ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2992/QĐ-UBND
|
Vĩnh Phúc, ngày
29 tháng 12 năm 2023
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
KHẢO CỔ HỌC ĐỒNG ĐẬU, THỊ TRẤN YÊN LẠC, HUYỆN YÊN LẠC, GIAI ĐOẠN 2023 -2030”
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Căn cứ Luật Tổ chức Chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Luật Di sản văn hóa
ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản
văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009;
Căn cứ Nghị định số
98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
di sản văn hóa;
Căn cứ Nghị định số
166/2018/NĐ-CP ngày 25/12/2018 của Chính phủ Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ
tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử
văn hóa, danh lam thắng cảnh;
Căn cứ Quyết định số
1230/QĐ-TTg ngày 15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Chương trình Bảo
tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021-2025;
Căn cứ Quyết định số
1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược
phát triển văn hóa đến năm 2030;
- Căn cứ Quyết định số
06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 4 năm 2000 của Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc xếp hạng cấp quốc gia di tích khảo cổ học
Đồng Đậu;
Căn cứ Nghị quyết số
01-NQ/ĐHXVII ngày 16/11/2020 của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ
XVII, nhiệm kỳ 2020-2025;
Căn cứ Nghị quyết số
15-NQ/TU, ngày 12/12/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII, về xây dựng
văn hóa, con người Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững;
Căn cứ Kế hoạch số
306/KH-UBND ngày 09/12/2021, của UBND tỉnh về Bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2021- 2025, định hướng 2030;
Căn cứ Quyết định số
640/QĐ-UBND ngày 23/3/2023 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề cương, nhiệm vụ
xây dựng Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, thị trấn
Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm
2030”;
Theo đề nghị của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tại văn bản số 2123/SVHTTDL-BTT, ngày 15/11/2023
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê
duyệt Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, thị trấn
Yên Lạc, huyện Yên Lạc, giai đoạn 2023 -2030” (sau đây gọi tắt là Đề án), với
những nội dung chính như sau:
1. Mục tiêu chung:
- Bảo vệ và phát huy giá trị di
tích khảo cổ Đồng Đậu, đưa nơi đây thành một trung tâm văn hóa, lịch sử, một quần
thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng bậc nhất về lịch sử buổi đầu dựng nước
của dân tộc, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, lòng tự
hào lịch sử dân tộc đối với các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh, gắn với
phát triển du lịch.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của cấp uỷ, chính quyền các cấp và cộng đồng dân cư trong việc gìn giữ, bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu nói riêng và di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh
nói chung góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Giai đoạn 2023 -
2025
(1) Xây dựng, thẩm định, phê
duyệt Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, giai đoạn
2023-2030.
(2) Hoàn thành lập quy hoạch
(quy hoạch di tích, quy hoạch xây dựng) đối với di tích.
(3) Hoàn thành khoanh vùng, cắm
mốc giới các khu vực bảo vệ di tích theo quy định.
(4) Tiến hành nghiên cứu, khai
quật làm sáng tỏ địa bàn cư trú, canh tác, mộ táng và tâm linh của người Việt cổ
tại di tích Đồng Đậu. Tổ chức 02 cuộc Hội thảo khoa học cấp quốc gia và cấp tỉnh
về di tích Đồng Đậu.
(5) Hoàn thành lắp đặt hệ thống
cụm, biển chỉ dẫn, tuyên truyền giới thiệu giá trị tại di tích và các điểm
trung tâm.
(6) Hoàn thành biên soạn, bổ
sung cẩm nang, tài liệu tuyên truyền về giá trị của di tích Đồng Đậu phục vụ
giáo dục truyền thống.
(7) Khai thác và đưa vào hoạt động
tuyến tham quan du lịch về cội nguồn gắn di tích Đồng Đậu với hệ thống các di
tích khảo cổ về thời Hùng vương dựng nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Giai đoạn 2026-2030
(1) Hoàn thành xây dựng hạ tầng
tại khu vực di tích gồm: công viên cây xanh, nhà trưng bày bổ sung di tích.
(2) Đưa vào sử dụng, bảo quản,
khai thác nhà trưng bày bổ sung, các hố khai quật trưng bày ngoài trời tại di
tích phục vụ nghiên cứu, tham quan, học tập.
(3) Hoàn thiện việc kiểm kê
khoa học, sưu tầm, bổ sung tư liệu, trưng bày, số hoá các sưu tập hiện vật về Đồng
Đậu tại Bảo tàng tỉnh, nhà truyền thống huyện Yên Lạc, tích hợp vào chương
trình số hóa du lịch của tỉnh.
(4) Liên kết triển khai các
tuor, tuyến tham quan, học tập, trải nghiệm khảo cổ học cho công chúng tại di
tích Đồng Đậu với các di tích khảo cổ học tiêu biểu tại khu vực trung du Bắc bộ
và đồng bằng sông Hồng.
(5) Lập hồ sơ khoa học trình cấp
có thẩm quyền đề nghị công nhận di tích khảo cổ học Đồng Đậu là di tích quốc
gia đặc biệt.
3. Phạm vi của Đề án:
Khu vực di tích Đồng Đậu và di
tích liên quan thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, bao gồm các di
tích khảo cổ học trên mặt đất và dưới lòng đất thuộc khu di tích Đồng Đậu. Cảnh
quan thiên nhiên, cây xanh tại khu vực phân bố của di tích Đồng Đậu.
4. Nhiệm vụ của Đề án:
(1) Phối hợp với các cơ quan
chuyên ngành ở Trung ương tiến hành nghiên cứu khai quật làm sáng tỏ về địa bàn
cư trú, canh tác, mộ táng và tâm linh của người Việt cổ tại di tích.
(2) Đầu tư xây dựng hạ tầng và
các trung tâm dịch vụ văn hóa du lịch gồm: Hệ thống đường giao thông, khu khuôn
viên, điện, nước, cây xanh, nhà ban quản lý, bãi đỗ xe, nhà trưng bày bổ sung
di tích, nhà bảo vệ các hố khai quật, bia chỉ dẫn tuyến tham quan,… tại di tích
tại di tích.
(3) Triển khai thực hiện các phương
án bảo vệ di tích: Khoanh vùng, điều chỉnh địa giới các khu vực bảo vệ di tích
cho phù hợp và đảm bảo công tác quy hoạch, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
(4) Triển khai các hoạt động nhằm
phát huy giá trị di tích phục vụ phát triển du lịch: lắp đặt bia, biển hướng dẫn,
trưng bày ngoài trời, trưng bày ảo, giáo dục trải nghiệm, kết nối với các di sản
văn hóa tiêu biểu ở trong và ngoài tỉnh.
(5) Đẩy mạnh các hoạt động
tuyên truyền, giới thiệu quảng bá di tích Đồng Đậu: Tổ chức các cuộc trưng bày
chuyên đề, biên soạn, xuất bản các ấn phẩm, các phóng sự, phim tài liệu, các
trang chuyên mục…tuyên truyền, giới thiệu quảng bá về di tích Đồng Đậu trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
(6) Phối hợp với các nhà khoa học
ở trung ương khảo sát, điền dã, lập hồ sơ khoa học trình Thủ tướng Chính phủ xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt.
6. Nội dung và kế hoạch thực
hiện:
(Chi
tại Đề án kèm theo)
7. Kinh phí thực hiện:
7.1. Dự toán kinh phí dự
kiến:
- Các nội dung chi thực hiện đề
án được dự toán theo thực tế và định mức chi đã được cơ quan chuyên môn thẩm định
đơn giá (nếu có).
- Tổng kinh phí dự kiến:
148.623.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi tám tỷ, sáu trăm hai mươi ba triệu đồng)
Trong đó: Nguồn sự nghiệp Ngân
sách tỉnh: 9.519.000.000 đồng; Nguồn vốn đầu tư công Ngân sách tỉnh:
139.104.000.000 đồng;
(Chi
tiết theo phụ lục 7 tại Đề án đính kèm)
7.2. Nguồn kinh phí thực
hiện:
- Đối với các nhiệm vụ chi do cấp
tỉnh thực hiện: Kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách tỉnh, được giao trong dự
toán chi sự nghiệp văn hóa cấp tỉnh hàng năm và nguồn vốn đầu tư công Ngân sách
tỉnh và lồng ghép với nguồn kinh phí của các Nghị quyết, Kế hoạch của tỉnh.
- Đối với nhiệm vụ do cấp huyện
thực hiện: Được cân đối từ Ngân sách cấp huyện.
7.3. Phân kỳ thực hiện:
Đề án được thực hiện từ năm
2023 đến năm 2030.
Điều 2. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám
đốc Sở: Tài chính, Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh;
Thủ trưởng các Sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện,
thành phố và các đơn vị có liên quan căn cứ Quyết định thi hành./.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Văn Khước
|
ĐỀ ÁN
BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC ĐỒNG ĐẬU, THỊ
TRẤN YÊN LẠC, HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC, GIAI ĐOẠN 2023-2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2992/QĐ-UBND Ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc)
Phần thứ Nhất
SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ LẬP ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN
THIẾT LẬP ĐỀ ÁN
Di tích Đồng Đậu phân bố trên
gò Đồng Đậu, thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Di tích Đồng Đậu được phát hiện vào tháng 2 năm 1962. Từ khi được phát hiện đến
nay, di tích Đồng Đậu đã được các cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương
nghiên cứu, khai quật khảo cổ 7 lần, với tổng diện tích 802 m2.
Kết quả nghiên cứu, khai quật
đã cho thấy Đồng Đậu là di tích đạt được nhiều cái “nhất” trong số các di tích
khảo cổ đã được phát hiện trên đất nước ta. Trước hết Đồng Đậu là di tích khảo
cổ có quy mô rộng lớn hơn cả trong số các di tích khảo cổ thời dựng nước đã biết
trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, di tích ước tính rộng 85.000m2.
Đồng Đậu là di tích khảo cổ duy nhất trong thời kỳ dựng nước có diễn biến văn
hoá lâu dài, hiếm có ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trải suốt từ thời kỳ văn hoá
Phùng Nguyên, qua văn hoá Đồng Đậu, văn hoá Gò Mun đến văn hoá Đông Sơn. Đồng Đậu
còn có cả những di tích lò nung gốm cổ của người Việt cổ có niên đại khoảng 10
thế kỷ sau Công nguyên (lò gốm Đồng Đậu) và một số các di tích lịch sử khác. Đồng
Đậu là di tích khảo cổ thu được hiện vật phong phú, đa dạng nhất về chất liệu,
số lượng và kiểu dáng, hiện vật ở đây có đủ chất liệu đá, gốm, xương, sừng, đồng;
riêng đồ xương thì chưa có một di tích khảo cổ nào có số lượng lớn cũng như kiểu
dáng như ở Đồng Đậu. Qua đó cho phép chúng ta nghiên cứu một cách toàn diện về
đời sống kinh tế, xã hội của người Việt cổ, đồng thời minh chứng cho nguồn gốc
văn hóa bản địa và sự lưu tồn dấu tích của bốn giai đoạn văn hóa: Phùng Nguyên
- Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn. Đồng Đậu là một trung tâm tụ cư lớn vào bậc nhất
ở khu vực vùng đất tổ, đồng thời cũng là một trung tâm chế tác đồng thau lớn nhất
trong lịch sử luyện kim của người Việt thời dựng nước, tạo nên những bước đột
phá cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ các cộng đồng cư dân nguyên
thuỷ ở khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ, thúc đẩy quá trình thành lập nhà
nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam: nhà nước Văn Lang của các vua
Hùng.
Các nhà khoa học đã nhận xét: Đồng
Đậu như một tấm bia lịch sử ghi lại quá trình tồn tại và vươn lên từ thấp tới
cao của người Việt cổ ở buổi đầu dựng nước, minh chứng cho một kiến giải hợp lý
trong quá trình dựng nước của dân tộc ta - từ miền núi tiến về đồng bằng, từ du
canh du cư đến định canh định cư với những xóm làng, tạo dựng nên đồng bằng
sông Hồng với nền văn minh lúa nước nổi tiếng. Hơn nữa, di tích Đồng Đậu nằm
trong vùng đất có không gian văn hóa, lịch sử từ lâu đời gắn với đất và người
Tam Đái (trong đó Yên Lạc là trung tâm) với sự đa dạng phong phú của các loại
hình di sản văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm sắc thái văn hóa xứ Đoài
như thành, đền Gia Loan, chùa Biện Sơn, đền Bắc Cung, đền thờ Hai Bà Trưng,
làng khoa bảng Vĩnh Mỗ, múa gậy Dịch Đồng, đan lát Trung Kiên, bện thừng Nguyệt
Đức…càng làm cho di tích lan toả các giá trị, có lợi thế và tiềm năng về phát
triển văn hoá, giáo dục truyền thống, kinh tế du lịch gắn với phát triển bền vững
tại địa phương.
Với những giá trị của di tích Đồng
Đậu, trong những năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã phối hợp với các cơ quan nghiên cứu
ở trung ương, chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất, triển
khai và tổ chức thực hiện các giải pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của di
tích. Trong bối cảnh hệ thống di tích khảo cổ học trong cả nước, một số các di
tích khảo cổ có giá trị đã và đang bị xâm hại nghiêm trọng, thậm chí bị xóa sổ
hoàn toàn bởi hoạt động dò tìm cổ vật, các hoạt động dân sinh và sự hình thành
các khu công nghiệp; với di tích Đồng Đậu nhờ có những giải pháp kịp thời, đồng
bộ đến nay di tích Đồng Đậu được bảo tồn gần như nguyên vẹn, các hoạt động
nghiên cứu, khai quật, trưng bày, hội thảo, lập hồ sơ khoa học đề nghị công nhận
di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, tuyên truyền quảng bá giá trị di tích không
chỉ ở cấp địa phương mà mang tầm quốc gia, quốc tế được chú trọng, tổ chức và
phát huy.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
mà di tích Đồng Đậu vẫn chưa phát huy được những giá trị to lớn của nó. Kể từ
khi được phát hiện đến nay, Đồng Đậu mới chỉ chủ yếu được biết tới trong phạm
vi của các nhà nghiên cứu, vẫn chỉ là nơi phục vụ cho các đợt thám sát, khai quật
khảo cổ, nghiên cứu lịch sử và các khoa học chuyên ngành, chưa có sức lan tỏa về
tầm ảnh hưởng của một nền văn hóa bản địa buổi đầu dựng nước trong các tầng lớp
nhân dân và du khách thập phương. Công tác quản lý, bảo vệ di tích chưa chú trọng,
quan tâm, các lớp đất văn hóa của di tích bị đào xới do hoạt động canh tác;
chân gò bị xói lở do các hiện tượng thiên nhiên và một số hoạt động dân sinh;
tình trạng chôn cất mộ hiện đại, trồng cây lâu năm, đào giếng, tạo đường đi,
giao đất đấu thầu thuộc phạm vi các thềm bảo vệ đã làm hư hại tới di tích. Công
tác bảo quản các hố khai quật, các di vật phát hiện tại di tích chưa được đầu
tư để thực hiện bài bản, khoa học. Công tác tuyên truyền, quảng bá phát huy giá
trị của di tích chưa được chú trọng. Việc đầu tư, quy hoạch di tích gắn với
không gian văn hóa vùng phụ cận, với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
chưa hiệu quả; sự phối hợp trong công tác quản lý gắn với bảo tồn và phát huy
giá trị di tích giữa các cấp, các ngành, chính quyền địa phương chưa nhịp
nhàng, đồng bộ.
Di tích Đồng Đậu còn ẩn chứa
trong lòng nó vô vàn điều lý thú, mới lạ về giai đoạn lịch sử mở nước của cha
ông ta mà các nhà khảo cổ, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cấp, các
ngành, các cơ quan nghiên cứu cần khám phá, giải trình bổ sung làm sáng tỏ hơn
biên niên sử của dân tộc buổi đầu dựng nước. Hệ thống di tích khảo cổ học thời
kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên ở vùng đất Vĩnh Phúc nói chung và Di tích khảo
cổ học Đồng Đậu nói riêng, nếu không có các biện pháp bảo tồn, bảo vệ khẩn cấp
thì một ngày nào đó chúng ta sẽ không có các chứng cứ xác thực và thực tiễn để
minh chứng cho thời kỳ vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc. Trong khi đó nếu bảo
vệ, bảo tồn tốt di chỉ văn hoá Đồng Đậu thì đây sẽ là địa phương đầu tiên làm tốt
công tác này và có thể sẽ là một kiểu mẫu về công tác bảo tồn, bảo vệ và phát
huy giá trị đối với một di tích khảo cổ học quan trọng của đất nước. Chính vì vậy,
việc xây dựng Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu,
thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2023-2030” là hết sức
cần thiết, từ đó có những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp nhằm đưa Đồng Đậu thành một
trong di tích đặc biệt giá trị, có tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa không chỉ ở tỉnh
Vĩnh Phúc mà là của quốc gia dân tộc, góp phần gìn giữ bảo vệ và phát huy giá
trị văn hóa, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Vĩnh Phúc.
II. CĂN CỨ
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
- Đường lối chiến lược về phát
triển văn hóa của Đảng được khẳng định tại Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) về “Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị
quyết TW 9 (khoá XI) về “Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”;
- Kết luận số 76-KL/TW ngày
04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW9; Quyết định số
2215/QĐ-TTg ngày 24/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển
khai thực hiện Kết luận số 76- KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị;
- Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021;
- Luật Di sản văn hóa ngày 29
tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa
ngày 18 tháng 6 năm 2009;
- Luật Đất đai ngày 29/11/2013;
- Luật Xây dựng ngày 18/6/2014;
- Luật Du lịch ngày 09/6/2017;
- Luật Quy hoạch ngày
24/11/2017;
- Luật Đầu tư công ngày
13/6/2019;
- Luật Bảo vệ môi trường ngày
17/11/2020;
- Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xây
dựng ngày 17/6/2020;
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP
ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn
hóa;
- Nghị định số 166/2018/NĐ-CP
ngày 25/12/2018 của Chính phủ Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê
duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh
lam thắng cảnh;
- Quyết định số 1230/QĐ-TTg
ngày 15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát
huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025;
- Quyết định số 1909/QĐ-TTg
ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2030;
- Quyết định số 2026/QĐ-TTg
ngày 02/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình số hóa Di sản
văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030.
- Quyết định số
06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 4 năm 2000 của Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc xếp hạng cấp quốc gia di tích khảo cổ học
Đồng Đậu;
- Thông tư số
15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ phục hồi di tích;
- Nghị quyết số 15/NQ-TU ngày
12/12/2022 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng và phát triển
văn hóa con người Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững;
- Kế hoạch số 306/KH-UBND ngày
09/12/2021, của UBND tỉnh về Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030.
- Quyết định số 640/QĐ -UBND
ngày 23/3/2023 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề cương, nhiệm vụ xây dựng Đề
án “Bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, thị trấn Yên Lạc,
huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030”
III. ĐỐI
TƯỢNG VÀ PHẠM VI CỦA ĐỀ ÁN
1. Đối tượng thực hiện
- Di tích khảo cổ học Đồng Đậu,
thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc.
- Các di tích vùng đệm nằm kề
di tích Đồng Đậu gồm chùa Biện Sơn, đền, thành Gia Loan, thị trấn Yên Lạc, huyện
Yên Lạc.
2. Phạm vi áp dụng
- Không gian: Khu vực di tích Đồng
Đậu và di tích liên quan thuộc thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, bao
gồm các di tích khảo cổ học trên mặt đất và dưới lòng đất thuộc khu di tích Đồng
Đậu. Cảnh quan thiên nhiên, cây xanh tại khu vực phân bố của di tích Đồng Đậu.
- Thời gian: Từ năm 2023 đến
năm 2030.
Phần thứ Hai
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO VỆ, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH KHẢO
CỔ ĐỒNG ĐẬU
I. TỔNG
QUAN DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU
1. Vĩnh
Phúc - quê hương người Việt cổ
1.1. Vị trí địa văn hóa
Vĩnh Phúc trong tiến trình lịch sử dân tộc
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm ở trung
tâm Bắc bộ Việt Nam, nằm về tả ngạn, gần đỉnh tam giác châu Sông Hồng, phía bắc
giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía nam và
phía đông giáp thành phố Hà Nội.
Bao đời nay, Vĩnh Phúc luôn là
phên dậu phía tây bắc bảo vệ thủ đô Hà Nội. Theo cách nhìn dân gian, lấy Kinh
đô Thăng Long làm trung tâm, thì Vĩnh Phúc là một góc của Xứ Đoài - là một
trong tứ trấn xưa (Xứ Bắc, Xứ Nam, Xứ Đông, Xứ Đoài). Xứ Đoài là một vùng khá rộng
bao gồm đất tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Sơn Tây là vùng đất nằm 2 bên tả hữu ngạn
sông Hồng có dãy núi Tam Đảo và Ba Vì bao quanh. Vĩnh Phúc nằm ở góc Đông -
Đông Bắc của Xứ Đoài. Qua đó, có thể thấy vị trí trung tâm vô cùng quan trọng của
Vĩnh Phúc.
Trong tiến trình lịch sử, vùng
đất Vĩnh Phúc đã qua nhiều lần thay đổi và tên gọi. Ngược dòng lịch sử ta thấy:
Thời Hùng Vương, đất Vĩnh Phúc
nằm gọn trong bộ Văn Lang.
Thời An Dương Vương, đất Vĩnh
Phúc nằm trong bộ Mê Linh.
Từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII, do
phương Bắc đô hộ nên Vĩnh Phúc phần lớn nằm trong huyện Mê Linh, Chu Diên, Gia
Ninh và Tân Xương, Châu Phong.
Thời phong kiến tự chủ, đất
Vĩnh Phúc nằm trong các đạo, trấn khác nhau, phần thuộc Sơn Tây, phần thuộc
Thái Nguyên, phần thuộc Kinh Bắc.
Thời thuộc Pháp: Ngày 6-1-1890
toàn quyền Pháp ra nghị định thành lập đạo Vĩnh Yên; ngày 12-4-1891, toàn quyền
Đông Dương lại ra nghị định giải thể đạo Vĩnh Yên. Ngày 29-12-1899 toàn quyền Pháp
lập lại tỉnh Vĩnh Yên.
