Trách nhiệm của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đối với ngân hàng trong dịch vụ trung gian thanh toán được quy định tại Thông tư 40/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 17/7/2024.
>> Quy định về quyền và trách nhiệm của ngân hàng liên kết từ ngày 17/7/2024
>> Quy định về gia hạn và chấm dứt kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng
Căn cứ khoản 2 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, trách nhiệm của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được quy định như sau:
- Đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ phát sinh đối với các giao dịch theo thỏa thuận giữa tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử với ngân hàng hợp tác và phù hợp với các quy định pháp luật.
- Có hợp đồng hoặc thỏa thuận với ngân hàng hợp tác tuân thủ quy định tại Điều 8 Thông tư 40/2024/TT-NHNN.
- Phối hợp với ngân hàng hợp tác và các đối tác thực hiện kiểm tra, đối soát dữ liệu giao dịch hàng ngày phát sinh trên tài khoản của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở tại ngân hàng hợp tác theo thỏa thuận giữa các bên.
Danh sách khách hàng cá nhân mở và sử dụng ví điện tử nghi ngờ liên quan giả mạo, gian lận, lừa đảo theo Thông tư 40/2024/TT-NHNN |
Danh sách khách hàng tổ chức mở và sử dụng ví điện tử nghi ngờ liên quan giả mạo, gian lận, lừa đảo theo Thông tư 40/2024/TT-NHNN |
Trách nhiệm của tổ chức ví điện tử đối với ngân hàng trong dịch vụ trung gian thanh toán.từ 17/7/2024 (Ảnh minh họa – Nguồn Internet)
Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử có trách nhiệm phối hợp với ngân hàng liên kết và/hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch và bù trừ điện tử để kiểm tra, đối chiếu thông tin khách hàng mở ví điện tử theo thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo khách hàng mở ví điện tử là chủ tài khoản đồng Việt Nam hoặc thẻ ghi nợ liên kết với ví điện tử.
Xem chi tiết tại bài viết: Trách nhiệm của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đối với khách hàng từ ngày 17/7/2024
Căn cứ khoản 3 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử chịu trách nhiệm về những thiệt hại phát sinh trong trường hợp:
(i) Thiệt hại do sai sót hoặc do lỗi của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử bao gồm việc không tuân thủ đúng quy định pháp luật về an toàn, bảo mật trong cung cấp dịch vụ.
(ii) Khách hàng, ví điện tử của khách hàng đã được cơ quan có thẩm quyền có văn bản thông báo liên quan đến gian lận, lừa đảo, vi phạm pháp luật nhưng tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử không có biện pháp xử lý kịp thời.
Căn cứ khoản 4 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải tuân thủ quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố và không thực hiện những hành vi bị cấm về mở và sử dụng ví điện tử theo quy định tại Điều 8 Nghị định 52/2024/NĐ-CP.
Căn cứ khoản 5 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, đối với việc sử dụng ví điện tử để thực hiện giao dịch thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử có trách nhiệm:
(i) Quy định về giấy tờ, chứng từ liên quan đến các giao dịch thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài bằng ví điện tử và thực hiện kiểm tra, lưu giữ giấy tờ, chứng từ tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối và giao dịch điện tử.
(ii) Giám sát chặt chẽ và chịu trách nhiệm đảm bảo việc thực hiện giao dịch thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài bằng ví điện tử đúng mục đích, hạn mức sử dụng ví điện tử quy định tại Thông tư 40/2024/TT-NHNN và phù hợp với quy định của pháp luật.
Căn cứ khoản 6 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, trường hợp người không cư trú, người cư trú là cá nhân nước ngoài sử dụng ví điện tử, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ để đảm bảo ví điện tử chỉ được thực hiện các giao dịch thu, chi tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối về việc sử dụng tài khoản đồng Việt Nam của người không cư trú, người cư trú là cá nhân nước ngoài và quy định tại Thông tư 40/2024/TT-NHNN.
Căn cứ khoản 7 Điều 37 Thông tư 40/2024/TT-NHNN, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải thực hiện các trách nhiệm khác theo hợp đồng hoặc thỏa thuận ký với ngân hàng hợp tác, đơn vị chấp nhận thanh toán, đối tác khác và khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật.