Kính
gửi: Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Công Thương nhận được Công văn số
2954/BKHCN-TĐC ngày 19 tháng 10 năm 2022 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc
báo cáo tổng kết việc thi hành Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 13 tháng 4 năm
2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Bộ Công Thương báo cáo như sau:
1. Về phối hợp
xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
Thực hiện Quyết định số
36/2010/QĐ-TTg ngày 13 tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy
chế phối hợp kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Bộ Công Thương chỉ đạo các
đơn vị trực thuộc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao triển khai kiểm
tra về chất lượng của hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa sản xuất trong nước, hàng
hóa lưu thông trên thị trường. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc áp dụng yêu
cầu quy định trong quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến điều kiện của quá trình sản
xuất và các biện pháp quản lý nhà nước về chất lượng trong sản xuất; kiểm tra kết
quả đánh giá sự phù hợp, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu
hợp quy và các tài liệu kèm theo sản phẩm cần kiểm tra; thử
nghiệm mẫu theo tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng khi
cần thiết.Trong quá trình kiểm tra, xử lý vi phạm, nếu vụ việc thuộc thẩm quyền
xử phạt của cơ quan khác hoặc có dấu hiệu tội phạm thì chuyển cơ quan có thẩm
quyền xử lý hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định.
Đối với sản phẩm hàng hóa có cảnh báo
không an toàn, không bảo đảm chất lượng thì Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị
liên quan kiểm tra, giám sát thu hồi sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng,
không đưa ra lưu thông trên thị trường. Trong quá trình kiểm tra, xử lý vi phạm,
các đơn vị chức năng của Bộ Công Thương phối hợp với các đơn vị chức năng của
các Bộ, ngành liên quan (Bộ Khoa học và Công nghiệp, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn,...) để tham vấn ý kiến chuyên môn trong các lĩnh vực
chuyên ngành. Các đơn vị chức năng của Bộ Công Thương đã tổ
chức, tham gia các hội nghị, hội thảo về công tác quản lý chất lượng sản phẩm
hàng hóa.
Đối với từng lĩnh vực thuộc chức năng
quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị chức
năng xây dựng kế hoạch kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, kiểm tra việc thực
hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo trách nhiệm được phân công tại Luật
Chất lượng sản phẩm hàng hóa và các văn bản liên quan, cụ thể:
- Trong lĩnh vực quản lý hóa chất, Cục
Hóa chất đã triển khai công tác kiểm tra chuyên ngành theo Điều
11 của Quy chế phối hợp kiểm tra CLSPHH và Thông tư 36/2019/TT-BCT ngày 29
tháng 11 năm 2019, Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc
trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương ban hành kèm theo Thông tư số
33/2017/TT-BCT ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương, Quy chuẩn
kỹ thuật (QCKT) QCVN 03:2012/BCT về amoni nitrat dùng để sản
xuất thuốc nổ anfo; Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 05:2015/BCT Amôni nitrat
dùng để sản xuất thuốc nổ nhũ tương; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN
04A:2020/BCT về chất lượng tiền chất thuốc nổ sử dụng để sản xuất vật liệu nổ
công nghiệp, thực hiện kiểm tra chất lượng nhà nước đối với 05 loại tiền chất
thuốc nổ và Vật liệu nổ công nghiệp.
- Trong quá trình tổ chức kiểm tra chất
lượng hàng hóa về tiền chất thuốc nổ và vật liệu nổ công nghiệp, Cục Hóa chất
đã phối hợp với Cơ quan Hải quan tạo điều kiện cho Doanh nghiệp đưa hàng về kho
bảo quản chờ kết quả kiểm tra nhà nước đối với lô hàng theo quy định. Phối hợp
với các phòng thử nghiệm Vilas thuộc Viện thuốc phóng thuốc nổ thuộc Tổng cục
công nghiệp quốc phòng và Trung tâm Vật liệu nổ công nghiệp (Chi nhánh Tổng
công ty Công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin) tiến hành thử nghiệm với thời gian
nhanh nhất để các Doanh nghiệp sớm có kết quả làm thủ tục thông quan lô hàng.
