BỘ
TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
|
Số:
2534/TB-BTP
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 8 năm 2009
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA BỘ TRƯỞNG HÀ HÙNG CƯỜNG TẠI HỘI NGHỊ GIAO BAN
CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
Ngày 23/7/2009, Hội nghị giao
ban trực tuyến công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009 đã được tiến hành dưới sự
chủ trì của các đồng chí Lãnh đạo Bộ. Tham dự Hội nghị tại 7 điểm cầu (Hà Nội,
Yên Bái, Quảng Bình, Đắk Lắk, Khánh Hoà, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) có các
đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Giám đốc, Chánh văn phòng Sở Tư pháp,
Trưởng Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sau khi
nghe báo cáo kết quả công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp những
tháng cuối năm và các ý kiến phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã
kết luận như sau:
I/ VỀ CÔNG
TÁC TỔ CHỨC HỘI NGHỊ:
Đây là lần đầu tiên ngành Tư
pháp tổ chức giao ban trực tuyến, tuy còn một số bỡ ngỡ, lúng túng, nhưng nhìn
chung Hội nghị đã diễn ra suôn sẻ, theo đúng dự kiến. Công tác chuẩn bị Hội nghị
cơ bản được tiến hành chu đáo, nội dung Hội nghị sát với yêu cầu công tác, văn
kiện trình Hội nghị có chất lượng, việc điều hành Hội nghị có đổi mới, sự phối
hợp giữa các đầu cầu Hội nghị diễn ra thông suốt, đánh dấu bước tiến quan trọng
trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác điều hành của Bộ, Ngành. Đề
nghị các đại biểu tham dự Hội nghị đóng góp ý kiến với Ban tổ chức để rút kinh
nghiệm cho những hội nghị trực tuyến lần sau được tiến hành tốt hơn.
Ngoài 4 ý kiến trả lời của Thủ
trưởng một số đơn vị thuộc Bộ, Hội nghị còn có 20 ý kiến tham luận về những vấn
đề khác nhau liên quan đến các lĩnh vực công tác trọng tâm của Ngành. Nhìn
chung các ý kiến tham luận đặt trúng vấn đề, nhìn thẳng vào sự thật; tuy nội
dung đa dạng, phong phú, nhưng rất tập trung, thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao, thái độ nghiêm túc với công việc của các đại biểu. Hội nghị về cơ bản đã
đánh giá đúng kết quả công tác 6 tháng vừa qua, nhất là kết quả thực hiện các nhiệm
vụ trọng tâm; ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị triển khai
công tác tư pháp năm 2009, nhận rõ những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, phân
tích nguyên nhân, xác định cơ bản chính xác nhiệm vụ ưu tiên thực hiện trong những
tháng cuối năm và các giải pháp thực hiện.
II/ ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
1. Những kết quả tích cực đã đạt
được:
Trong 6 tháng đầu năm 2009, toàn
Ngành đã triển khai đồng bộ các mặt công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình
với việc tập trung mạnh vào 5 ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và 7 nhóm
nhiệm vụ trọng tâm; một số lĩnh vực hoạt động đã có chuyển biến tích cực, sát với
yêu cầu thực tiễn, đạt kết quả cao hơn so với những năm trước, nổi bật như:
a. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về
xây dựng pháp luật được chú trọng triển khai và tiếp tục thu được kết quả đáng
khích lệ; công tác văn bản QPPL ở Trung ương tiếp tục hướng mạnh vào việc tham
mưu cho Chính phủ, Quốc hội xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đơn giản hơn,
chú trọng giảm thiểu sự chồng chéo, thủ tục rườm rà, góp phần chống suy giảm
kinh tế, đồng thời cũng tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế Ngành; nhiều Sở
Tư pháp đã trở thành “người gác cổng” đáng tin cậy về xây dựng thể chế, văn bản
QPPL cho HĐND, UBND cấp tỉnh; nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật
đang được triển khai tích cực và có những kết quả cụ thể.