Ngày 6-10-1901, Chính phủ bảo hộ
ra nghị định thành lập tỉnh Phù Lỗ gồm đất huyện Yên Lãng, phủ Đa Phúc một phần
huyện Kim Anh và một phần huyện Đông Khê của tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 10-12-1903, tỉnh Phù Lỗ đổi
thành tỉnh Phúc Yên là tên ghép của 2 phủ Đa Phúc và Yên Lãng, tỉnh lỵ dời về
làng Tháp Miếu, thuộc thị xã Phúc Yên ngày nay.
Ngày 12- 2-1950, Quốc hội và
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra quyết định hợp nhất hai tỉnh Vĩnh
Yên, và Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc.
Tháng 3-1968, Quốc hội và Chính
phủ quyết định sáp nhập 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú.
Ngày 15-11-1996, Quốc hội lại
ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc có 9
đơn vị hành chính cấp huyện. Đó là các huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô,
Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc, thành phố Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tổng
diện tích tự nhiên là 1.236 km2, dân số: 1.197.600 người (năm 2022).
Nằm trọn trong dòng chủ lưu lịch
sử phát triển dân tộc từ thời đại Hùng Vương - An Dương Vương đến thời đại
Thăng Long - Đại Việt xuyên suốt đến thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, Vĩnh Phúc được
xem như là vùng “Địa linh nhân kiệt”, in đậm những dấu ấn văn hóa, lịch sử lâu
đời đồng hành qua các thời kỳ thăng trầm của quốc gia, dân tộc.
Từ khoảng một, hai vạn năm trước,
tại vùng đất Đôn Nhân (Sông Lô), kề sát với vùng đất Phú Thọ, những lớp người đầu
tiên từ vùng núi cao xuống khai phá vùng đồi gò gần sông suối, khai phá vùng đồi
gò đôi bờ tả hữu ngạn sông Lô, sông Hồng. Dấu tích cuộc sống của họ để lại được
các nhà khảo cổ định danh là văn hóa Sơn Vi. Minh chứng là những công cụ vạn
năng bằng đá cuội ghè đẽo dùng săn bắn, hái lượm để có lương thực, thực phẩm
duy trì cuộc sống và phát triển.
Vào khoảng 4000 năm trước, với
sự ra đời của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và nghề luyện kim đồng
thau, con người đã tiến dần xuống khai phá vùng đồng bằng phù sa cổ ven sông.
Trong hơn một ngàn năm từ khoảng 4000 năm đến 2700 năm, đã hình thành nên những
khu cư trú, mộ táng nổi tiếng không chỉ đối với Vĩnh Phúc mà là của cả đất nước
như: Gò Hội, Hải Lựu ở huyện Sông Lô; Nghĩa Lập, Lũng Hoà ở huyện Vĩnh Tường;
Gò Ngành ở huyện Bình Xuyên; Đồng Đậu, Đinh Xá, Gò Gai ở huyện Yên Lạc, v.v...
Đó là minh chứng cụ thể, sâu đậm về cội nguồn tổ tiên người Việt, những chủ
nhân đầu tiên của nền văn minh lúa nước - văn minh sông Hồng nổi tiếng, trong
tiến trình Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun, hình thành nên quốc gia Văn Lang
thời Hùng Vương dựng nước, đã góp phần xứng đáng của mình trong cuộc dựng xây đất
nước thuở ban đầu.
Trên lưu vực sông Hồng này, người
Vĩnh Phúc từ ngàn đời đã kết tụ những giá trị văn hóa dân gian "Đất
trăm nghề" xứ Đoài xưa: Gốm Hương Canh - Hiển Lễ, Mộc Bích Chu, rắn
Vĩnh Sơn, làng công thương kẻ Giang, kẻ Gốm, kẻ Cánh... Hàng trăm làng cổ Vĩnh
Phúc còn lưu giữ những giá trị văn hóa mang bản sắc độc đáo người Việt: Hú đáo
Lũng Ngoại, múa gậy Dịch Đồng, kéo song Hương Canh, cướp phết Bàn Giản, trống
quân Đức Bác, bơi chải Tứ Yên,... Hệ thống 1469 di tích lịch sử văn hoá gồm
đình, đền, chùa, miếu, tiêu biểu như: Tháp Bình Sơn, Tây Thiên, đình Thổ Tang,
đền Thính, đền đá Phú Đa, cụm đình Hương Canh, đình Bích Chu, Thủ Độ, Cam Giá…
là những thông điệp văn hóa đặc sắc, những giá trị di sản văn hoá vô giá của
người xưa để lại.
Trên đất Vĩnh Phúc sản sinh ra
những hào kiệt, danh nhân, nơi ghi dấu những chiến công oanh liệt, lẫy lừng góp
phần tô thắm vẻ vang truyền thống lịch sử dân tộc.
Ngay trong thời dựng nước,
trong mây mù huyền thoại đã có người phụ nữ thôn Đông Lộ, xã Đại Đình, quê vùng
chân núi Tam Đảo, có tên là Lăng Thị Tiêu giúp Hùng Duệ Vương đánh giặc giữ nước,
được sắc phong là “Tam Đảo sơn trụ quốc tối linh đại vương”, nhân dân tôn kính
lập nhiều đền miếu thờ phụng, trở thành tín ngưỡng mang bản sắc riêng của Vĩnh
Phúc, được ghi danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia - Tín ngưỡng thờ Mẫu
Tây Thiên.
Đến khoảng đầu công nguyên, dưới
cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhiều hào kiệt trên đất Vĩnh Phúc đã hưởng ứng
đi theo Hai Bà, cầm quân đánh giặc như bà Lê Thị Ngọc Trinh ở Vĩnh Tường, 5 anh
em con bà Triệu Thị Khoan Hoà ở Bình Xuyên…nhiều hào kiệt đã hy sinh anh dũng,
được nhân dân tôn sùng, lập đền thờ và các triều đại phong kiến phong tặng bằng
sắc.
Thế kỷ VI, Lý Bý lập nước Vạn
Xuân, khi giặc xâm lăng, ông đã anh dũng chống lại giặc và rút về hồ Điển Triệt
(nay thuộc vùng Tứ Yên, huyện Sông Lô) lập căn cứ kháng cự, được nhân dân tôn
kính lập đền thờ.
Nửa cuối thế kỷ X, Nguyễn Khắc
Khoan (trong thập nhị sứ quân) người Yên Lạc là một hào kiệt được phân phong
cát cứ vùng Tam Đái, dựng thành Gia Loan tại vùng Biện Sơn, là người mưu lược,
có nhiều việc làm được lòng dân, nên ông được dân suy tôn lên làm minh chủ, sau
được nhân dân trong vùng vẫn tôn thờ lập đền trên nền đất của quê nhà.
Thời Trần, trong các cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên Mông, với khí thế Đông A toàn dân ta nhất tề chống giặc.
Trên đất Vĩnh Phúc còn lưu truyền câu chuyện 7 anh em con ông Lỗ Trọng đã đánh
bại quân Nguyên cố thủ ở làng Nhật Chiêu, Yên Lạc, chém hơn 1000 đầu giặc, được
vua Trần Thái Tông phong tước Đại Vương; có trận đánh Bình Lệ Nguyên diễn ra tại
Hương Canh, Bình Xuyên đích thân do vua Trần Thái Tông chỉ huy đánh chặn giặc tại
cửa ngõ tây bắc kinh thành Thăng Long.
Trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh, Trần Nguyên Hãn, hậu duệ nhà Trần. Sinh ra và lớn lên ở Sơn Đông - Lập
Thạch, sau nhiều năm nung nấu, tìm kế giết giặc, đã tìm về Lam Sơn tụ nghĩa dưới
trướng Lê Lợi, là tướng tài trong các chiến thắng Đông Quan, Xương Giang lẫy lừng,
ông được phong chức Tả Tướng Quốc. Nhân dân lập đền thờ ông ở quê hương và ông
trở thành vị phúc thần của cả vùng Lập Thạch.
Thế kỷ XVIII, người dân Vĩnh
Phúc luôn nhắc đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, chiêu tập những người
dân cùng khổ lập căn cứ ở chân Tam Đảo chống lại sự áp bức của triều đình Lê -Trịnh.
Cùng với hào kiệt, các bậc khoa
bảng nơi đây đã góp thêm làm cho đất Vĩnh Phúc trở thành "địa linh".
Thống kê từ khoa thi thời Lý năm 1124 đến khoa thi 1889 thời Nguyễn, Vĩnh Phúc
có 86 bậc đại khoa. Trong đó có những gia đình có 2 đến 3 anh em hoặc cha con
cùng đậu tiến sỹ, có nhiều làng xã có truyền thống hiếu học, với nhiều bậc khoa
bảng như xã Sơn Đông có tới 13 vị tiến sỹ, xã Phú Xuân có 8 vị tiến sỹ, Minh
Tân có 5 vị tiến sĩ...
Trong cuộc đấu tranh chống sự
cai trị của thực dân Pháp, Vĩnh Phúc cũng đã có nhiều chí sỹ, chiến sỹ đứng lên
tổ chức khởi nghĩa như Nguyễn Thái Học, Trịnh Văn Cấn - tuy bị giặc Pháp dìm
trong bể máu nhưng việc làm của họ đã được sử sách ghi danh, nhân dân ghi nhận,
tôn vinh. Và người cộng sản kiên trung bất khuất Lê Xoay, người đứng đầu ban
cán sự Đảng liên tỉnh Vĩnh Yên - Phúc Yên một thời đã hy sinh anh dũng không
lâu trước ngày Cách mạng tháng Tám.
Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ nhiều người con Vĩnh Phúc đã nêu những tấm gương chói lọi cả dân
tộc đều biết như liệt sỹ Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, liệt sỹ Nguyễn
Viết Xuân với lời hô bất hủ “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” - và Vĩnh Phúc còn biết
bao nhiêu cá nhân anh hùng, tập thể anh hùng, bà mẹ anh hùng cống hiến, hy sinh
vì Tổ quốc.
Và trong thời đổi mới hôm nay,
với những phẩm chất đặc trưng “tiên phong, sáng tạo, khát vọng, đổi mới Vĩnh
Phúc đang có nhiều phong trào thi đua rầm rộ về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh để quyết tâm xây dựng Vĩnh Phúc thành một tỉnh giàu có và
phồn vinh nhất ở miền Bắc nước ta như lời dạy của Hồ Chủ tịch trong dịp Người về
thăm tỉnh.
1.2. Dấu tích người Việt
cổ định cư lâu dài trên đất Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc còn bảo lưu dấu ấn thời
Hậu kỳ Đá cũ, mang đặc trưng văn hoá Sơn Vi và các nền văn hóa thời đại Kim khí
sau này.
- Các di tích thuộc Hậu kỳ Đá
cũ - văn hóa hóa Sơn Vi. Năm 1983, các nhà khảo cổ đã khảo sát các đồi gò ở
phía tả ngạn sông Lô. Tại xã Đôn Nhân tại các đồi gò xã Đôn Nhân, các nhà khảo
cổ đã quan sát thấy nhiều bãi cuội quartzit - nguyên liệu chế tác công cụ của
người Sơn Vi. Tại xã Hải Lựu, khu vực Gò Đồn, cách bờ sông Lô khoảng chừng 3km
đã tìm thấy một công cụ hình núm cuội, đặc trưng cho văn hoá Sơn Vi. Đầu năm
2000, tại xã Đôn Nhân, phát hiện được một số công cụ cuội được gia công từ một
mảnh tước cuội lớn, có nhiều vết ghè nhỏ tu chỉnh ở rìa lưỡi.
- Các di tích thời tiền Hùng
Vương (gồm các giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun). Đây là giai
đoạn văn hoá phát triển rực rỡ nhất trên đất Vĩnh Phúc. Di tích phát hiện được
không những nhiều, mà hiện vật thu lượm được cũng cực kỳ phong phú đa dạng. Thống
kê cho thấy có hơn 20 di tích được phát hiện.
+ Di chỉ Gò Đặng thuộc xã Đôn
Nhân, huyện Sông Lô: Di tích có diện tích khoảng 2000 m2, và cách
sông Lô khoảng 300m. Di tích phát hiện từ những năm 1960. Tầng văn hoá khoảng
0,50m, là loại đất đồi có nhiều sỏi. Hiện nay, trên di tích đã xây dựng trường
học, nhà dân, trồng cây nên tầng văn hoá bị đào xới nghiêm trọng, làm xuất lộ mảnh
gốm thô, rìu đá, vòng đá, bàn mài trên mặt đồi.
+ Di chỉ Gò Sỏi thuộc xã Đôn
Nhân, huyện Sông Lô, cách Gò Đặng khoảng 200m. Di tích nằm ở sườn một quả đồi
thấp rộng khoảng 2000m2, phát hiện trong cuộc điều tra đầu năm 2000.
Tầng văn hoá ở đây khoảng 0,50m, phát hiện được một số rìu tứ giác bằng đá
bazan, bàn mài và mảnh gốm thô.
+ Di chỉ Gò Hội thuộc thôn Đồng
Xoi, xã Hải Lựu, huyện Sông Lô. Di tích nằm trên cánh đồng trồng màu, cách sông
Lô khoảng 300m. Di tích được phát hiện đầu năm 2000, rộng khoảng 2ha và đã được
thám sát, khai quật năm 2002 và 2003. Tầng văn hoá dày khoảng 0,50m. Qua khai
quật đã phát hiện được nhiều mảnh gốm, bàn mài, rìu đá.
+ Di chỉ Nghĩa Lập nằm trên
cánh đồng thôn Nghĩa Lập, xã Nghĩa Hưng, huyện Vĩnh Tường, được phát hiện năm
1962, đã qua 4 lần thám sát và khai quật vào các năm 1963, 1967, 1968, 2006. Di
chỉ rộng khoảng 26.000m2, nằm trên doi đất cao khoảng l,20m có tên
là gò Chùa, cách sông Lô khoảng 4 km. Tầng văn hoá dày khoảng l,50m song không
đều, phía bắc tương đối dày, mỏng dần về phía nam, là loại đất màu xám nâu hoặc
xám đen. Qua các lần khai quật, đã phát hiện được rất nhiều di tích, di vật, phản
ánh một cách sinh động đời sống của cư dân Việt cổ thời kỳ văn hoá Phùng
Nguyên. Đặc biệt, năm 2006 đã phát hiện bộ di cốt người văn hoá Phùng Nguyên,
hiện đã được đưa về bảo quản, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Di chỉ Lũng Hoà, thuộc xã
Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường. Di chỉ cao hơn các ruộng lúa xung quanh khoảng 2m,
phát hiện năm 1963 và cũng năm đó đã đào 3 hố thám sát với diện tích 3m2.
Từ đó đến nay, di chỉ Lũng Hoà đã qua 4 lần khai quật. Các cuộc khai quật cho
thấy Lũng Hoà là một di chỉ cư trú, đồng thời là một khu mộ táng của văn hoá
Phùng Nguyên. Tầng văn hoá tương đối mỏng, chỉ khoảng 0,40m, là loại đất sét
pha cát có màu xám đen, chứa nhiều gốm thô và hiện vật đá. Ở đây đã phát hiện
được một khu mộ táng lớn văn hoá Phùng Nguyên, là những ngôi mộ đất được chôn
theo hướng tây bắc - đông nam. Với những gì đã phát hiện được, Lũng Hoà đáng được
xem là một di tích quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với việc tìm hiểu lịch sử
dân tộc thời Tiền Đông Sơn.
+ Di chỉ Đồng Hương thuộc thôn
Hương Viên, thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, được phát hiện năm 1978. Di chỉ
chưa qua thám sát và khai quật, quan sát qua các vách mương thấy tầng văn hoá
tương đối mỏng, chỉ dày khoảng 0,50m là loại đất sét pha cát màu xám. Những cuộc
điều tra ở đây đã thu lượm được một số rìu đá tứ giác và nhiều mảnh gốm thô,
rìu và đồ gốm ở đây rất giống với hiện vật ở Lũng Hoà.
+ Di chỉ Ma Cả thuộc thôn
Phương Viên, thị trấn Thổ Tang. Di chỉ nằm trên cánh đồng trồng màu bằng phẳng,
có diện tích khoảng 1ha. Tầng văn hoá dày khoảng 0,50m - 0,70m nằm sâu dưới lớp
đất canh tác khoảng 0,20m - 0,40m. Qua điều tra đã thu lượm được công cụ đá, mảnh
gốm và dấu vết mộ táng.
+ Di chỉ Gò Mát ở phía tây bắc
thôn Lũng Ngoại, xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, phát hiện năm 1972 và đã đào 1
hố thám sát nhỏ. Tầng văn hoá khoảng 0,25m, nằm dưới lớp đất canh tác dày
0,20m, là loại đất sét pha cát, có nhiều rỉ sỏi màu xám đen, tơi.
+ Di chỉ Đồng Đậu thuộc thị trấn
Yên Lạc, huyện Yên Lạc. Di tích nằm trên một gò đất cao có diện tích khoảng
85.000 m2, tầng văn hoá dày trên 3m, nếu tính cả các hố đất đen thì
có chỗ sâu tới trên 5m, là loại đất sét pha cát có màu sắc khác nhau như xám
đen, xám trắng, xám vàng theo từng lớp. Hiện vật ở Đồng Đậu nhiều, phong phú đa
dạng, cho thấy một quá trình biến diễn văn hoá từ khoảng 4000 năm đến 2700 năm
trước trên lưu vực sông Hồng với các giai đoạn phát triển tiếp nối nhau: lớp dưới
cùng là giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên muộn, lớp giữa là giai đoạn văn hoá Đồng
Đậu, tiếp đến là giai đoạn văn hoá Gò Mun và lớp trên cùng là văn hoá Đông Sơn.
+ Di chỉ Gò chùa Biện Sơn thuộc
thị trấn Yên Lạc, cách Đồng Đậu chỉ vài chục mét về phía đông. Di tích được
phát hiện năm 1987 trong dịp khai quật lần thứ 5 di chỉ Đồng Đậu. Hiện vật xuất
lộ ở góc tây bắc gò chứa công cụ đá và mảnh gốm.
+ Di chỉ Gò Mả Hòn nằm trên gò
đất cao giữa cánh đồng thôn Tri Chỉ, xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc. Di tích được
phát hiện năm 1979. Tầng văn hoá dày khoảng 0,20m - 0,40m. Tại đây đã thu được
một số rìu đá mài tứ giác, mảnh gốm.
+ Di tích Quán Đôi thuộc xã Đồng
Cương, huyện Yên Lạc được phát hiện vào năm 1979. Tầng văn hoá ở đây có 2 lớp:
lớp trên chứa nhiều gốm vỡ thời phong kiến, lớp dưới là loại đất sét pha cát chứa
nhiều mảnh gốm thô và rìu đá.
+ Di chỉ Gò Gai ở thôn Cốc Lâm,
xã Bình Định, huyện Yên Lạc, được phát hiện vào năm 1979 và khai quật năm 1981.
Tầng văn hoá dày từ 0,20m - 0,70m, khai quật đã thu được hiện vật đá, gốm.
+ Di chỉ Tháp Miếu thuộc xóm Gạo,
thôn Tháp Miếu, thành phố Phúc Yên. Di tích được phát hiện từ năm 1967, phân bố
trên gò đồi thấp, có diện tích khoảng 1.500m2, do nhân dân làm nhà,
đào hào rãnh nên tầng văn hoá bị xáo trộn. Quan sát vách hào thấy tầng văn hoá
dày khoảng 0,40m, là loại đất sét pha cát màu xám đen trong chứa nhiều mảnh gốm
thô mỏng trang trí hoa văn khắc vạch thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên.
+ Di chỉ Gò Ngành thuộc thôn Nội
Phật, xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, được phát hiện năm 1978. Hiện nay nhân dân
trồng màu và cấy lúa nên phần trên tầng văn hoá bị xáo trộn. Di chỉ rộng khoảng
200m2, tầng văn hoá dày khoảng 0,35m, qua các đợt điều tra ở đây đã
thu được rìu đá, mảnh gốm.
+ Di tích Suối Trại thuộc thị
trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo , được phát hiện năm 1974 trên một gò đất thấp, tầng
văn hoá không thật rõ ràng. Ở đây đã thu lượm được một số rìu tứ giác kích thước
nhỏ bằng đá bazan và nhiều mảnh gốm thô.
(Phụ
lục 1)
- Các Di tích thời Hùng Vương dựng
nước (Văn hoá Đông Sơn)
+ Di chỉ Hương Ngọc, xã Hương
Sơn, huyện Bình Xuyên phát hiện được các hiện vật: Rìu đá, vòng đá lớn, hoa
tai, dao đồng, giáo đồng, nhiều gốm thô.
+ Di chỉ Ngõ Bút, xã Nguyệt Đức,
huyện Yên Lạc. Tầng văn hóa dày 0,40-0,50m, phát hiện các hiện vật gốm, dọi xe
sợi, rìu đá, 1 rìu đồng xòe cân.
+ Di chỉ Đồng Cốc, xã Nguyệt Đức,
huyện Yên Lạc. Tầng văn hóa 0,30 - 0,40m, phát hiện đồ gốm thô kiểu Đông Sơn.
+ Di chỉ Đồng Hai Cày, xã Nguyệt
Đức, huyện Yên Lạc. Tầng văn hóa dày 0,30, phát hiện gốm thô kiểu Đông Sơn, rìu
xéo gót vuông.
+ Ngoài ra tại các địa điểm: Vĩnh
Sơn, Nghĩa Lập (Vĩnh Tường), Đôn Nhân (Sông Lô), Đạo Trù (Tam Đảo) phát hiện một
số hiện vật như trống đồng, rìu đồng, đồ gốm thuộc giai đoạn văn hoá Đông Sơn.
(Phụ
lục 2)
2. Di
tích khảo cổ Đồng Đậu - quá trình phát hiện và nghiên cứu
2.1. Vị trí, địa điểm
phân bố di tích Đồng Đậu
Đồng Đậu xưa kia thuộc xã Vĩnh
Mỗ, tên Nôm là Kẻ Mỏ, rồi đổi thành xã Minh Tân, ngày nay là thị trấn Yên Lạc.
Những ghi chép trong sử sách cũng như những di tích còn lưu lại trên mặt đất và
trong lòng đất cho thấy khu vực Đồng Đậu - Yên Lạc cho biết từ xa xưa vùng này
đã nằm sát ngay trung tâm kinh tế chính trị của đất nước qua nhiều thời kỳ và
cũng là một trung tâm văn hoá rực rỡ. Ngay từ thời dựng nước đầu tiên, khu vực
này nằm trong địa bàn gốc của nước Văn Lang. Đến thời thuộc Hán vùng này nằm
trong huyện Mê Linh, Hán Vũ Đế đã từng đặt quận trị, đô uý trị, châu trị ở vùng
này. Hai Bà Trưng khởi nghĩa thành công đóng đô tại làng Hạ Lôi thuộc huyện Mê
Linh thì vùng này nằm sát gần ngay đất đế đô. Đến thời Đường vùng này thuộc đất
Phong Châu.
Mở đầu thời kỳ độc lập dân tộc,
Nguyễn Khắc Khoan, một sứ quân cuối thời Ngô đã chọn đất quê hương làm căn cứ,
đóng quân tại Biện Sơn - chính đất Gò Đậu. Tại đây, nay vẫn còn đền thờ ông với
tên “Nguyễn Gia Loan từ”, cách di tích Đồng Đậu chỉ vài chục mét. Có thể nói,
Gò Đậu - Biện Sơn - sông Loan là biểu trưng linh khí của địa phương, gắn bó mật
thiết với cuộc sống của con người nơi đây.
Vĩnh Mỗ cũng là đất khoa bảng.
Qua các đời dưới triều Lê, ngôi làng này đã sản sinh ra 5 vị tiến sĩ. Có gia
đình cả hai ông cháu đều đậu tiến sĩ như hai ông cháu Dương Tĩnh và Dương Đôn
Cương. Hay cùng khoa thi Đinh Mùi, làng Vĩnh Mỗ có hai ông Phạm Du và Dương Đôn
Cương cùng đỗ tiến sĩ.
Vùng đất này vốn là phủ trị của
lộ Tam Đái từ thế kỷ XIII, về sau là huyện lỵ Yên Lạc - là vùng đất đai phì
nhiêu màu mỡ, dân cư đông đúc, giàu có. Dân gian có câu “nam Châu, bắc Dũng,
đông Kỳ, tây Lạc” là ý muốn nói tỉnh Nam Định có huyện Châu Ninh, tỉnh Bắc
Giang có huyện Yên Dũng, xứ Đông có huyện Tứ Kỳ, tỉnh Sơn Tây có huyện Yên Lạc
là các vùng giàu có trong tứ trấn.
Đồng Đậu, vốn có tên là Gò Đậu,
là một gò đất nổi cao nằm ở thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, ở toạ độ
22°25” vĩ độ Bắc, 114°71’ 88” kinh độ Đông. Di tích Đồng Đậu cách thành phố
Vĩnh Yên khoảng 8,5km về phía Nam theo đường chim bay và cách trung tâm thủ đô
Hà Nội khoảng 50km. Đường giao thông liên huyện Bình Xuyên (Thanh Lãng) - Yên Lạc
- Vĩnh Tường chạy sát phía Nam di tích. Từ Vĩnh Yên và Hương Canh đều có đường
cái lớn đến Đồng Đậu. Gò Đồng Đậu có diện tích khoảng 85.000m2, từ
Nam đến Bắc rộng khoảng 215m, từ Đông sang Tây dài khoảng 400m. Đỉnh gò cao
13,6m so với mặt nước biển và cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 10m. Đỉnh gò
tương đối bằng phẳng, phía Đông cao, phía Tây mặt gò dốc thoải và thấp dần.
Đây là khu vực có nhiều gò đất
tự nhiên. Sát gò Đồng Đậu có gò đất nhỏ và thấp hơn, trên có tầng văn hoá khảo
cổ và chùa Biện Sơn, được các nhà khảo cổ gọi là Gò Đậu Nhỏ. Nhìn tổng quan địa
thế toàn khu vực, thế đất mạn Tây và Tây Bắc di tích Đồng Đậu cao ráo, nối tiếp
với vùng đồi thấp đất đỏ laterit đã được khai phá san ủi hình thành những xóm
làng trù phú đông đúc, mạn Đông giáp vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước.
Vùng đồng trũng này có diện tích khá lớn, về phía Bắc có thể thông với đầm Vạc,
về phía Nam xưa kia có thể thông với sông Hồng cách di tích Đồng Đậu khoảng
8,5km theo đường chim bay. Dòng sông này trong thời cổ có vai trò lớn trong quá
trình hình thành các đầm hồ, đồng bằng châu thổ khu vực này. Ngay sát chân gò Đồng
Đậu, hiện vẫn còn nhiều ao đầm, luồng lạch mà nhân dân địa phương gọi là đầm Đậu,
ao Náu, ao Thích, chằm Quan, và có thể là dấu vết của sông Loan xưa. Xa hơn nữa
là những đầm Rưng, đầm Yên Phương, đầm Vạc, hồ Đồng Văn, hồ Đồng Cương... Phía
Đông và Đông Nam di tích, cách khoảng 4km theo đường chim bay, còn có các chi
lưu của dòng sông Cà Lồ, vốn xưa thông với sông Hồng trong địa phận huyện Yên Lạc.
Qua đó có thể thấy Đồng Đậu nằm
ở vị trí ven rìa đồng bằng Bắc Bộ, nơi giao tiếp giữa vùng đồi đất đỏ laterit
và vùng bồi tụ của phù sa châu thổ sông Hồng. Một số nhận định quá trình hình
thành địa hình khu vực Đồng Đậu - Yên Lạc gắn chặt với trầm tích sông hồ đầm lầy.
Đối với người Việt cổ đang trên quá trình rời bỏ vùng núi rừng tiến về chinh phục
khai phá vùng châu thổ đồng bằng, sông Hồng màu mỡ thì đây là một điểm cư trú
lý tưởng, một nơi “đất lành chim đậu”.
2.2. Quá trình phát hiện,
khai quật và nghiên cứu di tích Đồng Đậu
* Quá trình phát hiện và
khai quật
Di chỉ khảo cổ học được phát hiện
vào tháng 2 năm 1962 do các cán bộ của Ty Văn hoá Vĩnh Phú và Đội khảo cổ thuộc
Bộ Văn hoá (nay thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam) theo sự chỉ dẫn của nhân
dân. Từ khi được phát hiện tới nay, di tích Đồng Đậu đã được các cơ quan nghiên
cứu khảo cổ khai quật 7 lần, trong đó Viện khảo cổ học khai quật 3 lần, Viện Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) khai quật 2 lần, Bộ
môn Khảo cổ học thuộc Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn khai quật
1 lần, Hội Khảo cổ học Việt Nam 1 lần. Ngoài ra, cán bộ của các cơ quan nghiên
cứu còn tổ chức nhiều đợt điều tra, khảo sát tại di tích.
- Đợt khai quật lần thứ nhất:
Tiến hành từ tháng 11 năm 1965 tới tháng 3 năm 1966, do Đội khảo cổ thuộc Bộ
Văn hoá tiến hành khai quật di tích Đồng Đậu với tổng diện tích 200m2.
- Đợt khai quật lần thứ hai: Từ
cuối tháng 4 tới trung tuần tháng 6 năm 1967 do Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
(nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) tiến hành. Hố khai quật có diện tích là 50m2.
- Đợt khai quật lần thứ ba: Từ
tháng 12 năm 1968 đến tháng 5 năm 1969, do Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành.
Diện tích 300m2.
- Đợt khai quật lần thứ tư: Từ
tháng 3 đến tháng 5 năm 1984, do Ban kim khí thuộc Viện Khảo cổ học tiến hành.
Diện tích khai quật là 117m2.
- Đợt khai quật lần thứ năm:
Khai quật tháng 3 năm 1987, do Bộ môn Khảo cổ học, thuộc Khoa Lịch sử, Đại học
Tổng hợp Hà Nội nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Sở Văn
hoá Thông tin, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú tiến hành. Diện tích 15m2.
- Đợt khai quật lần thứ sáu: Từ
tháng 11 tháng 12 năm 1999, do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Sở Văn
hoá, Thông tin, Thể thao và Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành. Tổng diện tích
khai quật là 70m2.
- Đợt khai quật lần thứ bảy: Tiến
hành năm 2010, do Hội Khảo cổ học Việt Nam, Khoa Sử Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Hà Nội phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tiến hành
khai quật. Tổng diện tích khai quật 50 m2.
* Các công trình nghiên cứu
về di tích Đồng Đậu
Trên cơ sở khối tư liệu thu thập
được từ các đợt khai quật, thám sát, nhiều công trình nghiên cứu về di tích Đồng
Đậu đã được công bố cuốn sách Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu do 2 tác giả
Lê Xuân Diệm và Hoàng Xuân Chinh viết, xuất bản năm 1983, dày trên 200 trang là
công trình nghiên cứu mang tính tổng hợp đầu tiên về di tích khảo cổ học này.
Cuốn sách đã tập hợp, sắp xếp, hệ thống tương đối đầy đủ những tư liệu thu thập
được chủ yếu từ cuộc khai quật Đồng Đậu lần thứ nhất và lần thứ ba cũng như những
kết quả nghiên cứu về di tích Đồng Đậu trong 20 năm kể từ khi di tích này được
phát hiện.
Ngoài cuốn sách trên, cho tới
nay đã có 62 bài nghiên cứu về di tích Đồng Đậu, trong đó có 10 bài viết đăng
trên Những phát hiện mới về Khảo cổ học, 12 bài đăng trên tạp chí Khảo
cổ học, 1 bài trong tuyển tập Hùng Vương dựng nước, 24 bài trong Kỷ
yếu hội thảo Văn hoá Đồng Đậu - 40 năm phát hiện và nghiên cứu, 15 bài
đăng trên các tạp chí chuyên ngành của viện, cơ quan nghiên cứu chuyên ngành ở
trung ương và địa phương. Có thể nói, Đồng Đậu là một trong số những di
tích có nhiều công trình nghiên cứu nhất. Nội dung các công trình nghiên cứu đề
cập tới các vấn đề khác nhau. Bên cạnh các bài viết mang tính tổng hợp nhằm giới
thiệu các kết quả khai quật, thám sát, có một số bài chuyên khảo về các vấn đề
như địa chất khu vực Đồng Đậu, vết tích động, thực vật, cổ nhân, mộ táng, gốm,
nghề đúc đồng, đời sống kinh tế - xã hội, công tác bảo quản di cốt, quy hoạch,
bảo tồn di tích Đồng Đậu, công tác trưng bày các di vật ở các bảo tàng... Ngoài
các công trình nghiên cứu trên, năm 2009 có 1 luận văn Thạc sĩ về Khảo cổ học
đã tổng hợp, hệ thống và phân loại toàn bộ tư liệu về di tích Đồng Đậu.
Do giá trị văn hoá lịch sử đặc
biệt của di tích Đồng Đậu, hầu hết các công trình nghiên cứu trong nước và quốc
tế viết về thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng và văn hoá Đồng Đậu đều đề cập
với các cấp độ thông tin khác nhau đến cấu trúc địa tầng, di tích, di vật...
phát hiện được ở di tích này. Nhờ đó, di tích Đồng Đậu đã được nhiều nhà nghiên
cứu trong nước và quốc tế biết đến. Các công trình nghiên cứu đã góp phần làm
rõ nhiều vấn đề cơ bản về di tích Đồng Đậu như diễn biến tầng văn hoá, tính chất
di tích, đặc trưng di tích di vật, niên đại, chủ nhân, đời sống kinh tế - xã hội
của cư dân, môi trường sống...
2.3. Đặc trưng của di
tích Đồng Đậu
- Đồng Đậu là di tích khảo cổ
có quy mô rộng lớn nhất trong số các di tích khảo cổ thời kỳ dựng nước ở nước
ta, đã biết trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Di tích ước tính rộng
85.000m2, có chiều Đông - Tây dài khoảng 400m, chiều Bắc - Nam rộng
khoảng 215m, vùng lõi gần 40.000m2.
- Đồng Đậu là di tích khảo cổ
có tầng văn hoá vào loại dày nhất, tầng văn hoá ở đây dày trung bình khoảng 3 -
3,5m. Nếu tính cả độ sâu của những huyệt đất đào sâu xuồng sinh thổ thì có nhiều
nơi từ trên mặt xuống tới đáy hố huyệt sâu tới trên dưới 5m. Rõ ràng với độ dày
và độ sâu này không mấy di tích khảo cổ ở ta có được.
- Di tích Đồng Đậu là một di
tích tiêu biểu nhất của thời kỳ dựng và giữ nước đầu tiên của dân tộc bởi đây
là một di tích có lịch sử diễn biến văn hoá lâu đời, hiếm có trải suốt từ thời
kỳ văn hoá Phùng Nguyên, qua văn hoá Đồng Đậu, văn hoá Gò Mun đến văn hoá Đông
Sơn. Di tích còn có cả những di tích lò nung gốm cổ của người Việt cổ có niên đại
khoảng 10 thế kỷ sau Công nguyên và một số các di tích lịch sử khác. Có thể nói
đây là một di tích khảo cổ duy nhất trong thời kỳ dựng nước có diễn biến văn
hoá lâu dài như vậy ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (cũng có địa phương có di tích như
vậy nhưng quy mô và hiện trạng bảo vệ không được như di tích Đồng Đậu. Đó là di
tích Đình Chàng ở Hà Nội).
- Đồng Đậu là di tích khảo cổ
phát hiện được nhiều loại hình di tích nhất như bếp lửa, hố đào, lò nấu đồng, nền
đất vàng, mộ táng,... Những di tích này không những nhiều về số lượng mà kiểu
dáng cũng rất đa dạng, có mặt và thay đổi ở các độ sâu khác nhau. Đây cũng là
hiện tượng không mấy di tích khảo cổ có được. Qua các cuộc khai quật ở đây đã
phát hiện được nhiều di tích quan trọng. Đó là các nền đất sét vàng mịn dày từ
0,15 đến 0,20m, rộng hẹp to nhỏ khác nhau ở các lớp phía trên, rất có thể đây
là các nền nhà. Ớ lớp văn hoá dưới cùng lại có nhiều huyệt đất hình vuông hay
chữ nhật có cùng phương hướng, vách thẳng đáy phẳng, có nhiều huyệt cắt xén
nhau trong chứa đất đen có nhiều mảnh gốm vỏ. Ở đây cũng phát hiện được nhiều bếp
than tro lớn, dày trong đó có nhiều hạt gạo cháy và xương răng thú vật. Thỉnh
thoảng ở các lớp trên bắt gặp nhiều cục đất nung xếp thành đống mà một số người
cho là có liên quan đến lò luyện đồng. Ở đây cũng đã phát hiện được 3 ngôi mộ,
một mộ ở lớp trên thuộc giai đoạn văn hoá Gò Mun, 2 mộ ở lớp dưới cùng, trong
đó một mộ xương cốt còn khá nguyên vẹn, tay phải còn đeo một vòng đá mặt cắt
ngang hình tam giác, mộ kia không còn xương cốt nhưng tuỳ táng 3 chiếc chạc gốm
nguyên vẹn cùng một số nồi, bát bị vỡ.
- Với quy mô to lớn của di
tích, trữ lượng văn hoá phong phú, có thể nói đây là một trung tâm tụ cư lớn
vào bậc nhất ở khu vực vùng đất tổ. Đồng thời nơi đây cũng là một trung tâm chế
tác đồng thau lớn nhất trong lịch sử luyện kim của người Việt thời dựng nước tạo
nên những bước đột phá cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ các cộng đồng
cư dân nguyên thuỷ ở khu vực đồng bằng và trung du Bắc Bộ, thúc đẩy quá trình
thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam: nhà nước Văn Lang của
các vua Hùng.
- Đồng Đậu là di tích khảo cổ
thu được hiện vật phong phú đa dạng nhất về chất liệu, số lượng và kiểu dáng.
Hiện nay, tuy mới chỉ khai quật khoảng 800m2 nhưng các di tích, di vật
đã xuất hiện vô cùng phong phú như đồ đá, đồ đồng, đồ gốm, đồ xương, bếp lửa, nền
đất vàng, lò nấu đồng, mộ táng… riêng đồ xương thì chưa có một di tích khảo cổ
nào có số lượng cũng như kiểu dáng có thể so sánh được với Đồng Đậu, phản ánh một
cách sinh động lịch sử phát triển của cư dân Đồng Đậu.
Về đồ đá, gồm số lượng lớn rìu
bôn, hoa tai, hạt chuỗi, lưỡi qua đá, mảnh khuôn đúc…
(Phụ
lục 3)
Về đồ gốm, ngoài các loại đồ đựng
như nồi, bình, bát, các loại dọi xe sợi, bi gốm, còn có nhiều loại chạc gốm to
nhỏ kiểu dáng khác nhau, nhiều tượng trâu bò, gà, tượng đầu người bằng đất nung
độc đáo.
(Phụ
lục 4)
Về đồ đồng, gồm rìu xoè cân,
rìu chữ nhật, mũi nhọn, lưỡi câu, mũi tên, mũi lao: búa, dũa…
(Phụ
lục 5)
Về đồ xương sừng có thể nói Đồng
Đậu là di tích phát hiện được nhiều đồ xương sừng nhất nước ta; không những nhiều
về số lượng mà còn phong phú về loại hình, gồm các loại mũi tên, mũi nhọn, mũi
lao, mũi lao có ngạnh, và đặc biệt có loại được mài nhẵn thành hình chân ngựa,
hình tù và.
(Phụ
lục 6)
- Di tích Đồng Đậu phản ánh một
quá trình biến diễn văn hoá từ khoảng 4000 năm đến 700 năm trước trên lưu vực
sông Hồng với 4 giai đoạn phát triển tiếp nối nhau: lớp dưới cùng là giai đoạn
văn hoá Phùng Nguyên muộn, lớp giữa là giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, văn hoá Gò
Mun và lớp trên cùng là giai đoạn văn hoá Đông Sơn. Chính nhờ tầng văn hoá Đồng
Đậu mà các nhà khảo cổ có được những tiêu chí để sắp xếp các di tích tiền Hùng
Vương trên lưu vực sông Hồng vào một trật tự ổn định.
Với những đặc trưng nêu trên,
có thể thấy rằng: Di chỉ Đồng Đậu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc
tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt cũng như quá trình hình thành nhà nước đầu tiên
của dân tộc.
2.4. Giá trị của di tích
Đồng Đậu
- Giá trị lịch sử - văn hoá
Di tích khảo cổ học Đồng Đậu nằm
ở trung tâm của bộ Văn Lang xưa thời các vua Hùng. Cư dân Đồng Đậu cùng với
hàng trăm di tích khác trong khu vực là bằng chứng một thời tụ cư đông đúc ở buổi
đầu thời dựng nước của dân tộc ta. Trong tâm thức của mỗi người dân đất Việt,
đã có nhiều những truyền tích lưu truyền từ đời này sang đời khác về một nhà nước
Văn Lang có tuổi 4 ngàn năm. Những truyền tích đó đã được minh chứng cụ thể hơn
thông qua các vết tích vật chất trong tầng văn hoá, các mộ táng... của thời kỳ
đó, trong đó có di tích Đồng Đậu. Đồng Đậu đã góp phần vô cùng quan trọng để sắp
xếp, xác định tiến trình phát triển lịch sử trong giai đoạn tan rã của các công
xã nguyên thuỷ tiến tới thành lập nhà nước đầu tiên của người Việt cổ trên lưu
vực sông Hồng. Có thể nói, từ đây lịch sử thời dựng nước đầu tiên của dân tộc
đã từ dã sử huyền thoại đi vào chính sử.
Di tích Đồng Đậu chứa đựng và
lưu tồn dấu tích của bốn giai đoạn phát triển văn hóa từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu,
Gò Mun đến Đông Sơn trên cùng một địa điểm. Đây là tư liệu vô cùng quan trọng
chứng minh rằng văn hoá Đông Sơn có nguồn gốc bản địa, nó được phát triển trên
nền tảng vững chắc từ các nền văn hoá trước đó mà khởi nguồn từ văn hoá Phùng
Nguyên qua văn hoá Đồng Đậu (giữa) đến văn hoá Gò Mun và cuối cùng là văn hoá
Đông Sơn. Nó như là một "tấm bia" lịch sử ghi lại quá trình tồn tại
và vươn lên từ thấp đến đỉnh cao của nó ở buổi đầu thời dựng nước của dân tộc
ta. Di tích Đồng Đậu là một minh chứng một cách thuyết phục nhất về quá trình
chuyển biến văn hoá 4 giai đoạn trong thời kỳ dựng nước. Vì vậy bảo vệ, bảo tồn
di tích văn hoá Đồng Đậu sẽ tạo nên một điểm nhất cơ bản cho việc phát huy các
giá trị lịch sử, văn hoá dân tộc trên đất Vĩnh Phúc, tăng cường quảng bá và giới
thiệu các giá trị tinh thần vô giá của vùng đất tổ.
- Giá trị khảo cổ học
Những phát hiện ở Đồng Đậu cùng
một hệ thống di tích khảo cổ trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ có tuổi từ
Sơ kỳ thời đại kim khí đến thời sắt sớm được các nhà khảo cổ gọi là văn hoá thời
Tiền Đông Sơn và văn hoá Đông Sơn.
Giá trị khảo cổ học được chứng
minh Đồng Đậu là một di chỉ cư trú trên gò gần sông hồ ngoài trời. Tầng văn hoá
nhiều lớp dày liên tục, không có lớp vô sinh cho thấy nhiều lớp cư dân nhiều đời
cùng huyết thống liên tục sinh sống tại đây, chủ yếu sống bằng nông nghiệp lúa
nước và cũng làm một số nghề thủ công với tính chất là nghề phụ của nông nghiệp.
Song có giai đoạn Đồng Đậu còn là một trung tâm luyện đúc đồng, mà dấu tích để
lại là các mảnh nồi nấu đồng, rót đồng, vết tích lò cùng hàng chục mảnh khuôn
đúc đồng bằng đá và bằng đất nung. Có thể nói, Đồng Đậu cùng với Thành Dền là
hai trung tâm luyện đúc đồng lớn nhất ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Qua dấu vết
để lại có thể thấy trung tâm luyện đúc đồng này cũng được đặt ngay tại Đồng Đậu.
Qua 7 cuộc khai quật đã thu thập
được rất nhiều hiện vật như đồ đá, đồ đồng, đồ gốm cũng như những di tích quan
trọng khác như hạt gạo cháy cho thấy thời đó đã biết trồng lúa hoặc xương răng
động vật thể hiện việc săn bắn, chăn nuôi đã phát triển. Những khối đất vàng dần
dần được coi như những nền nhà của cư dân Đồng Đậu đã hé mở. Về nghề luyện kim,
đúc đồng, tìm thấy khuôn đúc và hệ thống lò nấu đồng cùng bếp lửa. Bên cạnh đó
việc tìm ra ngôi mộ được đặt trên nền sét vàng vuông vắn, chúng ta mới nhận thức
rõ hơn táng tục của cư dân Đồng Đậu.
