Cho em hỏi một vấn đề: Chủ đầu tư thuê một đơn vị tư vấn để lập hồ sơ mời thầu, vậy đơn vị tư vấn đó sau này có thể tham gia vào tổ chấm thầu để chấm thầu hay không? Mong Sở XD trả lời giúp em cho em được rõ thêm, xin chân thành cám ơn!
Tại bảng dự liệu đấu thầu HSMT được duyệt qui định “đảm bảo dự thầu có hiệu lực 180 ngày kể từ thời điểm đóng thầu lúc 09 giờ 00 phút ngày 03/9/2008”; Trong quá trình đánh giá chúng tôi phát hiện có một HSDT Nhà thầu ghi “đảm bảo dự thầu có hiệu lực 180 ngày kể từ ngày 03/9/2008”.
Trong quá trình đánh giá Công ty chúng tôi đã tiến hành loại HSDT nói trên do Nhà thầu có bảo đảm dự thầu không hợp lệ (thời gian hiệu lực của đảm bảo dự thầu ngắn hơn 09 giờ so với yêu cầu của HSMT), tại vì: Theo qui định trong bảng dữ liệu đấu thầu được duyệt “đảm bảo dự thầu có hiệu lực 180 ngày kể từ thời điểm đóng thầu lúc 09 giờ 00 phút ngày 03/9/2008”, điều này có nghĩa đảm bảo dự thầu của nhà thầu có liệu lực 180 ngày kể từ ngày 09 giờ ngày 03/9/2008. Trong khi đó, HSDT của Nhà thầu nói trên ghi “bảo đảm dự thầu có hiệu lực 180 ngày kể từ ngày 03/9/2008”, điều này có nghĩa đảm bảo dự thầu của nhà thầu có liệu lực 180 ngày kể từ ngày 0 giờ ngày 03/9/2008). Do đó, tính đến ngày thứ 180 thời gian từ 0 giờ đến 9 giờ bảo đảm dự thầu của HSDT nói trên không có hiệu lực. Vậy, việc Công ty chúng tôi loại HSDT của Nhà thầu nói trên là đúng hay sai?
Công ty tôi ký hợp đồng Tư vấn lập hồ sơ mời thầu cho một dự án A vào năm 2008.
Khi ký hợp đồng giá trị hợp đồng được tạm tính như sau:
Ghd = 40%*(k%*Gxltt)*1,1
Trong đó:
- k: là hệ số định mức được nội suy theo bảng số 16 của văn bản 1751/BXD-VP và Gxltt.
- Gxltt: là chi phí xây dựng trước thuế của dự án.
Khi triển khai thực hiện hợp đồng, Chủ đầu tư chia thành 5 gói thầu khác nhau và theo đó lần lượt giá gói thầu trước thuế của 5 gói lần lượt là: Gxl1, Gxl2, Gxl3, Gxl4, Gxl5 và chúng tôi cũng phải lập hồ sơ mời thầu cho 05 gói thầu đó. (Gxltt=Gxl1+Gxl2+....Gxl5).
Khi nghiệm thu và thanh lý hợp đồng chúng tôi tính giá trị quyết toán hợp đồng như sau:
Ghdqt= 40%*(k1%*gxl1)*1,1+40%(k2*gxl2)*1,1+......40%(k5*Gxl5)*1,1
Trong đó:
- Ghdqt: là giá trị quyết toán của hợp đồng.
- k1, k2, ..., k5 là hệ số được nội suy theo bảng 16 của văn bản 1751/BXD-VP và các giá trị Gxl1, Gxl2,...Gxl5.
- Gxl1, Gxl2, ..., Gxl5 là giá gói thầu trước thuế của các gói thầu và chúng tôi nói rằng: Theo quy định tại Văn bản 1751/BXD-VP thì định mức chi phí lập hồ sư mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) chi phí xây dựng chưa có thuế giá trị gia tăng trong Dự toán gói thầu được duyệt. Khi ký hợp đồng, Chủ đầu tư chưa có kế hoạch đấu thầu được duyệt nên giá trị hợp đồng được tạm tính theo chi phí xây dựng trước thuế của toàn dự án.
Tuy nhiên Chủ đầu tư không chấp nhận và yêu cầu chúng tôi tính giá trị quyết toán theo cách tính của hợp đồng, nghĩa là Qhdqt = Ghd= 40%*(k%*Gxltt)*1,1.
Vậy đề nghị Quý cơ quan cho biết cách tính nào là đúng, phù hợp với các quy định hiện hành.
Tôi đang công tác tại Ban quản lý Làng văn hoá - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Xin hỏi Bộ xây dựng vấn đề sau:
Chúng tôi có một gói thầu xây lắp được ký hợp đồng vào cuối năm 2007. Thời hạn thực hiện hợp đồng đến tháng 2/2010. Hợp đồng được lựa chọn qua đấu thầu, loại hợp đồng điều chỉnh giá. Hiện có sự sai khác khối lượng hạng mục cọc khoan nhồi giữa bản vẽ thi công được duyệt và khối lượng trong Tiên lượng mời thầu. Khối lượng thiết kế > Tiên lượng mời thầu là 360md cọc khoan nhồi. Trị giá khối lượng chênh lệch này khoảng 2 tỷ VNĐ. Trong tập chỉ dẫn nhà thầu có đoạn viết đại ý là: "Nhà thầu phải nghiên cứu kỹ hồ sơ thiết kế và khối lượng mời thầu. Nếu không phát hiện ra khối lượng chênh lệch thì được hiểu rằng nhà thầu đã tính khối lượng trên vào trong đơn giá và nhà thầu phải thi công theo đúng hồ sơ thiết kế mà không được thanh toán khối lượng phát sinh thuộc loại này." Trong hồ sơ đấu thầu, Nhà thầu không phát hiện ra sự chênh lệch khối lượng này nên không có thư hoặc bảng tính khối lượng bổ sung trong hồ sơ dự thầu. Hiện tại nhà thầu đã thi công xong khối lượng cọc khoan nhồi trên đúng theo hồ sơ thiết kế. Tuy nhiên tại Điều 49 nghị định 58/2008/ND-CP ghi rõ: "Trường hợp khối lượng công việc thực tế mà nhà thầu đã thực hiện để hoàn thành theo đúng thiết kế nhiều hơn khối lượng công việc nêu trong hợp đồng, nhà thầu được thanh toán cho phần chênh lệch khối lượng công việc này." Vậy Nhà thầu có được phép thanh toán giá trị khối lượng chênh lệch trên không?
Công ty cổ phần Tư vấn Kiến trúc đô thị Hà Nội – UAC hiện đang thực hiện hợp đồng tư vấn quản lý dự án một dự án khu nhà ở do Tổng công ty Thương mại Hà Nội làm chủ đầu tư. Chúng tôi đã ký hợp đồng: Giá trị hợp đồng được xác định theo bảng số 1: Định mức chi phí quản lý dự án - Văn bản 1751/BXD-VP về việc công bố định mức chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình; Nội dung quản lý dự án được thực hiện tại mục 1.1.4 tại Thông tư 05/2007/TT-BXD và các quy định hiện hành khác theo quy định của nhà nước.
Theo hợp đồng hiện nay chúng tôi đang tổ chức đấu thầu một số gói thầu về tư vấn thiết kế bản vẽ thi công; tư vấn giám sát công trình; các gói thầu xây lắp, thiết bị. Theo cách hiểu của Công ty chúng tôi: Chi phí lập hồ sơ mời thầu và phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu các gói thầu tư vấn., xây lắp và thiết bị không thuộc chi phí quản lý dự án do Công ty chúng tôi đã ký kết với chủ đầu tư; các chi phí này thuộc chi phí tư vấn đầu tư xây dựng tại mục 1.1.5 tại Thông tư 05/2007/TT-BXD và các quy định hiện hành khác theo quy định của nhà nước.
Để thực hiện hợp đồng về lập hồ sơ mời thầu và phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu các gói thầu nêu trên, chủ đầu tư cần phải ký hợp đồng với các đơn vị tư vấn có chức năng hoạt động các công việc trên để thực hiện theo quy định và chủ đầu tư phải chi trả số tiền nêu trên (không thuộc hợp đồng quản lý dự án của công ty chúng tôi). Vậy Công ty chúng tôi kính đề nghị Vụ Kinh tế - Bộ Xây dựng giải thích rõ các nội dung trên để công ty chúng tôi có cơ sở thực hiện dự án theo quy định hiện hành của nhà nước.