9% dự toán, tập trung bảo
đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý nhà
nước và thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn, đảm bảo chi trả kịp thời các
khoản lương và các khoản có tính chất lương đến các đối tượng thụ hưởng ngân
sách nhà nước góp phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
đ) Về đầu tư phát triển:
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tổng vốn
đầu tư toàn xã hội ước thực hiện đạt khoảng 448,6 nghìn tỷ đồng, đạt 43,9% kế
hoạch năm. Trong đó:
- Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách
nhà nước ước đạt 88,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,6% kế hoạch năm. Vốn trái phiếu
Chính phủ ước đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, bằng 33% kế hoạch năm. Vốn tín dụng đầu
tư Nhà nước ước đạt 13,9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,2% kế hoạch năm. Vốn đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước ước đạt 21,1 nghìn tỷ đồng, bằng 46,9% kế hoạch năm. Vốn
đầu tư của dân cư và khu vực tư nhân ước đạt 168,2 nghìn tỷ đồng, bằng 42,1% kế
hoạch năm.
- Vốn FDI thực hiện trong 6 tháng
đầu năm ước đạt 114,3 nghìn tỷ đồng, bằng 53,4% kế hoạch; vốn đăng ký ước đạt
khoảng 10,47 tỷ USD, tăng 15,86% so với cùng kỳ.
Dòng vốn FDI đăng ký kể cả cấp mới
và tăng thêm đều đã bắt đầu tăng sau thời kỳ suy giảm liên tục từ năm
2008-2012, trong khi vốn thực hiện duy trì tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2012[7]
cho thấy nền kinh tế vĩ mô đã ổn định hơn, môi trường đầu tư kinh doanh của
Việt Nam đã cải thiện và hấp dẫn hơn, niềm tin của các nhà đầu tư đã dần tăng
trở lại. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tưđã chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
- Vốn ODA giải ngân liên tục tăng
cao nhờ sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, của Thủ tướng Chính
phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, tháo gỡ các vướng mắc trong việc triển
khai thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn này. Ước 6 tháng đầu năm giải
ngân đạt 2,2 tỷ USD, đạt 51,1% kế hoạch năm 2013, tăng 10% so với cùng kỳ (cùng
kỳ năm 2012 đạt gần 2 tỷ USD).
2. Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế:
Nhờ việc triển khai các giải pháp,
chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nhất là các giải pháp trong
Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ- CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ,các Nghị
quyết các phiên họp của Chính phủ, nền kinh tế đã có những chuyển biến tích
cực, bước đầu.Hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều có những cải thiện, tuy vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể:
a) Về tăng trưởng tổng sản phẩm
trong nước (GDP):
Tăng trưởng kinh tế đã có dấu hiệu
phục hồi, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các ngành, lĩnh vực khác đều
đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
quý I/2013 tăng 4,76%, sang quý II/2013 tăng cao hơn, đạt 5%. Xu hướng phục hồi
này được thể hiện ở hầu khắp các địa phương, nhất là ở các trung tâm kinh tế
lớn.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, GDP
ước tăng 4,9%, xấp xỉ tốc độ tăng cùng kỳ năm trước (đạt 4,93%); trong đó: khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,07%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
5,18%; dịch vụ tăng 5,92%.Tuy tốc độ tăng trưởng GDP quý II và 6 tháng đầu năm
2013 không cao như mong đợi nhưng đây là kết quả đáng ghi nhận trong bối cảnh
kinh tế thế giới còn gặp nhiều khó khăn, ở trong nước đang phải ưu tiên tập
trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
b) Về sản xuất công nghiệp:
Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, chỉ
số phát triển công nghiệp IIP ước tăng 5,2%, trong đó: khai khoáng tăng 1,9%;
công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,7%; sản xuất, phân phối điện tăng 8,7%;
cung cấp nước, xử lý nước thải tăng 9,6%. Sản xuất công nghiệp đang từng bước
được cải thiện, so với cùng kỳ năm trước, IIP Quý I tăng 4,5%, sang Quý II tăng
6%. Thể hiện rõ nhất là IIP của ngành chế biến, chế tạo: Quý I tăng 4,6%, sang
Quý II tăng tới 6,9%.
Sản xuất công nghiệp tại một số địa
phương đã có dấu hiệu phục hồi, như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng Đồng Nai, Bình
Dương, Cần Thơ, Kiên Giang,...
Chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần từ đầu năm: tại thời điểm 01/6/2013 tăng
9,7% so với cùng thời điểm năm trước, giảm mạnh so với mức tăng 21,5% tại thời điểm
01/01/2013[8].
c) Về sản xuất nông nghiệp:
Trong 6 tháng đầu năm 2013,sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển nhưng tốc độ chậm lại. Giá trị
sản xuất toàn ngành (theo giá cố định 2010) ước tăng 2,4%, trong đó nông nghiệp
tăng 2,2%, lâm nghiệp tăng 5,68%, thủy sản tăng 2,53%.
Trồng trọt gặp nhiều khó khăn do
thời tiết diễn biến phức tạp, khô hạn và xâm nhập mặn diễn ra gay gắt ảnh hưởng
đến năng suất cây trồng[9]. Tuy
nhiên, do ngành nông nghiệp và các địa phương đã chủ động triển khai các biện
pháp phòng chống thiên tai, dịch bệnh hiệu quả, đồng thời, áp dụng nhiều biện
pháp đẩy mạnh phát triển sản xuất nên đã hạn chế được các yếu tố bất lợi. Tổng
sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân trên cả nước đạt 22,78 triệu tấn,
trong đó sản lượng lúa đạt 20,26 triệu tấn, xấp xỉ vụ Đông Xuân 2012. Khó khăn
lớn nhất của ngành nông nghiệp hiện nay là nhu cầu của thị trường giảm, giá lúa
xuống thấp ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu gạo[10] và lợi nhuận của người nông dân.
Chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2013 có
một số thuận lợi như công tác kiểm soát dịch bệnh, kiểm soát nhập lậu gia cầm
được thực hiện quyết liệt, có hiệu quả. Tuy nhiên,do kinh tế suy giảm, cung
vượt cầu bởi sức mua giảm sút, giá bán xuống thấp, trong khi giá thức ăn chăn
nuôi vẫn giữ ở mức cao. Tính đến ngày 15/6/2013, đàn trâu giảm 2,54% so với
cùng kỳ 2012; đàn bò giảm 3,16% (tuy nhiên số bò sữa tăng 10,3%); đàn lợn giảm 0,52%;
gia cầm giảm 2,01%. Tổng sản lượng thịt hơi các loại 6 tháng đầu năm ước đạt
2,56 triệu tấn, xấp xỉ sản lượng cùng kỳ 2012 (giảm 0,2%).
Sản xuất lâm nghiệp vẫn giữ được tốc
độ tăng trưởng khá cao với giá trị sản xuất tăng 5,68%; do có chính sách phát
triển rừng sản xuất phù hợp được ban hành trong những năm gần đây đã khuyến
khích người dân trồng rừng sản xuất và khai thác chế biến gỗ; thời tiết có mưa
sớm hơn (chủ yếu các tỉnh phía Bắc) nên các địa phương đã triển khai trồng rừng
đảm bảo thời vụ. Tình hình khai thác gỗ và lâm sản nhìn chung đều tăng trưởng
khá so cùng kỳ năm trước, sản lượng gỗ rừng trồng khai thác tăng cao (7,2%) do
chính sách phát triển chế biến gỗ rừng trồng và do rừng trồng thời gian trước
đến kỳ thu hoạch.
Sản xuất thủy sản tiếp tục gặp nhiều
khó khăn, giá trị sản xuất chỉ tăng 2,5%. Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 2.737
nghìn tấn, tăng 1,5%, trong đó cá 2.109 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm 262 nghìn
tấn, tăng 2,8%. Sản xuất thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng như cá ba
sa, cá tra đang gặp rất nhiều khó khăn do tiêu thụ chậm, thiếu vốn sản xuất,
giá đầu vào cao, giá bán thấp, các rào cản kỹ thuật,… Bên cạnh đó, tình hình
phức tạp trên Biển Đông cũng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động khai thác thủy
sản.
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đang
được đẩy mạnh. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi diễn ra rộng khắp trên cả
nước. Việc tái cơ cấu này được tổ chức thực hiện bài bản trên cơ sở phương án
quy hoạch nông thôn mới và các đề án phát triển sản xuất, kinh doanh được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
Phong trào xây dựng nông thôn mới
triển khai rộng khắp trên địa bàn nông thôn, thu hút sự quan tâm của cả hệ
thống chính trị và nhân dân. Đến nay, cả nước đã có 35 xã đạt chuẩn đủ 19 tiêu
chí; khoảng 84% số xã đã hoàn thành quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới;
60,4% số xã đã phê duyệt xong đề án, trong đó có 865 xã đã hoàn thành thẩm định
và đang chờ thủ tục phê duyệt. Nhiều địa phương đã triển khai hết sức quyết
liệt, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hướng tới sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm[11].
Các vướng mắc về cơ chế đã được các cấp quản lý quan tâm, tháo gỡ. Thủ tướng
Chính phủ ban hành quyết định sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí quốc gia
về Nông thôn mới[12] cho phù hợp với tình hình và điều
kiện của các địa phương. Để tăng hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tiết kiệm
kinh phí và huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho xây dựng nông thôn mới,
Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư xây dựng công
trình[13].
d) Về khu vực dịch vụ:
Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển
với tốc độ tăng trưởng quý II (6,16%) cao hơn quý I (5,65%) và 6 tháng đầu năm
ước đạt 5,92%, cao hơn mức tăng 5,29% của cùng kỳ năm 2012; trong đó: dịch vụ
lưu trú và ăn uống tăng 8,78%; thông tin và truyền thông tăng 7,96%; y tế và
hoạt động trợ giúp xã hội tăng 8,02%; giáo dục và đào tạo tăng 8,02%;...
