VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 180/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 04
tháng 04 năm 2017
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC TẠI HỘI NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG NGÀNH HÀNG LÚA GẠO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngày 15 tháng 3 năm 2017, tại tỉnh An Giang, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị Giải pháp phát triển bền vững
ngành hàng lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tham dự Hội nghị có Bí thư Tỉnh
ủy An Giang Võ Thị Ánh Xuân, Phó trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương
Cao Đức Phát, Bộ trưởng các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công
Thương và đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tài
nguyên và Môi trường, Khoa học và Công nghệ, Giao thông vận tải, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Văn phòng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ; lãnh đạo Ủy ban
nhân dân 13 tỉnh, thành phố và các Sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Công Thương các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long; một số nhà khoa học,
quản lý; lãnh đạo các Tổng công ty Lương thực: Miền Bắc, Miền Nam, đại diện một
số doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng có liên quan.
Sau khi nghe báo cáo của các Bộ: Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Công Thương và ý kiến của các đại biểu dự họp, Thủ tướng
Chính phủ kết luận như sau:
I. TÌNH HÌNH CHUNG
1. Thay mặt Chính phủ, biểu dương và đánh giá cao Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, ngành, địa phương vùng đồng bằng
sông Cửu Long, các nhà khoa học, người trồng lúa, các doanh nghiệp về những
thành tựu đạt được trong sản xuất, chế biến, xuất khẩu lúa gạo thời gian qua.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đặc biệt đến vấn
đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nông nghiệp luôn là nền tảng, một
trụ đỡ của nền kinh tế, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều
chủ trương, chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển, góp phần
quan trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Sau 30 năm đổi
mới, từ một quốc gia thiếu lương thực trầm trọng, đến nay đã trở thành nước xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới. Gạo của nước ta đã có mặt tại 150 quốc gia và vùng
lãnh thổ, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế về sản xuất
ngành hàng lúa gạo, cây lúa từ lâu đã trở thành người bạn thân thiết, luôn đồng
hành với người dân Việt Nam ở các tỉnh Tây Nam Bộ. Với điều kiện tự nhiên thuận
lợi, điều kiện sản xuất tốt, đồng bằng sông Cửu long đã trở thành vựa lúa lớn của
cả nước. Những năm qua, diện tích, năng suất và sản lượng lúa gạo của Vùng liên
tục tăng, chiếm xấp xỉ 57% sản lượng lúa gạo, đóng góp trên 90% lượng gạo xuất
khẩu của cả nước, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm
nghèo, ổn định chính trị, xã hội.
2. Sản xuất lúa gạo nói chung và ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long vẫn còn một số hạn chế, yếu kém và đang đứng trước những khó
khăn, thách thức lớn:
- Hiệu quả và giá trị gia tăng của ngành hàng lúa gạo
thấp, tiêu tốn nhiều lao động, sử dụng nhiều tài nguyên đất và nước. Sản xuất
chủ yếu với quy mô nhỏ, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, cùng với thói quen lạm dụng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm tăng chi phí đầu vào, giá thành lúa gạo
cao, giảm khả năng cạnh tranh, dẫn đến thu nhập của người trồng lúa thấp, doanh
nghiệp kinh doanh lúa gạo lợi nhuận chưa cao, kém ổn định.
- Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam còn hạn chế,
đã và đang bị thu hẹp thị trường ngay ở trong nước do chưa qua chế biến sâu, chất
lượng không đồng đều, chưa có thương hiệu gạo mạnh, nổi tiếng, xuất khẩu chủ yếu
dựa vào giá thấp, thị trường dễ tính; gạo Thái Lan, gạo Campuchia... đã vào thị
trường Việt Nam.
- Một số cơ chế, chính sách hiện nay chưa thực sự
khuyến khích phát triển ngành lúa gạo; chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu
tư sản xuất, kinh doanh. Một số thủ tục hành chính đối với xuất khẩu gạo còn
phiền hà, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
- Sản xuất lúa gạo chịu nhiều thách thức về môi trường,
cạnh tranh về nguồn nước; kỹ thuật canh tác cũ, lạc hậu, sử dụng nhiều nước và
vật tư nông nghiệp, phát thải nhiều khí nhà kính;
biến đổi khí hậu, hạn hán, nước biển dâng, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức
tạp, tác động lớn đến sản xuất lúa gạo và trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của
người dân trong Vùng.
- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho
diện tích đất trồng lúa ngày càng bị thu hẹp.
- Nhiều nước nhập khẩu gạo tăng cường hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp để tiến tới tự túc được lương thực; đồng thời gia tăng các hàng rào
kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước; yêu cầu về tiêu chuẩn gạo ngày càng khắt
khe hơn. Nhiều quốc gia đang đẩy mạnh sản xuất lúa gạo, hướng tới xuất khẩu, dẫn
đến cạnh tranh thị trường lúa gạo ngày
càng gay gắt.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU TRONG THỜI GIAN TỚI
Nước ta có tiềm năng lợi thế lớn về sản xuất lúa gạo,
nhất là tại đồng bằng sông Cửu Long. Lúa gạo có vai trò không thể thay thế của
nông nghiệp Việt Nam và cây lúa vẫn sẽ là sinh kế quan trọng của đa số nông
dân. Phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu
Long tiếp tục được khẳng định trong an ninh lương thực tầm quốc gia và quốc tế.
