QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số:
41/2017/QH14
|
Hà Nội, ngày
20 tháng 6 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ SỐ 100/2015/QH13
ĐÃ ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU THEO LUẬT SỐ 12/2017/QH14 VÀ VỀ HIỆU LỰC
THI HÀNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ SỐ 101/2015/QH13, LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU
TRA HÌNH SỰ SỐ 99/2015/QH13, LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM SỐ 94/2015/QH13
QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Về hiệu
lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và các bộ luật, luật có liên
quan
1. Kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2018, các bộ luật, luật sau đây có hiệu lực thi hành:
a) Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau
đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015);
b) Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13;
c) Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự số 99/2015/QH13;
d) Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.
2. Các quy định tại Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm
2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có ghi
thời điểm “ngày 01 tháng 7 năm 2016” được thay thế bằng thời điểm “ngày 01
tháng 01 năm 2018”, thời điểm “ngày 01 tháng 01 năm 2019” được thay thế bằng thời
điểm “ngày 01 tháng 01 năm 2020”.
Điều 2. Việc
áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015
1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng như sau:
a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được
áp dụng để khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018;
b) Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một
hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm
nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người
phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ
00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm
đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang
được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
c) Tội phạm mới quy định tại các Điều 147, 154, 167, 187,
212, 213, 214, 215, 216, 217, 217a,
218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230, 234, 238, 285, 291, 293, 294, 297,
301, 302, 336, 348, 388, 391, 393
và 418 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các điều luật bổ
sung hành vi phạm tội mới, các điều luật quy định một hình phạt mới, một hình
phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; các điều luật quy định hạn chế phạm
vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi
cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước
0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm
đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang
được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các
văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
d) Quy định tại điểm b và điểm c khoản này cũng được áp dụng đối với các điều
luật mới quy định tội được tách ra từ các tội ghép trong Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999);
đ) Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”,
“gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất
lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”, “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc
biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị
rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”, “quy
mô lớn” của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị
can trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trừ trường hợp quy định
tại điểm d khoản 2 Điều này;
e) Đối với
hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, hành vi đăng ký kết
hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy
định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xảy ra trước
0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm
đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 để xử lý; trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án, quyết định của
Tòa án thì không được căn cứ vào
việc Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định tội danh hoạt động phỉ,
tội danh đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội danh kinh
doanh trái phép, tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng để kháng cáo, kháng nghị theo hướng không phạm tội. Trường hợp người bị
kết án đang chấp hành án về tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật,
tội kinh doanh trái phép, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng
quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực
trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết; nếu sau thời điểm
0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83,
tội đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội
kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định
tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 mà áp dụng quy định
của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội danh tương ứng để khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử;
g) Đối với những
hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không được căn cứ vào những
quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 có
nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị
giám đốc thẩm; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước
ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định
tại điểm b và điểm c khoản này;
h) Các quy định về trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân thương mại tại Bộ luật Hình sự năm 2015 không áp dụng đối với những hành vi phạm tội của pháp
nhân thương mại xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018;
i) Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được
hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, xái thuốc phiện
hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250,
251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy
làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được. Đối với
các trường hợp khác thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13.
2. Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14) được công bố,
tiếp tục thực hiện các quy định sau đây:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình
khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình
hoặc đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử
hình đã tuyên đối với người thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này
nhưng chưa thi hành án thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
c) Đối với người
đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại
điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
không thi hành án và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình
thành hình phạt tù chung thân;
d) Không xử lý về hình sự đối với
người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự năm
1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định
về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng
trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không
chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc
đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999
(được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung,
thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm
nữa. Nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp
người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết
án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn chấp hành hình phạt thì được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Đối với
các trường hợp đã áp dụng quy định có lợi của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29
tháng 6 năm 2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự
số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ
quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số
94/2015/QH13 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà Luật số 12/2017/QH14 không quy định là tội phạm nữa: nếu vụ án đã khởi
tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải
đình chỉ; trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại;
trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn chấp
hành hình phạt thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
e) Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về
tội phạm không được quy định tại khoản 2 Điều 12 và khoản 3 Điều
14 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị
phạm các tội mà không được quy định tại khoản 2 Điều 14 của Bộ
luật Hình sự năm 2015; nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử
thì phải đình chỉ; trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt
hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết
án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn chấp hành hình phạt thì được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt;
g) Người đã chấp
hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình
phạt còn lại theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản này thì đương nhiên được
xóa án tích;
h) Thực hiện các
quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
điểm b khoản 1 Điều này;
i) Áp dụng các
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành quy định tại
điểm b khoản 1 Điều này và các quy định khác của Bộ luật Hình sự năm 2015 có lợi
cho người phạm tội.
Điều 3. Quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành
1. Giao Chính
phủ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết về
các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm
hình sự quy định tại Mục 2 Chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015; quy định về
việc định giá đối với hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng
hoặc hàng hóa chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam; quy
định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại điểm k khoản 2,
điểm e khoản 3, điểm đ khoản 4 Điều 248, điểm i khoản 1, điểm n khoản 2, điểm h
khoản 3, điểm h khoản 4 Điều 249, điểm i khoản 1, điểm o khoản 2, điểm h khoản
3, điểm h khoản 4 Điều 250, điểm p khoản 2, điểm h khoản 3, điểm h khoản 4 Điều
251 và điểm i khoản 1, điểm n khoản 2, điểm h khoản 3, điểm h khoản 4 Điều 252
của Bộ luật Hình sự năm 2015.
2. Giao Tòa án
nhân dân tối cao thông qua tổng kết
việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc
xét xử bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất
nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất
lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc
biệt lớn”; khi cần thiết, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các điều, khoản, điểm khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
3. Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức rà soát các văn bản có
liên quan để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới hoặc đề nghị
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật
cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
4. Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật Hình sự năm 2015 trong Nhân dân, cán bộ, công chức và viên chức, nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của
Bộ luật này trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều 4. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này
có hiệu lực thi hành từ ngày 05 tháng 7 năm 2017.
2. Nghị quyết số
109/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật
Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29 tháng 6 năm
2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan
điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số
94/2015/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
Điều 5. Quy định chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành
1. Kể từ ngày Nghị
quyết này có hiệu lực thi hành cho đến khi Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13 và Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 có hiệu lực thi hành theo quy định tại
Điều 1 của Nghị quyết này, tiếp tục áp dụng Bộ luật Tố tụng Hình sự số
19/2003/QH11, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11 được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Pháp lệnh số 30/2006/PL-UBTVQH11 và
Pháp lệnh số 09/2009/PL-UBTVQH12.
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết
này.
Nghị quyết này được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20
tháng 6 năm 2017.
|
CHỦ TỊCH QUỐC
HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
|