Tổng mức lưu bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý II ước tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012, cao hơn mức
tăng 11,7% của quý I; tính chung 6 tháng đầu năm ước tăng 11,9% thấp hơn mức
tăng cùng kỳ là 19,7%. Như vậy, mặc dù tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng trong những tháng gần đây đã có cải thiện nhưng chậm (04
tháng; 5 tháng và 6 tháng chỉ dao động ở mức 11,7-11,9%) và nếu loại trừ yếu tố
giá thì vẫn ở mức thấp (6 tháng tăng gần 4,9%) và thấp hơn mức tăng cùng kỳ
(6,7%) cho thấy sức cầu nền kinh tế, tuy có cải thiện, nhưng vẫn còn yếu.
Về vận tải hàng hoá và hành khách: vận chuyển hàng hóa quý II tăng 3,2%,
cao hơn mức tăng 2,4% trong quý I; tính chung 6 tháng tăng 2,8% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, luân chuyển hàng hóa quý II giảm 6,1%, giảm mạnh hơn quý I (giảm
0,8%), ước 6 tháng giảm 3,5% là do mức giảm đến từ khu vực ngoài nước (khối
lượng vận chuyển giảm 6,7%; khối lượng luân chuyển giảm 8,1%).
Vận chuyển và luân chuyển hành khách
quý II tăng lần lượt là 2,6% và 2,2%, đều thấp hơn mức tăng của quý I (lần lượt
là 5,4% và 5,1%). Ước 6 tháng vận chuyển hành khách tăng 3,9%,luân chuyển hành
khách tăng 3,6%.
Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm ước đạt khoảng 3,54
triệu lượt, tăng 2,6%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 16,9% của cùng kỳ năm
2012 chủ yếu do mức giảm mạnh trong quý I (giảm 6,2% với sự sụt giảm ở hầu hết
các mục đích đến). Tuy nhiên, tình hình đã cải thiện đáng kể và tăng trở lại
trong quý II, đạt mức 13,5% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là khách đến với
mục đích du lịch, nghỉ ngơi.
đ) Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước và phát triển doanh nghiệp, kinh tế tập thể:
- Về tình hình tái cơ cấu các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước: Tính đến tháng 6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt 17/21 đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty. Các Bộ quản lý
ngành đã phê duyệt được 26 đề án tái cơ cấu của các tổng công ty trực thuộc.
Tuy nhiên, nhận định chung cho thấy tình hình triển khai tái cơ cấu còn chậm,
chưa đạt kế hoạch đề ra, đặc biệt là lộ trình thoái vốn đã đầu tư vào các ngành
không thuộc ngành, nghề kinh doanh chính.
Tình hình triển khai thực hiện sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng còn chậm, chưa đạt yêu cầu đặt ra.
Trong 6 tháng đầu năm cả nước sắp xếp được 16 doanh nghiệp, trong đó cổ phần
hóa 10 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 05 doanh nghiệp và thành lập mới 01
doanh nghiệp.
- Về phát triển doanh nghiệp: Phát
triển doanh nghiệp bước đầu có những dấu hiệu tích cực với sự cải thiện của số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong những tháng gần đây[14].
Ước 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có 38,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới,tăng 7,6% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm 12,4%). Bên cạnh đó, số doanh nghiệp
tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng: 4
tháng khoảng 8,3 nghìn; 5 tháng khoảng 8,8 nghìn; 6 tháng khoảng 9,3 nghìn
doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đang có chuyển biến. Số doanh nghiệp
giải thể giảm so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động tuy vẫn còn tăng,
nhưng tốc độ tăng chậm lại từ tháng 4 đến nay.
Như vậy, có thể thấy các giải pháp
nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã dần phát huy tác
dụng, củng cố thêm niềm tin của nhà đầu tư vào sự ổn định của nền kinh tế vĩ
mô. Tuy nhiên, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới vẫn có xu hướng
giảm do những khó khăn của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của nhà đầu tư.
Về cơ cấu theo địa bàn, một số vùng
kinh tế có số doanh nghiệp đăng ký thành lập tăng cao là: Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung tăng 24,3%; Trung du và miền núi phía Bắc tăng 32,7%; Đồng bằng
Sông Cửu Long tăng 53,9% so với cùng kỳ năm 2012. Trong khi đó, tại 2 vùng kinh
tế trọng điểm, số doanh nghiệp thành lập mới giảm hoặc tăng không đáng kể: Đồng
bằng sông Hồng giảm 4,5%; Đông Nam Bộ chỉ tăng 0,9%.
Tại một số địa phương, số doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới tăng khá cao so với cùng kỳ: Hà Tĩnh tăng 67,3%;
Bình Định tăng 83,3%; Sóc Trăng tăng 100%; Trà Vinh tăng 171,8%;... Tuy nhiên,
một số địa phương, nhất là các địa phương thuộc Đồng bằng sông Hồng vẫn gặp khó
khăn với số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm so với cùng kỳ và chiếm
phần lớn số doanh nghiệp giải thể, như: Hà Nội giảm 2,9% số doanh nghiệp đăng
ký, chiếm 26,1% số doanh nghiệp giải thể; Hải Phòng giảm 20,3% và chiếm
4,1%;...
Về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh: một số lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng
đáng kể, như: Giáo dục và đào tạo tăng 5,1%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 8,9%;
Y tế và trợ giúp xã hội tăng 64,3%;... Một số lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp
thành lập mới giảm: Xây dựng giảm 6%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm giảm 6,5%;
Kinh doanh bất động sản giảm 10,6%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 26,5%;...
- Về phát triển kinh tế tập thể:
Kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã có sự thích ứng với sự biến động thị
trường; phát huy ưu thế hợp tác giữa các thành viên trong hỗ trợ kinh tế thành
viên vượt qua khó khăn. Số lượng hợp tác xã 2 năm gần đây tăng đột biến. Các
hợp tác xã, tổ hợp tác đang dần tự đổi mới, phát triển theo đúng bản chất đích
thực để thực sự là chỗ dựa vững chắc cho các thành viên. Tuy nhiên, các hợp tác
xã, tổ hợp tác rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng và các chính sách hỗ
trợ của nhà nước, chủ yếu dựa vào nguồn lực nội tại của mình.
3. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội và các lĩnh vực xã hội khác:
a) Về lao động, việc làm:
Các hoạt động thông tin, dự báo thị
trường lao động được triển khai đồng bộ trong cả nước. Cổng thông tin điện tử
việc làm đã cập nhật thường xuyên tình hình thị trường lao động; theo dõi, cập
nhật tình hình lao động việc làm, biến động lao động trong các doanh nghiệp,
khu công nghiệp, các thành phố lớn... Các hoạt động giao dịch việc làm, đặc
biệt là sàn giao dịch việc làm được tổ chức định kỳ, thường xuyên tại các Trung
tâm giới thiệu việc làm[15] góp phần phổ biến, cung cấp thông
tin việc làm, nhu cầu tuyển dụng, thông tin về người lao động đến người lao
động và người sử dụng lao động, nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động. Các
dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và Dạy nghề năm 2013 tiếp
tục được triển khai. Trong 6 tháng đầu năm 2013 ước giải quyết việc làm cho
khoảng 722,5 nghìn lao động, đạt 45,2% kế hoạch năm, giảm1,7% so với cùng kỳ
năm 2012; trong đó:giải quyết việc làm trong nước cho khoảng 682,5 nghìn người,
đạt 45,1% kế hoạch, giảm1,5%; xuất khẩu lao động khoảng40nghìn người, đạt 47%
kế hoạch, giảm 4%.
Việc thực hiện các chính sách về
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn vệ sinh lao động,
cải thiện quan hệ lao động được triển khai đồng bộ và có nhiều tiến bộ so với
cùng kỳ năm trước. Mức lương tối thiểu vùng của người lao động được điều chỉnh
tăng từ ngày 01/01/2013[16] đã góp phần giảm khó khăn, cải thiện
đời sống của người lao động. Tranh chấp lao động, đình công giảm mạnh so với
cùng kỳ năm 2012 (5 tháng đầu năm xảy ra 161 cuộc đình công, giảm 43 cuộc so
với cùng kỳ năm 2012).
Tính đến hết tháng 6/2013, ước tổng
số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 11.013 nghìn người, trong đó: Bảo hiểm
xã hội tự nguyện là 163 nghìn người, bảo hiểm xã hội bắt buộc là 10.850 nghìn
người.
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động được thực hiện tốt, góp phần giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc
sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới. Tính đến ngày 20/5/2013, cả
nước có 182.263 người lao động đăng ký thất nghiệp, thấp hơn cùng kỳ năm ngoái
(cùng kỳ năm ngoái là 212.966 người). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi khu vực thành thị 6 tháng đầu năm ước là 3,62%.
b) Về bảo đảm an sinh xã hội, xóa
đói giảm nghèo:
Thực hiện trợ cấp xã hội thường
xuyên cho khoảng 2,5 triệu đối tượng tại cộng đồng với tổng kinh phí khoảng
9.000 tỷ đồng; nuôi dưỡng, chăm sóc trên 40 nghìn người trong cơ sở bảo trợ xã
hội với mức trợ cấp thấp nhất 360 ngàn đồng/người/tháng; các tỉnh, thành phố có
điều kiện đã thực hiện mức trợ cấp cao hơn mức quy định của Chính phủ, các tỉnh
nghèo được bổ sung ngân sách đảm bảo xã hội để đảm bảo chi trả đầy đủ cho đối
tượng theo quy định. Các địa phương đã theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp
hạt, thiệt hại do thiên tai, kịp thời tổ chức cứu trợ và đề xuất giải pháp khắc
phục hậu quả, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân[17].