Bộ đã tham mưu cho Chính phủ xây
dựng, trình Quốc thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 ngay
từ kỳ họp đầu năm 2009 (sớm hơn 6 tháng so với các năm trước), Luật Lý lịch tư
pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 1999; tham mưu đưa những nội dung cơ bản của dự án Luật đăng ký bất
động sản vào Luật sửa đổi, bổ sung một số luật về đầu tư, xây dựng, được Quốc hội
chấp thuận; xây dựng, trình Chính phủ cho ý kiến dự án Luật Nuôi con nuôi, Luật
Tiếp cận thông tin; xây dựng trình Chính phủ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định,
Chỉ thị liên quan đến các mặt hoạt động của Ngành; đặc biệt, lần đầu tiên Bộ có
Báo cáo Chính phủ về tình hình xây dựng luật, pháp lệnh Quý II năm 2009 và đã
được đưa vào chương trình họp thường kỳ Chính phủ tháng 6/2009.
Công tác văn bản của nhiều địa phương
tiếp tục đi vào nền nếp, nổi bật là Sở Tư pháp Hà Nội đã tích cực góp phần cho
việc nhất thể hoá văn bản QPPL của Hà Nội và Hà Tây sau khi hợp nhất, được
HĐND, UBND Thành phố đánh giá cao.
b. Việc triển khai thi hành Luật
Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự
được chỉ đạo cụ thể, kịp thời, có phần quyết liệt và được tiến hành đồng bộ, rộng
khắp từ Trung ương tới các địa phương với sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp
với các Bộ, ngành và địa phương, nhờ đó nhiều khó khăn, lúng túng trong quá
trình thi hành Luật đã được phát hiện, tháo gỡ. Bộ cũng đã kịp thời ban hành
công văn hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong thời gian chờ Chính phủ ban
hành các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân
sự. Kết quả thi hành án về việc cao hơn so với cùng kỳ năm 2008.
c. Công tác hành chính tư pháp
tiếp tục đi vào nền nếp và có nhiều chuyển biến tích cực. Thể chế công tác hành
chính tư pháp được hoàn thiện một bước đáng kể với sự ra đời của Luật Quốc tịch
Việt Nam (sửa đổi), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, theo đó Ngành ta tiếp tục được Quốc hội tin tưởng giao nhiệm vụ giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động lý lịch tư pháp và bổ sung
nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước. Việc
triển khai thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) tuy có chậm nhưng được thực
hiện khá bài bản. Một số địa phương đã chủ động, tích cực kiểm tra, thanh tra
hoạt động chứng thực của UBND các cấp, qua đó đã phát hiện, chấn chỉnh nhiều
sai sót, bất cập phát sinh.
d. Công tác quản lý nhà nước về
hoạt động bổ trợ tư pháp, nhất là luật sư, công chứng đạt nhiều thành tích, nổi
bật là: đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp chỉ đạo tổ chức thành công
Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên đoàn Luật sư
Việt Nam; tham mưu cho Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; việc xã hội hoá hoạt
động công chứng tiếp tục được đẩy mạnh và được xã hội đón nhận; Bộ đã chỉ đạo
quyết liệt các Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh chuyển giao việc chứng thực
các giao dịch, hợp đồng liên quan đến nhà, đất từ UBND sang cho các tổ chức
hành nghề công chứng ở những địa bàn mà các tổ chức hành nghề công chứng có thể
đảm đương được nhiệm vụ này.
đ. Cải cách tư pháp, cải cách
hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Ngành tiếp tục được đẩy mạnh
và thu được nhiều kết quả cụ thể. Một số văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo
đã hiện thực hoá được những tư tưởng, nội dung của cải cách tư pháp (Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLHS đã bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội so với Bộ luật
Hình sự năm 1999; Luật Lý lịch tư pháp là một bước kiện toàn cơ bản thể chế về
công tác lý lịch tư pháp; Đề án thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại TP. HCM đã
được Chính phủ phê duyệt...). Toàn Ngành đã tiến hành sơ kết 03 năm thực hiện
Nghị quyết số 49–NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, được Ban chỉ
đạo Cải cách tư pháp Trung ương đánh giá cao; đặc biệt, Bộ đã tham mưu cho
Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chuẩn bị sơ kết việc thực hiện Nghị quyết
số 48–NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020.