Đây là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài.
Trong thập kỷ tới, cần phấn đấu để lúa gạo đem lại giá trị gia tăng tốt nhất dựa
trên việc đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn về dinh dưỡng và dược liệu. Các Bộ,
ngành, địa phương phải tiếp tục đổi mới, với tư duy kiến tạo, toàn diện, từ nền
tảng thể chế, chính sách, pháp luật đến cấu trúc vận hành, phương thức quản trị
và công nghệ sản xuất lúa gạo; tạo ra cuộc cách mạng về chất, một tầm nhìn mới,
đi kèm với hoạch định chiến lược, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa để gạo Việt
Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng ở Châu Á và thế giới, từ đó đem lại giá
trị gia tăng cao hơn cho người trồng lúa và các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu lúa gạo.
Cơ bản đồng ý với các nhiệm vụ, giải pháp Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, cơ quan đã đề ra. Trong thời gian tới,
các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành
hàng và các doanh nghiệp cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
sau đây:
1. Khẩn trương điều chỉnh quy mô sản xuất lúa theo
hướng mở rộng hạn điền phù hợp, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người trồng
lúa. Thúc đẩy phát triển mô hình cánh đồng lớn, sản xuất hàng hóa tập trung quy
mô lớn. Hỗ trợ liên kết sản xuất hợp tác với các doanh nghiệp, phát triển mô
hình hợp tác xã kiểu mới; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ lúa gạo theo chuỗi
giá trị. Từng bước giảm số lao động nông nghiệp, chuyển sang ngành nghề khác.
2. Rà soát quy hoạch sản xuất, hình thành các vùng
chuyên canh lúa theo hướng sử dụng linh hoạt đất trồng lúa phù hợp với mục tiêu
an ninh lương thực, tình hình thị trường và biến đổi khí hậu; cho phép chuyển đổi
linh hoạt những vùng, vụ trồng lúa kém hiệu quả, vùng bị nhiễm mặn sang nuôi
tôm, trồng các loại cây khác hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản để đạt hiệu quả
kinh tế cao hơn. Cần tính toán nhu cầu trong nước, mức tăng trưởng hàng năm về
nhu cầu của thế giới, khả năng vươn lên tự sản xuất của một số nước và khả năng vươn lên của gạo Việt Nam để có kế hoạch điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với
từng giai đoạn.
3. Đổi mới quản lý khoa học công nghệ trong nông
nghiệp, có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu chọn lọc,
lai tạo giống lúa năng suất, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Nghiên cứu sản xuất lúa gạo hướng tới đa mục tiêu, không những đảm bảo an ninh
lương thực mà còn phải đẩy mạnh xuất khẩu, bảo đảm an toàn thực phẩm, góp phần
nâng cao sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
4. Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo thông qua áp
dụng cơ giới hóa, sử dụng vật tư nông nghiệp do Việt Nam sản xuất; ứng dụng
công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu, bảo quản lúa gạo,
giảm tổn thất sau thu hoạch. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ
chất lượng vật tư nông nghiệp, khắc phục tình trạng sử dụng bất hợp lý phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất.
5. Chú trọng xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi
hiện đại phục vụ tưới tiêu, các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nước
biển dâng và các công trình hạ tầng khác, hướng tới áp dụng cơ chế thị trường về
giá nước trong sản xuất để tiết kiệm, sử dụng hiệu quả hơn.
6. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, duy trì phát triển
các thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường xuất khẩu gạo mới,
tiềm năng. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường, kịp thời giải quyết các rào
cản kỹ thuật với các nước liên quan. Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam và
thương hiệu của doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh cả trên thị trường
trong nước và thế giới. Cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ các "nút thắt"
về thể chế, tạo "sân chơi" bình đẳng giữa các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
a) Nghiên cứu, tiếp thu đề xuất, kiến nghị của các
Bộ ngành, địa phương, nhà khoa học, doanh nghiệp tại Hội nghị, Khẩn trương rà
soát toàn diện thể chế, chính sách, đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định
không còn phù hợp để tạo điều kiện cho ngành hàng lúa gạo phát triển.
b) Xác định các vùng trồng lúa có lợi thế nhất để điều
chỉnh quy hoạch sản xuất cho từng vùng. Tăng cường việc chuyển đổi diện tích trồng
lúa chất lượng thấp, kém hiệu quả, vùng nhiễm mặn sang trồng cây trồng khác phù
hợp hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản.
c) Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số
35/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng
lúa theo hướng giảm chi phí trong các khâu trung gian để nâng cao mức hỗ trợ trực
tiếp cho người trồng lúa.
d) Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án
phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm
2015. Sửa đổi, bổ sung Đề án “Tái cơ cấu ngành lúa gạo đến năm 2020 và tầm nhìn
đến 2030” được ban hành theo Quyết định số 1898/QĐ-BNN-TT ngày 23 tháng 5 năm
2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
đ) Rà soát, sửa đổi, bổ sung Quyết định số
68/2013/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách
hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, trình Thủ tướng Chính phủ trong
Quý II năm 2017. Khuyến khích xây dựng hệ thống kho dự trữ, bảo quản thóc để có
thể dự trữ khi gặp khó khăn trong tiêu thụ.