- Giá trị dân tộc học
Di tích Đồng Đậu có giá trị lớn
về mặt dân tộc học, còn tiềm ẩn nhiều thông tin quý giá trong lòng nó thuộc mỗi
giai đoạn lịch sử. Như chúng ta đều biết, một khu làng từ Đồng Đậu, trải qua bốn
thời kỳ lịch sử kéo dài hàng ngàn năm, mỗi dấu tích còn lưu lại trong lòng đất
do những hoạt động sống của con người thời đó là vô cùng phong phú và phức tạp,
chúng ta chưa thể hiểu hết được. Bởi cho tới nay, với diện tích hàng vạn mét
vuông cư trú trong đó có mộ táng, chúng ta chỉ mới khai quật và thám sát chưa đầy
một ngàn mét vuông. Tư liệu gần một ngàn mét vuông này mới cho chúng ta phản
ánh về quá trình di cư, định cư lâu dài với đời sống văn hoá vật chất, tinh thần
của cha ông ta. Trong các lớp văn hoá ở Đồng Đậu còn phát hiện được một số mộ
táng sớm muộn khác nhau, nằm ở các độ sâu khác nhau. Đó là 3 ngôi mộ văn hoá
Phùng Nguyên nằm ở trên lớp sinh thổ, và 1 ngôi mộ văn hoá Gò Mun nằm ở lớp gần
trên mặt, Qua đó có thể thấy, Đồng Đậu cũng có thời được sử dụng làm nơi an nghỉ
vĩnh hằng của những người quá cố. Đáng chú ý là lớp mộ văn hoá Phùng Nguyên nằm
trên lớp sinh thổ. Như vậy rõ ràng, Đồng Đậu không những vừa là một di chỉ cư
trú, vừa là một trung tâm luyện đúc đồng, mà còn có lúc được sử dụng làm nơi
chôn cất người chết của cư dân Đồng Đậu.
2.5. Di tích Đồng Đậu và
mối quan hệ với các di tích khảo cổ đồng đại ở nước ta
- Di tích Đồng Đậu trong mối
quan hệ với các di tích khảo cổ học vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ:
Di tích Đồng Đậu phát hiện từ
năm 1962 và cuộc khai quật đầu tiên được tiến hành vào năm 1965. Nhưng trước
đó, trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ đã phát hiện được vài chục di tích chứa
đựng nhiều đồ đá và đồ gốm mà chất liệu, kiểu dáng và hoa văn khá gần gũi với Đồng
Đậu.
Vào cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ
60, di tích Phùng Nguyên thuộc huyện Lâm Thao. Tiếp đến, trên đất Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh lần lượt phát hiện thêm nhiều di tích văn hoá Phùng
Nguyên như: Gò Bông, Xóm Rền, An Đạo, khu Đường (Phú Thọ), Lũng Hoà, Nghĩa Lập,
Gò Gai, Gò Hội (Vĩnh Phúc), Tiên Hội, Đồng Vông, Núi Xây, Gò Cây Táo (Hà Nội),
Từ Sơn, Bái Tự (Bắc Ninh).
Cùng thời gian này, di tích Gò
Mun cũng thuộc Lâm Thao, cách Phùng Nguyên không xa được phát hiện và khai quật.
Sau đó, trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ lần lượt phát hiện và khai quật
các di tích thuộc văn hoá Gò Mun như: Gò Chiền, Gò Tro, Nội Gan (Phú Thọ),
Hoàng Ngô, Phượng Cách, Đại Áng, Chùa Thông, Đình Tràng, Thành Vượn (Hà Nội), Đồng
Đậu (Vĩnh Phúc)…Các nhà khảo cổ đã xác định ra giai đoạn văn hoá Đồng Đậu là
khâu nối giữa giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên và văn hoá Gò Mun.
Như vậy qua 60 năm phát hiện và
nghiên cứu các nhà khảo cổ đã phác họa ra một quá trình diễn biến văn hoá trên
vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, mở đầu với lớp văn hoá Phùng Nguyên, qua lớp
văn hoá Đồng Đậu và lớp văn hoá Gò Mun, cuối cùng là lớp văn hoá Đông Sơn, trước
khi đất nước bị phong kiến phương Bắc xâm lược.
- Di tích Đồng Đậu trong mối
quan hệ các di tích khảo cổ học ở Vĩnh Phúc
Đồng Đậu nằm trong một quần thể
di tích tổng hợp bao gồm gò Đồng Đậu, gò chùa Biện Sơn, đền Gia Loan (thị trấn
Yên Lạc) và Đinh Xá (xã Nguyệt Đức). Các di tích này có liên quan với nhau hình
thành một truyền thống văn hóa của người dân Việt nơi đây. Trong quá trình phát
triển do sự gia tăng về dân số, cư dân ở gò Đồng Đậu đã mở rộng địa bàn cư trú
của mình ra khu vực xung quanh. Con cháu của người Đồng Đậu đã di chuyển sang định
cư ở Gò Chùa Biện Sơn, xa hơn nữa là Đinh Xá (xã Nguyệt Đức).
Bên cạnh các di tích cùng niên
đại nằm kề cận Đồng Đậu, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc còn phát hiện thêm những
di tích khảo cổ học thời tiền Hùng Vương như: Lũng Hoà, Nghĩa Lập, Gò Hội, Ma Cả,
Gò Gai…
3. Văn hoá
Đồng Đậu và sự ảnh hưởng trong tiến trình lịch sử Việt Nam
Năm 1962 được coi là mốc mở đầu
cho lịch sử nghiên cứu văn hóa Đồng Đậu - đánh dấu bằng sự phát hiện di chỉ khảo
cổ học Đồng Đậu nổi tiếng ở huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó đến nay vừa tròn
sáu thập kỷ. Trong thời gian ấy, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã làm rõ diện mạo
của một trong những văn hóa khảo cổ quan trọng nhất thời đại kim khí ở châu thổ
Bắc Bộ. Nhiều cuộc điều tra, thăm dò, khai quật được tiến hành, nhiều địa điểm
mới được phát hiện và nghiên cứu. Đã có hàng trăm bài viết dưới dạng công bố tư
liệu điều tra, khai quật chuyên khảo, luận văn, luận án bàn về mọi vấn đề cơ bản
của văn hóa Đồng Đậu.
3.1. Nguồn gốc, niên đại,
phân chia các giai đoạn văn hóa Đồng Đậu
- Nguồn gốc văn hóa Đồng Đậu:
Văn hóa Đồng Đậu bắt nguồn từ văn hóa Phùng Nguyên. Điều này được thể hiện rõ
qua địa bàn phân bố, đặc trưng di tích, di vật và đặc biệt là qua tài liệu địa
tầng tại các địa điểm như Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Thành Dền, Đình Tràng (Hà Nội).
- Về niên đại của văn hóa Đồng
Đậu: Thuộc trung kỳ thời đại đồng thau ở Việt Nam, tồn tại trong khoảng 1500 -
900 BC (trước công nguyên)
- Về phân chia các giai đoạn của
văn hóa Đồng Đậu: Văn hóa Đồng Đậu có ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất
là Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm, là giai đoạn hình thành và phát triển sớm
nhất của văn hóa Đồng Đậu, trong đó những yếu tố Phùng Nguyên còn khá đậm nét.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn Đồng Đậu điển hình, là sự phát triển tiếp nối của
giai đoạn trước. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn Đồng Đậu muộn - Gò Mun sớm, là
giai đoạn phát triển cao nhất.
3.2. Đặc trưng văn hóa Đồng
Đậu
- Đặc trưng đầu tiên và nổi bật
nhất của văn hóa Đồng Đậu là kỹ thuật luyện kim và chế tác. Di chi Thành Dền
(Hà Nội) và Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) được coi là hai trung tâm luyện kim lớn nhất
vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Về loại hình hiện vật, gồm các loại hình đồ
đồng khác nhau được người Đồng Đậu chế tác và sử dụng, bao gồm rìu, đục, dùi,
mũi nhọn, kim khâu, bàn chải, búa, dao, nạo, lưỡi câu, giáo, lao, mũi tên, qua,
vòng khuyên tai…
- Đồ đá vẫn chiếm một vị trí
đáng kể trong đời sống của người Đồng Đậu, bên cạnh các loại công cụ sản xuất
và vũ khí bằng đá vốn có từ giai đoạn trước, thì trong văn hóa Đồng Đậu bắt đầu
xuất hiện một số loại di vật là đồ trang sức.
- Đồ xương để chế tác công cụ
và vũ khí, chủ yếu là các loại mũi tên và lao có ngạnh. Đồ xương trong văn hóa
Đồng Đậu có sự gia tăng đáng kể về số lượng, và có thể có một số hiện vật mang
tính nghi lễ.
- Đồ gốm chiếm một vị trí hết sức
quan trọng trong văn hóa Đồng Đậu. Đồ gốm Đồng Đậu nhìn chung có độ nung cao
hơn, cứng đanh, ít thấm nước. Về loại hình, giai đoạn này xuất hiện và khá thịnh
hành loại đồ đựng đáy bằng có kích thước lớn. Các loại hoa văn trang trí tiêu
biểu nhất của Đồng Đậu là văn khuông nhạc, đường tròn đồng tâm, văn in hình hạt
thóc hay văn nan đan.
3.3. Phạm vi phân bố và ảnh
hưởng văn hóa Đồng Đậu
- Thống kê đến nay, trên cả nước
đã có hơn 40 di tích thuộc văn hóa Đồng Đậu được phát hiện và nghiên cứu. Những
di tích này phân bố trên địa bàn các tỉnh Phú Thọ (12), Vĩnh Phúc (2), Hà Nội
(18), Bắc Ninh (9) Bắc Giang (1). Căn cứ đặc điểm phân bố các di tích thuộc
giai đoạn Đồng Đậu, có thể nhận thấy hai khu vực tụ cư chủ yếu, đó là vùng
trung du trước núi Phú Thọ và vùng trung du mở xuống đồng bằng gồm Vĩnh Phúc,
Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang.
4. Tiềm
năng phát triển du lịch gắn với di tích Đồng Đậu
- Di tích Đồng Đậu và hệ thống
di tích khảo cổ học thời tiền sơ sử gắn với phát triển du lịch về cội nguồn:
Vĩnh Phúc là vùng đất cổ, có truyền thống văn hoá, lịch sử lâu đời, ngay từ thời
tiền sơ sử, trên mảnh đất Vĩnh Phúc còn lưu dấu hàng chục di tích, địa điểm khảo
cổ học minh chứng về sự định cư lâu dài của người Việt cổ cách đây hàng nghìn
năm, có thể kể đến các di tích khảo cổ học thời tiền sơ sử tiêu biểu trên đất
Vĩnh Phúc như: Di chỉ Lũng Hoà, Nghĩa Lập thuộc huyện Vĩnh Tường; di chỉ Gò Hội,
xã Hải Lựu, huyện Sông Lô cùng một số địa điểm khảo cổ học phát hiện tại các
huyện Yên Lạc, Bình Xuyên.
Với di tích Đồng Đậu, với những
giá trị của di tích sẽ là những tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, của tỉnh, đặc biệt là du lịch cội nguồn. Từ Di tích Đồng Đậu
khách tham quan trong hành trình du lịch về cội nguồn có thể tới di tích Lũng
Hoà, thuộc xã Lũng Hoà, di tích Nghĩa Lập, xã Nghĩa Hưng của huyện Vĩnh Tường
và ngược dòng Lô giang tới di tích Gò Hội xã Hải Lựu, huyện Sông Lô. Với tuyến
tham quan du lịch về cội nguồn Đồng Đậu - Lũng Hoà - Nghĩa Lập - Gò Hội du
khách sẽ được tận mắt chứng kiến các khu cư trú của người Việt cổ trải dài hàng
nghìn năm lịch sử từ văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn.
- Di tích Đồng Đậu và hệ thống
di tích lịch sử văn hoá, làng nghề, ẩm thực của huyện Yên Lạc gắn với phát triển
du lịch: Yên Lạc vùng đất trung tâm của phủ Tam Đới xưa, một góc của xứ Đoài,
nơi có truyền thống văn hiến, mang đậm bản sắc của một làng quê Việt. Hệ thống
di tích lịch sử - văn hoá phong phú tiêu biểu như đền Bắc Cung, chùa Biện Sơn,
đền Gia Loan, đền thờ trạng nguyên Phạm Công Bình, cùng với các làng Việt còn
lưu giữ được những nét cổ kính về văn hoá vật thể và phi vật thể với các làn điệu
dân ca, các món ăn văn hoá ẩm thực đặc sắc và các lễ hội truyền thống mang đậm
bản sắc văn hoá của vùng đồng bằng Bắc bộ như đan lát Trung Kiên, múa gậy Dịch
Đồng, lễ hội đền Thính…
Từ di tích Đồng Đậu - đền Gia
Loan - chùa Biện Sơn - đền Bắc Cung đến đền thờ trạng nguyên Phạm Công Bình du
khách sẽ đến tham quan tìm hiểu về truyền thống lịch sử văn hoá, truyền thống
khoa bảng, hiếu học và thưởng thức những nét văn hoá, ẩm thực độc đáo của làng
quê đậm bản sắc của vùng châu thổ sông Hồng.
- Di tích Đồng Đậu và các di
tích khảo cổ học đồng niên đại tại vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ: Đồng bằng Bắc
bộ là nơi còn bảo tồn và lưu giữ được nhiều nét văn hoá truyền thống, đặc biệt
là hệ thống các di tích khảo cổ học thuộc các giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Các di tích này tập trung phân bố ở các tỉnh Phú Thọ, Hà
Nội…
Từ Vĩnh Phúc - nơi có di tích Đồng
Đậu du khách có thể tham quan các di tích Phùng Nguyên, Gò Mun tại Phú Thọ, các
di tích Vườn Chuối, Thành Dền, Cổ Loa tại Hà Nội để hiểu sâu sắc hơn về quá
trình di cư của người Việt từ miền núi tiến về đồng bằng và tạo dựng nên nền đồng
bằng sông Hồng với nền văn minh lúa nước nổi tiếng
II. THỰC
TRẠNG CÔNG TÁC BẢO VỆ, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU
1. Thực
trạng công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích
1.1. Hạ tầng kỹ thuật, thực
vật và cảnh quan xung quanh
Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu nằm
ở thôn Đông, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, cách thành phố Vĩnh Yên khoảng 8
km về phía Nam theo đường chim bay. Phía Nam của di chỉ nằm sát đường giao
thông liên huyện Bình Xuyên - Yên Lạc - Vĩnh Tường. Toàn bộ di chỉ Đồng Đậu nằm
trên gò cao 15m so với mặt biển, tổng diện tích khoảng 85.000 m2.
Hiện nay, hạ tầng kỹ thuật tại
khu di tích Đồng Đậu và vùng đệm xung quanh bao gồm hệ thống đường giao thông,
hệ thống điện, nước.
- Hệ thống đường giao thông:
Do di tích nằm cạnh đường giao
thông liên huyện nên đường giao thông chạy qua được mở rộng, trải nhựa rất thuận
tiện cho việc di chuyển đến khu di tích. Các đường dẫn từ đường liên huyện vào
di tích gò chùa Biện Sơn kéo dài đến sát gò Đậu đường rộng khoảng 6m, mặt đường
đã xâm nhựa xâm nhập, dày 15cm. Đường có chiều dài 500m, ngăn cách giữa đường
và di tích là hàng rào sắt.
Đường nối từ gò chùa Biện Sơn
sang gò Đồng Đậu dài khoảng 100m, rộng 3m, đường đổ bê tông để tiện đưa khách
tham quan, những đường trong khu vực giai đoạn được phát quang, mở rộng tới các
hố khai quật. Xung quanh di tích là các đường vành đai, đường ven hồ bao quanh
chân gò Đồng Đậu.
- Hệ thống cấp thoát nước:
Hiện nay, hệ thống cấp nước được
sử dụng tại khu di tích Đồng Đậu đều sử dụng hệ thống giếng khoan, hoặc lấy nước
từ khu vực hồ ven gò Đồng Đậu. Tại di tích Đồng Đậu hiện có 60 giếng khoan của
hộ dân phục vụ trồng hoa màu và hầu hết các thửa ruộng đều có ống nhựa dẫn nước
và vòi phun tưới; hệ thống cống, rãnh thoát nước nổi để thoát nước mưa, đổ ra
ao, hồ xung quanh khu di tích.
- Hệ thống điện:
Nguồn điện tại khu di tích do
các hộ dân sinh sống và canh tác lấy từ nguồn điện thị trấn, chủ yếu phục vụ
cho sinh hoạt, sản xuất cho các hộ dân tại đây.
- Tình hình quản lý đất đai và
khoanh vùng di tích:
+ Đất đai di chỉ Đồng Đậu được
dùng vào 4 mục đích: Thổ cư, thổ canh, giao thông khu vực, nơi chôn cất mộ
táng. Khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, khu vực phía Nam di chỉ bị lấy khá nhiều
đất (trong đó có đất tầng văn hoá) để san lấp những chỗ trũng do nhu cầu sản xuất
và sinh hoạt. Do vậy, toàn bộ khu vực phía Nam di tích bị phá huỷ, không còn đủ
điều kiện nghiên cứu.
Đến năm 1995, xã Minh Tân đã
cho phép các hộ tư nhân được đấu thầu sử dụng đất trên cả 2 gò (Đồng Đậu 10
năm, Biện Sơn 20 năm). Để tiến hành canh tác và trồng các loại cây lấy gỗ, cây
ăn quả và hoa màu các loại, người dân đã san ủi bề mặt gò thấp xuống khoảng
0,50m, đào các hố (1m x 1m x 1m) thay đất phù sa để trồng cây... ảnh hưởng đến
bề mặt di tích. Vì vậy thực trạng bề mặt di tích hiện nay không đồng đều, cao
thấp, nhấp nhô.
Hiện nay, tại khu di tích Đồng
Đậu đang tồn tại các công trình dân sinh trên bề mặt di tích, gồm: 60 giếng
khoan của hộ dân phục vụ trồng hoa màu; 02 nhà cấp 4 xây tường gạch, lợp mái
ngói và lợp tấm Ploximang; 03 nhà tạm dựng cọc gỗ và lợp tấm Ploximang; có 30
ngôi mộ hiện đại của người dân nằm rải rác trên gò và dìa gò; mặt Đông Nam của
di tích, khu vực tiếp giáp đường liên huyện là hệ thống tường rào sắt bao bọc
và có cổng chính để vào khu di tích. Hệ thống tường rào này đã được UBND tỉnh
phê duyệt đầu tư năm 2011, hoàn thành năm 2013.
Bên cạnh đó, tại khu vực di
tích qua thời gian, nhân dân đã chôn cất nhiều ngôi mộ hiện đại, theo những người
đấu thầu đất đai trong khu vực di chỉ cho biết, do nhu cầu canh tác và sinh hoạt,
họ đã phải di dời khá nhiều mộ. Song, đến nay vẫn còn một số ngôi mộ lộ thiên,
thậm chí có những lăng mộ được xây mới và chắc chắn là còn nhiều ngôi mộ khác nằm
sâu trong lòng đất di chỉ.
+ Việc khoanh vùng bảo vệ di
tích được triển khai: Năm 2000, di tích được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc
gia, chính quyền địa phương đã phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành
khoanh vùng, cắm mốc bảo vệ di tích theo các khu vực 1, và khu vực 2 theo quy định
của Luật Di sản văn hóa. Đây là một trong những địa phương đi đầu trong việc
khoanh vùng và bảo vệ một cách tốt nhất một di tích khảo cổ học quan trọng.
- Thực vật và cảnh quan xung
quanh:
Hiện nay tại di tích Đồng Đậu
trồng chủ yếu trồng các loại rau màu như rau thơm húng, kinh giới, tía tô; rau
cải, rau muống, mùng tơi, rau dền… Cây ăn quả: chuối, cam, bưởi, ổi, đu đủ, hồng…
Cây lấy gỗ: Bạch đàn, cây hoa: hoa hồng, cúc, đồng tiền… Cây lấy lá: dâu tằm.
Riêng một phần phía Tây và phía
Nam cạnh gò là công viên Đồng Đậu. Hiện nay, UBND huyện Yên Lạc đã triển khai Dự
án xây dựng Công viên Đồng Đậu có tổng mức đầu tư 90 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân
sách cấp huyện và nguồn vốn ngân sách cấp tỉnh bổ sung có mục tiêu cho huyện
Yên Lạc. Đây là công trình hạ tầng kỹ thuật cấp III, dự án nhóm B, được xây dựng
trên phạm vi đất quy hoạch hơn 5,4 ha do UBND huyện Yên Lạc làm chủ đầu tư. Dự
án được đầu tư mới, tạo lòng hồ, xây dựng công viên cây xanh, cùng các hạ tầng
hạng mục đồng bộ, như kè xung quanh hồ, khuôn viên, đường dạo, bãi tập thể dục
cộng đồng, hệ thống chiếu sáng, cấp nước sạch, thoát nước thải ngăn không cho
nguồn thải trong khu dân cư và các điểm kinh doanh dịch vụ chảy vào hồ…thời
gian triển khai và hoàn thành dự án trong giai đoạn 2021-2025.
Đây là một trong những dự án trọng
điểm của huyện mang nhiều ý nghĩa cả về tâm linh, kiến tạo kiến trúc cảnh quan,
cũng như đáp ứng nhu cầu của người dân. Dự kiến sau khi hoàn thành đây sẽ là điểm
nhấn về kiến trúc cảnh quan, bảo vệ môi trường, không gian xanh phục vụ các hoạt
động thể dục, thể thao rèn luyện sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần, thể chất
cho người dân. Đặc biệt, dự án sẽ góp phần quan trọng nâng tầm, phát huy giá trị
lịch sử văn hóa của Khu di tích khảo cổ Đồng Đậu, kết hợp cùng di tích đền Gia
Loan, chùa Biện Sơn, tạo điểm đến du lịch tâm linh hấp dẫn, tiêu biểu của huyện
Yên Lạc nói riêng và tỉnh Vĩnh Phúc nói chung trong tương lai.