e. Thể chế, tổ chức bộ máy, cán
bộ của Bộ, của Ngành từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được kiện toàn. Bộ
đã ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của phần lớn các đơn vị thuộc Bộ theo Nghị định số 93, trong đó có 02 đơn
vị mới, đồng thời điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị cho hợp lý
hơn; tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định 16 về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13, trong đó giao Sở Tư pháp tham
mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản
và theo dõi chung về thi hành pháp luật; phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông
tư liên tịch số 01 (thay thế Thông tư liên tịch số 04) hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương. Đặc biệt, Ban
cán sự Đảng đã có Công văn số 60-CV/BCS gửi Ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ đề
nghị quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương, được sự đón nhận của
cấp uỷ, chính quyền địa phương. Bộ cũng đã quan tâm kiện toàn Cục Thi hành án
dân sự theo Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; trình Chính
phủ dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án
dân sự về tổ chức, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự.
g. Hoạt động chỉ đạo điều hành
công tác tư pháp sâu sát, quyết liệt hơn, gắn kết hơn với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh của cả nước và từng địa phương;
sự phối kết hợp với các Bộ, ngành, cấp uỷ, chính quyền địa phương có nhiều cải
thiện, bước đầu tranh thủ được sự ủng hộ và huy động sức mạnh tổng hợp thực hiện
các nhiệm vụ của Ngành, thể hiện rõ nhất trong việc phối kết hợp chỉ đạo tổ chức
thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên
đoàn Luật sư Việt Nam.
Bên cạnh những nhiệm vụ trọng
tâm, các mặt công tác khác của Ngành trong 6 tháng qua (như: trợ giúp pháp lý;
phổ biến giáo dục pháp luật; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác quốc tế về tư
pháp và pháp luật; đào tạo, nghiên cứu khoa học; công nghệ thông tin, xuất bản,
báo chí, v.v...) cũng đạt được nhiều kết quả tích cực, có sự khởi sắc mới.
2. Những hạn chế, bất cập:
Bên cạnh những kết quả tích cực
nêu trên, công tác của Ngành 6 tháng đầu năm cũng còn một số hạn chế, bất cập,
thậm chí yếu kém so với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong tình hình giải quyết
các nhiệm vụ cấp bách mà Quốc hội, Chính phủ đề ra như:
a. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thi hành pháp luật chưa triển khai được; quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật
còn lúng túng, nhất là ở các địa phương; tiến độ, chất lượng hoạt động xây dựng,
thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL còn chưa theo kịp yêu cầu
thực tiễn. Công tác văn bản vẫn còn tư duy pháp lý thuần tuý, chưa có những
đóng góp thực sự rõ nét trong việc rà soát các thủ tục hành chính, tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, chống suy giảm kinh tế, kích cầu để tăng trưởng
kinh tế của đất nước và địa phương, chưa gắn với việc cải thiện chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Vai trò giúp UBND cấp tỉnh trong hoạt động quản lý
nhà nước về công tác văn bản QPPL ở nhiều địa phương chưa phát huy được.
b. Thi hành án dân sự kết quả về
tiền khá thấp (giảm 2,01% so với cùng kỳ năm 2008), có nguy cơ không hoàn thành
chỉ tiêu kế hoạch cả năm; tỷ lệ án không có điều kiện thi hành cao hơn các năm
trước; việc rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở vật chất, tổ chức, cán bộ ngành
THADS còn chậm; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy có nhiều cố gắng nhưng một
số vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài vẫn chưa giải quyết dứt điểm; việc xử
lý những vụ việc liên quan đến cán bộ, công chức THADS còn chậm, gây tâm lý
không tốt, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cán bộ, có những việc Ban cán sự,
Lãnh đạo Bộ phải trực tiếp làm việc với địa phương.
c. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực
hành chính tư pháp vẫn còn nhiều lúng túng, nhất là trong công tác chứng thực,
hộ tịch.
d. Công tác quản lý nhà nước về
bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập; một số vấn đề nảy sinh khi thực hiện xã hội
hóa hoạt động công chứng chưa được khắc phục kịp thời, đã xuất hiện tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng; nhiều địa
phương chưa có quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng; việc hướng dẫn, theo
dõi, thống kê việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các giao dịch, hợp đồng
liên quan đến nhà, đất từ UBND sang các tổ chức hành nghề công chứng còn chậm,
thiếu sâu sát, dẫn đến một số địa phương triển khai chệch hướng; quản lý luật
sư còn nhiều lúng túng, tình trạng luật sư vi phạm pháp luật có việc nghiêm trọng;
quản lý hoạt động giám định tư pháp còn nhiều bất cập; nhận thức về vai trò quản
lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản chưa đầy đủ.
đ. Tổ chức bộ máy, cán bộ chưa
theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ, nổi lên là: Tổ chức bộ máy của nhiều Sở Tư pháp
chưa thật hợp lý (hầu hết các Sở gộp hai mảng công tác rất lớn là hành chính tư
pháp và bổ trợ tư pháp vào một phòng với 3,4 cán bộ); cơ cấu nhân sự của nhiều
Sở Tư pháp không hợp lý, biên chế nhìn chung thiếu, nhiều nơi biên chế sự nghiệp
còn lớn hơn biên chế quản lý nhà nước; đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và cấp
xã chưa được kiện toàn một bước căn bản, vẫn thiếu về số lượng và yếu về chuyên
môn nghiệp vụ, nhiều chỗ bố trí không đúng người, còn có hiện tượng kiêm nhiệm
(Phó công an xã); pháp chế các sở, ngành của các địa phương chưa được kiện toàn
theo Nghị định số 122/2004/NĐ-CP của Chính phủ.
e. Việc hướng dẫn, chỉ đạo
chuyên môn, nghiệp vụ của một số đơn vị thuộc Bộ còn chưa kịp thời, chất lượng
chưa cao, bên cạnh đó nhiều cơ quan tư pháp địa phương không thật chủ động
trong việc giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, một
số Sở Tư pháp chưa quan tâm thoả đáng tới việc hướng dẫn nghiệp vụ cho các cơ
quan tư pháp cấp huyện, cấp xã, các tổ chức hành nghề tư pháp.
Những hạn chế, bất cập nêu trên
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên các nguyên nhân chủ
quan như sau:
Thứ nhất, nhận thức về trách nhiệm
của Bộ, Ngành trong việc giúp Chính phủ, UBND các cấp thực hiện việc quản lý
nhà nước về công tác tư pháp chưa cao; hoạt động tư pháp còn mải theo hoạt động
nghiệp vụ chứ chưa đạt tầm khái quát cần thiết, chưa thể hiện đầy đủ các nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, quan hệ phối hợp công
tác tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Một số Sở Tư pháp chưa chủ động tham mưu cho
Thường vụ cấp uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân giúp tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc cho công tác tư pháp; chưa tranh thủ được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Thứ ba, một số cơ quan, đơn vị
chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng kế hoạch công tác cụ thể (quý, tháng,
tuần) sát với Chương trình công tác trọng tâm của Ngành, địa phương; chưa chủ động,
sát sao, quyết liệt trong triển khai nhiệm vụ trọng tâm để tạo bước đột phá;
chưa tập trung cao cho công tác quản lý; phương pháp, lề lối làm việc còn cứng
nhắc.
III/ NHIỆM VỤ
CÔNG TÁC TỪ NAY ĐẾN CUỐI NĂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Từ nay đến hết năm 2009, khối lượng
công việc theo kế hoạch còn rất lớn, bên cạnh đó còn phát sinh nhiều nhiệm vụ mới,
phức tạp (như: tham gia ý kiến để bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020; sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; chuẩn bị Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ XIII; trình phê duyệt Chiến lược phát triển
Ngành...). Để hoàn thành nhiệm vụ công tác năm, đề nghị các đơn vị trong toàn
Ngành tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009, bám sát
các nhiệm vụ công tác trọng tâm của Ngành, của đơn vị, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội của Chính phủ và của từng địa phương, trong đó tập trung
cao độ cho việc thực hiện các nhiệm vụ dưới đây:
1. Tiếp tục rà soát, đánh giá thực
trạng về tổ chức bộ máy, cán bộ tư pháp từ tỉnh tới xã; việc bố trí cán bộ; chất
lượng hoàn thành nhiệm vụ, đề xuất báo cáo UBND, HĐND tỉnh kiện toàn tổ chức bộ
máy, cán bộ của các cơ quan tư pháp theo Thông tư liên tịch số 01, nhất là đội
ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và cấp xã và pháp chế các sở, ngành. Phấn đấu đến
hết năm, 100% các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp có quyết định mới về chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức, cán bộ; hoàn thành việc đánh giá, sắp xếp cán bộ cho các cơ
quan tư pháp địa phương để báo cáo Hội đồng nhân dân vào cuối năm. Các cơ quan
tư pháp địa phương cần tích cực tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
triển khai thực hiện các đề xuất của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về kiện toàn, củng
cố cơ quan tư pháp địa phương tại Công văn số 60-CV/BCS ngày 10/06/2009.
2. Triển khai thực hiện hiệu quả
Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành; tập trung tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động thi hành án, phấn đấu quyết liệt để đạt và vượt chỉ
tiêu THADS năm 2009 của toàn Ngành và của từng địa phương. Phấn đấu ngay trong
tháng 7, tháng 8 năm nay, tham mưu ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền đầy đủ
các văn bản hướng dẫn Luật THADS. Trong khi chờ các quy định mới có hiệu lực,
các cơ quan Thi hành án các địa phương thực hiện tốt Công văn số 2315 về việc
hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến công tác thi hành án.
Triển khai thực hiện thí điểm mô hình Thừa phát lại TP. Hồ Chí Minh ngay sau
khi Chính phủ ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại TP. HCM. Hoàn thành Đề án về cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho cơ quan Thi hành án các cấp. 100% các địa phương tổ chức Lễ ra mắt cơ quan
Thi hành án trong Quý III; Quý IV đi vào ổn định tổ chức, rà soát, bổ nhiệm ngạch
chấp hành viên theo đúng quy định của Luật Thi hành án dân sự. Tích cực áp dụng
các biện pháp cần thiết để giảm số lượng án không có điều kiện thi hành, hoàn
thành vượt mức chỉ tiêu thi hành án mà Quốc hội, Chính phủ đã đặt ra.
3. Triển khai thực hiện Đề án
theo dõi chung về thi hành pháp luật, tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước
về xây dựng pháp luật, gắn kết hơn với mục đích phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần tích cực hơn trong việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của
mỗi địa phương. Chuẩn bị triển khai thực hiện tốt các Luật liên quan đến lĩnh vực
tư pháp vừa được Quốc hội thông qua; tiếp tục chỉnh lý các dự án luật đã trình
Chính phủ (Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin), triển khai xây dựng
các dự án Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, Luật Giám định tư pháp và các luật
khác; nghiên cứu, kiến nghị đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội nhiệm kỳ khoá XIII các dự án Luật Hộ tịch, Luật Bán đấu giá tài sản,
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư, Luật Công chứng, thống nhất hai Luật về ban
hành văn bản QPPL của Trung ương và địa phương.
Tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban
Bí thư tiến hành sơ kết việc thi hành Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị để
kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị quyết vào đầu năm 2010.
4. Tăng cường vai trò quản lý
nhà nước, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động trong lĩnh vực hành chính tư
pháp với trọng tâm là triển khai thực hiện tốt Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi),
Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; chú trọng việc
bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp;
nghiên cứu xây dựng Đề án thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia; tăng cường
hoạt động thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn công tác chứng thực, hộ tịch.
5. Tăng cường năng lực cho các
cơ quan bổ trợ tư pháp; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp. Tiến hành sơ kết 02 năm thực hiện Luật Công chứng và Nghị định số
79/2007/NĐ-CP về chứng thực. Hoàn thành việc xây dựng quy hoạch các tổ chức
hành nghề công chứng trên địa bàn cả nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Tiếp tục tham mưu cho UBND cấp tỉnh chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng,
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất từ UBND sang cho các tổ chức hành nghề
công chứng ở các địa phương, phấn đấu đến cuối năm 100% các địa phương có quyết
định chuyển giao. Triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; xây dựng Chiến
lược và quy hoạch phát triển đội ngũ luật sư đến năm 2020. Tổ chức tổng kết 04
năm thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp, đề xuất xây dựng Luật Giám định tư
pháp. Hoàn thành việc xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản.