Các chính sách giảm nghèo được quan
tâm triển khai, như: chính sách tín dụng lãi suất thấp cho hộ cận nghèo; nâng
mức hỗ trợ mệnh giá bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo lên 100%; phê duyệt Chương
trình 135 giai đoạn 3; bổ sung 23 huyện nghèo được hỗ trợ theo cơ chế, chính
sách đầu tư cơ sở hạ tầng quy định tại Nghị quyết 30a; phê duyệt danh sách 311
xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo để hỗ trợ đầu tư hạ
tầng, phát triển sản xuất (tăng 154 xã so với trước); hoàn thành việc thí điểm
hỗ trợ xây dựng nhà ở tránh lũ cho các hộ nghèo tại 7 tỉnh Bắc Trung bộ, duyên
hải miền Trung và đang chỉ đạo mở rộng ra cả vùng. Tổng kết và tiếp tục hoàn
thiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách hỗ trợ
chi phí học tập và sinh hoạt cho trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và vùng
khó khăn.
c) Về thực hiện chính sách ưu đãi
người có công:
Hệ thống chính sách pháp luật ưu đãi
người có công tiếp tục được quan tâm hoàn thiện[18].
Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời các khoản trợ, phụ cấp đối với người có công
với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Các hoạt động
đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được phát triển sâu rộng như các hoạt động xây mới,
sửa chữa nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách; huy động quỹ đền ơn đáp
nghĩa; tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách.
d) Về chăm sóc người cao tuổi, thực
hiện bình đẳng giới và bảo vệ, chăm sóc trẻ em:
Công tác chăm sóc người cao tuổi
được quan tâm, hầu hết người cao tuổi thuộc diện hưởng lương hưu, người cao
tuổi thuộc hộ nghèo, người cao tuổi là đồng bào dân tộc thiểu số...đều được cấp
thẻ bảo hiểm y tế. Công tác chúc thọ, mừng thọ tiếp tục được duy trì, phát
huy.Đến nay, tất cả các địa phương đã triển khai chính sách trợ cấp xã hội đối
với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã
hội theo quy định của Luật người cao tuổi.
Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến
bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai đồng bộ. Bình đẳng giới trong lao động
việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế ngày càng có những cải thiện đáng kể
; bình đẳng giới thực chất về quyền, đối xử, cơ hội giữa nam và nữ được thúc
đẩy. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới
được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Ban vì sự tiến bộ phụ nữ
các cấp tiếp tục được kiện toàn. Hiện nay, đã có 14 tỉnh, thành phố có phòng
Bình đẳng giới trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em tiếp tục được quan tâm với nhiều hoạt động triển khai từ Trung ương
đến cơ sở xuyên suốt chủ đề “Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho trẻ em nghèo
và trẻ em dân tộc thiểu số”, đồng thời triển khai nhiều hoạt động thiết thực để
giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên toàn quốc.
đ) Về phòng chống tệ nạn xã hội:
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội
đã đạt được một số kết quả nhất định như phong trào xây dựng xã phường lành
mạnh, không có tệ nạn xã hội, khu dân cư văn hóa, gia đình văn hóa được đẩy
mạnh; lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống ma túy tiếp tục được kiện
toàn, củng cố ở các ngành, các cấp.Các chính sách về vay vốn, hỗ trợ tạo việc
làm cho người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người bán dâm, người điều
trị nghiện các chất dạng thuốc phiện được xây dựng.Công tác cai nghiện phục hồi
đã được quan tâm hơn với các hình thức cai nghiện đa dạng; đã tiến hành điều
trị thí điểm cho người nghiện thuốc phiện bằng Methadone tại một số tỉnh, thành
phố.
e) Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ
sở y tế các tuyến, đặc biệt là tuyến Trung ương và ở các thành phố ngày càng
được nâng cao. Một số kỹ thuật mới, tiên tiến đã được thực hiện thành công và
trở thành thường quy trong các bệnh viện[19]. Nhiều
kỹ thuật cao đã được thực hiện ngay tại tuyến tỉnh như: MRI, CT scanner lớp
cắt, chụp mạch xoá nền, sinh hoá, huyết học, truyền máu, vi sinh vật; y học hạt
nhân, laser...
Công tác y tế dự phòng và an toàn vệ
sinh thực phẩm được đẩy mạnh. Các hoạt động giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm
trên toàn quốc, trọng tâm là kiểm soát thực phẩm nhập khẩu tại các cửa khẩu;
thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đã được các cấp, các ngành quan
tâm chỉ đạo và triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ từ trung ương
đến địa phương[20].
Công tác phòng chống HIV/AIDS tiếp
tục được quan tâm. Tính đến ngày 17/5/2013, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn
sống là 212.714 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 62.437 người, số người
nhiễm HIV đã tử vong là 63.716 người.
Nhiều giải pháp về quản lý giá thuốc
được triển khai quyết liệt, thị trường thuốc cơ bản được duy trì bình ổn, đáp
ứng đủ thuốc điều trị, không để xảy ra tăng giá đồng loạt, đột biến. Trong 6
tháng đầu năm 2013, đã có thêm 14 địa phương thực hiện điều chỉnh giá viện phí,
đưa số địa phương đã thực hiện lên 61/63 tỉnh/thành phố. Dự kiến 2 thành phố
lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng
cuối năm 2013.
4. Về giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ:
Trong 6 tháng đầu năm, đã tập trung
thực hiện Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tiếp tục thí điểm
áp dụng một số mô hình giáo dục/dạy học mới, như mô hình nhà trường lấy học
sinh làm trung tâm,...; đổi mới phương pháp dạy, học và kiểm tra, đánh giá theo
hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm, phát
triển các kỹ năng mềm;... Mạng lưới các trung tâm giáo dục thường xuyên theo mô
hình thực hiện đa nhiệm vụ được củng cố và phát triển.
Hệ thống dạy nghề tiếp tục được đổi
mới, phát triển gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và hội nhập
quốc tế[21].Các
hoạt động dạy nghề tiếp tục phát triển theo hướng tăng cường đào tạo nghề trình
độ cao đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế mũi nhọn, những vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tiếp tục hoàn
thiện, nhân rộng các mô hình dạy nghề thí điểm có hiệu quả, nghiên cứu xây dựng
các mô hình mới dạy nghề gắn với các làng nghề, vùng chuyên canh, tập trung
triển khai ở các xã điểm xây dựng nông thôn mới và các doanh nghiệp phục vụ sản
xuất những sản phẩm nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, tận dụng được nhân lực
nông nhàn, nguyên liệu sẵn có như: nấm rơm, cây thanh long, lúa năng suất cao,
hàng mây tre đan,... Xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa cho
người đi lao động xuất khẩu lao động tại 62 huyện nghèo; phân cấp cho chính
quyền địa phương các tỉnh/thành phố quản lý đào tạo trung học chuyên nghiệp.
Đã tập trung hoàn thiện và trình
Quốc hội thông qua Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) sửa đổi; tiếp tục sửa
đổi, hoàn thiện các văn bản pháp lý, như: dự thảo Nghị định quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành Luật KH&CN; xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử và Luật
Chuyển giao công nghệ sửa đổi, bổ sung...Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện
Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công
lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển thị trường công
nghệ; đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ cao, xây dựng các khu công nghệ
cao; nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đo lường chất lượng sản phẩm hàng
hóa, tập trung vào các chương trình trọng điểm đáp ứng nhu cầu phát triển của
nền kinh tế; tăng cường công tác sở hữu trí tuệ, như: hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp lý, tăng cường hợp tác quốc tế, hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn cho tổ chức,
cá nhân về các thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, hỗ trợ đăng ký sáng
chế cho các đề tài...
5. Về văn hóa, thể dục thể thao:
Hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể
thao mừng Tết Nguyên đán và các ngày lễ lớn được tổ chức sôi nổi, rộng khắp,
đáp ứng yêu cầu chất lượng nghệ thuật, nội dung tư tưởng. Các hoạt động văn
hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở với nhiều hình thức đa dạng, phong
phú, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; chất lượng các hội thi, hội
diễn, liên hoan dần được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống
văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân.
Hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát
huy di sản văn hoá được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Các di sản văn hóa phi vật
thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ và phát huy nhằm từng bước góp phần làm đa dạng
hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đến tháng 5/2013, cả nước đã có 7 di sản
văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận. Công tác quản lý lễ hội được tăng
cường. Bản sắc văn hoá và các giá trị truyền thống của lễ hội được bảo tồn và
phát huy, tạo sức hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế. Ý thức thực
hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội của người dân có chuyển biến.
Các hoạt động thể thao quần chúng
tiếp tục được triển khai rộng rãi trên toàn quốc nhằm hưởng ứng cuộc vận động
“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trong 5 tháng đầu năm
đã tổ chức thành công 27 hội thi và giải thể thao quần chúng. Công tác thể thao
thành tích cao đạt được kết quả nhất định. Trong 5 tháng đầu năm đã có 62 giải
thể thao quốc gia và quốc tế được tổ chức thành công. Nhiều đoàn vận động viên
tham gia các giải thi đấu thể thao cấp khu vực, châu lục và thế giới,... giành
được nhiều thành tích. Các hoạt động chuẩn bị lực lượng vận động viên tham dự
các giải thể thao khu vực, châu lục và thế giới được tập trung triển khai.
6. Về tài nguyên môi trường:
Trong 6 tháng đầu năm đã tập trung
xây dựng, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, cơ chế, chính sách về quản lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường để tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý để bảo
vệ, khai thác hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên thiên nhiên[22].
Đẩy mạnh kiểm tra, theo dõi công tác giao đất, cho thuê đất, rà soát các dự án
chậm đưa đất vào sử dụng; kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền cấp Giấy phép
hoạt động khoáng sản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương,…
Các chương trình mục tiêu quốc gia
về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu giai
đoạn 2012-2015 được tích cực triển khai. Tiếp tục đẩy nhanh xây dựng quy hoạch
quản lý chất thải rắn trên địa bàn, thực hiện việc thu gom chất thải rắn, bảo
vệ môi trường[23].Thực
hiện đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với tài
nguyên nước trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu
Long, đề xuất các giải pháp nhằm thích ứng với những hậu quả do tác động của
biến đổi khí hậu gây ra đối với tài nguyên nước. Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh được tích cực tổ chức thực hiện thông qua việc nghiên cứu xây dựng
Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh. Tăng cường huy động và thực hiện có
hiệu quả các nguồn lực để thực hiện các chương trình.
7. Về thông tin truyền thông:
Công tác thông tin tuyên truyền các
sự kiện chính trị xã hội trên toàn quốc được quan tâm thực hiện, như: đưa tin,
phản ánh về không khí đón tết, vui Xuân; các hoạt động kỷ niệm 83 năm thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam; các hoạt động ngoại giao, thăm hỏi chúc tết đồng bào
của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phản ánh tình hình triển khai các Nghị quyết của
Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, nhất là nỗ lực của các cấp, các ngành trong
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng hợp lý
và bảo đảm an sinh xã hội; tuyên truyền về công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992,
Luật Đất đai sửa đổi, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về công tác bảo vệ
chủ quyền biển, đảo Việt Nam;…
Hoạt động khai thác mạng lưới, vận
chuyển trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát được bảo đảm đúng lịch trình. Công
tác quản lý tài nguyên internet được bảo đảm, không phát sinh trường hợp bất
thường. Hoàn tất việc xử lý các tên miền liên quan đến chủ quyền biển, đảo. Đẩy
mạnh xuất bản các xuất bản phẩm về bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới hải
đảo, khẳng định vị trí pháp lý của lãnh thổ đất nước đối với các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và các xuất bản phẩm có nội dung đề cao tinh thần yêu nước, tự
hào dân tộc. Chấn chỉnh quy trình xuất bản, trong đó chú trọng công tác biên
tập, đọc duyệt nội dung và quy trình liên kết xuất bản.
8. Về công tác ngoại giao, quốc
phòng an ninh và bảo đảm ổn định chính trị xã hội:
Tiềm lực quốc phòng tiếp tục được
củng cố. Tăng cường quản lý biên giới, các hoạt động tuần tra bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên biển, bảo vệ và cứu nạn ngư
dân[24]; chỉ
đạo xử lý kịp thời, linh hoạt các vi phạm chủ quyền nước ta trên biển Đông.
An ninh chính trị được giữ vững; chủ
động ngăn chặn mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tiếp tục được chỉ đạo quyết liệt. Ban chỉ
đạo phòng chống tội phạm của Chính phủ (138/CP) đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền
các địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính
trị về phòng, chống tội phạm với nhiều mô hình tốt[25].
Đã mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, nhất là ở các thành phố
lớn và trong các dịp Lễ, Tết, triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm nguy hiểm, xã
hội đen, bảo kê, cướp giật, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng[26].
Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao
thông theo Nghị quyết số 21/2012/QH13 của Quốc hội và Chỉ thị số 18-CT/TW của
Ban Bí thư được thực hiện quyết liệt với nhiều giải pháp đồng bộ, có nhiều đổi
mới, gắn với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, coi công tác bảo đảm an toàn
giao thông là nhiệm vụ của cả cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành và của
cả hệ thống chính trị.
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh
toàn diện. Đã tích cực tham gia và đạt được mục tiêu cơ bản trong các hoạt động
đối ngoại đa phương, đặc biệt là tại Hội nghị cấp cao ASEAN 22, Hội nghị cấp
cao kinh tế ASEAN - EU, Đối thoại Shangri-La, các Hội nghị cấp cao về phát
triển khu vực Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma,... Quan hệ song
phương, nhất là với các đối tác lớn tiếp tục được tăng cường và đi vào chiều
sâu; thiết lập mới quan hệ đối tác chiến lược mới với Italia. Triển khai đẩy
mạnh đàm phán các hiệp định tự do thương mại với các đối tác, khối kinh tế lớn;
chỉ đạo thực hiện đàm phán Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đã
tổng kết 5 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), 25 năm thu hút đầu
tư nước ngoài (FDI) và đề ra định hướng cho giai đoạn tới. Công tác người Việt
Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân tiếp tục được quan tâm[27].
II. DỰ BÁO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘINĂM 2013
1. Tình hình kinh tếthế giới:
Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm
2013 đã cho thấy một số tín hiệu phục hồi khả quan đến từ sự phục hồi tăng
trưởng của một số nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản. Mặc dù vậy, đà suy giảm
tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc cũng như một số nền kinh tế đang nổi và
trạng thái trì trệ của kinh tế khu vực châu Âu sẽ vẫn là những nhân tố quan
trọng cản trở đà phục hồi vững chắc của kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, những
rủi ro trên thị trường tài chính tiền tệ, tình trạng thất nghiệp không có nhiều
cải thiện tiếp tục là những thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng kinh tế
thế giới.
IMF đã hạ mức dự báo tăng trưởng
kinh tế toàn cầu trong năm 2013 xuống còn 3,3%, thấp hơn 0,2% so với dự báo đưa
ra trong tháng 1/2013. Trong đó, dự báo tăng trưởng trong năm 2013 của các nước
phát triển là 1,2%, của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển là 5,3%,
thấp hơn lần lượt là 0,1% và 0,2% so với dự báo trước đó.
Tốc độ tăng trưởng thương mại thế
giới trong năm 2013 được dự báo sẽ tăng ở mức 3,3% trong năm 2013[28].
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại các nước phát triển được dự báo ở mức 1,4%
trong năm 2013 và các nước đang phát triển ở mức 5,5%. Tốc độ tăng trưởng khối
lượng nhập khẩu tại các nước phát triển được dự báo ở mức 1,4% và các nước đang
phát triển là 5,9%.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) toàn cầu được dự báo chỉ phục hồi nhẹ lên 1,4 nghìn tỷ USD năm 2013.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có thể sẽ phục hồi nhẹ trong năm
2013 vì một số nước vẫn có khả năng tăng viện trợ[29].
Khảo sát cũng cho thấy ODA có thể chuyển hướng sang các nước thu nhập trung
bình tại vùng Viễn Đông và Nam và Trung Á, trong đó có Việt Nam.
Thị trường tài chính tiền tệ thế
giới sẽ vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Hầu hết các nền kinh tế vẫn đang và
sẽ tiếp tục xu hướng duy trì chính sách ổn định tài khóa và thực hiện các cải
cách trong lĩnh vực tiền tệ trong cả năm 2013 nhằm tránh rủi ro trong lĩnh vực
này.
2. Dự báo về tình hình kinh tế trong
nước
Căn cứ vào tình hình và kết quả đã
đạt được trong 6 tháng đầu năm, sự chỉ đạo tập trung của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các cấp, các ngành trong việc thực hiện các giải pháp chính sách đã
đề ra, dự báo tình hình kinh tế 6 tháng cuối năm và cả năm 2013 như sau: Về sản
xuất công nghiệp: với xu hướng tăng trưởng của 6 tháng đầu năm và tình hình sản
xuất kinh doanh ổn định của các ngành hàng thiết yếu như dầu khí, điện, xi
măng, sắt thép, phân bón, may mặc,... dự báo chỉ số phát triển công nghiệp
(IIP) năm 2013 sẽ tăng khoảng 5,5%-5,7% so với năm 2012.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản có thể sẽ tiếp tục gặp khó khăn do sắp bước vào mùa mưa lũ, giá cả các sản
phẩm nông sản vẫn ở mức thấp, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thủy sản vẫn
có nguy cơ bùng phát, giá nguyên liệu đầu vào chưa có dấu hiệu hạ nhiệt,…Tuy
nhiên, với việc quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, cùng với tác động của các chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường của Chính phủ,…sản xuất nông nghiệp sẽ có điều kiện
thuận lợi để hoàn thành kế hoạch đề ra.Dự báo giá trị sản xuất toàn ngành năm
2013 ước tăng 2,8%, trong đó nông nghiệp tăng 2,7%, lâm nghiệp tăng 5,8%, thủy
sản tăng 2,7%.
Khu vực dịch vụ dự kiến sẽ tiếp tục
phát triển khá, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2013 ước đạt khoảng
6,3%. Tổng mức bán lẻ năm 2013 ước đạt khoảng 2.700 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so
với năm 2012.
Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước
đạt 127 tỷ USD, tăng 10,9%so với năm 2012; tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 136
tỷ USD, tăng 19,5%. Như vậy, nhập siêu cả năm dự kiến khoảng 9 tỷ USD, bằng
7,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thu ngân sách nhà nước năm 2013 dự
báo sẽ đạt dự toán do một số yếu tố tích cực có thể làm tăng nguồn thu trong 6
tháng cuối năm, đó là: (i) thu từ thuế nhập khẩu sẽ cao hơn so với 6 tháng đầu
năm khi nhu cầu nhập khẩu hàng hoá tăng; (ii) thu nội địa cũng có thể được cải
thiện khi các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô như xử lý nợ xấu của hệ thống
ngân hàng, tăng cường chi đầu tư công, thúc đẩy tín dụng cho hoạt động cho vay
mua, thuê mua nhà ở xã hội bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, còn nhiều yếu
tố sẽ ảnh hưởng đến khả năng đạt dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2013, như
việc thực hiện các giải pháp miễn giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập
doanh nghiệp trong 6 tháng cuối năm, đồng thời thu từ dầu thô có thể có thể
thấp hơn năm 2012 do sản lượng dự toán thấp hơn và giá dầu bình quân trên thị
trường có xu thế giảm.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội năm 2013 ước thực hiện đạt 1.074 nghìn tỷ đồng, bằng 29% GDP.
Với xu hướng phát triển các ngành,
lĩnh vực như trên, dự báo tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 sẽ tăng
khoảng 5,5%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng
cuối năm có thể sẽ cao hơn so với đầu năm do tác động của các giải pháp thúc
đẩy tăng tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời một số
mặt hàng do nhà nước quản lý giá vẫn đang tiếp tục trong lộ trình điều chỉnh
tăng giá như giá vé tàu, than, dịch vụ y tế,giáo dục,… nhưng chỉ số giá tiêu
dùng cả năm 2013dự báo sẽ được kiềm chế ở mức khoảng 7%.
3. Dự báo tình hình thực hiện các
chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013:
Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh
tế thế giới và trong nước thời gian qua và triển vọng sắp tới, dự kiến thực
hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
Nghị quyết Quốc hội, Chính phủ đề ra
cho năm 2013 như sau:
STT
|
Chỉ
tiêu
|
Đơn vị
|
Chỉ
tiêu Quốc hội
|
Ước
thực hiện năm 2013
|
1.
|
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong
nước (GDP)
|
%
|
5,5
|
5,5
|
2.
|
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất
khẩu
|
%
|
10
|
10,9
|
3.
|
Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim
ngạch xuất khẩu
|
%
|
8
|
7,1
|
4.
|
Bội chi ngân sách nhà nước so với
GDP
|
%
|
4,8
|
4,8
|
5.
|
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội so với GDP
|
%
|
30
|
29
|
6.
|
Chỉ số giá tiêu dùng
|
%
|
~8
|
~7
|
7.
|
Tạo việc làm
|
Triệu
người
|
1,6
|
<1,6
|
8.
|
Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong
tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế
|
%
|
49
|
49
|
9.
|
Tỷ lệ thất nghiệp ởkhu vực thành
thị
|
%
|
<4
|
3,48
|
10.
|
Giảm tỷ lệ hộ nghèo
Riêng các huyện nghèo giảm
|
%
%
|
2
4
|
2
4
|
11.
|
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng
|
%
|
<16
|
<16
|
12.
|
Số giường bệnh trên 1 vạn dân
(không tính giường trạm y tế xã)
|
Giường
bệnh
|
22
|
22
|
13.
|
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý
|
%
|
84
|
85
|
14.
|
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế
xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường
|
%
|
75
|
75
|
15.
|
Tỷ lệ che phủ rừng
|
%
|
40,7
|
40,5
|
Như vậy, trong tổng số 15 chỉ tiêu
Quốc hội đề ra trong kế hoạch năm 2013,dự kiến có 13 chỉ tiêu có triển vọng đạt
và vượt kế hoạch, còn 02 chỉ tiêu có thể không đạt kế hoạch là tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội so với GDP và tỷ lệ che phủ rừng.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP
TRUNG THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013
Để hoàn thành tốt các mục tiêu, chỉ
tiêu kế hoạch năm 2013, các cấp, các ngành phải tiếp tục tập trung triển khai
thực hiện các giải pháp chính sách đã được quy định trong Nghị quyết số
01/NQ-CP , Nghị quyết số 02/NQ-CP , các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính
phủ, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp chính sau đây:
- Chỉ đạo các ngân hàng thương mại
phấn đấu tiết giảm chi phí để có thể giảm thêm lãi suất cho vay một cách hợp
lý; tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận vốn, hướng dòng vốn vào
sản xuất; có giải pháp cụ thể giúp doanh nghiệp còn triển vọng tiếp tục vay vốn
phục vụ sản xuất, kinh doanh. Điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục
tiêu cả năm nhưng không dồn vào một thời điểm, ưu tiên các lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, các doanh nghiệp có triển vọng, có thị trường
tiêu thụ. Tích cực triển khai chính sách tín dụng hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã
hội, nhà ở thương mại đối với người có thu nhập thấp. Khẩn trương triển khai Đề
án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015; thúc đẩy hoạt động Công
ty quản lý tài sản (VAMC) góp phần xử lý nợ xấu, khai thông dòng vốn tín dụng.
Kiểm soát chặt chẽ tỷ giá, thị trường vàng theo mục tiêu.
- Tăng cường chỉ đạo, điều hành thực
hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách theo Chỉ thị số 09/CT-TTG ngày 24/5/2013
của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện kịp thời chính sách miễn, giảm, gia hạn thời
hạn nộp thuế, vừa khuyến khích sản xuất, kinh doanh, vừa động viên hợp lý nguồn
thu, đồng thời tăng cường quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế.
Chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Điều hành ngân sách chủ động,
bảo đảm cân đối, giữ bội chi trong phạm vi Quốc hội quyết định. Tăng cường công
khai thông tin về giá và Quỹ bình ổn giá xăng dầu.
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi
công và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là các nguồn vốn ngân sách
nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA, những dự án đang triển khai có thể hoàn
thành sớm và đưa vào sử dụng. Huy động vốn để triển khai một số dự án trọng
điểm quốc gia, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án mở rộng Quốc lộ
1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên (Quốc lộ 14), vốn đối ứng ODA. Tăng
cường kiểm tra, kiểm soát đầu tư, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, hạn chế việc
doanh nghiệp ứng vốn để thực hiện dự án trong khi chưa xác định được khả năng
cân đối vốn.
- Tích cực triển khai các chương
trình phát triển thị trường trong nước, tăng sức mua thị trường, góp phần giảm
hàng tồn kho. Tăng cường quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động
buôn lậu qua biên giới. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho công nghiệp chế biến.
Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu,
khuyến khích xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu tại các địa phương,
các cửa khẩu. Khẩn trương xây dựng quy hoạch đầu mối xuất khẩu gạo; quản lý
chặt chẽ hoạt động của các đầu mối, có biện pháp, chế tài khắc phục tình trạng
cạnh tranh xuất khẩu không lành mạnh, phá giá.
- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến
tình hình, triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, thiên tai (sửa chữa,
nâng cấp các công trình thủy lợi để nâng cao năng lực sản xuất, bảo đảm tính
mạng và tài sản của nhân dân trước mùa mưa lũ). Khẩn trương triển khai tạm trữ
lúa gạo, hạn chế phân giao chỉ tiêu cho doanh nghiệp không nằm trên vùng sản
xuất, ưu tiên cho doanh nghiệp có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân, giảm
bớt khâu trung gian. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội trong công tác định
hướng giá nông sản xuất khẩu, không để các doanh nghiệp xuất khẩu phá giá, gây
thiệt hại chung. Phát triển hợp tác với các nước xuất khẩu gạo lớn để trao đổi
thông tin và định hướng thị trường. Đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vụ Hè Thu đối với diện tích đất lúa năng suất kém, xen canh vụ 2, vụ 3 đối với
đất chuyên lúa. Thực hiện quyết liệt đối với công tác bảo đảm an toàn vệ sinh
thực phẩm để tạo lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước, nâng cao sức
mua, tạo đầu ra cho sản phẩm.Thông tin, đàm phán và tiến hành các biện pháp
pháp lý cần thiết để giải quyết, tránh các vụ kiện bán phá giá và các rào cản
kỹ thuật khác đối sản phẩm xuất khẩu.
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ, có
hiệu quả các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, các Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo và việc làm. Triển khai hiệu quả các giải pháp về
đào tạo nghề, tạo việc làm, nhất là đối với lao động nông thôn, lao động bị thu
hồi đất sản xuất. Chủ động có kế hoạch xuất khẩu lao động tại các thị trường
tiềm năng trong tương lai.
- Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh
ở bệnh viện các tuyến. Tích cực triển khai Đề án giảm tải bệnh viện, đẩy nhanh
tiến độ xây dựng các bệnh viện. Nghiên cứu đề xuất phương án sử dụng một phần
kinh phí cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để đầu tư xây dựng bệnh viện.
- Rà soát, kiểm tra, chấn chỉnh tình
trạng một số trường đại học được thành lập nhưng chậm đầu tư và hoàn thiện các
điều kiện phục vụ đào tạo. Tăng cường công tác quản lý, khắc phục hạn chế, bảo
đảm chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng.
- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, bảo đảm chất lượng
của kế hoạch cải cách hành chính hằng năm theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày
22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác
thông tin, tuyên truyền bảo đảm tính khách quan về tình hình kinh tế - xã hội,
mục tiêu của chính sách, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Nghiên cứu
ban hành Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực báo chí và xuất bản.
Các bộ, cơ quan chủ động cung cấp thông tin về ngành, lĩnh vực bảo đảm chính
xác, kịp thời để tạo sự minh bạch và định hướng dư luận. Xử lý việc lợi dụng tự
do dân chủ thông tin tuyên truyền sai sự thật, xuyên tạc tình hình đất nước,
gây phương hại đến uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhân
dân.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014
I. DỰ BÁO BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG
NƯỚC
Năm 2014, kinh tế thế giới dự báo sẽ
có sự phục hồi tích cực hơn, tuy nhiên còn nhiều yếu tố rủi ro và chưa vững
chắc. Tốc độ của cả tăng trưởng kinh tế cũng như tăng trưởng thương mại thế
giới được dự báo đều đạt mức tăng đáng kể so với năm 2013[30].
Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
nhiều khả năng khả quan hơn do sự phục hồi nhẹ của dòng vốn[31] và việc chuyển hướng dòng vốn ODA
thế giới từ các nước thu nhập thấp sang các nước thu nhập trung bình, đặc biệt
ở khu vực Viễn Đông, Nam và Trung Á.
Trong nước, dự báo sự hồi phục của
nền kinh tế sẽ rõ rệt hơn do tác động tích cực từ nền kinh tế thế giới trên cả
lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư; dư địa của các chính sách tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh cuối năm 2013 cũng như sự quyết tâm của cả hệ thống
chính trị. Niềm tin kinh doanh được củng cố, dòng vốn được khai thông sẽ đẩy
nhanh hơn tốc độ hồi phục sản xuất. Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn và các FTA
mới (EPA, TPP, EU) sẽ có tác động tạo ra sự cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh
doanh, tạo cơ hội mở rộng đầu tư và thương mại cho doanh nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2014 có
nhiều khả năng sẽ hồi phục nhưng sẽ thiếu bền vững nếu những bất ổn mang tính
cơ cấu của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để. Năm 2014 cũng sẽ tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao do tác động độ trễ của những chính sách tháo gỡ khó khăn
sản xuất kinh doanh năm 2013, dòng vốn được lưu thông trở lại. Thiên tai, bão
lũ, dịch bệnh có thể xảy ra cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và đời
sống nhân dân.
II. MỤC TIÊU NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ
TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014
1. Mục tiêu tổng quát:
Đẩy nhanh phát triển nền kinh tế đi
đôi với việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Triển khai thực hiện mạnh mẽ tái
cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả các
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí.
2. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu của
năm 2014:
a) Các chỉ tiêu kinh tế:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
khoảng 6% so với năm 2013
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng
9-10% so với năm 2013
Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim
ngạch xuất khẩu ở mức dưới 10%
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so
với GDP là 4,7%
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội chiếm khoảng 30,0% GDP
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng
khoảng 7%
b) Các chỉ tiêu xã hội:
Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5-2%, riêng
các huyện nghèo giảm 4%
Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu
lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành
thị dưới 4%
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 52%.
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng giảm xuống dưới 15,5%
Số giường bệnh trên một vạn dân
(không tính giường trạm y tế xã) đạt 22,5giường
Diện tích sàn nhà ở đô thị bình quân
đầu người đạt 24,2 m2/người
c) Các chỉ tiêu môi trường:
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý đạt 85%
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất
đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường
đạt 78%
Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%
Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng
nước hợp vệ sinh: 84%
Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng
nước sạch: 81%
Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được
thu gom: 84,5%
III. DỰ KIẾN MỘT SỐ CÂN ĐỐI LỚN CỦA
NỀN KINH TẾ NĂM 2014
1. Lao động và việc làm:
Năm 2014, lực lượng lao động cả nước
có khoảng 54,3 triệu người, trong đó số lao động làm việc trong nền kinh tế
quốc dân khoảng 54,01 triệu người.
Dự kiến năm 2014 giải quyết việc làm
cho 1,6 triệu người, trong đó đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 85nghìn
người. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là 45%, công nghiệp
và xây dựng là 22%, dịch vụ là 33%.
2. Cân đối thu, chi ngân sách nhà
nước:
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
năm 2014 khoảng 897,6 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 21,2% GDP; trong đó thu nội
địa (không kể thu từ dầu thô) khoảng 604,6 nghìn tỷ đồng; thu từ dầu thô 114
nghìn tỷ đồng; thu từ xuất nhập khẩu khoảng 174 nghìn tỷ đồng; thu viện trợ không
hoàn lại và quỹ dự trữ tài chính 5 nghìn tỷ đồng.
Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014
khoảng 1.096,6 nghìn tỷ đồng; trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 234 nghìn
tỷ đồng, chiếm 21,3% tổng chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước dự kiến bằng
khoảng 4,7% GDP.
3. Cân đối vốn đầu tư phát triển:
Trên cơ sở cân đối tích luỹ tiêu
dùng, đồng thời với việc triển khai đồng bộ các giải pháp để thu hút nguồn vốn
trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, dự báo khả năng huy động nguồn vốn
đầu tư phát triển năm 2014 vào khoảng 1.260nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 30,0%
GDP. Dự kiến huy động các nguồn vốn như sau:
- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước khoảng 234 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 60
nghìn tỷ đồng, chiếm 4,7% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước khoảng 66 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội.
- Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp
nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,9% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
- Nguồn đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp tư nhân khoảng 520nghìn tỷ đồng, chiếm 41,2% tổng nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài dự kiến khoảng 240 nghìn tỷ đồng, chiếm 19% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã
hội.
- Nguồn vốn khác dự kiến khoảng
30nghìn tỷ đồng, chiếm 2,4% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
4. Cân đối xuất nhập khẩu:
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2014 dự
kiến đạt khoảng 138-140 tỷ USD, tăng 9-10% so với năm 2013. Tổng kim ngạch nhập
khẩu dự kiến đạt khoảng 141-143 tỷ USD, tăng 4-5% so với năm 2013. Nhập siêu
năm 2014 tiếp tục được duy trì ở mức dưới 10% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Dự kiến năm 2014 xuất khẩu dịch vụ
trên 10 tỷ USD, tăng hơn 10% so với năm 2013; nhập khẩu dịch vụ khoảng 14 tỷ
USD, tăng hơn 8% so với năm 2013.
5. Cán cân thanh toán quốc tế:
Cán cân thương mại năm 2014 dự kiến
thâm hụt 1,2 tỷ USD, cán cân vãng lai thặng dư 0,5 tỷ USD, cán cân vốn thặng dư
5,6 tỷ USD, cán cân tổng thể thặng dư 2,4 tỷ USD.
6. Cân đối về điện:
Nhu cầu điện năm 2014 dự kiến tăng
khoảng 12%, nhu cầu điện thương phẩm khoảng 131 tỷ kWh, trong khi đó điện sản
xuất và mua năm 2014 khoảng 146 tỷ kWh.Như vậy, nếu các dự án nguồn điện thực
hiện đúng tiến độ và các biện pháp tiết kiệm điện có hiệu quả thì có thể đáp
ứng đủ nhu cầu điện năm 2014. Tuy nhiên, cần tiếp tục tập trung phát triển các
nguồn điện khu vực miền Nam, đầu tư phát triển hệ thống truyền tải cung cấp
điện cho khu vực này, sớm đưa vào vận hành Đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước -
Cầu Bông và một số công trình lưới điện cấp bách, đề phòng tình trạng thiếu
điện cục bộ ở khu vực này.
7. Cân đối về lương thực:
Dự kiến kế hoạch gieo trồng lúa năm
2014 cả nước là 7,5 triệu ha, sản lượng lúa dự kiến đạt 42,9 triệu tấn, bảo đảm
đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước khoảng 27,8 triệu tấn và lượng lúa hàng
hoá xuất khẩu khoảng 15 triệu tấn (tương đương 7,5 triệu tấn gạo).
IV. NHIỆM VỤ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NGÀNH VÀ LĨNH VỰC
Với các mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ định
hướng phát triển ngành, lĩnh vực chủ yếu trong năm 2014 đề ra như sau:
1. Về phát triển kinh tế:
a) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án
tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao
chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giai đoạn
2013-2020. Tăng cường kiểm tra và giám sát việc tái cơ cấu và hoạt động của các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
b) Tập trung rà soát, điều chỉnh các
quy hoạch phát triển nhằm khai thác các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát
triển kinh tế.Hỗ trợ triển khai các dự án đầu tưđã được cấp giấy chứng nhận đầu
tư; rà soát, xử lý và thu hồi đối với các dự án đầu tư không triển khai hoặc
chậm tiến độ.
c) Về phát triển công nghiệp:
Phấn đấu từng bước lấy lại đà tăng
trưởng cao của ngành công nghiệp. Nghiên cứu xây dựng và điều chỉnh bổ sung cơ
chế, chính sách phù hợp với điều kiện từng vùng, thị trường, phát triển các cụm
công nghiệp, khu công nghiệp theo hướng tập trung, liên kết để khuyến khích các
thành phần kinh tế tập trung đầu tư phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh cao, phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sử dụng đầu vào là các
sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ tiên
tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh.
Tăng cường công tác giám sát, kiểm
tra đối với các dự án đầu tư trọng điểm của ngành công nghiệp như: các dự án
nguồn và lưới điện, dầu khí, luyện kim, chế biến khoáng sản, hoá chất và phân bón,
xi măng,… để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, tránh gây thất thoát, lãng phí và ảnh
hưởng tới cân bằng nguồn cung cầu trên thị trường.
d) Về phát triển nông nghiệp:
Tập trung chỉ đạo thực hiện các giải
pháp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là hỗ trợ về giống, kỹ
thuật canh tác và thị trường tiêu thụ. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi. Chủ động kiểm soát và ngăn chặn lây lan dịch bệnh trên cây trồng, vật
nuôi. Phát triển nhanh chăn nuôi theo hướng hiệu quả, an toàn dịch bệnh, tạo
sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tạo điều kiện phát triển các cơ sở
chăn nuôi, giết mổ theo hình thức gia trại, trang trại, công nghiệp, nâng cao
hiệu quả chăn nuôi ở nông hộ.
Đẩy mạnh phát triển có hiệu quả kinh
tế rừng. Tiếp tục thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, khoán rừng cho các
hộ gia đình, cộng đồng và tổ chức quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đầu tư
trồng rừng sản xuất theo phương thức thâm canh và hiệu quả. Triển khai Đề án
đổi mới nông lâm trường quốc doanh. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao
tỷ lệ che phủ rừng.
Quy hoạch và quản lý khai thác hải
sản theo quy hoạch. Thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ
có hiệu quả và an toàn. Nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản đáp ứng yêu cầu xuất
khẩu và tiêu dùng trong nước.
Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới, chương trình về nước sách và vệ sinh môi trường nông thôn. Hỗ
trợ các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư vào sản
xuất, phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản, tiểu thủ công nghiệp,
ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Huy động các nguồn lực hỗ trợ từng bước xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường
nông thôn. Xây dựng Đề án liên kết các thành phần kinh tế ở nông thôn (liên kết
4 nhà).
Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác
hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có. Tiếp tục đầu tư phát triển các hệ thống
thuỷ lợi đa mục tiêu, ưu tiên đầu tư hạ tầng phát triển thuỷ sản và nghề muối,
các công trình cấp thoát nước, vệ sinh môi trường nông thôn. Thực hiện tốt các
biện pháp phòng, chống thiên tai, nhất là vào mùa mưa bão.
đ) Về phát triển kinh tế biển:
Phát triển mạnh kinh tế biển theo
tinh thần Kết luận số 60/KL-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Biển, tập trung
phát triển 6 nhóm ngành kinh tế biển theo Điều 43 Luật Biển Việt Nam năm 2012.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ có hiệu quả
và an toàn.
e) Về phát triển dịch vụ:
Đẩy mạnh phát triển thị trường trong
nước , nhất là hỗ trợ doanh nghiệp , nông dân tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường
quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi gian lận thương mại như:
hàng giả, hàng kém chất lượng, trốn thuế, lậu thuế, thao túng thị trường trong,
buôn lậu qua biên giới; đồng thời đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo
quyền lợi người tiêu dùng. Nghiên cứu khắc phục những hạn chế của chuỗi cung
ứng trong quy trình từ sản xuất đến tiêu dùng nhằm giảm thiểu chênh lệch giữa
giá thu mua tại nơi sản xuất và giá bán cho người tiêu dùng.
Tập trung khai thác có hiệu quả, bền
vững các tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch, đẩy mạnh thu hút khách du
lịch quốc tế. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ viễn thông và internet gắn
liền với cung ứng dịch vụ viễn thông công ích. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp
công nghệ thông tin, ứng dụng các dịch vụ công nghệ thông tin trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước và trong đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển và duy
trì mạng lưới bưu chính, chuyển phát, ổn định mạng lưới bưu chính công cộng
quốc gia đảm bảo cung ứng các dịch vụ bưu chính công ích cho người dân. Phát
triển, nâng cao chất lượng các dịch vụ vận tải, tài chính ngân hàng và các dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
g) Về huy động nguồn lực cho đầu tư
phát triển:
Tăng cường huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Tập trung nghiên cứu xây
dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực xã hội hoá từ các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn, nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ.
Tiếp tục tăng cường quản lý đầu tư
từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, khắc phục tình trạng bố trí vốn
phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tăng cường công tác giám sát,
đánh giá đầu tư để đảm bảo thực hiện đầu tư đúng quy hoạch, kế hoạch được
duyệt. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tiếp tục cơ cấu lại để nâng cao năng
lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước.
Rà soát để loại bỏ các chính sách và
văn bản pháp luật bất hợp lý; sửa đổi, bổ sung và triển khai ngay các cơ chế,
chính sách có hiệu quả liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp; tăng cường cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp.Triển khai
thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, phát triển hợp tác xã kiểu mới.
h) Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
tế đối ngoại:
Tiếp tục tăng cường các biện pháp
vận động tài trợ vốn ODA, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy
giải ngân vốn ODA. Đẩy mạnh thu hút và nâng cao chất lượng các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
i) Nhất quán thực hiện mục tiêu tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện chính sách tiền tệ bảo
đảm cung ứng vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiềm
chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Phấn đấu kiềm chế lạm phát khoảng
7%.Tiếp tục phát triển đồng bộ và lành mạnh hoá thị trường tiền tệ, giảm dần tỷ
lệ nợ xấu thông qua việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng; tiến hành thanh
lọc, mua bán hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng có tình hình tài chính yếu kém.
Triển khai có hiệu quả Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt
Nam và thực hiện tốt Đề án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại.
Đẩy mạnh các kênh huy động vốn ngoài
hệ thống ngân hàng như thị trường chứng khoán, thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài,...Tái cơ cấu thị trường chứng khoán nhằm phát huy vai trò kênh
trung chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Tiếp tục thực hiện chính sách tài
khoá phối hợp hiệu quả với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô
khác bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường
quản lý ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp
nhà nước.
- Kiểm soát nhập siêu ở mức hợp lý.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả các biện pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu,
nhất là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Thực hiện có hiệu quả các biện
pháp hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích, hàng hoá xa xỉ hoặc các
hàng hoá dịch vụ trong nước sản xuất được để thúc đẩy phát triển sản xuất trong
nước.
- Tăng cường kiểm tra, thanh tra,
minh bạch hoá thông tin, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giá
cả, thị trường. Giám sát các hành vi lạm dụng vị thế có thị phần lớn trên thị
trường để nâng giá, giảm giá hoặc giảm chất lượng của các doanh nghiệp cung ứng
các sản phẩm, dịch vụ như: điện, than, xăng dầu, dịch vụ công, thức ăn gia
súc,...
2. Về phát triển xã hội:
a) Về an sinh xã hội và xoá đói giảm
nghèo:
- Tập trung thực hiện đồng bộ các cơ
chế, chính sách tạo việc làm mới và giải quyết việc làm. Tăng cường các hoạt
động tư vấn, giới thiệu việc làm của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm; đa
dạng hoá các hoạt động giao dịch việc làm; tiếp tục phát huy và nâng cao năng
lực hoạt động sàn giao dịch việc làm, góp phần tích cực kết nối cung - cầu
lao động. Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp giữ và tăng thị phần ở các
thị trường xuất khẩu lao động truyền thống. Đồng thời tiếp tục các hoạt động để
mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường có thu nhập cao và an toàn cho người
lao động... đẩy mạnh các hình thức hợp tác đưa lao động có trình độ, tay nghề
đi làm việc ở nước ngoài, như: đưa điều dưỡng viên, người lao động đi làm việc
tại Nhật Bản, CHLB Đức…
Tăng cường kiểm tra, giám sát điều
kiện lao động, an toàn, bảo hộ lao động; nắm bắt và giải quyết kịp thời các
tranh chấp lao động. Tăng cường công tác hướng dẫn đăng ký, lập thủ tục và cấp
phép cho lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Tăng cường quản lý đối tượng đóng và
tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp; theo dõi, hướng dẫn, xử
lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc của cơ quan, doanh nghiệp, người dân
trong thực hiện quy định của pháp luật về BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.Đồng thời,
tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH, bảo hiểm thất
nghiệp, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là hành vi trốn
đóng, nợ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng
chế độ, trục lợi BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.
- Phấnđấu giảm dần khoảng cách về
thu nhập và đời sống giữa các vùng.Tiếp tục thực hiện đồng bộ và hiệu quả các
chính sách, chương trình, dự án về giảm nghèo, nhất là đối với các huyện nghèo,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tập trung cho các huyện, xã, thôn,
bản khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Giảm dần các chính sách hỗ trợ trực tiếp “cho
không”; tập trung ưu tiên thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất,
học nghề, tạo việc làm, xây dựng nông thôn mới; khuyến khích người nghèo tự chủ
vươn lên thoát nghèo.
- Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời
các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, nhất là đối với người có công, đối
tượng bảo trợ xã hội, người già cô đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
đồng bào miền núi, hải đảo.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
cộng đồng , đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia trợ giúp những người thiệt
thòi trong xã hội; Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, nhân đạo và sử
dụng có hiệu quả các quỹ từ thiện nhân đạo. Phát triển các mô hình chăm sóc
người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng; khuyến khích khu vực tư nhân tham
gia vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người
khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão.
Theo dõi sát tình hình thiếu đói
giáp hạt, thiệt hại do thiên tai để chỉ đạo kịp thời hoạt động cứu trợ tại địa
phương và đề xuất các giải pháp khắc phục hậu quả; xây dựng, triển khai nhân
rộng việc thực hiện các mô hình phòng tránh và cứu trợ phù hợp để kịp thời ứng
phó và hạn chế các tác động xấu của thiên tai, hướng dẫn người dân chủ động
phòng chống, cứu giúp lẫn nhau khi gặp thiên tai.
b) Về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân:
Tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
Củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng và y tế cơ sở, chủ động
phòng, chống dịch bệnh, không để các dịch bệnh lớn xảy ra. Tiếp tục thực hiện
đồng bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giảm quá tải bệnh
viện. Triển khai các giải pháp hiệu quả để thực hiện các Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ về y tế, trong đó có giảm nhanh và bền vững tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi, dưới 5 tuổi, tỷ suất chết mẹ liên quan
đến thai sản tại các khu vực miền núi, Tây Nguyên; khống chế lây nhiễm HIV,
bệnh lao và các bệnh dịch nguy hiểm khác;... Quản lý chặt chẽ giá và chất lượng
thuốc chữa bệnh. Triển khai thực hiện các nội dung về đổi mới cơ chế hoạt động
và cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập (trong đó có giá
dịch vụ y tế); thực hiện thí điểm khám chữa bệnh theo yêu cầu. Tăng cường thanh
tra, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, dược, mỹ phẩm, vắc xin sử dụng cho
người. Tăng cường phát triển nhân lực y tế; phát triển mô hình bác sỹ gia đình
và y tế biển đảo. Tiếp tục thực hiện các biện pháp mở rộng đối tượng tham gia
bảo hiểm y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Kiểm soát tỷ lệ tăng
dân số và tỷ số giới tính khi sinh. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin,
truyền thông giáo dục sức khỏe.
c) Về phát triển giáo dục đào tạo:
Tập trung triển khai thực hiện Luật
giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục và Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 (khóa XI). Đẩy mạnh thực hiện xã hội học tập; chấn chỉnh tình trạng dạy
thêm, học thêm, liên kết đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, nhất là
đại học ngoài công lập. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, nhất là giáo dục
tiểu học, phổ thông cơ sở; đảm bảo không còn sự khác biệt về giới trong tiếp
cận giáo dục ở các cấp học. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống dạy nghề đáp
ứng nhu cầu thị trường lao động; phát triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao
chất lượng, hiệu quả dạy nghề theo 3 cấp trình độ. Nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao tỷ
lệ lao động qua đào tạo.
d) Về phát triển khoa học công nghệ:
Tập trung thực hiện Nghị quyết số
46/NQ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI ) về phát
triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
giai đoạn 2011-2020 và các chương trình quốc gia về khoa học và công nghệ. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và
công nghệ. Ưu tiên phát triển công nghệ cao. Phát triển dịch vụ tư vấn, thẩm
định, giám định công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý
bảo hộ sở hữu trí tuệ.