1.2. Công tác bảo tồn di
tích
* Công tác nghiên cứu, khai
quật bảo tồn di tích
Từ khi phát hiện (1962) đến
nay, di tích Đồng Đậu đã qua 7 lần khai quật, cùng nhiều đợt thám sát.
- Đợt khai quật thứ nhất: Do Viện
Khảo cổ học tiến hành từ tháng 11 năm 1965 tới tháng 3 năm 1966, diện tích 200m2,
chia làm hai hố đào, mỗi hố 100m2.
Trong tầng văn hoá dày từ 2,6 -
3,2m, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều di tích như bếp, nền đất đắp, mộ cổ, hố
đào... Đặc biệt đã thu được một sưu tập di vật gồm trên 800 hiện vật. Đồ đá có
các loại hình như rìu, bôn, đục, dao, chày, bàn nghiền, bàn đập, bàn mài, vòng
trang sức, hạt chuỗi... Đồ đồng có rìu, đục, dùi, cán dao, mũi tên, lưỡi câu,
dây, kim... cùng nhiều xỉ đồng. Đồ xương có mũi nhọn, mũi tên, móc, dao... Đồ gốm
có nồi, vò, chậu, bát, bình, chân chạc, dọi xe chỉ, bi, tượng động vật... Ngoài
ra, còn phát hiện hơn 20.000 mảnh gốm mang những đặc trưng văn hoá khác nhau
cùng nhiều tàn tích động, thực vật của người xưa để lại.
Từ kết quả khai quật, các nhà
nghiên cứu đã nhận thấy tầng văn hoá có những diễn biến khác nhau, trong đó lớp
văn hoá 1 có vết tích của thời đại Bắc thuộc, lớp 2, 3, 4 có thể thuộc về thời
đại đồng thau, lớp 5 có thể thuộc hậu kỳ đá mới hoặc sơ kỳ đồng thau. Có thể
nói, kết quả của đợt khai quật lần thứ nhất một mặt đã giúp chúng ta hiểu bước
đầu về di tích này, mặt khác đóng góp một khối tư liệu quan trọng để nghiên cứu
về thời đại kim khí.
- Đợt khai quật thứ hai: Từ cuối
tháng 4 tới trung tuần tháng 6 năm 1967 do Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay
là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) tiến hành. Hố khai quật có diện tích là 50m2.
Trong tầng văn hoá, các nhà khảo
cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật và các dấu tích hoạt động khác của con
người. Đặc biệt lần đầu tiên thấy dấu vết lò đúc đồng. Bên cạnh lò đúc phát hiện
3 khuôn đúc rìu khá nguyên vẹn. Hiện vật thu được trong đợt khai quật rất phong
phú. Đồ đá có rìu, bôn, đao, qua, hạt chuỗi và vòng. Đồ xương có dao, mũi nhọn.
Đồ đồng có đục, dùi và mũi tên. Đồ gốm có dọi xe chỉ và hàng vạn mảnh gốm các
loại.
Đợt khai quật lần hai đã xác nhận
sự phong phú của các vết tích khảo cổ học nơi đây. So sánh với đợt khai quật lần
thứ nhất, đợt khai quật lần này đã phát hiện thêm một số di tích, di vật mới
như vết tích lò nấu đồng, qua đá, dao đá...
- Đợt khai quật lần thứ ba: Từ
tháng 12 năm 1968 đến tháng 5 năm 1969, do Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành.
Đây là đợt khai quật có quy mô lớn nhất với diện tích lên tới 300m2,
chia thành 4 hố.
Trong quá trình khai quật, nhiều
cán bộ văn hoá, khoa học, giáo dục, hoạt động chính trị ở trung ương và địa
phương đã đến hiện trường tham quan, nghiên cứu. Đặc biệt, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
cùng nhiều đồng chí lãnh đạo khác đã đến tham quan vào những ngày có phát hiện
khảo cổ học quan trọng.
Trong đợt khai quật này nhiều
di tích được phát hiện như nền đất sét vàng, bếp, hố đào, đặc biệt lần đầu tiên
phát hiện được mộ táng tại di tích Đồng Đậu. Mộ được chôn trong khu vực cư trú,
sát bề mặt sinh thổ.
Di vật phát hiện được không chỉ
nhiều về số lượng mà còn rất phong phú, đa dạng về chất liệu và loại hình.
Ngoài số lượng gốm đồ sộ vượt xa hai lần khai quật trước, đợt khai quật này đã
phát hiện thêm nhiều loại hình hiện vật mới làm phong phú hơn nữa bộ sưu tập hiện
vật đã có với hàng loạt khuôn đúc, đồ đồng thau, di vật làm bằng xương, sừng
cùng nhiều vết tích động, thực vật. Đặc biệt đợt khai quật đã ghi nhận nhiều hiện
tượng văn hoá khá gần gũi 2 đợt khai quật trước, đã xác định rõ ràng sự phát
triển liên tục của 3 tổ hợp văn hoá, khởi đầu từ Phùng Nguyên, qua Đồng Đậu đến
Gò Mun theo những lớp đất từ sớm đến muộn. Nhờ những phát hiện này, chúng ta có
thêm những căn cứ chắc chắn chứng minh cho nền văn hoá dân tộc ta là một nền
văn minh có nguồn gốc lâu đời và mang tính bản địa.
- Đợt khai quật lần thứ tư:
Khai quật từ trung tuần tháng 3 đến trung tuần tháng 5 năm 1984, do Ban kim khí
thuộc Viện Khảo cổ học tiến hành. Diện tích khai quật là 117m2.
Trong tầng văn hoá đã phát hiện
được nhiều di tích như hố cột, nền nhà, hố đào, bếp, lò đúc đồng, mộ táng.
Trong đợt khai quật này phát hiện được 2 mộ, trong đó 1 mộ thuộc giai đoạn Gò
Mun, 1 mộ thuộc giai đoạn Đông Sơn. Di vật chứa trong tầng văn hoá khá phong
phú. Đồ đá có 160 hiện vật, gồm các loại hình như bàn mài, hòn ghè, dao cưa,
khuôn đúc, đe, rìu, bôn, đục, bàn đập, mũi tên, chày, vòng, hạt chuỗi, khuyên
tai.. Đồ đồng có 50 hiện vật với đủ các loại hình như rìu, bôn, đục, mũi nhọn,
búa, dùi, dao, bàn chải, lưỡi câu, mũi tên, kim, vòng... Đồ xương, sừng có 55
hiện vật, gồm dùi, đục, lao, mũi nhọn, dao, lao, mũi tên... Đồ gốm có nồi nấu đồng,
khuôn đúc, dọi xe chỉ, chì lưới, bi gốm, tượng bò, đèn hình vịt và hàng vạn mảnh
gốm các loại.
Những tư liệu thu thập được qua
đợt khai quật thứ tư và các đợt khai quật trước đó đã chứng minh thuyết phục
nghề luyện kim thực sự mang tính bản địa. Ngoài ra, lần khai quật này còn tìm
thấy chứng tích xác thực của nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi và nghề làm vườn
với hàng trăm hạt thóc cháy, xương động vật các loại, hạt của các loại cây ăn
quả như trám, mơ, na, đậu cho thấy sự định cư của cư dân Đồng Đậu ở phía Đông
Nam của gò Đồng Đậu là liên tục và khá lâu dài.
- Đợt khai quật lần thứ năm:
Khai quật tháng 3 năm 1987, do Bộ môn Khảo cổ học, thuộc Khoa Lịch sử, Đại học
Tổng hợp Hà Nội nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Sở Văn
hoá Thông tin, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú tiến hành. Diện tích 15m2.
Trong tầng văn hoá dày từ 3 -
4,4m đã phát hiện được một số bếp lửa. Bếp chứa nhiều than tro, xương thú, vỏ ốc,
trai và mảnh tre cháy dang dở. Đồ đá có 38 chiếc, gồm các loại hình như rìu,
bôn, qua, dao, bàn mài, mảnh vòng, hạt chuỗi, khuyên tai, bùa đeo, cuội có vết
cưa, lõi vòng. Đồ đồng có hiện vật gồm rìu, lao, mũi tên, mũi nhọn, dây, vòng,
mảnh đồng... Đồ xương, sừng có 43 hiện vật gồm có giáo, mũi nhọn, đục... Đồ gốm
có 11 hiện vật gồm bi gốm, lõi khuôn đúc, chì lưới, dọi xe chỉ, mảnh nồi nấu đồng,
tượng gốm và 12010 mảnh gốm vỡ các loại.
Đợt khai quật lần thứ năm đã
làm rõ hơn diễn biến tầng văn hoá ở Đồng Đậu. Kết quả phân tích tài liệu gốm của
đợt khai quật này đã cho thấy 2 lớp trung gian chuyển tiếp từ Phùng Nguyên sang
Đồng Đậu và từ Đồng Đậu sang Gò Mun. Ngoài ra, đợt khai quật đã cung cấp thêm bằng
chứng cho thấy nghề đúc đồng đã xuất hiện từ lớp văn hoá sớm nhất.
- Đợt khai quật lần thứ sáu:
Khai quật từ ngày 12 tháng 11 tới ngày 30 tháng 12 năm 1999, do Viện Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam phối hợp với Sở Văn hoá, Thông tin, Thể thao và Bảo tàng tỉnh Vĩnh
Phúc tiến hành. Tổng diện tích khai quật là 70m2, chia làm 4 hố,
trong đó có 2 hố khai quật và 2 hố thám sát.
Kết quả khai quật và thám sát
cho thấy kết cấu địa tầng của các hố ở gò Đồng Đậu khá giống nhau. Độ dày của tầng
văn hoá từ 3m đến 5m (kể cả hố đất đen), được chia làm 3 lớp: lớp sớm, lớp giữa
và lớp muộn.
Trong tầng văn hoá của 4 hố
khai quật và thám sát đã phát hiện được nhiều di tích của người xưa để lại bao
gồm các hố đất đen, hố đào, nền đất vàng, bếp, khối đất nung, đặc biệt trong lớp
văn hoá sát sinh thổ của hai hố thám sát đã phát hiện 2 mộ táng, trong đó có 1
mộ di cốt còn khá nguyên. Di vật thu được rất phong phú. Đồ đá có 197 tiêu bản,
gồm các loại hình như rìu, bôn, đục, công cụ chặt rìu lưỡi dọc, dao, bàn đập,
bàn mài, mảnh khuôn đúc, mũi tên, hòn kê, vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, mảnh tước,
lõi vòng, phác vật. Về đồ đồng ngoài 6 đồng tiền có niên hiệu “Khai nguyên
thông bảo” phát hiện được trong hố thám sát, đã phát hiện được 48 hiện vật gồm
nhiều loại hình như: mũi dùi, mũi tên, lao, lưỡi câu, kim khâu, chuôi, dây,
quai, mảnh vỡ. Đồ xương sừng có 36 hiện vật gồm mũi tên, lao, mũi nhọn, kim, mảnh
vòng, bùa, phác vật mũi nhọn, răng có vết mài, hiện vật sừng hình linga, hiện vật
sừng hình chữ Y. Đồ gốm có 86.475 mảnh gốm vỡ các loại và 74 hiện vật nguyên và
gần nguyên gồm nồi, bát, bình, dọi xe chỉ, bàn dập hoa văn gốm, bi gốm, khuyên
tai, tượng động vật, thỏi đất nung, lõi khuôn, chạc gốm... Dấu tích động thực vật
phát hiện được trong đợt khai quật lần này rất đa dạng về chủng loại. Kết quả
giám định các dấu tích động vật bước đầu đã ghi nhận sự có mặt của các loại động
vật có xương sống và động vật không xương sống. Dấu tích thực vật hầu hết bị
cháy thành than như tre, nứa, hạt gạo và một số hạt quả. Kết quả phân tích các
mẫu bào tử phấn hoa đã xác định được khá nhiều loại bào tử thuộc nhiều họ khác
nhau, trong đó có bào tử của họ hoà thảo, cúc, dền, bông, bìm bìm, rau muối...
Có thể nói, kết quả khai quật
và thám sát lần thứ sáu đã giúp chúng ta hiểu toàn diện hơn về di tích khảo cổ
học Đồng Đậu. Đặc biệt, việc phát hiện, nghiên cứu những mộ táng, các dấu tích
động, thực vật, cũng như việc xác định niên đại C14 đã làm rõ hơn các vấn đề về
chủ nhân, môi trường sống và niên đại của di tích.
- Đợt khai quật lần thứ bảy: Tiến
hành năm 2010, do Hội Khảo cổ học Việt Nam, Khoa Sử, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Hà Nội phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tiến hành
khai quật. Tổng diện tích khai quật 50 m2. Kết quả khai quật đã phát
hiện được nhiều mảnh gồm, đồ đá, đồ xương, và một mộ táng thuộc lớp văn hoá
Phùng Nguyên.
- Những phát hiện đơn lẻ:
Năm 1984, đoàn khai quật đã sưu
tầm được 1 giáo đồng Đông Sơn. Chiếc giáo này do nhân dân thu lượm được trong
lúc làm vườn ở di tích Đồng Đậu.
Năm 1999, trong quá trình
nghiên cứu thực địa tại di tích Đồng Đậu, cán bộ của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam, Bảo tàng Vĩnh Phúc đã sưu tầm được một số hiện vật làm bằng đá, đồng do
nhân dân phát hiện trong quá trình lao động. Đa số những hiện vật này là công cụ
lao động, vũ khí, đồ trang sức.
Một số hiện vật do nhân dân
phát hiện được gồm các rìu, lao, khuyên ta bằng đá, đồng mang phong cách của
các văn hoá Tiền Đông Sơn và đặc trưng của văn hoá Đông Sơn.
Để triển khai công tác bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu, tháng 10 năm 2001, Viện Khảo cổ học phối
hợp với Bảo tàng Vĩnh Phúc tiến hành điều tra lại toàn bộ khu vực (di chỉ Đồng
Đậu, gò chùa Biện Sơn...), khoan thăm dò 36 vị trí (gò Đồng Đậu theo 7 tuyến với
27 mũi, gò Biện Sơn 9 mũi phân bố đều trên mặt gò) và đào 6 hố thám sát xung
quanh gò Đồng Đậu, 1 hố ở gò Biện Sơn (mỗi hố 1m), nhằm xác định chính xác diện
tích phân bố của di chỉ để giúp cho việc xác định diện tích bảo vệ và phát huy
di tích.
Như vậy, được phát hiện từ năm
1962 đến nay, di tích Đồng Đậu đã được nhiều cơ quan, đơn vị chuyên ngành khảo
cổ học đã tiến hành 7 lần khai quật với tổng diện tích là 802m2. Qua
những lần khai quật nhiều loại hình di tích và hàng ngàn hiện vật đã được tìm
thấy bao gồm đồ gốm, đồ đá, xương, sừng và đồng. Các sưu tập hiện vật qua 7 lần
khai quật tại Di tích khảo cổ học Đồng Đậu đã trở thành nguồn sử liệu quan trọng
về thời kỳ dựng nước, minh chứng cho một kiến giải hợp lý trong quá trình dựng
nước của dân tộc ta - từ miền núi tiến về đồng bằng, từ du canh du cư của từng
bộ lạc đến định canh, định cư với những xóm làng. Với 4 tầng văn hoá nối tiếp
nhau từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, hiện vật khai quật tại đây vô
cùng phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình với đủ các chất liệu đã cho thấy
Đồng Đậu tiêu biểu cho các bước phát triển để tiến vào ngưỡng cửa văn minh của
người Việt cổ trên lưu vực sông Hồng, để cùng cư dân lưu vực sông Mã, sông Cả
hình thành nên nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc.
Với những giá trị của di tích,
năm 1999, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành lập hồ sơ khoa học đề nghị công
nhận Di tích Đồng Đậu là Di tích cấp quốc gia. Năm 2000, Di tích khảo cổ học Đồng
Đậu đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích cấp quốc gia.
* Công tác bảo quản di vật,
hiện vật của di tích
Theo thống kê, từ khi phát hiện
(1962) đến nay, qua quá trình nghiên cứu khai quật di chỉ Đồng Đậu đã phát hiện
hàng vạn hiện vật gồm các chất liệu đá, gốm, xương, đồng với nhiều loại hình
phong phú gồm công cụ lao động sản xuất, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, đồ trang
sức, xương răng động vật, di cốt người…phản ánh quá trình định cư lâu dài của
người Việt cổ đã dừng chân và sinh sống tại Đồng Đậu suốt gần 2 thiên niên kỷ.
Trong quá trình nghiên cứu và
khai quật, các cơ quan chuyên môn đã lựa chọn gần 10.000 hiện vật đưa về Bảo
tàng ở trung ương, địa phương, các cơ quan chuyên ngành để phục vụ công tác
nghiên cứu và phát huy giá trị, trong đó: Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc có 4.996 hiện
vật; Bảo tàng Đền Hùng (Phú Thọ) lưu giữ 815 hiện vật; Bảo tàng Lịch sử quốc
gia lưu giữ 1.500 hiện vật, Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng nhân học (Đại học
KHXH và nhân văn Hà Nội) 500 hiện vật.
Tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc hiện
vật khai quật tại di tích Đồng Đậu được lưu giữ và bảo quản chiếm số lượng lớn
nhất 4.996 hiện vật trong đó hiện vật có chất liệu đá 289; hiện vật có chất liệu
xương 136; hiện vật có chất liệu đồng 132, còn lại hiện vật có chất liệu gốm
chiếm số lượng lớn nhất. Hiện vật được kiểm kê phân loại, đánh số vào sổ đăng
ký hiện vật Bảo tàng một cách khoa học, bảo quản thường xuyên, bảo vệ một cách
an toàn, lâu dài và bền vững tại phòng trưng bày và kho hiện vật gốc của Bảo
tàng. Đặc biệt, đối với nhóm hiện vật là chất hữu cơ như xương, sừng thì phương
pháp bảo quản vừa bảo quản phòng ngừa vừa phải bảo quản trị liệu để duy trì sự
lâu dài tránh nấm mốc xâm hại. Lần khai quật thứ sáu (năm 1999), thứ 7 (năm
2012) đã phát hiện hai di cốt người thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên (cách
ngày nay 3300-4000 năm) và đưa về Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc bảo vệ, bảo quản và
trưng bày. Hiện nay di cốt người cổ Đồng Đậu đang được Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc
phối hợp với Viện 69 (thuộc Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh) bảo quản
định kỳ hàng năm trong không gian trưng bày “Vĩnh Phúc - cảnh quan thiên nhiên,
quê hương người Việt cổ”. Để bảo quản cả khối mẫu vật này, các chuyên gia đã tạo
môi trường có khả năng sát trùng bằng hóa chất chống nấm bay hơi, sau đó tạo
môi trường kìm hãm hoạt động của vi sinh vật bằng cách hạ độ ẩm cân bằng bên
trong tủ kính trưng bày chuyên dụng ở mức độ thấp ổn định (ERH = 70 - 75%). Đây
là phương pháp bảo quản hiệu quả, ngăn ngừa lâu dài khả năng xâm nhiễm và gây
hư hại của nấm mốc, bảo toàn nguyên trạng hiện vật trong điều kiện khí hậu nóng
ẩm như ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả bảo quản và kiểm tra định kỳ cho thấy rằng
tình trạng bảo quản của hiện vật rất tốt, với độ bền vững được đảm bảo lên tới
hàng trăm năm.
1.3. Công tác phát huy
giá trị di tích
Trải qua 60 năm nghiên cứu và
phát hiện di tích khảo cổ học Đồng Đậu, công tác phát huy tại di tích đạt được
một số kết quả như: Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khoa học đã lập được hệ thống
dựng các tấm bia trên đó có ghi nội dung bằng Tiếng Việt giới thiệu khái quát về
từng đợt khai quật tại di tích; công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo tồn và
phát huy giá trị di tích đã chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên, người dân
trực tiếp canh tác trên Gò Đồng Đậu triển khai có hiệu quả không làm xáo trộn,
đào bới và xâm lấn trái phép di tích. Hàng năm học sinh trên địa bàn thị trấn
được giáo viên trực tiếp hướng dẫn đến tham quan các địa điểm hố khai quật tại
Gò Đồng Đậu trong tiết học lịch sử địa phương- Đây là hoạt động rất thiết thực
giúp cho học sinh có được cái nhìn trực quan, sinh động.
Bên cạnh công tác phát huy giá
trị tại di tích, công tác phát huy giá trị ngoài di tích cũng thường xuyên được
quan tâm, chú trọng tổ chức tại các bảo tàng ở địa phương và trung ương.
- Tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc:
Đồng Đậu có một vị trí vô cùng xứng đáng trong trưng bày Bảo tàng tỉnh Vĩnh
Phúc. Hiện nay, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc đang lưu giữ, bảo quản và trưng bày gần
5000 hiện vật gồm đá, xương, gốm với các loại hình từ công cụ sản xuất, đồ dùng
sinh hoạt, đồ trang sức, vũ khí, xương động vật, di cốt người Đồng Đậu…Tại gian
long trọng của Bảo tàng với chủ đề “Vĩnh Phúc cảnh quan thiên nhiên- Quê hương
người Việt Cổ” đã trưng bày tổ hợp Đồng Đậu bao gồm các sưu tập hiện vật gốc
khai quật, phát hiện tại Di tích Đồng Đậu kết hợp với hình thức và giải pháp mỹ
thuật trưng bày tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt, đời sống kinh tế, tâm linh của
cư dân Đồng Đậu cách đây gần 4000 năm.
Thông qua trưng bày khẳng định
rằng Đồng Đậu là một di tích quý hiếm, với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, trong tiến trình trình lịch sử dân tộc từ miền núi tiến về đồng bằng, người
Việt cổ đã dừng lại và định cư ở Đồng Đậu suốt hai thiên niên kỷ, tạo dựng nên
đồng bằng Bắc Bộ với nền văn minh sông Hồng, văn minh lúa nước nổi tiếng. Di
tích không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Vĩnh Phúc mà của cả dân tộc Việt
Nam.
- Tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
hiện nay lưu giữ khoảng 1500 hiện vật được khai quật tại di tích khảo cổ học Đồng
Đậu. Trong diện tích trưng bày 40m2 giới thiệu phổ hệ các giai đoạn
trước Đông Sơn đã giành 1 tủ trưng bày các hiện vật có chất liệu đá và gốm thuộc
văn hóa Đồng Đậu (3300- 3000 năm cách ngày nay)- Đại diện cho một giai đoạn văn
hóa trong thời đại kim khí ở Việt Nam. Điều này cũng khẳng định Đồng Đậu có một
vị trí quan trọng và không thể thiếu được đối với trưng bày giai đoạn thời dựng
nước đầu tiên của các Vua Hùng và để khách tham quan trong nước và nước ngoài
hình dung được mối liên hệ của Đồng Đậu với quá trình hình thành và phát triển
chung của quốc gia dân tộc.
- Tại Bảo tàng Hùng Vương, Khu
di tích lịch sử Đền Hùng tỉnh Phú Thọ: Hiện nay có 815 hiện vật khai quật tại
di tích khảo cổ học Đồng Đậu được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương
trong khu di tích lịch sử đền Hùng có đủ chất liệu từ đồ đá, xương, sừng, gốm,
đồ đồng ở các loại hình công cụ lao động sản xuất, vũ khí săn bắn, đồ trang sức,
đồ dùng sinh hoạt,…Với các hiện vật tiêu biểu được lựa chọn để trưng bày phần
nào giới thiệu khái quát văn hóa Đồng Đậu là một thời kỳ phát triển toàn diện
trong xã hội thời Hùng Vương dựng nước.
Ngoài công tác trưng bày các loại
sách, báo, tạp chí chuyên đề về Đồng Đậu được Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc phối hợp
với các cơ quan Trung ương, các sở, ngành liên quan xuất bản: Tạp chí Khảo cổ học
(xuất bản năm 2000), Tạp chí chuyên đề về Bảo tàng (xuất bản năm 2005); Kỷ yếu
hội thảo khoa học “40 năm nghiên cứu và phát hiện văn hóa Đồng Đậu”; “Gốm và
nghề gốm Vĩnh Phúc”; Vĩnh Phúc thời tiền sử, sơ sử; Đồng Đậu di tích tiêu biểu
thời tiền sơ sử (đã tái bản lần thứ nhất). UBND huyện Yên Lạc đang tiến hành
triển khai xây dựng công viên Đồng Đậu, việc đầu tư Công viên Đồng Đậu để bảo tồn
giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của Khu di tích khảo cổ
Đồng Đậu.
- Các phòng, ban, ngành, đoàn
thể, đặc biệt là các trường học ở địa phương tổ chức nhiều hoạt động như giáo dục
truyền thống lịch sử tại di tích với các chương trình về nguồn, giao lưu, dã
ngoại, nói chuyện truyền thống nhằm giới thiệu các di tích văn hóa, lịch sử
trên địa bàn và giáo dục truyền thống anh hùng, lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước,
yêu quê hương trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ thanh, thiếu
niên; giới thiệu các di tích văn hóa lịch sử, các danh lam thắng cảnh trên địa
bàn giúp cho nhân dân hiểu được truyền thống và giá trị di tích nói chung và di
tích Đồng Đậu nói riêng, coi đó là niềm tự hào không chỉ của quê hương Yên Lạc,
Vĩnh Phúc mà của cả quốc gia dân tộc.
1.4. Công tác quản lý di
tích
Những năm qua, công tác quản lý
di tích đã được các ban, ngành, chính quyền địa phương quan tâm.
- UBND thị trấn Yên Lạc đã
thành lập Ban Quản lý di tích Đồng Đậu. Trong đó đồng chí Chủ tịch UBND thị trấn
trực tiếp làm Trưởng ban; xây dựng quy chế phối hợp, đưa các nội dung về bảo vệ,
phát huy các di tích vào quy ước, hương ước để nhân dân cùng thực hiện.
- UBND thị trấn Yên Lạc giao
cho người trực tiếp trông coi di tích, hỗ trợ 0,2 mức lương tối thiểu hàng
tháng theo Quyết định số 17/2014/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 về việc hỗ trợ kinh phí
cho người trực tiếp trông coi di tích đã xếp hạng trên địa bàn tỉnh.
- UBND thị trấn giao Công an thị
trấn hàng tuần, hàng tháng tuần tra, kiểm tra đôn đốc và đã có biện pháp xử lý
các hộ xung quanh không được xâm lấn vào diện tích khu di chỉ khảo cổ.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục
nhận thức của cộng đồng xã hội tham gia gìn giữ, bảo vệ di tích được quan tâm
chú trọng trong những năm gần đây. Các cấp, các ngành trong tỉnh đã đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến về pháp luật di sản văn hóa, về lịch sử của địa
phương đến cán bộ và nhân dân. Từ đó, nhận thức của cán bộ và nhân dân địa
phương đã có những chuyển biến tích cực tham gia gìn giữ, bảo vệ di tích, đặc
biệt là nâng cao nhận thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ, nhất là sau khi UBND tỉnh
ban hành Quy định về phân cấp quản lý di tích.
2. Những
khó khăn, tồn tại và nguyên nhân
2.1. Những khó khăn, tồn
tại
- Công tác bảo vệ và phát huy
giá trị di tích chưa được quan tâm đúng mức, nhất là sau khi được xếp hạng như
cấp sổ đỏ, khoanh vùng, cắm mốc giới, dựng bia bảng di tích, đầu tư tôn tạo,
phát huy, nên dẫn đến có sự mâu thuẫn, bất cập giữa lập hồ sơ và việc gìn giữ,
phát huy di tích. Hồ sơ di tích được xếp hạng trước đó, chỉ khoanh vùng trên sơ
đồ mà không xác định được ranh giới, có nhiều sự sai lệch, di tích bị xâm lấn vẫn
đang xảy ra, đã tổ chức khoanh vùng nhưng chủ yếu lại khoanh vùng trên hồ sơ và
không có quy hoạch thực tế sử dụng.
- Việc đầu tư kinh phí để bảo
quản, tôn tạo di tích còn nhiều khó khăn nên quy mô và nguồn lực đầu tư cho
công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích còn hạn chế chưa tương xứng với giá
trị của di tích. Một số hố khai quật có nhiều giá trị, sau khi khai quật đã tiến
hành bảo quản, gìn giữ phục vụ trưng bày nhưng do kinh phí hạn hẹp nên việc bảo
quản gìn giữ không duy trì lâu dài, dẫn đến các hố khai quật bị hủy hoại. Một số
công trình phụ trợ bổ sung cho di tích chưa được quan tâm quy hoạch đầu tư.
- Công tác quản lý di tích chưa
được chú trọng. Việc phối hợp trong công tác quản lý di tích từ tỉnh đến địa
phương chưa đồng bộ, thống nhất, sự phối hợp giữa các ngành chức năng, chính
quyền các cấp trong công tác quản lý di tích tại cơ sở còn chồng chéo, chưa chặt
chẽ. Đội ngũ quản lý về di tích còn kiêm nhiệm, phụ trách nhiều lĩnh vực, chưa
có chuyên môn.
- Di tích Đồng Đậu là sự phân bố
trên một phạm vi rộng, đã và đang là đối tượng lao động, là địa bàn cư trú và địa
bàn sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, việc xây dựng nhà ở, trồng cây lưu
niên, làm đường, đào giếng… để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân địa phương đã và đang diễn ra một cách tự phát, chưa được kiểm soát dẫn
đến nguy cơ xâm phạm đến tầng văn hóa của di tích.
- Việc nghiên cứu khai quật, tổ
chức quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị khu Đồng Đậu chưa được triển khai một
cách liên tục, mạnh mẽ và theo quy hoạch tổng thể, thống nhất và có hiệu quả.
- Công tác giáo dục truyền thống
văn hoá, lịch sử của địa phương gắn với giá trị di tích Đồng Đậu chưa được chú
trọng, chưa có những hoạt động giáo dục trải nghiệm thường xuyên tại di tích.
- Nguồn nhân lực làm công tác
quản lý văn hoá nói chung và kiến thức chuyên môn về Đồng Đậu còn thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng.
- Công tác phát huy giá trị di
tích gắn với phát triển du lịch chưa xứng với tiềm năng và giá trị các di tích
trên địa bàn tỉnh. Hiệu quả kinh tế của các di tích mang lại cho nhân dân địa
phương chưa có.
2.2. Nguyên nhân
- Do những tác động của các yếu
tố khí hậu nhiệt đới như nắng gắt, mưa nhiều, bão lụt…dẫn đến một số rìa gò
phía nam di tích bị sạt lở.
- Di tích phân bố trên không
gian rộng, loại di tích khảo cổ học nên các di tích nằm sâu dưới lòng đất nên gặp
khó khăn trong công tác bảo vệ.
- Do nhận thức của con người
chưa sâu sắc dẫn đến ý thức bảo vệ di tích chưa cao.
- Do quá trình canh tác, cư trú
của người dân tại di tích như trồng cây lâu niên, chôn cất, xây lăng mộ dẫn đến
không ít những thành phần nguyên gốc của khu di tích, đặc biệt là những yếu tố
thiên nhiên vốn có và cảnh quan thiên nhiên của quần thể di tích đã bị thay đổi.
- Đội ngũ cán bộ quản lý văn
hóa còn mỏng, trình độ chuyên môn hạn chế, nghiệp vụ chưa được nâng cao.
- Công tác tuyên truyền, quảng
bá, giáo dục lịch sử và giá trị của di tích chưa được chú trọng.
- Sự phối hợp liên ngành giữa
các cơ quan trong hoạt động quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích chưa
chặt chẽ và có hiệu quả.
- Chưa có những định hướng,
chính sách, chế tài cụ thể nhằm khuyến khích, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức,
cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di tích.
3. Đánh
giá chung
Trong những năm qua, việc bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu luôn được tỉnh và các cơ quan chuyên môn ở
trung ương quan tâm, là một trong di tích khảo cổ học thời tiền sơ sử còn bảo vệ
được gần như nguyên vẹn diện tích của di tích. Công tác quản lý, bảo vệ và phát
huy di tích được chú trọng thông qua các hoạt động phối hợp có hiệu quả trong
công tác nghiên cứu, khai quật giữa tỉnh và các cơ quan nghiên cứu ở trung
ương. Công tác tuyên truyền, quảng bá giá trị di tích tới các tầng lớp nhân dân
và du khách trong và ngoài nước kịp thời, cập nhật với nhiều hình thức đa dạng
và phong phú. Việc bảo quản, trưng bày, lập hồ khoa học các sưu tập hiện vật
khoa học theo quy trình, phát huy giá trị tốt tại các bảo tàng ở trung ương, bảo
tàng các tỉnh và địa phương.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa thì công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu
còn nhiều khó khăn, tồn tại và hạn chế. Công tác quản lý di tích vẫn còn một số
bất cập trong khoanh vùng bảo vệ di tích, việc xây dựng và xâm hại đến tầng văn
hoá của di tích vẫn còn. Công tác bảo quản các hố khai quật chưa được khoa học.
Công tác phát huy giá trị di tích chưa được các cấp, các ngành, địa phương quan
tâm đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho công tác quản lý, bảo quản và phát huy di
tích chưa tương xứng với giá trị di tích, đội ngũ cán bộ chuyên môn tại địa
phương nơi có di tích còn thiếu và yếu về chất lượng. Các hoạt động giáo dục,
trải nghiệm về văn hoá, lịch sử địa phương gắn với giá trị di tích chưa thường
xuyên…Vì vây, trong thời gian tới cần phải có những giải pháp thực hiện đồng bộ
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu tương xứng với giá trị của di
tích.
Phần thứ Ba
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH KHẢO CỔ ĐỒNG ĐẬU
I. QUAN ĐIỂM
- Đánh giá thực trạng của di
tích một cách khoa học, chi tiết nhằm đề ra các giải pháp cụ thể bảo đảm phù hợp,
khả thi, có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn.
- Ưu tiên đầu tư công tác
nghiên cứu, thám sát, khai quật; phát huy nguồn lực xã hội để phát triển du lịch,
đầu tư hệ thống hạ tầng, các hạng mục phụ trợ trong di tích.
- Thực hiện đồng thời và tạo lập
sự hài hòa việc bảo tồn, tôn tạo với việc phát huy giá trị di tích. Bảo tồn và
phát huy giá trị di tích phải gắn liền các yếu tố vật thể, phi vật thể của địa
phương.
- Bảo tồn, phát huy di tích phải
tôn trọng lịch sử, khoa học và gắn với cảnh quan môi trường, sinh thái; ngăn chặn
tình trạng lấn chiếm đất đai và xây dựng các công trình không phù hợp trong các
khu vực bảo vệ của di tích
- Bảo vệ di sản cần phải dựa
trên quan điểm cân bằng với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, trong đó cần lấy
giá trị văn hóa, lịch sử làm động lực để phát triển kinh tế xã hội và ngược lại
phát triển kinh tế xã hội là nguồn lực để bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa.
- Nâng cao vai trò quản lý của
nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di
tích, có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, sự tham gia của cộng đồng địa
phương.
II. MỤC
TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
- Bảo vệ và phát huy giá trị di
tích khảo cổ Đồng Đậu, đưa nơi đây thành một trung tâm văn hóa, lịch sử, một quần
thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng bậc nhất về lịch sử buổi đầu dựng nước
của dân tộc, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, lòng tự
hào lịch sử dân tộc đối với các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh, gắn với
phát triển du lịch.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của cấp uỷ, chính quyền các cấp và cộng đồng dân cư trong việc gìn giữ, bảo tồn
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu nói riêng và di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh
nói chung góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Cụ thể hóa đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa, Nghị quyết số 15/NQ-TU ngày
12/12/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về Xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Giai đoạn 2023 -
2025
(1) Xây dựng, thẩm định, phê duyệt
Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, giai đoạn
2023-2030.
(2) Hoàn thành lập quy hoạch
(quy hoạch di tích, quy hoạch xây dựng) đối với di tích.
(3) Hoàn thành khoanh vùng, cắm
mốc giới các khu vực bảo vệ di tích theo quy định.
(4) Tiến hành nghiên cứu, khai
quật làm sáng tỏ địa bàn cư trú, canh tác, mộ táng và tâm linh của người Việt cổ
tại di tích Đồng Đậu. Tổ chức 02 cuộc Hội thảo khoa học cấp quốc gia và cấp tỉnh
về di tích Đồng Đậu.
(5) Hoàn thành lắp đặt hệ thống
cụm, biển chỉ dẫn, tuyên truyền giới thiệu giá trị tại di tích và các điểm
trung tâm.
(6) Hoàn thành biên soạn, bổ
sung cẩm nang, tài liệu tuyên truyền về giá trị của di tích Đồng Đậu phục vụ
giáo dục truyền thống.
(7) Khai thác và đưa vào hoạt động
tuyến tham quan du lịch về cội nguồn gắn di tích Đồng Đậu với hệ thống các di
tích khảo cổ về thời Hùng vương dựng nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Giai đoạn 2026-2030
(1) Hoàn thành xây dựng hạ tầng
tại khu vực di tích gồm: công viên cây xanh, nhà trưng bày bổ sung di tích.
(2) Đưa vào sử dụng, bảo quản,
khai thác nhà trưng bày bổ sung, các hố khai quật trưng bày ngoài trời tại di
tích phục vụ nghiên cứu, tham quan, học tập.
(3) Hoàn thiện việc kiểm kê
khoa học, sưu tầm, bổ sung tư liệu, trưng bày, số hoá các sưu tập hiện vật về Đồng
Đậu tại Bảo tàng tỉnh, nhà truyền thống huyện Yên Lạc, tích hợp vào chương
trình số hóa du lịch của tỉnh.
(4) Liên kết triển khai các
tuor, tuyến tham quan, học tập, trải nghiệm khảo cổ học cho công chúng tại di
tích Đồng Đậu với các di tích khảo cổ học tiêu biểu tại khu vực trung du Bắc bộ
và đồng bằng sông Hồng.
(5) Lập hồ sơ khoa học trình cấp
có thẩm quyền đề nghị công nhận di tích khảo cổ học Đồng Đậu là di tích quốc
gia đặc biệt.
III. NHIỆM
VỤ
1. Nội
dung nhiệm vụ
1.1. Phối hợp với các cơ quan
chuyên ngành ở Trung ương tiến hành nghiên cứu làm sáng tỏ một cách khoa học
sâu sắc, minh chứng sinh động, phong phú về giá trị về dân tộc học qua địa bàn
cư trú, canh tác, mộ táng và tâm linh của người Việt cổ tại di tích Đồng Đậu, đồng
thời bổ sung các sưu tập hiện vật phục vụ trưng bày tại bảo tàng tỉnh, nhà truyền
thống huyện Yên Lạc, nhà trưng bày bổ sung di tích Đồng Đậu.
- Tiến hành khai quật (lần thứ
8) nhằm nghiên cứu phát hiện các địa điểm về đời sống cư trú, môi trường của
người Việt cổ tại di tích Đồng Đậu.
- Tiến hành khai quật (lần thứ
9) di tích Đồng Đậu nhằm nghiên cứu, phát hiện và làm sáng tỏ các khu vực mộ
táng và khu vực canh tác của người Việt cổ tại Đồng Đậu.
- Tổ chức họp báo, trưng bày
chuyên đề công bố kết quả nghiên cứu, khai quật thu được gắn với công tác bảo vệ
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu.
- Tổ chức một đoàn cán bộ chủ
chốt liên quan đến việc chỉ đạo, xây dựng và thực hiện đề án thăm quan, rút
kinh nghiệm đối với việc bảo vệ, bảo tồn các đề án tương tự ở các nước khác
trên thế giới như: Di sản Khảo cổ học thế giới Bản Chiềng (Thái Lan) có niên đại
gần tương tự như di tích Đồng Đậu, di tích Hà Mẫu Độn (ở tỉnh Chiết Giang,
Trung Quốc) có niên đại tương tự như văn hoá Phùng Nguyên (lớp dưới cùng của Đồng
Đậu), di tích Lương Chử (tỉnh Chiết Giang, Tủng Quốc), di sản văn hoá thế giới
tiêu biểu cho nền văn minh đô thị có niên đại khoảng 5000 năm cách ngày nay.
- Tổ chức Hội thảo khoa học cấp
quốc gia “Đồng Đậu - 65 năm phát hiện và nghiên cứu, (1962-2027)” với sự tham
gia của các nhà khoa học trong và ngoài nước, nội dung hội thảo tập trung đánh
giá về quá trình nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị, định hướng bảo vệ và
phát huy giá trị di tích khảo cổ Đồng Đậu gắn với phát triển bền vững.
- Hệ thống hóa dữ liệu, lựa chọn
các sưu tập hiện vật điển hình qua các cuộc khai quật bổ sung hiện vật trưng
bày tại hệ thống trưng bày thường trực Bảo tàng tỉnh, trưng bày Nhà truyền thống
huyện Yên Lạc, trưng bày tại nhà trưng bày bổ sung di tích Đồng Đậu phục vụ
công chúng.
1.2. Đầu tư xây dựng hạ tầng và
các trung tâm dịch vụ văn hóa du lịch với những công trình chức năng phù hợp gồm:
Hệ thống đường giao thông, khu khuôn viên, điện, nước, cây xanh và các công
trình gồm: Nhà ban quản lý, bãi đỗ xe, nhà trưng bày bổ sung di tích, nhà bảo vệ
các hố khai quật, bia chỉ dẫn tuyến tham quan, các nhà trưng bày và bán vật phẩm
lưu niệm… tại di tích tại di tích khảo cổ học Đồng Đậu.
1.3. Triển khai thực hiện các
phương án bảo vệ di tích Đồng Đậu
- Xây dựng “Quy chế quản lý bảo
vệ khu di tích khảo cổ học Đồng Đậu” quy định những nội dung cụ thể như: Cấm
đào bới trái phép, xây dựng nhà ở, các công trình, trồng cây lưu niên, lợi dụng
các hoạt động canh tác làm ảnh hưởng đến di tích.
- Nghiên cứu điều chỉnh địa giới,
khu vực bảo vệ. Khu vực bảo vệ hiện nay có tổng diện tích là 30.909m2.
Tuy nhiên với giá trị và phạm vi phân bố của di tích rộng cần điều chỉnh cho
phù hợp và đảm bảo công tác quy hoạch, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
- Xây dựng các phương án bảo quản
những địa điểm đã khai quật qua các lần, bảo vệ các thảm thực vật, cây xanh để
tạo địa giới bảo vệ, chống sự xói lở của thiên nhiên và sự xâm chiếm của con
người tại khu di tích.
1.4. Triển khai các hoạt động
nhằm phát huy giá trị di tích phục vụ phát triển du lịch
- Nghiên cứu, biên soạn hệ thống
bia, biển thuyết minh, hướng dẫn bằng chất liệu đẹp, bền vững, nội dung ngắn gọn,
xúc tích, dễ hiểu và chính xác viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh đặt tại các
khu trung tâm huyện Yên Lạc, thị trấn Yên Lạc và khu vực di tích Đồng Đậu.
- Xây dựng nhà trưng bày bổ
sung về khu di tích với quy mô và tại vị trí thích hợp trong khu di tích với
các sưu tập hiện vật, tư liệu phong phú, đa dạng, đặc sắc nhằm giới thiệu đầy đủ
và có hệ thống về vị trí địa lý, sự phân bố, các thành tựu nghiên cứu, bảo vệ
và phát huy giá trị di tích Đồng Đậu.
- Tổ chức trưng bày ngoài trời
tại di tích: Tổ chức trưng bày các hố khai quật khảo cổ với sự hiện diện của
các mặt cắt tầng văn hoá khảo cổ, trong đó hiển thị những dấu tích vật chất của
4 giai đoạn văn hoá khảo cổ liên tục là Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông
Sơn phản ánh sinh động về đời sống sinh hoạt, canh tác, tâm linh của người Việt
cổ khi cư trú tại Đồng Đậu.
- Ứng dụng cộng nghệ thông tin,
để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ phục vụ cho nghiên cứu, trưng bày số,
bảo tàng ảo, tích hợp trong các hoạt động văn hoá, du lịch ở trong tỉnh, kết nối
với các hoạt động chuyên ngành ở trong nước và quốc tế để bảo vệ và phát huy
giá trị di tích.
- Tổ chức khu khảo cổ học thực
nghiệm và hướng dẫn thực hành khảo cổ học thông qua các hoạt động trình diễn thực
nghiệm chế tác và sử dụng công cụ, thực hành khai quật và thể nghiệm tái hiện
cuộc sống thời Hùng Vương cho khách tham quan, đặc biệt là đối tượng khách là học
sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu.
- Tổ chức các chương trình giáo
dục, văn hoá, lịch sử tại di tích Đồng Đậu, thành, đền Gia Loan, chùa Biện Sơn
nhằm giới thiệu, quảng bá, tôn vinh và lan toả giá trị di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể vùng đất Yên Lạc - Tam Đái - Xứ Đoài - Vĩnh Phúc trong nền văn
minh sông Hồng và văn hoá Việt Nam thông qua các chương trình biểu diễn văn hoá
nghệ thuật kết hợp với khu trưng bày giới thiệu và bán vật phẩm lưu niệm, sách
báo, sản phẩm đặc trưng văn hoá ẩm thực của địa phương… phục vụ khách tham
quan.
- Tổ chức các tuyến, điểm tham
quan các di tích lịch sử- văn hoá về thời tiền sơ sử của tỉnh gồm: Đồng Đậu
(Yên Lạc) - Lũng Hoà (Vĩnh Tường) - Nghĩa Lập (Vĩnh Tường) - Gò Hội (Sông Lô) với
các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu của tỉnh, vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
- Chỉnh lý, trưng bày tổ hợp giới
thiệu di tích Đồng Đậu, nơi khởi nguồn của nền văn minh người Việt cổ trên đất
Vĩnh Phúc tại Bảo tàng tỉnh, nhà truyền thống huyện Yên Lạc, nhà trưng bày bổ
sung di tích Đồng Đậu phục vụ tốt nhu cầu tham quan, hưởng thụ văn hoá của nhân
dân.
1.5. Đẩy mạnh các hoạt động
tuyên truyền, giới thiệu quảng bá di tích Đồng Đậu.
- Tổ chức các cuộc trưng bày
chuyên đề giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá về giá trị di tích Đồng Đậu và di
sản văn hoá Vĩnh Phúc tại các địa phương trong và ngoài tỉnh.
- Nghiên cứu, biên soạn, xuất bản
các ấn phẩm về di tích Đồng Đậu gồm sách, báo, tờ gấp, các sản phẩm lưu niệm…giới
thiệu những giá trị đặc trưng tiêu biểu của di tích Đồng Đậu phục vụ tham quan,
nghiên cứu.
- Xây dựng các phóng sự, phim
tài liệu, các trang chuyên mục…tuyên truyền, giới thiệu quảng bá về di tích Đồng
Đậu trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội.
1.6. Khảo sát, điền dã, lập hồ
sơ khoa học trình Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
- Phối hợp với các nhà khoa học
ở trung ương khảo sát đánh giá sâu sắc những giá trị về di tích Đồng Đậu làm cơ
sở khoa học cho việc xây dựng hồ sơ di tích.
- Tập hợp các tư liệu, bản vẽ,
những kết quả khai quật và thành tựu nghiên cứu di tích Đồng Đậu xây dựng hồ sơ
di tích.
- Căn cứ các quy định của Luật
di sản văn hoá lập hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích cấp quốc
gia đặc biệt đối với di tích Đồng Đậu.
2. Kế hoạch
triển khai các nhiêm vụ
2.1. Hoàn thành việc lập quy hoạch
di tích, quy hoạch xây dựng.
- Thời gian thực hiện: Năm
2023-2025
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Cơ quan
nghiên cứu trung ương, UBND huyện Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ
quan, đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Các hồ sơ bản
vẽ quy hoạch
2.2. Tổ chức khảo sát, thực hiện
điều chỉnh cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích Đồng Đậu
- Thời gian thực hiện: Năm 2024
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: cơ quan
nghiên cứu trung ương, UBND huyện Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ
quan, đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Bản đồ
khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích.
2.3. Giải tỏa, thu hồi đất, di
dời toàn bộ các hộ dân đang sinh sống bên trong đất di tích; di rời các mộ chí
hiện có trên bề mặt di tích; chặt các cây lâu năm ảnh hưởng đến tầng văn hóa di
tích… Triển khai đầu tư hạ tầng khu di tích.
- Thời gian thực hiện: Năm
2024-2025
- Đơn vị chủ trì: UBND huyện
Yên Lạc
- Đơn vị phối hợp: Sở Tài
nguyên và Môi trường, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ quan, đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Mặt bằng khu
di tích với các lớp đất văn hóa không bị xâm hại của con người ảnh hưởng đến yếu
tố gốc di tích. Hệ thống cây xanh, đường đi, điện, nước…
2.4. Tiến hành khai quật khảo cổ
tại di tích Đồng Đậu để bổ sung tư liệu, xây dựng nhà trưng bày ngoài trời tại
di tích.
- Thời gian thực hiện: Năm
2024-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Bảo tàng Lịch
sử quốc gia, Viện Khảo cổ học và cơ quan chuyên ngành trung ương, UBND huyện
Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ quan, đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Các hố khai
quật về nơi cư trú, canh tác, mộ táng của người Việt cổ, các sưu tập hiện vật,
Báo cáo kết quả khai quật.
2.5. Tiến hành bảo quản các hố
khai quật minh chứng là địa điểm cư trú, khu vực canh tác và khu vực mộ táng của
người Việt cổ tại Đồng Đậu trong gần 2 thiên niên kỷ.
- Thời gian thực hiện: Năm 2023
-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Bảo tàng Lịch
sử quốc gia, Viện Khảo cổ học và cơ quan chuyên ngành trung ương, UBND huyện
Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ quan, đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Các hố khai
quật được giữ nguyên, bảo quản bằng hóa chất, mái che gồm khu cư trú, khu canh
tác, khu mộ táng.
2.6. Xây dựng Nhà trưng bày bổ
sung khu di tích khảo cổ Đồng Đậu với quy mô và vị trí phù hợp trong khu di
tích, nhằm giới thiệu về di tích và quá trình nghiên cứu, bảo vệ, phát huy khu di
tích.
- Thời gian thực hiện: từ năm
2026-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Sở Xây dựng,
UBND huyện Yên Lạc; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Công trình
nhà trưng bày và hệ thống trưng bày nội thất giới thiệu di tích Đồng Đậu
2.7. Xây dựng trung tâm dịch vụ
văn hóa du lịch với những công trình chức năng: Công viên cây xanh, khu trải
nghiệm khảo cổ học, khu trình diễn văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với sắc
thái văn hóa địa phương…
- Thời gian thực hiện: từ năm
2026-2030
- Đơn vị chủ trì: UBND huyện
Yên Lạc
- Đơn vị phối hợp: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Sở Xây dựng, các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Hệ thống cây
xanh, các hạng mục công trình trải nghiệm
2.8. Triển khai các giải pháp
khai thác di tích phục vụ du lịch: các hoạt động văn hóa, thể thao, biểu diễn
nghệ thuật truyền thống…thu hút khách đến với di tích.
- Thời gian thực hiện: từ năm
2024-2030
- Đơn vị chủ trì: Ủy ban nhân
dân huyện Yên Lạc
- Đơn vị phối hợp: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Các hoạt động,
chương trình nghệ thuật
2.9. Trưng bày hiện vật tài liệu
giới thiệu di tích Đồng Đậu tại Bảo tàng tỉnh; Khu du lịch quốc gia Tam Đảo;
Khu du lịch Tây Thiên, Đại Lải.
- Thời gian thực hiện: Hằng năm,
từ năm 2023-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: UBND các huyện
Tam Đảo, UBND thành phố Phúc Yên; các đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Không gian
giới thiệu, quảng bá về di tích Đồng Đậu.
2.9. Tiến hành số hóa và tích hợp
các sưu tập hiện vật tài liệu khu di tích khảo cổ học Đồng Đậu tại nhà truyền
thống huyện Yên Lạc, Bảo tàng tỉnh, và chương trình số hóa du lịch.
- Thời gian thực hiện: từ năm
2026-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Sở Thông tin
và Truyền thông, UBND huyện Yên Lạc; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Phần mềm số
hóa hiện vật, các trang thông tin điện tử công nghệ 3D, 4D.
2.10. Lắp dựng hệ thống bia, biển
thuyết minh, hướng dẫn tại di tích
- Thời gian thực hiện: Năm 2024
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: UBND huyện
Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc và các cơ quan, đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Bia, biển chỉ
dẫn tại khu di tích, trung tâm huyện Yên Lạc, các tuyến đường chính dẫn vào khu
di tích.
2.11. Tổ chức Hội thảo khoa học
cấp tỉnh về di tích khảo cổ Đồng Đậu
- Thời gian thực hiện: Năm 2025
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Các cơ quan
nghiên cứu trung ương, địa phương; UBND huyện Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc;
các đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Lập Kỷ yếu,
kết luận hội thảo
2.12. Tuyên truyền quảng bá
trên các phương tiện thông tin đại chúng ở tỉnh, trung ương
- Thời gian thực hiện: Hằng
năm, từ năm 2023-2030.
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Báo Vĩnh
Phúc, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Các chương
trình giới thiệu, quảng bá
2.13. Chỉnh lý, biên soạn, xuất
bản sách, phim tài liệu, băng đĩa hình về di tích Đồng Đậu bằng tiếng Việt và
tiếng Anh để tuyên truyền, quảng bá, giáo dục về giá trị di tích.
- Thời gian thực hiện: Hằng
năm, từ năm 2023-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Các nhà nghiên
cứu trung ương, địa phương; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Các công
trình nghiên cứu, sách, phim, băng đĩa hình, tờ rơi…
2.14. Biên soạn các tài liệu, cẩm
nang giới thiệu di tích khảo cổ học Đồng Đậu trong giáo dục về lịch sử địa
phương đối với các cấp học phổ thông của tỉnh.
- Thời gian thực hiện: Từ năm
2024-2030.
- Đơn vị chủ trì: Sở Giáo dục
và Đào tạo.
- Đơn vị phối hợp: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; UBND các huyện thành phố; các đơn vị liên quan.
- Kết quả dự kiến: Chương trình
giáo dục lịch sử văn hóa địa phương cho học sinh các cấp học phổ thông trên địa
bàn tỉnh.
2.15. Quảng bá về di tích Đồng
Đậu gắn với chương trình xúc tiến du lịch tỉnh Vĩnh Phúc (xúc tiến trong nước
và nước ngoài).
- Thời gian thực hiện: Hằng
năm, từ năm 2023-2030
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: UBND huyện
Yên Lạc; các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Các chương
trình giới thiệu, quảng bá trong nước, quốc tế.
2.16. Xây dựng đề án, đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ nhân viên tại
khu di tích
- Thời gian thực hiện: Năm
2026-2027
- Đơn vị chủ trì: UBND huyện
Yên Lạc
- Đơn vị phối hợp: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Kết quả dự kiến: Thành lập
Ban quản lý di tích trực thuộc UBND huyện
2.17. Xây dựng hồ sơ khoa học đề
nghị Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt
- Thời gian thực hiện: Năm
2026-2027
- Đơn vị chủ trì: Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
- Đơn vị phối hợp: Các cơ quan
nghiên cứu trung ương, địa phương; UBND huyện Yên Lạc, UBND thị trấn Yên Lạc;
các đơn vị liên quan
- Kết quả dự kiến: Hồ sơ xếp hạng,
Quyết định, Bằng xếp hạng di tích
IV. GIẢI
PHÁP THỰC HIỆN
1. Tăng cường công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và sự phối hợp giữa các cấp, các ngành
- Tăng cường và nâng cao hiệu
quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự vào cuộc
của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích.
- Thực hiện hiệu quả Luật Di sản
văn hóa, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
trong việc triển khai thực hiện các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích
Đồng Đậu.
- Ngành văn hóa, thể thao và du
lịch các cấp phối hợp với các sở, ban ngành, hội đoàn thể và địa phương triển
khai nhiệm vụ bảo tồn, phát huy di tích Đồng Đậu gắn với bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa tại địa phương.
- Thường xuyên kiểm tra, xử lý
các hành vi phạm pháp luật về di sản văn hóa, đặc biệt là các hành vi xâm chiếm
và phá hủy các yếu tố cấu thành di tích.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với
các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp trong việc đầu tư bảo
tồn, tu bổ di tích. Trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án xem xét đưa các
chỉ tiêu thực hiện cụ thể vào nghị quyết của các cấp ủy đảng, kế hoạch nhà nước
của các cấp chính quyền để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo.
- Căn cứ đặc điểm, tình hình của
địa phương, trên cơ sở đảm bảo hài hòa, tương thích với Luật Di sản văn hóa,
các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động quản lý, bảo tồn, phát
huy giá trị di tích để xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về đầu tư,
huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực xã hội hóa trong và ngoài nước tham
gia đầu tư, hỗ trợ các dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ di tích.
2. Tuyên truyền, nâng cao nhận
thức về di sản văn hóa
- Thực hiện có hiệu quả công
tác tuyên truyền, giáo dục về các giá trị của di tích lịch sử văn hóa. Tập
trung tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu rộng rãi các di tích cho du
khách trong và ngoài nước thông qua ấn phẩm quảng cáo, tập gấp, sách hướng dẫn,
mạng Internet, các cuộc hội thảo, hội chợ...
- Tổ chức các lớp tuyên truyền,
tập huấn về di sản văn hóa nói chung và di tích Đồng Đậu nói riêng, chú trọng đến
cộng đồng xã hội có di tích để công tác gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di
tích có sự tham gia tích cực của nhân dân địa phương.
- Tuyên truyền sâu rộng chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực di sản văn
hóa bằng nội dung nội dung và hình thức phù hợp với từng địa bàn, dân tộc. Thực
hiện có hiệu quả công tác phối hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền
hình ở trung ương, địa phương; khai thác, tận dụng hiệu quả, đúng quy định các
phương tiện thông tin, đại chúng, các trang mạng xã hội nhằm tuyên truyền, giáo
dục, quảng bá các giá trị di tích.
- Chú trọng tuyên truyền, giáo
dục cho học sinh, sinh viên, các thế hệ trẻ của tỉnh về truyền thống yêu nước,
tinh thần cách mạng, giá trị di tích lịch sử... để có trách nhiệm hơn trong sự
nghiệp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
- Tăng cường hợp tác với các cơ
quan, đơn vị truyền thông trong việc quảng bá, tiếp thị, tập trung giới thiệu rộng
rãi hệ thống di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh dưới góc độ
tài nguyên du lịch văn hóa cho du khách trong và ngoài tỉnh thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm quảng cáo, tập gấp, sách hướng dẫn,
các cuộc hội chợ, triển lãm... nhằm tìm kiếm các cơ hội giao lưu, hợp tác về
văn hóa, xúc tiến quảng bá, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính và kinh nghiệm bảo
tồn và phát huy di tích từ hợp tác trong và ngoài nước.
3. Đầu tư, huy động các nguồn
lực bảo vệ và phát huy giá trị di tích
- Đầu tư xây dựng đồng bộ, hệ
thống các điểm, khu di tích đặc trưng, tiêu biểu thành "bảo tàng ngoài trời",
quần thể công trình quy mô lớn để hình thành Di tích Đồng Đậu là sản phẩm văn
hóa - du lịch mang tính đặc trưng, thương hiệu về du lịch văn hoá cội nguồn,
tâm linh, tạo sự đột phá, sức hấp dẫn nhân dân và du khách trong và ngoài nước…
- Đầu tư phục dựng, bảo tồn
phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể và không gian văn hóa gắn liền
với di tích.
- Mở rộng mối quan hệ quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ và khai thác di sản; kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước.
- Huy động, quản lý, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa để bảo tồn, phát huy giá trị di tích nói
riêng, hệ thống di sản văn hóa nói chung trên cơ sở định hướng của Nhà nước.
- Tăng cường hợp tác, nghiên cứu
khoa học, phối hợp với các cơ quan nghiên cứu trung ương nghiên cứu, khai quật,
tổ chức hội thảo khoa học về di tích.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển nhân lực, đặc biệt tập trung vào đội ngũ quản lý, hướng dẫn viên,
lao động nghiệp vụ; chú trọng nâng cao nhận thức về văn hóa lịch sử, bảo vệ môi
trường, kỹ năng giao tiếp đối với đội ngũ lao động trực tiếp phục vụ khách du lịch.
V. KINH
PHÍ THỰC HIỆN
- Kinh phí thực hiện Đề án được
bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước
- Tổng kinh phí:
148.623.000.000 đồng (Phụ lục 7)
Phần thứ Tư
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I. Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch
- Chủ trì, phối hợp với các sở,
ban ngành và UBND huyện Yên Lạc rà soát, khảo sát, đánh giá thực trạng cụ thể
các di tích tiến hành tu bổ, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích.
- Chủ trì, phối hợp với các sở,
ban ngành có liên quan, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính
sách quản lý, hỗ trợ cho người dân và các tổ chức cá nhân trong việc bảo vệ và
phát huy giá trị di tích, phục vụ cho phát triển du lịch và bảo tồn các giá trị
văn hóa chung của dân tộc.
- Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện công tác bảo tồn phát huy giá trị di tích.
- Phối hợp với Sở Tài nguyên và
Môi trường và UBND huyện Yên Lạc xác định mốc giới, vẽ bản đồ số hóa di tích, lập
thủ tục cấp quyền sử dụng đất, trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt theo đúng quy
định.
- Tổ chức thực hiện việc bảo tồn
di tích theo đúng các quy định của pháp luật.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra
việc quản lý, hoạt động, hiện trạng của các di tích để kịp thời khắc phục tồn tại.
- Căn cứ nội dung Đề án, hàng
năm xây dựng kế hoạch và lập dự toán ngân sách có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
và xác định nhu cầu kinh phí gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính tổng hợp,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
II. Sở Kế hoạch và Đầu tư
Chủ trì tham mưu cấp có thẩm
quyền cân đối, bố trí nguồn vốn đầu tư công ngân sách tỉnh triển khai các nhiệm
vụ liên quan đến công tác đầu tư xây dựng cơ bản để thực hiện Đề án, đảm bảo
đúng quy định.
III. Sở Tài chính
Chủ trì, thẩm định dự toán chi
thường xuyên để trình cấp có thẩm quyền xem xét, bố trí kinh phí trong dự toán
hàng năm theo khả năng cân đối ngân sách địa phương để thực hiện Đề án theo quy
định.
VI. Sở Tài nguyên và Môi trường
- Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan, UBND huyện Yên Lạc cập nhật ranh giới
và diện tích bảo vệ di tích vào quy hoạch sử dụng đất và cơ sở dữ liệu đất đai
theo quy định, tham mưu việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích
đảm bảo yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
- Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, UBND huyện Yên Lạc trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các quy
định đối với việc xác định ranh giới và cắm mốc ranh giới các khu vực bảo vệ di
tích, hướng dẫn việc lập và xác nhận vào bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích.
V. Sở Xây dựng
- Chủ trì, phối hợp với các sở,
ban, ngành và địa phương có liên quan thẩm định các dự án về xây dựng, cải tạo
các công trình di tích và khu vực liên quan theo quy định của pháp luật.
- Thẩm định quy hoạch, điều chỉnh
quy hoạch xây dựng theo chức năng và nhiệm vụ được giao.
VI. Công an tỉnh
Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân huyện Yên Lạc giữ gìn an ninh trật tự trong
các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích, ngăn chặn và xử lý các hành
vi mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật thuộc di tích; các
hành vi xâm phạm di tích.
VII. Sở Giáo dục và Đào tạo,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh
- Có trách nhiệm phối hợp với Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND huyện Yên Lạc tiếp tục triển khai các hoạt động
chăm sóc, tôn tạo, phát huy giá trị di tích trong học sinh, đoàn viên thanh
niên.
- Chủ trì phối hợp với Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch , UBND huyện Yên Lạc tổ chức giáo dục cho học sinh,
sinh viên và đoàn viên thanh niên về bảo vệ và phát huy giá trị di tích; đưa việc
học tập, tham quan, nghiên cứu di tích vào chương trình giáo dục ngoại khóa
hàng năm của các cấp học, trường học; huy động lực lượng đoàn viên thanh niên
các cấp tham quan tìm hiểu về lịch sử văn hóa tại di tích.
VIII. Sở Thông tin và Truyền
thông, Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh
- Sở Thông tin và Truyền thông
phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND huyện Yên Lạc tăng cường chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn tỉnh đẩy mạnh và đổi
mới các hoạt động truyền thông, tuyên truyền sâu rộng về mục đích, ý nghĩa của
việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.
- Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh
- Truyền hình tỉnh dành diện tích báo, thời lượng đăng tải, phát sóng các tác
phẩm viết, hình ảnh, tư liệu về giá trị di tích nhằm nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của công dân và toàn xã hội trong việc trùng tu, tôn tạo và phát huy giá
trị của các di tích.
IX. UBND huyện Yên Lạc
- Tăng cường tổ chức tuyên truyền,
phổ biến những quy định pháp luật về bảo tồn, phát huy giá trị di tích tại địa
phương. Vận động, tuyên truyền, giáo dục nhân dân thị trấn Yên Lạc có ý thức,
trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ di tích, coi đây là di sản quý báu, niềm tự hào của
nhân dân địa phương.
- Xây dựng kế hoạch bảo vệ, bảo
quản, tu bổ, phát huy giá trị di tích hàng năm, cân đối, bố trí kinh phí đảm bảo
triển khai thực hiện tại địa phương.
- Cập nhật quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất gửi Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định trình các cấp có thẩm quyền
phê duyệt, làm cơ sở và triển khai các bước tiếp theo.
- Chỉ đạo UBND thị trấn Yên Lạc
tiến hành giải phóng mặt bằng, di dời, giải toả, xử lý các công trình vi phạm
di tích; thành lập Ban Quản lý di tích Đồng Đậu. Cơ cấu thành viên Ban Quản lý
các di tích theo đúng quy định phân cấp di tích.
- Hằng năm, bố trí kinh phí từ
nguồn ngân sách nhà nước đã được phân cấp và tổ chức huy động kinh phí từ các
nguồn lực xã hội để bảo vệ, làm vệ sinh môi trường và sửa chữa nhỏ di tích, đảm
bảo không phá vỡ những bộ phận cấu thành di tích gốc.
- Thường xuyên kiểm tra, thanh
tra và kịp thời xử lý các hành vi phạm di tích trên địa bàn hoặc đề nghị các cơ
quan chức năng xử lý theo thẩm quyền; định kỳ sơ kết, đánh giá tình hình và báo
cáo kết quả thực hiện về UBND tỉnh (qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) để chỉ
đạo./.
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH DI TÍCH THỜI TIỀN HÙNG VƯƠNG TRÊN ĐẤT VĨNH
PHÚC
TT
|
Di tích
|
Vị trí xã, huyện
|
Giai đoạn văn hóa
|
Đặc trưng di tích và di vật
|
1
|
Gò Đặng
|
Đôn Nhân, Lập Thạch
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gò đồi, Có rìu đá gốm thô
|
2
|
Gò Sỏi
|
Đôn Nhân, Lập Thạch
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gò đồi, có rìu đã, bàn mài gốm
thô
|
3
|
Gò Hội
|
Hải Lựu, Lập Thạch
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu đã, chạc gốm, gốm thô
|
4
|
Nghĩa Lập
|
Nghĩa Hưng, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu bôn, đục, bàn mài, vòng, hoa
tai, có nhiều hố đất đen
|
5
|
Lũng Hòa
|
Lũng Hòa, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Di chỉ cư trú và mộ địa lớn.
Rìu bôn, đục, hoa tai, qua đá. Nhiều gốm nguyên
|
6
|
Đồng Hương
|
Thổ Tang, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Có rìu tứ giác, gốm thô
|
7
|
Ma Cả
|
Thổ Tang, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Di chỉ cư trú, có 1 mộ Phùng
Nguyên. Có rìu tứ giác, đục, bàn mài, gốm thô.
|
8
|
Mò Mát
|
Lũng Hòa, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gốm thô, chày đá
|
9
|
Gò Đồng Củ
|
Lũng Hòa, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gốm, rìu tứ giác - tầng văn
hóa không rõ
|
10
|
Gò Đuông
|
Bồ Sao, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gốm, rìu tứ giác - tầng văn
hóa không rõ.
|
11
|
Đồng Đậu
|
Thị Trấn Yên Lạc, Yên Lạc
(trước kia là xã Minh Tân)
|
3 Giai đoạn văn hóa:
- Phùng Nguyên
- Đồng Đậu
- Gò Mun
|
Di chỉ cư trú, luyện đúc đồng,
có 1 mộ Gò Mun và 2 mộ Phùng Nguyên. có nhiều khuôn đúc đồng, nhiều đồ xương,
đồ đồng có rìu xòe cân, mũi tên, mũi lao lưỡi câu, dũa v.v... có Tượng bò,
gà, đầu người bằng đất nung.
|
12
|
Gò Chùa Biện Sơn
|
Thị Trấn Yên Lạc
|
Văn hóa Phùng Nguyên và sau
Phùng Nguyên
|
Rìu đá tứ giác, gốm thô. Lớp
trên có rìu đồng xòe cân
|
13
|
Gò Mã Hòn
|
Đồng Cương, Yên Lạc
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu đá, tứ giác, gốm thô
|
14
|
Quán Đôi
|
Đồng Cương, Yên Lạc
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu tứ giác, bàn mài gốm thô
|
15
|
Gò Gai
|
Bình Định, Yên Lạc
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu tứ giác, có rìu vai, bàn
đập có rãnh song song, gốm mịn nhiều hơn gốm thô.
|
16
|
Tháp Miếu
|
Thị xã Phúc Yên, Mê Linh
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Gò đồi - Rìu tứ giác, mảnh
vòng, gốm thô
|
17
|
Gò Ngành
|
Tam Hợp, Bình Xuyên
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu tứ giác, mảnh vòng, gốm
thô
|
18
|
Suối Trại
|
Đại Đình, Tam Dương
|
Văn hóa Phùng Nguyên
|
Rìu tứ giác, gốm thô
|
19
|
Đinh Xá
|
Nguyệt Đức, Yên Lạc
|
Văn hóa Đồng Đậu
|
Rìu đá, vòng mặt cắt hình chữ
nhật lớn, gốm thô
|
20
|
Thành Dền
|
Tự Lập, Mê Linh
|
Văn hóa Đồng Đậu
|
Di chỉ cư trú, luyện đúc đồng
và 2 mộ Đồng Đậu, có 46 khuôn đúc, rìu xòe cân, lưỡi câu, mũi tên, có 1 số tượng
bò, gà bằng đất nung.
|
21
|
Núi Cả
|
Thị Xã Phúc Yên, Mê Linh
|
Văn hóa Gò Mun
|
Gốm mô hoa văn kiểu Gò Mun Gò
đồi
|
22
|
Thành Vượn
|
Tam Đồng, Mê Linh
|
Văn hóa Gò Mun
|
Nhiều gốm hoa văn kiểu Gò Mun
|
23
|
Yên Lập
|
Yên Lập, Vĩnh Tường
|
Thời đại Kim khí
|
Phát hiện 2 mai đã kích thước
lớn
|
24
|
Đồng Chăm
|
Quang Yên, Lập Thạch
|
Thời đại Kim khí
|
Phát hiện cuốc đá có vai
|
PHỤ LỤC 2
DANH SÁCH DI TÍCH, DI VẬT VĂN HOÁ ĐÔNG SƠN PHÁT HIỆN
TRÊN ĐẤT VĨNH PHÚC
TT
|
Di tích nơi phát hiện
|
Vị trí xã, huyện
|
Giai đoạn văn hóa
|
Đặc trưng di tích và di vật
|
1
|
Hương Ngọc
|
Xã Hương Sơn, huyện Bình
Xuyên
|
Văn hóa Đông Sơn
|
Rìu đá, vòng đá lớn, hoa tai,
dao đồng, giáo đồng, nhiều gốm thô.
|
2
|
Ngõ Bút
|
Nguyệt Đức, Yên Lạc
|
Văn hóa Đông Sơn
|
Tầng văn hóa dày 0,40-0,50m,
dọi xe sợi rìu đá, 1 rìu đồng xòe cân, gốm kiểu đường Cồ
|
3
|
Đồng Cốc
|
Nguyệt Đức, Yên Lạc
|
Văn hóa Đông Sơn
|
Tầng văn hóa 0,30 - 0,40m, gốm
trắng mốc kiểu Đường Cồ.
|
4
|
Đồng Hai Cày
|
Nguyệt Đức Yên Lạc
|
Văn hóa Đông Sơn
|
Tầng văn hóa dày 0,30, gốm
thô kiểu Đông Sơn, 1 rìu xéo gót vuông
|
5
|
Vĩnh Sơn
|
Vĩnh Sơn, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Đông Sơn
|
|
6
|
Đồng Ba Bậc
|
Đôn Nhân, Lập Thạch
|
Văn hóa Đông Sơn
|
1 lưỡi rìu xòe cân
|
7
|
Đôn Mục
|
Đôn Nhân, Lập Thạch
|
Văn hóa Đông Sơn
|
1 rìu xéo gót vuông, 2 mũi
giáo.
|
8
|
Nghĩa Lập
|
Nghĩa Hưng, Vĩnh Tường
|
Văn hóa Đông Sơn
|
6 mũi giáo, 3 rìu xéo gót
vuông, 1 rìu xòe cân, 1 mũi tên đồng, 1 hiện vật đồng lạ, 1 móc.
|
9
|
Đồng Đậu
|
Thị trấn Yên Lạc
|
|
11 rìu xòe cân, nhiều gốm
thô.
|
10
|
Gò Chùa Biện Sơn
|
Thị Trấn Yên Lạc
|
Văn hóa Đông Sơn
|
1 rìu xòe cân, nhiều gốm thô.
|
11
|
Minh Quang
|
Minh Quang, Bình Xuyên
|
Văn hóa Đông Sơn
|
1 trống đồng loại I Hegô muộn
thuộc nhóm Đ1.
|
12
|
Đạo Trù
|
Đạo Trù, Bình Xuyên
|
Văn hóa Đông Sơn hoặc muộn
hơn
|
1 trống đồng loại I ghegơ muộn
thuộc nhóm Đ1.
|
13
|
Các nơi trong tỉnh
|
Chưa xác định
|
Văn hóa Đông Sơn
|
Gồm 1 rìu đồng hình thang, 1
rìu xòe cân, 2 rìu xòe, 2 mũi giáo, 4 mũi lao.
|
PHỤ LỤC 3
THỐNG KÊ ĐỒ ĐÁ PHÁT HIỆN TẠI DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU QUA CÁC LẦN
KHAI QUẬT
Tên hiện vật
|
1965
|
1969
|
1984
|
1987
|
1999
|
Tổng
|
Tỷ lệ
|
Công cụ sản xuất
|
330
|
285
|
84
|
15
|
135
|
849
|
57.05
|
Rìu
|
58
|
96
|
6
|
3
|
28
|
201
|
13.51
|
Bôn
|
111
|
93
|
25
|
3
|
15
|
247
|
16.60
|
Đục
|
7
|
14
|
9
|
|
7
|
37
|
2.49
|
Dao
|
1
|
7
|
5
|
1
|
1
|
15
|
1.01
|
Bàn mài
|
139
|
66
|
33
|
3
|
55
|
297
|
19.96
|
Bàn dập
|
1
|
3
|
1
|
|
2
|
7
|
0.47
|
Hòn ghè
|
1
|
|
2
|
|
|
3
|
0.20
|
Đe
|
2
|
1
|
1
|
|
1
|
3
|
0.20
|
Khuôn đúc
|
|
5
|
2
|
|
1
|
10
|
0.67
|
Mảnh rìu bôn
|
|
|
|
5
|
23
|
28
|
1,88
|
Công cụ chặt rìa lưỡi dọc
|
|
|
|
|
1
|
1
|
0.07
|
Vũ khí
|
7
|
11
|
|
1
|
1
|
25
|
1.68
|
Qua
|
2
|
3
|
3
|
1
|
|
9
|
0.60
|
Lao
|
1
|
2
|
|
|
|
3
|
020
|
Giáo
|
4
|
4
|
|
|
|
8
|
054
|
Mũi tên
|
|
2
|
2
|
|
1
|
5
|
0.34
|
Đồ dùng sinh hoạt
|
35
|
l
|
1
|
|
|
37
|
2.49
|
Chày
|
32
|
|
1
|
|
|
33
|
222
|
Bàn nghiền
|
3
|
1
|
|
|
|
4
|
027
|
Đổ trang sức
|
225
|
188
|
67
|
18
|
45
|
543
|
36.49
|
Vòng
|
195
|
157
|
48
|
13
|
39
|
453
|
30.44
|
Hạt chuỗi
|
|
4
|
1
|
1
|
2
|
14
|
0.94
|
Hoa tai
|
6
|
22
|
18
|
2
|
4
|
52
|
3.49
|
Nhẫn
|
17
|
1
|
|
2
|
|
1
|
0.07
|
Đồ trang sức hình răng thú
|
|
4
|
|
|
|
2
|
0.13
|
Đồ trang sức khác
|
|
|
|
|
|
21
|
1.42
|
Hiện vật khác
|
7
|
4
|
3
|
4
|
16
|
34
|
2.28
|
Phác vật
|
6
|
2
|
3
|
1
|
10
|
22
|
1.48
|
Mảnh đá hình tròn
|
|
1
|
|
|
|
1
|
0.07
|
Lõi vòng
|
1
|
1
|
|
1
|
2
|
5
|
0.34
|
Phiến cuội có vết mài
|
|
1
|
|
2
|
|
2
|
0.13
|
Mảnh tước
|
|
|
|
1
|
4
|
4
|
0.27
|
Tổng
|
604
|
489
|
160
|
38
|
197
|
1488
|
100
|
PHỤ LỤC 4
THỐNG KÊ ĐỒ GỐM PHÁT HIỆN TẠI DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU QUA CÁC LẦN
KHAI QUẬT
Loại hình
|
1965
|
1969
|
1984
|
1987
|
1999
|
Tổng
|
Đổ dùng sinh hoạt
|
13
|
7
|
1
|
|
6
|
|
Nồi
|
8
|
3
|
|
|
3
|
|
Bát
|
2
|
1
|
|
|
1
|
|
Bình
|
3
|
2
|
|
|
2
|
|
Chén
|
|
1
|
|
|
|
|
Đèn hình vịt
|
|
|
1
|
|
|
|
Công cụ sản xuất
|
116
|
70
|
59
|
9
|
60
|
|
Bàn dập
|
|
|
|
|
1
|
|
Dọi xe chỉ
|
26
|
28
|
14
|
2
|
22
|
92
|
Chì lưới
|
|
|
1
|
2
|
|
|
Nổi nấu đồng
|
|
|
3
|
2
|
17
|
|
Dụng cụ rót đổng
|
|
1
|
|
|
|
|
Khuôn đúc
Lõi khuôn
|
|
1
|
4
|
1
|
2
|
5
3
|
Bi gốm
|
90
|
40
|
37
|
2
|
18
|
187
|
Đồ trang sức
|
|
|
|
|
1
|
1
|
Hoa tai
|
|
|
|
|
1
|
1
|
Tượng gốm
|
7
|
4
|
4
|
1
|
3
|
19
|
Tượng người
|
|
1
|
|
|
|
1
|
Tượng động vật
|
7
|
3
|
4
|
1
|
3
|
18
|
Hiện vật khác
|
2
|
4
|
|
1
|
6
|
13
|
Thỏi đất nung
|
9
|
|
|
1
|
3
|
4
|
Đầu rau
|
1
|
|
|
|
|
1
|
Chân chạc
|
1
|
2
|
|
|
3
|
6
|
Mảnh gốm ghè tròn
|
|
2
|
|
|
|
2
|
Mảnh chân chạc
|
59
|
2985
|
|
193
|
1733
|
4970
|
Mảnh chõ
|
|
|
15
|
|
|
15
|
Mảnh gốm
|
19.992
|
109.508
|
22.436
|
12.040
|
88.475
|
25.2451
|
PHỤ LỤC 5
THỐNG KÊ ĐỒ ĐỒNG PHÁT HIỆN TẠI DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU QUA CÁC
LẦN KHAI QUẬT
Tên hiện vật
|
1965
|
1969
|
1984
|
1987
|
1999
|
Tổng
|
Tỷ lệ
|
Công cụ sản xuất
|
32
|
57
|
26
|
5
|
19
|
140
|
46.20
|
Rìu
|
4
|
1
|
1
|
1
|
|
7
|
2.31
|
Mảnh rìu
|
|
2
|
|
|
|
2
|
0.66
|
Đục
|
2
|
|
2
|
|
|
4
|
1.32
|
Thuổng
|
|
|
2
|
|
|
2
|
0.66
|
Bàn chải
|
|
6
|
1
|
|
|
7
|
2.31
|
Dao
|
2
|
5
|
2
|
|
|
9
|
2.97
|
Nạo
|
|
1
|
|
|
|
1
|
0.33
|
Búa
|
7
|
7
|
1
|
|
|
15
|
4.95
|
Lưỡi câu
|
ố
|
20
|
11
|
|
6
|
43
|
14.19
|
Dùi
|
10
|
15
|
6
|
4
|
15
|
50
|
16.50
|
Vũ khi
|
15
|
51
|
11
|
7
|
12
|
96
|
31.68
|
Lao
|
|
12
|
1
|
1
|
4
|
18
|
5.94
|
Giáo Mũi tên
|
15
|
3 36
|
1 9
|
6
|
8
|
4 74
|
1.32 24.42
|
Đồ dùng sinh hoạt
|
3
|
2
|
2
|
0
|
5
|
12
|
3.96
|
Kim khâu
|
3
|
2
|
2
|
|
5
|
12
|
3.96
|
Đố trang sức
|
|
|
1
|
1
|
|
2
|
0.66
|
Vòng
|
|
|
1
|
1
|
|
2
|
0.66
|
Hiện vật khác
|
6
|
18
|
10
|
7
|
12
|
53
|
17.49
|
Dây đồng
|
6
|
9
|
|
3
|
|
18
|
5.94
|
Thanh đồng
|
|
3
|
|
|
|
3
|
0.99
|
Phác vật lưỡi câu
|
|
1
|
5
|
|
|
6
|
1.98
|
Không xác định
|
|
5
|
5
|
|
|
10
|
3.30
|
Mảnh hiện vật đồng
|
|
|
|
4
|
12
|
16
|
5.28
|
Tổng
|
55
|
128
|
50
|
20
|
48
|
303
|
100
|
PHỤ LỤC 6
THỐNG KÊ ĐỒ XƯƠNG , SỪNG PHÁT HIỆN TẠI DI TÍCH ĐỒNG ĐẬU
QUA CÁC LẦN KHAI QUẬT
Tên hiện vật
|
1965
|
1969
|
1984
|
1987
|
1999
|
Tổng
|
Tỷ lệ
|
Công cụ sản xuất
|
4
|
15
|
13
|
4
|
13
|
49
|
20.94
|
Đục
|
|
1
|
1
|
1
|
|
3
|
1:28
|
Dọi xe chỉ
|
|
1
|
|
|
|
1
|
0.43
|
Dao
|
1
|
|
6
|
|
|
7
|
2.99
|
Mũi nhọn
|
3
|
13
|
6
|
3
|
13
|
38
|
16.24
|
Vũ khí
|
8
|
64
|
38
|
30
|
10
|
150
|
64.10
|
Giáo
|
|
|
|
2
|
|
2
|
0.85
|
Lao
|
|
25
|
19
|
1
|
1
|
46
|
19.66
|
Mũi tên
|
|
25
|
19
|
27
|
9
|
101
|
43.16
|
Móc câu
|
1
|
|
|
|
|
1
|
0.43
|
Đồ dùng sinh hoạt
|
|
|
|
|
1
|
1
|
0.43
|
Kim khâu
|
|
|
|
|
1
|
1
|
0.43
|
Đồ trang sức
|
|
4
|
4
|
|
7
|
15
|
6.41
|
Vòng
|
|
2
|
|
|
3
|
5
|
2.14
|
Hiện vật xương sừng có lỗ sâu
|
|
1
|
|
|
1
|
2
|
0.85
|
Bùa (răng nanh có lỗ xuyên)
|
|
1
|
4
|
|
3
|
8
|
3.42
|
Hiện vật khác
|
1
|
6
|
|
7
|
5
|
19
|
8.12
|
Phác vật mũi nhọn
|
|
|
|
|
2
|
2
|
0.85
|
Xương, răng có vết mài, cắt gọt,
cưa
|
1
|
3
|
|
7
|
1
|
12
|
5.13
|
Hiện vật chưa xác định
|
|
3
|
|
|
2
|
5
|
2.14
|
Tổng
|
13
|
89
|
55
|
41
|
36
|
234
|
100
|
PHỤ LỤC 7
KHÁI TOÁN KINH PHÍ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DI CHỈ KHẢO CỔ HỌC
ĐỒNG ĐẬU THỊ TRẤN YÊN LẠC HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
(Giai đoạn 2023- 2030)
TT
|
Nội dung công việc
|
PHÂN KÝ KINH PHÍ (Triệu đồng)
|
Cộng
|
Giai đoạn 2023-2025
|
Giai đoạn 2026-2030
|
2023
|
2024
|
2025
|
2026
|
2027
|
2028
|
2029
|
2030
|
I
|
NGUỒN VỐN SỰ NGHIỆP
VĂN HÓA
|
|
|
|
|
|
|
|
|
9.519
|
1
|
Xây dựng Đề án bảo vệ và phát
huy giá trị di tích khảo cổ học Đồng Đậu, giai đoạn 2023-2025, định hướng đến
năm 2030
|
540
|
|
|
|
|
|
|
|
540
|
2
|
Lắp dựng hệ thống bia, biển
thuyết minh, hướng dẫn tại di tích
|
|
734
|
|
|
|
|
|
|
734
|
3
|
Tuyên truyền, quảng bá di
tích khảo cổ học
|
|
|
648
|
642
|
726
|
450
|
450
|
500
|
3.415
|
4
|
Trưng bày hiện vật, tài liệu giới
thiệu về di tích đồng đậu tại Bảo tàng tỉnh, KDL Tam Đảo, KDL Tây thiên, KDL
Đại Lải
|
|
450
|
300
|
300
|
420
|
350
|
367
|
450
|
2.637
|
5
|
Quảng bá về di tích đồng đậu
gắn với chương trình xúc tiến du lịch tỉnh vĩnh phúc (xúc tiến trong và ngoài
nước)
|
|
200
|
200
|
200
|
200
|
200
|
200
|
200
|
1.400
|
6
|
Xây dựng hồ sơ xếp hạng di
tích quốc gia đặc biệt
|
|
|
|
793
|
|
|
|
|
793
|
II
|
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
CÔNG
|
|
|
|
|
|
|
|
|
139.104
|
1
|
Khai quật khảo cổ tại di tích
đồng đậu để bổ sung tư liệu
|
|
5.000
|
|
|
4.200
|
|
|
|
9.200
|
2
|
Hoàn thành lập quy hoạch (quy
hoạch di tích, quy hoạch xây dựng), triển khai đầu tư hạ tầng khu di tích
|
|
2.000
|
2.000
|
|
|
|
|
|
4.000
|
3
|
Tổ chức khảo sát, điều chỉnh
cắm mốc giới
|
|
1.752
|
|
|
|
|
|
|
1.752
|
4
|
Giải tỏa, thu hồi đất, di dời
toàn bộ các hộ dân đang sinh sống bên trong đất di tích; di rời các mộ chí hiện
có trên bề mặt di tích; chặt các cây lâu năm ảnh hưởng đến tầng văn hóa di
tích…
|
|
30.000
|
36.000
|
|
|
|
|
|
66.000
|
5
|
Bảo quản các hố khai quật minh
chứng là địa điểm cư trú, khu vực canh tác và khu vực mộ táng của người việt
cổ
|
|
300
|
300
|
|
300
|
452
|
|
|
1.352
|
6
|
Xây dựng trung tâm dịch vụ
văn hóa du lịch gắn với những công trình chức năng
|
|
|
|
10.000
|
10.000
|
10.600
|
|
|
30.600
|
7
|
Xây dựng nhà trưng bày bổ
sung khu di tích khảo cổ học đồng đậu
|
|
|
|
|
|
|
6.200
|
|
6.200
|
8
|
Triển khai các giải pháp khai
thác di tích phục vụ du lịch, bồi dưỡng nguồn nhân lực
|
|
1.000
|
2.000
|
2.000
|
2.000
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
10.000
|
9
|
Tiến hành số hóa và tích hợp
các sưu tập hiện vật, tài liệu khu di tích khảo cổ học đồng đậu tại nhà truyền
thống yên lạc, bảo tàng tỉnh và chương trình số hóa du lịch
|
|
|
|
2.000
|
2.000
|
2.000
|
2.000
|
2.000
|
10.000
|
Tổng cộng (I+II)
|
|
|
|
|
|
|
|
148.623
|
Bằng chữ: Một trăm bốn mươi tám tỷ, sáu trăm hai mươi ba triệu đồng
|