2. Bộ Công Thương:
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn và các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 109/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 11 năm 2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo;
trong đó, không đưa ra những điều kiện phức tạp trong kinh doanh xuất khẩu gạo,
điều hành giá sàn gạo xuất khẩu; tăng cường quản lý khâu trung gian tổng phân
phối, tiêu thụ lúa gạo; điều chỉnh trách nhiệm của Hiệp hội lương thực Việt Nam
cho phù hợp, trình Chính phủ trong Quý II năm 2017.
b) Theo dõi, nắm chắc tình hình thương mại gạo thế
giới, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu gạo; tăng cường đàm phán, ký kết
hợp đồng Chính phủ để xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, trọng điểm,
phát triển các thị trường mới tiềm năng; tập trung xuất khẩu gạo có thương hiệu,
chất lượng, giá trị gia tăng cao; tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo. Chú trọng thị trường
nội địa, không để mất thị trường.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ ngành liên quan khẩn trương
báo cáo, đề xuất Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai theo hướng
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tích tụ, tập trung đất đai, mở rộng hạn điền;
có chính sách bồi thường phù hợp khi thu hồi đất, khuyến khích phát triển nông
nghiệp quy mô lớn.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày
09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn theo hướng mở rộng cho vay theo chuỗi, ưu đãi tín dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất máy, công cụ, vật tư đầu vào, cung cấp giống, dịch
vụ sấy, kho chứa, hậu cần phục vụ thương mại; ưu đãi cho vay đối với các hộ
nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác mới, sản xuất lúa sạch, ứng dụng công nghệ
cao; tạo nguồn vốn trung hạn, dài hạn với lãi suất phù hợp để nhà sản xuất, chế
biến gạo xuất khẩu có thể tiếp cận được.
5. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các cơ quan liên quan
giải quyết vướng mắc về chính sách thuế trong tiêu thụ và xuất khẩu lúa gạo nói
riêng và nông sản nói chung; đề xuất giảm các khoản thu trong quá trình sản xuất,
tiêu thụ lúa gạo. Nghiên cứu, sớm đề xuất hoàn thiện chính sách bảo hiểm nông
nghiệp, trong đó có bảo hiểm sản xuất lúa gạo.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương đề xuất sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích đầu tư tư nhân, nhất là hình thức hợp
tác công tư (PPP) đầu tư cho cải tạo giống lúa, nhập khẩu giống lúa mới, đào tạo
chuyên gia lúa gạo trong nước để có thể sản xuất lúa gạo có chất lượng cao xuất
khẩu sang thị trường khó tính.
7. Các Bộ, ngành Trung ương, Hiệp hội ngành hàng khẩn
trương rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách liên quan để tạo
môi trường đầu tư thuận lợi cho sản xuất lúa gạo cũng như các lĩnh vực lợi thế
khác của đồng bằng sông Cửu Long. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh liên kết
vùng, tiểu vùng; đồng thời phối hợp, hỗ trợ các địa phương xây dựng và hoàn thiện
các quy hoạch kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; khuyến khích khởi nghiệp, thu
hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất lúa gạo và nông nghiệp nông thôn.
8. Các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long
cân đối, bố trí ngân sách để bổ sung đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng
liên kết và sản xuất theo chuỗi, chế biến sâu và đặc biệt rà soát quy hoạch các
vùng chuyển đổi cây trồng, ứng phó linh hoạt với biến đổi khí hậu; xây dựng các
vùng chuyên canh để áp dụng đồng bộ kỹ thuật từ giống đến vật tư đầu vào đảm bảo
an toàn và hiệu quả cho nông dân trồng lúa. Xây dựng thương hiệu, mẫu mã hàng
hóa sản phẩm gạo để tiếp cận thị trường. Tăng cường quản lý chặt chẽ quá trình
lưu thông lúa gạo.
9. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ phối hợp chặt chẽ với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ ngành Trung ương trong việc đẩy mạnh
hoạt động liên kết vùng, liên kết tiểu vùng và giữa vùng đồng bằng sông Cửu
Long với các vùng khác trong cả nước. Thực hiện hiệu quả Quyết định số
593/QĐ-TTg ngày 6 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế liên kết
phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020.
Văn phòng Chính phủ thông báo để các cơ quan liên
quan biết, thực hiện.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Ban kinh tế Trung ương Đảng;
- Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ;
- Các Bộ: KH&ĐT, TC, NN&PTNT, CT, TN&MT, KHCN, GTVT, NG;
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- UBND các tỉnh, TP vùng đồng bằng sông Cửu Long;
- Hiệp hội lương thực Việt Nam;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTgCP, các Vụ: KTTH, TKBT, QHĐP, TH, TGĐ Cổng
TTĐT;
- Lưu: VT, NN(3).Dh
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Cao Lục
|