Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam 10/10 được tổ chức thế nào? (Hình từ internet)
Căn cứ Quyết định 149/QĐ-TTg năm 2013, lấy ngày 10 tháng 10 hàng năm là “Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam”.
Theo đó, việc tổ chức Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam hàng năm phải đảm bảo những nội dung, yêu cầu như sau:
- Thiết thực, tiết kiệm, có hiệu quả và tránh hình thức
- Giáo dục truyền thống, động viên phong trào thi đua yêu nước, nâng cao ý thức, trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
- Biểu dương, khen thưởng bằng các hình thức phù hợp với quy định của pháp luật đối với tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động luật sư, gương mẫu trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Liên đoàn luật sư Việt Nam căn cứ vào quy định hiện hành có trách nhiệm hướng dẫn Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện Ngày truyền thống của luật sư Việt Nam theo đúng nội dung, yêu cầu quy định trên.
* Luật sư có các quyền sau đây:
- Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư 2006 và quy định của pháp luật có liên quan;
- Đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật;
- Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư 2006;
- Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;
- Hành nghề luật sư ở nước ngoài;
- Các quyền khác theo quy định của Luật Luật sư 2006.
* Luật sư có các nghĩa vụ sau đây:
- Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư quy định tại Điều 5 Luật Luật sư 2006;
- Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, tôn trọng người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi hành nghề;
- Tham gia tố tụng đầy đủ, kịp thời trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu;
- Thực hiện trợ giúp pháp lý;
- Tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Luật sư 2006.
(Điều 21 Luật Luật sư 2006 sửa đổi 2012)
Cụ thể tại Điều 22 Luật Luật sư 2006 quy định về phạm vi hành nghề của luật sư như sau:
- Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
- Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện tư vấn pháp luật.
- Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật.
- Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật Luật sư 2006.
Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:
(1) Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc:
- Thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư;
- Làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư.
(2) Hành nghề với tư cách cá nhân
(Điều 23 Luật Luật sư 2006, được sửa đổi 2012)