đ) Về phát triển văn hoá:
Tiếp tục củng cố và xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, tăng cường hiệu quả hoạt động của
hệ thống thiết chế văn hóa, thể dục thể thao ở các cấp. Đẩy mạnh xã hội hóa và
đa dạng hoá nguồn lực đối với lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao. Tăng cường
huy động các nguồn lực để bảo tồn, tôn tạo và phát huy các di sản văn hoá của
dân tộc, trong đó chú trọng những di sản văn hoá thế giới. Tăng cường quản lý
các lễ hội, hoạt động văn hoá, thể thao; hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách
nhà nước để tổ chức lễ hội.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin
tuyên truyền; tăng cường các thông tin chính thức một cách công khai, minh
bạch, kịp thời về các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình
phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo
chí, xuất bản; tăng phủ sóng phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc thiểu số tới
các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.
e) Xây dựng môi trường sống an toàn,
thân thiện với trẻ em; bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Xây dựng môi trường phát
triển toàn diện cho thanh niên. Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi,
xây dựng và phát triển hình mẫu gia đình văn minh, hạnh phúc. Từng bước bảo đảm
bình đẳng giới trong mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; thu
hẹp khoảng cách giới, xoá dần định kiến về giới trong đời sống xã hội.
g) Tập trung giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội bức xúc; nhất là tình trạng khiếu kiện kéo dài, tham nhũng,
tội phạm, ma tuý, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông và những tiêu cực trong y
tế, giáo dục.
3. Về bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu:
Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung
ương 7 (Khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp
bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Thực hiện có hiệu quả các định hướng ưu
tiên về tài nguyên và môi trường của Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược
tăng trưởng xanh, Chiến lược bảo vệ môi trường, Chiến lược quốc gia về biến đổi
khí hậu và thực hiện
Mục tiêu Thiên niên kỷ về bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững. Tập trung thực hiện:
a) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường,
khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường, tập trung xử lý môi trường làng
nghề. Tiếp tục tăng số khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống
xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; kiên quyết xử lý các cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
b) Nâng cao khả năng phòng tránh và
hạn chế tác động xấu của thiên tai, sự biến động khí hậu bất lợi đối với môi
trường; ứng cứu kịp thời và khắc phục hậu quả xấu do thiên tai gây ra. Tăng
cường khả năng dự báo các biến động bất lợi của thời tiết. Thực hiện khung
hướng dẫn ưu tiên đầu tư ứng phó biến đổi khí hậu.
c) Sử dụng hợp lý, có hiệu quả và
bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường ở các lưu vực sông, bảo đảm cân
bằng sinh thái, bảo tồn thiên nhiên và giữ gìn đa dạng sinh học. Tích cực triển
khai các thủ tục để Việt Nam tham gia Công ước Liên hợp quốc về sử dụng các
nguồn nước quốc tế vào năm 2014. Ngăn chặn quyết liệt, hiệu quả tình trạng chặt
phá rừng. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao nhận thức về gìn giữ và bảo vệ môi trường.
4. Về cải cách hành chính; phòng
chống tham nhũng, lãng phí; khiếu nại tố cáo:
Đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, tập trung vào đơn
giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Nâng
cao chất lượng, khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn thi hành pháp
luật và việc ban hành văn bản không phù hợp, không khả thi. Tích cực triển khai
Đề án cải cách chế độ công vụ, công chức; tăng cường công khai, minh bạch trong
hoạt động công vụ. Cụ thể hoá các mục tiêu về xây dựng Chính phủ điện tử trong
mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước và xây dựng kế hoạch triển khai thiết lập hệ
thống thông tin kết nối bộ, ngành, địa phương, đẩy mạnh mô hình một cửa. Triển
khai Đề án tổng thể đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ
sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán, điều tra để phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Chỉ đạo
thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra và việc xử lý sau thanh tra. Kiện toàn,
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham
nhũng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; hạn
chế thấp nhất các đoàn khiếu nại đông người.
5. Về công tác đối ngoại, quốc
phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội:
Tiếp tục thực hiện tốt đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực từ
bên ngoài để phát triển đất nước.
Tăng cường củng cố quốc phòng an
ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đặc biệt tại các khu vực trọng điểm, vùng
biên giới và hải đảo, tạo môi trường hoà bình, chính trị ổn định cho sự phát
triển của đất nước. Tăng cường đầu tư và sử dụng các nguồn lực bảo đảm cho các
lực lượng hoạt động, quản lý, bảo vệ và chấp pháp trên biển; tăng cường đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các lực lượng trọng yếu đảm bảo công tác an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; tập trung đẩy
nhanh tiến độ triển khai khu kinh tế - quốc phòng biển, đảo, các khu kinh tế
quốc phòng trọng điểm; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các đồn trạm biên phòng, xoá
nhà cấp 4 cho bộ đội.
V. TIẾN ĐỘ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014
Các nội dung phân công, quy trình,
tiến độ và nhiệm vụ xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của
các bộ, ngành, địa phương được thực hiện theo Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 25 tháng
6 năm 2013của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2014. Cụ thể như sau:
- Các bộ, ngành, địa phương căn cứ
vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Khung hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, hướng dẫn của Bộ Tài chính và điều kiện của bộ, ngành, địa phương mình,
tiến hành xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, gửi báo cáo
đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20 tháng 7 năm 2013.
- Trong tháng 8 năm 2013, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho ý kiến về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của
các bộ, ngành, địa phương và tiến hành tổng hợp Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2014 của cả nước.
- Trước ngày 10 tháng 9 năm 2013,
các Bộ, ngành, địa phương, tiếp thu ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính và các cơ quan liên quan, hoàn chỉnh Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2014 gửi lại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Trong tháng 9 năm 2013, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư báo cáo Chính phủ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2014để Chính phủ cho ý kiến, hoàn chỉnh, trình Quốc hội theo quy định.
-Trước ngày 20 tháng 11 năm 2013,
căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, các địa phương, các cơ quan, đơn vị khác.
Trên đây là nội dung hướng dẫn xây
dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Đề nghị các bộ, ngành, địa
phương căn cứ vào Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Khung hướng dẫn
này,hướng dẫn của Bộ Tài chính và tình hình, đặc điểm cụ thể của từng bộ,
ngành, địa phương, khẩn trương xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2014và gửi Báo cáo bằng văn bản về Bộ Kế hoạch và Đầu tư(2 bản), Bộ Tài
chính trước ngày 20 tháng 7 năm 2013, đồng thời gửi kèm file theo địa chỉ
e-mail: thktqd@mpi.gov.vn để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính
phủ./.
Nơi nhận:
- Văn phòng
Chính phủ (để b/c TTCP);
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở
trung ương ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Sở Kế hoạch và Đầu tư;
- Các Tập đoàn kinh tế nhà nước, Tổng công ty 91;
- Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Bộ KH&ĐT: Lãnh đạo Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ, Cổng TTĐT;- Lưu: VT,
VụTHKTQD (10b).
|
BỘ TRƯỞNG
Bùi Quang Vinh
|
PHỤ LỤC 1
CÁC BIỂU
MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014 CỦA CÁC CƠ QUAN
TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn
số /BKHĐT-TH ngày tháng 6 năm 2013)
Biểu 1: Các chỉ tiêu sản xuất nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản
Biểu 2: Các chỉ tiêu sản xuất công
nghiệp và xây dựng Biểu 3: Các chỉ tiêu dịch vụ
Biểu 4: Các chỉ tiêu xuất khẩu, nhập
khẩu
Biểu 5: Cân đối ngân sách nhà nước
Biểu 6: Cán cân thanh toán quốc tế
Biểu 7: Các chỉ tiêu tiền tệ
Biểu 8: Các chỉ tiêu xã hội
Biểu 9: Các chỉ tiêu giáo dục và đào
tạo
Biểu 10: Các chỉ tiêu môi trường
Biểu 11:Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biểu 12: Chỉ tiêu thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia
Biểu 13:Năng lực mới tăng thêm
Biểu 14: Danh mục các dự án quy
hoạch
PHỤ LỤC 2
CÁC BIỂU
MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013 CỦA CÁC TỈNH, THÀNH
PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn
số /BKHĐT-TH ngày tháng 6 năm 2013)
Biểu 1: Các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp
Biểu 2: Các chỉ tiêu nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu
Biểu 3: Các chỉ tiêu xã hội
Biểu 4: Các chỉ tiêu môi trường và
phát triển bền vững
Biểu 5: Các chỉ tiêu phát triển
doanh nghiệp và kinh tế tập thể
Biểu 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biểu 7: Danh mục các dự án quy hoạch
FILE ĐƯỢC
ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|