Sau khi có kết quả thử nghiệm của các phòng thử nghiệm Vilas Cục Hóa chất tiến
hành cấp Thông báo Kết quả kiểm tra nhà nước về chất lượng
hàng hóa nhập khẩu đối với lô hàng nhập khẩu làm cơ sở để cơ quan Hải quan
thông quan lô hàng.
- Trong lĩnh vực an toàn, bảo vệ môi
trường trong công nghiệp và thương mại: Bộ Công Thương chỉ đạo Cục Kỹ thuật an
toàn và Môi trường công nghiệp tổ chức, thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản
phẩm, hàng hóa theo trách nhiệm được phân công quy định tại Nghị định số
132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật CLSPHH được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
74/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ. Cục Kỹ thuật an toàn và
Môi trường công nghiệp thường xuyên phối hợp với các cơ quan kiểm tra theo kế
hoạch hoặc đột xuất khi có yêu cầu.
- Về quản lý chất lượng và hoạt động
đánh giá sự phù hợp, Bộ Công Thương đã triển khai các hoạt động đăng ký hoạt động
của các tổ chức đánh giá sự phù hợp và hoạt động chỉ định tổ chức đánh giá sự
phù hợp đối với hàng hóa nhóm 2, lĩnh vực an toàn thực phẩm và các sản phẩm
hàng hóa khác quản lý theo quy chuẩn kỹ thuật (Giấy và Dệt may).
- Trong lĩnh vực quản lý thị trường,
Bộ Công Thương chỉ đạo Tổng cục Quản lý thị trường phối hợp
với các đơn vị chức năng xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác kiểm
tra, thanh tra, hậu kiểm và xử lý các vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa
lưu thông trên thị trường theo lĩnh vực, mặt hàng do Bộ Công Thương quản lý và
các lĩnh vực lực lượng Quản lý thị trường được giao thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính.
2. Về phối hợp
trong công tác kiểm tra, xử lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa
Đối với hàng hóa phải kiểm tra nhà nước
về chất lượng khi nhập khẩu Bộ Công Thương chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện
theo quy định của pháp luật bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hợp
pháp của doanh nghiệp, các đơn vị trực thuộc theo chức năng, nhiệm vụ đã phối hợp
với Sở Công Thương, Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các lực lượng
chức năng trong hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa cử người tham
gia các đoàn kiểm tra liên ngành khi có yêu cầu; trong công tác quản lý và kiểm
soát chất lượng, các đơn vị chức năng phối hợp xin ý kiến chuyên môn các cơ
quan liên quan thuộc Bộ Khoa học & Công nghệ; phối hợp với các cơ quan
Thanh tra Sở Công Thương, Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các
lực lượng chức năng trong hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm về CLSPHH. Cử đại
diện tham gia các Đoàn kiểm tra về CLSPHH do Bộ Khoa học & Công nghệ hoặc
các Ban ngành liên quan chủ trì, thông báo kế hoạch kiểm tra cho các cơ quan địa
phương liên quan để phối hợp trong quá trình kiểm tra, xử lý vi phạm về CLSPHH
nhằm tránh sự chồng chéo trong công tác kiểm tra, xử lý vi phạm.
Trong công tác phối hợp, Bộ Công
Thương chỉ đạo các đơn vị chức năng cử người tham gia các đoàn kiểm tra liên
ngành kiểm tra về chất lượng sản phẩm hàng hóa đối với đối tượng kiểm tra là
nhiều loại sản phẩm, hàng hóa khác nhau mà các loại sản phẩm, hàng hóa đó thuộc
trách nhiệm quản lý của nhiều ngành, lĩnh vực khi có yêu cầu bảo đảm không chồng
chéo, không gây phiền hà cho cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Việc phối hợp trong công tác thanh
tra, kiểm tra xử lý vi phạm về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các
Ban chỉ đạo, các Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả tránh chồng chéo và phát hiện, xử lý nhiều trường hợp
vi phạm. Việc phân công, phân cấp quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng
hóa cho các bộ quản lý ngành, lĩnh vực và địa phương đã được phân định cụ thể,
rõ ràng.
Công tác phối hợp kiểm tra chất lượng
sản phẩm hàng hóa giữa các Sở, ngành các lực lượng chức năng tại địa phương được
triển khai tốt, hạn chế chồng chéo nội
dung gây khó khăn phiền hà cho doanh nghiệp. Qua công tác
kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa của địa phương cho thấy nhìn chung các cơ
sở sản xuất kinh doanh thực hiện các quy định về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng
sản phẩm hàng hóa và nhãn hàng hóa, nhiều sản phẩm hàng hóa sản xuất có chất lượng
tốt, đáp ứng yêu cầu khách hàng và mở rộng thị trường, trong nước và nước
ngoài.
Bộ Công Thương
đã tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa thuộc phạm vi trách nhiệm của
Bộ Công Thương thông qua các hình thức như hoạt động kiểm tra của lực lượng quản
lý thị trường; hoạt động kiểm tra thông qua các đợt kiểm tra chuyên ngành; hoạt
động kiểm tra thông qua việc chứng nhận hợp quy của các tổ
chức đánh giá sự phù hợp được chỉ định theo các quy định tại các QCVN; hoạt động
kiểm tra thông qua tổ chức đánh giá sự phù hợp được cấp Giấy chứng nhận hoạt động
theo quy định tại Nghị định số 107/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của
Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; hoạt động
của các Cơ quan kiểm tra nhà nước đối với thực phẩm nhập khẩu; Đơn vị kiểm nghiệm
thực phẩm phục vụ quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm; Cơ sở kiểm nghiệm kiểm
chứng (đối với lĩnh vực thực phẩm).
Hàng năm, Bộ Công Thương đều tiến
hành xây dựng kế hoạch kiểm tra các tổ chức đánh giá sự phù hợp thực hiện đăng
ký hoạt động đánh giá sự phù hợp theo quy định của Nghị định số 107/2016/NĐ-CP
và các tổ chức đánh giá sự phù hợp được chỉ định theo các quy định tại các
QCVN.
3. Khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện
- Trong quá trình thực hiện vẫn còn tổ
chức, cá nhân thực hiện chưa nghiêm túc việc duy trì chất lượng sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ đã được chứng nhận và công bố hợp chuẩn, chứng
nhận và công bố hợp quy; đồng thời việc kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chưa thật sự hiệu quả:
- Một số hàng hóa khi lưu thông trên
thị trường do các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất thực hiện công bố các đặc tính
cơ bản, thông tin cảnh báo... nên các đơn vị kinh doanh không có sẵn bản công bố
chỉ tiêu mức chất lượng và phương pháp thử nghiệm theo yêu cầu theo tiêu chuẩn
công bố áp dụng của nhà sản xuất. Do đó, trong quá trình kiểm tra về chất lượng
hàng hóa (lấy mẫu thử nghiệm) ảnh hưởng đến quá trình kiểm tra, thời gian lưu,
thử nghiệm và trả kết quả vì phải liên hệ với nhà sản xuất để được cung cấp
thông tin, hồ sơ.
- Điều 48, điều 50 Luật
CLSPHH quy định về Đoàn kiểm tra và kiểm soát viên chất lượng gây khó khăn
cho các cơ quan kiểm tra CLSPHH của các lực lượng chức năng do quy định ít nhất
50% số thành viên tham gia Đoàn kiểm tra là kiểm soát viên chất lượng (được bổ
nhiệm vào ngạch kiểm soát viên chất lượng).
- Phần lớn các doanh nghiệp đã nhận
thức và tuân thủ các quy định của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên
một số doanh nghiệp do chưa hiểu biết hết về pháp luật nên vẫn chưa thực hiện đầy
đủ trách nhiệm của mình. Một số hàng hóa vẫn chưa tuân thủ đối với nội dung về
ghi nhãn sản phẩm, chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy theo quy
định. Điều này có một phần trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
thực hiện kiểm tra, giám sát đối với sản phẩm hàng hóa trên thị trường.
