Cha không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì mẹ có quyền khởi kiện không?

Cho hỏi nếu người cha không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì mẹ có quyền khởi kiện không? Câu hỏi của anh Hiếu (Hưng Yên)

Trường hợp nào nghĩa vụ cấp dưỡng của cha đối với con bị chấm dứt?

Tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:

Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
2. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
3. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
4. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
5. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;
6. Trường hợp khác theo quy định của luật.

Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha đối với con có thể chấm dứt trong trường hợp sau:

- Con đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;

- Người con được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;

- Cha đã trực tiếp nuôi dưỡng con;

- Người cha hoặc người con chết;

- Trường hợp khác theo quy định của luật.

Phủ nhận trách nhiệm làm cha thì người vợ có quyền khởi kiên không? (Hình từ Internet)

Cha không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì mẹ có quyền khởi kiện không?

Tại Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm:

Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.

Như vậy, nếu có căn cứ xác định con là con chung của vợ chồng mà người cha chối bỏ, phủ nhận trách nhiệm, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì người mẹ có quyền làm đơn khởi kiện và Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết.

Người phủ nhận trách nhiệm, không cấp dưỡng cho con bị xử phạt ra sao?

Tại Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định về xử phạt vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng như sau:

Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;
b) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định đối với các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 144/2021/NĐ-CP còn quy định mức phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

Tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định:

Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Như vậy, người phủ nhận trách nhiệm, không cấp dưỡng cho con sẽ bị phạt hành chính từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng và nếu nặng hơn sẽ bị phạt tù cao nhất lên đến 02 năm.

Trân trọng!

Nghĩa vụ cấp dưỡng
Căn cứ pháp lý
Hỏi đáp mới nhất về Nghĩa vụ cấp dưỡng
Hỏi đáp Pháp luật
Cha mẹ không cấp dưỡng cho con sau ly hôn thì bị xử phạt như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Hướng dẫn về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của cha mẹ không trực tiếp nuôi con theo Nghị quyết 01?
Hỏi đáp Pháp luật
Người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con đến bao nhiêu tuổi?
Hỏi đáp Pháp luật
Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn có được quyền thăm con không?
Hỏi đáp Pháp luật
Cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà hay không?
Hỏi đáp Pháp luật
Con ngoài giá thú có được yêu cầu cấp dưỡng không?
Hỏi đáp Pháp luật
Pháp luật có bắt buộc phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn hay không?
Hỏi đáp Pháp luật
Ly hôn vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho vợ cũ hoặc chồng cũ trong trường hợp nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Mức cấp dưỡng nuôi con ngoài giá thú theo luật hiện nay là bao nhiêu?
Hỏi đáp Pháp luật
Có được yêu cầu ông bà nội thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với cháu khi người cha không chịu cấp dưỡng không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Nghĩa vụ cấp dưỡng
Lương Thị Tâm Như
4,536 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Nghĩa vụ cấp dưỡng

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Nghĩa vụ cấp dưỡng

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào