Công ty giữ lương nhân viên bị phạt bao nhiêu tiền? Công ty trả lương chậm cho nhân viên tối đa bao nhiêu ngày? Người lao động có được ủy quyền cho người khác nhận lương thay?
>> Công ty chậm trả lương, thưởng Tết có bị phạt không?
>> Chi thanh toán ngày phép năm chưa nghỉ cho NLĐ có được trừ khi tính thuế TNDN?
Căn cứ khoản 2 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, quy định mức xử phạt đối với hành vi vi phạm về tiền lương, cụ thể như sau:
Vi phạm quy định về tiền lương
…
2. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm việc vào ban đêm; không trả hoặc trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định của pháp luật;....
a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;
b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;
c) Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;
d) Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;
đ) Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.
Lưu ý: Mức phạt tiền trên chỉ áp dụng đối với cá nhân, trường hợp tổ chức vi phạm thì mức phạt gấp 02 lần mức phạt đối với cá nhân (theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP).
Hành vi giữ lương nhân viên được xem là trả lương không đúng hạn theo quy định pháp luật. Theo đó, công ty giữ lương nhân viên sẽ bị phạt theo một trong các mức sau đây:
- Từ 10 - 20 triệu đồng: đối với vi phạm từ 01 - 10 người lao động.
- Từ 20 - 40 triệu đồng: đối với vi phạm từ 11 - 50 người lao động.
- Từ 40 - 60 triệu đồng: đối với vi phạm từ 51 - 100 người lao động.
- Từ 60 - 80 triệu đồng: đối với vi phạm từ 101 - 300 người lao động.
- Từ 80 - 100 triệu đồng: đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.
Ngoài mức phạt tiền trên, còn buộc công ty trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt (theo điểm a khoản 5 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP).
File Word Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn mới nhất [cập nhật ngày 21/10/2024] |
Công ty giữ lương nhân viên bị phạt bao nhiêu tiền (Ảnh minh họa - Nguồn Internet)
Căn cứ khoản 4 Điều 97 Bộ luật Lao động 2019, quy định kỳ hạn trả lương như sau:
Kỳ hạn trả lương
…
4. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Theo đó, trường hợp vì lý do bất khả kháng mà công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày.
Lưu ý: Nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì công ty phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi công ty mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Căn cứ khoản 1 Điều 94 Bộ luật Lao động 2019, quy định nguyên tắc trả lương như sau:
Nguyên tắc trả lương
1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Theo đó, người hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì công ty có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Như vậy, người lao động được ủy quyền cho người khác nhận lương thay.