6. Đẩy mạnh cải cách tư pháp
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành. Tập trung xây dựng Đề án chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để giúp Chính phủ quản lý thống nhất công tác THA; Đề
án kiện toàn cơ sở vật chất cho cơ quan Thi hành án dân sự; phối hợp chặt chẽ với
các tổ chức hữu quan trong quá trình xử lý Đề án xây dựng Trường Đại học Luật
Hà Nội thành trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp luật, Đề án xây dựng Học
viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo cán bộ pháp luật; triển khai thực hiện
tốt Đề án thành lập Trường Trung cấp Luật Buôn Mê Thuột; chuẩn bị báo cáo Chủ tịch
nước về công tác cải cách tư pháp của Ngành.
7. Tiếp tục đổi mới toàn diện,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp. Tăng
cường trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị. Triển khai công tác kế hoạch của
toàn Ngành; đổi mới căn bản công tác thống kê, trước mắt đến cuối Quý III/2009,
Vụ Kế hoạch – Tài chính có văn bản hướng dẫn tạm thời về công tác thống kê
trong Ngành, chú trọng những đóng góp cụ thể cho phát triển kinh tế - xã hội,
thu ngân sách, giải quyết việc làm, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ pháp lý.
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, nhất là kiểm tra chéo trong các lĩnh vực
công tác của Ngành. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ
đạo, điều hành theo Chỉ thị số 01/CT-BTP về việc tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành Tư pháp giai đoạn 2009-2010 đã ban hành, ưu tiên làm ngay
trong công tác thi hành án.
IV/ VỀ NHỮNG
CÔNG VIỆC CẦN LÀM SAU HỘI NGHỊ
1. Văn phòng Bộ có trách nhiệm tập
hợp kết quả Hội nghị, hoàn thiện các văn kiện và kết luận của Bộ trưởng tại Hội
nghị, ký ban hành trong tháng 7/2009; giúp Bộ trưởng theo dõi, đôn đốc các đơn
vị thực hiện các nội dung kết luận tại Hội nghị, định kỳ báo cáo Lãnh đạo Bộ.
2. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ
hết sức lưu ý chỉ đạo giải quyết các đề xuất, kiến nghị của địa phương, góp phần
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong công tác tư pháp, thi hành án dân sự ở
các địa phương.
3. Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng
cơ quan THADS trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao có trách
nhiệm tổ chức triển khai công tác 6 tháng cuối năm 2009 phù hợp với phương hướng,
nhiệm vụ công tác của Bộ, ngành, địa phương mình và các kết luận tại Hội nghị
này. Mỗi đơn vị cần xác định trọng tâm, trọng điểm, trách nhiệm thực hiện, các
giải pháp áp dụng, nhất là các giải pháp đột phá để tạo chuyển biến mạnh mẽ
trên các lĩnh vực công tác của Ngành. Những đơn vị đã tiến hành sơ kết cần điều
chỉnh kế hoạch, nhiệm vụ công tác của đơn vị mình cho phù hợp; chú ý công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá
chính xác kết quả công việc của từng bộ phận, từng cá nhân.
4. Vụ Thi đua – Khen thưởng tham
mưu đánh giá chính xác, khách quan, phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
các đơn vị trong Ngành. Báo Pháp luật Việt Nam phản ánh sát tình hình thực hiện
nhiệm vụ của các đơn vị trong Ngành, phản ánh đúng các điển hình tiên tiến, những
tấm gương sáng trong thực hiện nhiệm vụ.
Trên đây là kết luận của Bộ trưởng
Hà Hùng Cường tại Hội nghị giao ban công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009, Văn
phòng xin thông báo để các đơn vị biết và thực hiện./.
Nơi
nhận:
Bộ trưởng (để b/c);
Các Thứ trưởng (để b/c);
Các đơn vị thuộc Bộ, Sở Tư pháp, Thi hành án các tỉnh, thành phố trực thuộc
TW (để thực hiện);
Cổng thông tin điện tử BTP;
Lưu: VT, BTK.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
CHÁNH VĂN PHÒNG
Lê Hồng Sơn
|