- Công tác phối hợp, nhất là trong
trao đổi thông tin, phối hợp lực lượng một số lúc, một số nơi chưa kịp thời và
thiếu tính bền vững. Công tác phối hợp trong chia sẻ thông tin, dữ liệu còn hạn
chế, bị động ảnh hưởng đến các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý vi phạm.
4. Đề xuất, kiến
nghị
- Đề nghị cơ quan chủ trì rà soát nội
dung trong Quy chế phối hợp do không còn phù hợp với các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan, cụ thể:
+ Khoản 3 Điều 10
quy định: Cơ quan quản lý thị trường có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan kiểm
tra thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, địa phương trong quá trình kiểm tra chất
lượng sản phẩm tại cơ sở sản xuất. Nội dung này không phù hợp với Pháp lệnh Quản
lý thị trường (Khoản 2 Điều 17 quy định Lực lượng Quản lý thị
trường có thẩm quyền kiểm tra cơ sở sản xuất đối với lĩnh vực, ngành hàng thuộc
lĩnh vực quản lý của Bộ Công Thương).
+ Điểm b Khoản 2 Điều
11: Đối với hàng hóa bị buộc phải tái chế thì cơ quan kiểm tra chủ trì việc
kiểm tra CLSPHH sau tái chế và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết quả
kiểm tra để ra thông báo cho cơ quan hải quan và cơ quan khác có liên quan. Quy
định như vậy là khó thực hiện vì cơ quan kiểm tra khó kiểm soát đầu vào và đầu
ra của quá trình tái chế.
+ Khoản 2 Điều 12:
Cơ quan Quản lý thị trường chủ trì giám sát người bán hàng có hàng hóa vi phạm
trong việc thực hiện quyết định của cơ quan kiểm tra, cơ quan khác có thẩm quyền
đối với hàng hóa vi phạm chất lượng; xử lý các hành vi vi phạm quyết định đó.
Quy định nêu trên không phù hợp với quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính và khó thực hiện trong thực tế.
+ Tại Điều 1 “Phạm
vi điều chỉnh”: Bổ sung Ủy ban nhân dân các cấp, vì trên thực tế, vào các đợt
cao điểm Ủy ban nhân dân các cấp có thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành,
trong đó có nội dung kiểm tra về chất lượng hàng hóa.
- Để thuận lợi trong công tác quản lý
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và công tác quản lý CLSPHH, kiến nghị cơ quan
chủ trì rà soát văn bản quy phạm pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, nhất là trách nhiệm quản lý nhà nước về CLSPHH quy định tại Khoản 14 Điều 1 Nghị định 74/2018/NĐ-CP; Trách nhiệm tham mưu
xây dựng quy chuẩn kỹ thuật (quốc gia, địa phương) được quy định tại Khoản 7 Điều 1 Nghị định số 78/2018/NĐ-CP.
- Cơ quan được phân công chủ trì phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức các Đoàn công tác rà soát, đánh giá hoạt
động của các tổ chức đánh giá làm căn cứ để các Bộ ngành tiến hành đình chỉ hoạt
động đánh giá sự phù hợp phục vụ quản lý của Nhà nước, tránh việc phải tiến
hành đánh giá năng lực nhiều lần, gây tốn kém lãng phí.
- Trong các năm qua, các Bộ ngành đã
xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn, tuy nhiên việc quản lý CLSPHH theo các
tiêu chuẩn lại không mang tính bắt buộc (trừ các tiêu chuẩn được quy định tại
các quy chuẩn tương ứng) do vậy thiếu tính hiệu quả.
- Sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn hàng hóa khi đưa ra lưu thông, nhất là quy chuẩn hóa các mặt hàng ảnh hưởng đến an toàn, sức khỏe, môi trường,...
Hoàn thiện, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng từ các Luật,
Nghị định để từ đó cụ thể hóa có hệ thống, khoa học và
mang tính thống nhất để cơ quan quản lý, cơ sở sản xuất,
kinh doanh và người tiêu dùng có thể hiểu một cách thống nhất và cùng thực hiện.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc loại
bỏ các quy định, thủ tục liên quan đến hồ sơ, đăng ký kiểm tra nhà nước về chất
lượng hàng hóa không cần thiết nhằm giảm chi phí, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện.
- Sớm xây dựng các quy định về truy
xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa đảm bảo kết nối, chia sẻ dữ liệu tạo điều kiện
cho các cơ quan, các lực lượng chức năng trong việc phối hợp chia sẻ thông tin
kiểm tra và xử lý vi phạm đối với hàng hóa vi phạm về chất lượng lưu thông trên
thị trường.
- Theo quy định, khi thành lập đoàn
kiểm tra CLSPHH yêu cầu tối thiểu 50% số thành viên đoàn là kiểm soát viên chất
lượng, điều này dẫn đến việc không đủ nhân lực đảm bảo các đoàn hoạt động đầy đủ,
rộng khắp các địa bàn,, đặc biệt trong những dịp cao điểm như dịp nghỉ lễ lớn của
cả nước. Do đó, có thể thấy về quy định quản lý hiện tại theo ngành là hợp lý,
tuy nhiên cần bổ sung mở rộng trách nhiệm của cơ quan chuyên trách có chức năng
kiểm tra, kiểm soát được quyền chủ động kiểm tra, xử lý vi phạm theo chức năng,
nhiệm vụ được phân công đối với CLSPHH lưu thông trên thị trường, không nên bó
buộc phải phối hợp với cơ quan chuyên ngành quản lý như hiện nay.
- Tăng cường công tác phối hợp, chia
sẻ thông tin giữa các cơ quan chức năng trong công tác quản lý nhà nước và công
tác kiểm tra, xử lý vi phạm về CLSPHH; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng
dẫn các cơ sở, doanh nghiệp xây dựng và công bố tiêu chuẩn cơ sở; chứng nhận và
công bố hợp quy sản phẩm, hàng hóa thuộc lĩnh vực được
phân công; Bên cạnh đó, các cấp chính quyền, các cơ quan đoàn thể và truyền
thông tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân tham gia
kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm và ý thức tự giác chấp hành quy định của
pháp luật về an toàn, chất lượng sản phẩm hàng hóa; Vận động nhân dân tham gia
giám sát, phát hiện những tổ chức, cá nhân vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng
hóa để kịp thời xử lý theo quy định của pháp luật.
- Các cơ quan chức năng chủ trì trong
quá trình xây dựng kế hoạch kiểm tra cần tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan dự
kiến phối hợp nhằm tránh chồng chéo về các nội dung kiểm tra và để các cơ quan
phối hợp chủ động về mặt thời gian, nguồn lực tham gia.
- Đề nghị Bộ Tài chính bố trí nguồn
kinh phí cho các bộ, ngành; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố bố trí nguồn kinh phí cho các cơ quan liên quan tại địa phương để phục vụ công tác đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm hàng hóa nói
riêng cũng như tổ chức tuyên truyền, lấy mẫu, kiểm nghiệm và tiêu hủy các sản
phẩm, hàng hóa không đạt chất lượng, thực phẩm giả, không rõ nguồn gốc, chất phụ
gia, thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục được phép sử dụng; gia cầm; sản phẩm
gia súc, gia cầm nhập lậu, không đảm bảo an toàn thực phẩm nói chung.
Trên đây là báo cáo của Bộ Công
Thương về tổng kết việc thi hành thi hành Quyết định số 36/2010/QĐ-TTg ngày 15
tháng 4 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ Khoa học và Công nghệ để tổng hợp./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng;
- Lưu: VT, TCQLTT (03).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đặng Hoàng An
|