Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Số hiệu: 46/QĐ-UBND Loại văn bản: Quyết định
Nơi ban hành: Tỉnh Đắk Nông Người ký: Tôn Thị Ngọc Hạnh
Ngày ban hành: 12/01/2023 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK NÔNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 46/QĐ-UBND

Đắk Nông, ngày 12 tháng 01 năm 2023

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN BẢO TỒN PHÁT HUY THỔ CẨM TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ M’NÔNG, MẠ, Ê ĐÊ, THÁI, DAO GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH ĐẮK NÔNG GIAI ĐOẠN 2023-2025

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009;

Căn cứ Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa;

Căn cứ Quyết định số 2215/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 76-KL/TW ngày 04 tháng 6 năm 2020 của Bộ Chính trị khóa XII về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;

Căn cứ Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030;

Căn cứ Quyết định số 777/QĐ-BVHTTDL ngày 04 tháng 4 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề thủ công truyền thống, nghề dệt của người M’Nông tỉnh Đắk Nông;

Căn cứ Chương trình số 27-CTr/TU ngày 24 tháng 9 năm 2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII về sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các loại hình di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ thất truyền của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, giai đoạn 2021-2025;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án Bảo tồn phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao gắn với phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2023-2025 (Kèm theo).

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố Gia Nghĩa và Thủ trưởng các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.


Nơi nhận:
- Như Điều 2;
- CT, các PCT UBND tỉnh;
- UBMTTQ Việt Nam tỉnh;
- Hội LHPN tỉnh;
- Liên đoàn Lao động tỉnh;
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh;
- Các Sở, ngành: NN&PTNT, TC, CT, KH&ĐT,
KH&CN, LĐ-TB&XH, TN&MT, TT&TT,
GD&ĐT, Ban Dân tộc, Liên minh HTX tỉnh;
- Báo Đắk Nông, Đài PT&TH Đắk Nông;
- Các PCVP UBND tỉnh;
- Lưu: VT, Cổng TTĐT tỉnh, KGVX (H).

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Tôn Thị Ngọc Hạnh

ĐỀ ÁN

BẢO TỒN PHÁT HUY THỔ CẨM TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ M’NÔNG, MẠ, Ê ĐÊ, THÁI, DAO GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH ĐẮK NÔNG GIAI ĐOẠN 2023-2025
(Kèm theo Quyết định số 46/QĐ-UBND ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông)

Phần I

SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Thổ cẩm là một trong những giá trị văn hóa tạo nên tính đặc trưng của từng dân tộc ở Đắk Nông. Thổ cẩm không chỉ được dùng để làm trang phục, mà còn là sản phẩm văn hóa dùng làm kỷ vật trong hôn nhân, tang lễ, trong sinh hoạt thường ngày và trong sinh hoạt văn hóa truyền thống.

Trong bối cảnh phát triển hiện nay, quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghiệp hiện đại như hiện nay, các sản phẩm được làm bằng công nghiệp, kể cả vải và trang phục. Hòa trong dòng chảy phát triển đó, các dân tộc thiểu số ở Đắk Nông cũng ảnh hưởng theo. Họ có sự chuyển đổi mạnh mẽ trong trang phục truyền thống. Những bộ đồ thổ cẩm truyền thống được thay đổi bằng những trang phục hiện đại do người Việt (Kinh) cung cấp. Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng truyền thống bị ảnh hưởng khiến cho văn hóa thổ cẩm cũng bị biến đổi theo. Các hoa văn cổ truyền vốn là biểu trưng riêng của mỗi dân tộc nay đã mất dần theo cây nêu cột lễ trong lễ hội, vắng bóng dần trong trang trí nhà ở, vật dụng sinh hoạt và đặc biệt là trên nền vải. Chính vì thế, nghề dệt thổ cẩm truyền thống đang dần bị mai một. Các nghệ nhân dệt thổ cẩm ngày một ít đi, đội ngũ kế thừa gần như không có. Sản phẩm thổ cẩm không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm hiện đại do không đáp ứng được các nhu cầu phát triển của cộng đồng và xã hội. Với xu hướng đó, tương lai không xa, văn hóa thổ cẩm của các dân tộc thiểu số ở Đắk Nông, cụ thể là ở các dân tộc thiểu số như M’Nông, Mạ, Ê đê, Dao, Thái... sẽ bị giảm dần và có nguy cơ mất hẳn nếu không có những biện pháp cấp bách nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của loại hình văn hóa này một cách hiệu quả và thiết thực. Điều này đồng nghĩa với việc sẽ mất đi một bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, mất đi một dấu hiệu để nhận diện văn hóa của dân tộc đó.

Nghề dệt thổ cẩm ở Đắk Nông chỉ tồn tại như một nghề phụ trong hoạt động mưu sinh của đồng bào các dân tộc thiểu số. Do đó, để cho nghề này tiếp tục tồn tại như một sản phẩm văn hóa và phát triển tốt hơn nữa và có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng dân tộc nói riêng và của Đắk Nông nói chung, cần có sự bảo tồn và phát huy, thay đổi để đa dạng sản phẩm, đáp ứng nhiều hơn với thị hiếu người tiêu dùng và mở rộng thị trường tiêu thụ để thổ cẩm trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương.

II. CĂN CỨ PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Căn cứ các văn bản của Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương

- Luật Di sản văn hóa ngày 29/6/2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18/6/2009;

- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa;

- Quyết định số 2215/QĐ-TTg ngày 24/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị khóa XII về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;

- Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030;

- Quyết định số 777/QĐ-BVHTTDL ngày 04/4/2022 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề thủ công truyền thống, nghề dệt của người M’Nông tỉnh Đắk Nông.

2. Căn cứ các văn bản của tỉnh

- Chương trình số 18-CTr/TU ngày 26/7/2021 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII về phát triển du lịch và du lịch gắn với Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông giai đoạn 2021-2025;

- Chương trình số 27-CTr/TU ngày 24/9/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII về sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các loại hình di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ thất truyền của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, giai đoạn 2021-2025.

III. TỔNG QUAN VỀ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ M’NÔNG, MẠ, Ê ĐÊ, THÁI, DAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG

1. Dân cư, dân tộc

Trải qua quá trình phát triển, tỉnh Đắk Nông dần dần trở thành vùng đất sinh sống của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng cộng cư sinh sống trên vùng đất Đắk Nông đã tạo nên bức tranh đa dạng về các sắc màu văn hóa.

Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh sống. Cộng đồng dân cư Đắk Nông được hình thành từ nhóm đồng bào các dân tộc tại chỗ như M’Nông, Mạ, Ê đê... cùng dân tộc Kinh sinh sống lâu đời trên Tây Nguyên và các dân tộc miền núi phía Bắc di cư vào lập nghiệp như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, Mông...

Theo báo cáo, dân số là 677.616 người với 163.450 hộ; trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số có 45.707 hộ, với 215.048 người, chiếm tỷ lệ 31,73% so với dân số toàn tỉnh, có 03 dân tộc thiểu số tại chỗ (M’Nông, Mạ và Ê Đê) có 15.807 hộ, với 74.901 người chiếm 11,05% so với dân số toàn tỉnh và 34,82% so với tổng số dân tộc thiểu số.

2. Văn hóa - xã hội

Đắk Nông có 40 dân tộc sống xen kẽ với nhau. Các dân tộc khi đến định cư trên vùng đất này họ mang theo bản sắc văn hóa đến Đắk Nông. Tiến trình giao thoa văn hóa đã tạo nên bức tranh văn hóa Đắk Nông phong phú đa dạng giàu bản sắc giữa các vùng miền, văn hóa người dân tộc thiểu số tại chỗ, văn hóa các dân tộc thiểu số phía Bắc. Cả ba vùng văn hóa phát triển giao thoa, bồi đắp tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc các dân tộc tỉnh Đắk Nông.

Đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ M’Nông, Mạ, Ê đê sống tự cung tự cấp nên các nghề thủ công truyền thống chủ yếu mang tính chất phục vụ gia đình. Họ có nhiều nghề thủ công truyền thống nhưng chủ yếu nghề rèn sắt, nghề dệt vải, nghề đan lát là những nghề phổ biến phục vụ hoạt động sản xuất và sinh hoạt.

Nhà ở của người M’Nông, Mạ có cả nhà sàn và nhà trệt. Người Ê đê thường sống trong những ngôi nhà sàn dài, với kiến trúc mô phỏng hình thuyền, được làm bằng tre gỗ, lợp tranh. Những ngôi nhà của người M’Nông hiện nay không còn dùng mái tranh, một số ngôi nhà khác được hỗ trợ theo Chương trình 134 nên được xây cất bằng gạch kiên cố.

Người M’Nông, Mạ, Ê đê thường sống trên vùng đất thấp, ven sông, suối. Họ tập trung thành từng bon. Mỗi bon có từ 20 đến 40 nóc nhà. Hiện nay, đứng đầu bon, buôn là trưởng bon, buôn do chính quyền đề cử, sau đó được người dân bầu lên và hoạt động theo nhiệm kỳ. Còn trong truyền thống, người đứng đầu bon được truyền từ đời này sang đời khác. Các bon thường có mối quan hệ liên minh để cùng nhau bảo vệ bon và phát triển kinh tế sản xuất.

Theo truyền thống, gia đình người M’Nông, Mạ, Ê đê theo chế độ mẫu hệ. Trong gia đình, người vợ giữ vị trí chính, nhưng người chồng không bị phân biệt đối xử, họ sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già thường ở với con gái út. Thông thường, mỗi ngôi nhà trệt của người M’Nông, Mạ và nhà dài của người Ê đê là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết thống về phía mẹ. Tuy nhiên, hiện nay yếu tố mẫu hệ giảm dần do có sự tiếp xúc các tộc người xung quanh, đặc biệt là người Kinh, cùng với đó là sự chuyển biến của xã hội; việc cư trú cũng khác xưa; gia đình hạt nhân gồm bố mẹ và con cái dần trở nên phổ biến; chính vì thế mà vai trò của người đàn ông ngày càng trở nên có vị thế hơn trong gia đình. Chính điều này đã tác động đến hoạt động kinh tế và quan niệm xã hội cũng như thiết chế văn hóa của người M’Nông, Mạ, Ê đê hiện nay.

Trong ẩm thực, người M’Nông, Mạ, Ê đê thường dùng cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng. Cơm nếp thường dùng trong lễ tết và tiếp đãi khách. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thịt nướng, cơm lam được sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội. Thức uống có rượu cần không những sử dụng hàng ngày mà còn được dùng vào những dịp lễ tết. Vào những dịp cúng thường dùng xôi nếp. Người Ê đê còn có tục ăn trầu cau.

Về trang phục, phụ nữ M’Nông, Mạ, Ê đê quấn váy dài đến gót, mùa hè ở trần hoặc mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới đóng khố, mặc áo cánh dài quá mông. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Đồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Váy của người M’Nông, Mạ, Ê đê là váy quấn, có dệt hoa văn ở cạp và gấu váy. Tùy vào các dải hoa văn được gia công nhiều hay ít, họ thường chia váy ra thành nhiều loại. Hiện nay, nhiều nữ thanh niên thường mặc loại váy ống bằng lụa nhiều khi không thêu. Áo chui đầu cổ truyền của nữ có thêu hoa văn ở vai, nách, cổ tay, gấu áo. Trong khi đó, khố của người đàn ông Ê đê có hoa văn ở hai mép vải và hai đầu khố. Hai đầu khố còn có nhiều tua vải màu thâm. Khố cũng có nhiều loại như khố dài, khố ngắn. Cũng giống như áo của nữ giới, áo của nam giới cũng có hoa văn dệt dọc bên nách, ở gấu, ở vai và cổ tay. Riêng đối với áo của những người quyền quý thường có dải hoa văn hình “đại bàng giang cánh” dọc hai bên nách và gấu áo, thân sau có đính hạt cườm. Hiện nay, nam giới Ê đê không còn mặc khố trong ngày thường; họ mặc giống người Kinh, chỉ mặc khổ hoặc trang phục truyền thống trong những dịp lễ hội đặc biệt.

Người Thái, Dao di cư từ miền Bắc vào khu vực Tây Nguyên chủ yếu từ sau năm 1975. Đây là hai dân tộc thuộc ngôn ngữ Thái - Dao. Người Dao có nhiều nhóm như Dao Tiền, Dao Đỏ, Dao Thanh Y, Dao Quần Chẹt... Hiện nay, ở Đắk Nông, người Dao có dân số khoảng 19 ngàn người, với hai nhóm chính là Dao Đỏ và Dao Thanh Y. Họ cư trú chủ yếu ở khu vực huyện Krông Nô và Đắk Mil. Người Thái ở Đắk Nông có khoảng 11 nghìn người. Họ cư trú chủ yếu ở khu vực huyện Cư Jút và Krông Nô. Cả hai dân tộc này mang theo những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc mình vào tỉnh Đắk Nông.

Với người Dao, khi vào Đắk Nông lập nghiệp, họ luôn gìn giữ những nét đẹp truyền thống của dân tộc mình. Những làn điệu dân ca (páo dung), dệt thổ cẩm, lễ hội truyền thống... vẫn được duy trì và phát triển, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương. Trong ẩm thực, do có sự giao lưu tiếp xúc với các dân tộc xung quanh, nên các món ăn, thức uống của người Dao có nhiều biến đổi, kể cả trong các bữa ăn hàng ngày cũng như trong lễ, tết. Y phục và trang sức là những bộ trang phục truyền thống của người Dao. Tuy nhiên, tùy theo nhóm Dao sẽ có những nét đặc trưng riêng như hoa văn, màu sắc, kiểu dáng. Chẳng hạn, trang phục của người phụ nữ Dao Thanh Y thường mặc áo không cổ, quần ống ngắn. Trong khi phụ nữ Dao Tiền lại mặc váy màu xanh lơ, khăn và xà cạp có nhiều loại. Phụ nữ Dao Đỏ thì màu sắc chủ đạo trong trang phục là màu đỏ. Về trang sức chủ yếu bằng bạc được trổ nhiều hoa văn, dây hạt cườm, lục lạc đồng tiền, các tua sợi hay len màu để trang trí... là những món trang sức phổ biến của người Dao.

Người Dao có đời sống văn hóa tinh thần phong phú được thể hiện trong tín ngưỡng, tập quán và trong văn học nghệ thuật. Các tác phẩm văn học chủ yếu được truyền miệng, thể hiện nhiều khía cạnh trong đời sống của họ. Người Dao có các nghệ thuật đặc trưng như cắt giấy trang trí bàn thờ và phục vụ tang lễ, chạm bạc nữ trang, nhảy múa lễ hội và thổi kèn cưới1. Đặc biệt kèn Pí Lè là một loại nhạc cụ truyền thống của người Dao, với nhiều giai điệu được thể hiện bằng loại nhạc cụ này. Tùy thuộc vào nội dung của nghi lễ mà các giai điệu được kết hợp cho phù hợp như cúng cơm mới, lễ cấp sắc..., đặc biệt trong lễ cưới không thể vắng tiếng kèn Pí Lè.

Người Thái là cộng đồng dân tộc phía Bắc di cư sớm đến vùng đất Đắk Nông. Họ chủ yếu sống ở địa bàn khu vực huyện Cư Jút và Krông Nô. Cuộc sống của họ tương đối tốt hơn so với dân tộc tại chỗ. Hiện đồng bào Thái nơi đây rất chú trọng giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc như: Trang phục truyền thống, nghề thêu dệt thổ cẩm... Phụ nữ Thái còn mặc trang phục truyền thống khi gia đình có việc hệ trọng. Trong cách ăn mặc, các bà, các mẹ chỉ cho con cháu cách vấn khăn hay buộc dây lưng. Phụ nữ có chồng có cách quấn khăn khác với phụ nữ chưa có chồng.

Người Thái còn có các bộ nhạc cụ truyền thống bao gồm trống, khèn bè, ống gõ... được các thôn, bản duy trì và tổ chức vào dịp lễ, tết, cưới hỏi. Để duy trì hoạt động bảo tồn văn hóa, đồng bào Thái đã thành lập các câu lạc bộ văn hóa - văn nghệ và hoạt động thường xuyên, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đầy màu sắc tại địa phương. Nhiều nghi lễ truyền thống được giữ gìn như lễ mừng thọ cha mẹ - ông bà, lễ cầu an, lễ tạ ơn, lễ xuống đồng... Phụ nữ Thái múa truyền thống hòa nhịp với điệu nhạc từ bộ gõ lồ ô, điệu gõ khua luống - một loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của người Thái.

Trong lễ, tết, dịp cúng tổ tiên, người Thái truyền dạy cho cô con dâu, cháu chắt cách làm từng món truyền thống như: Bánh chưng đen, xôi ngũ sắc, náp (cá ướp hành đùm vào lá dong rồi hấp), pa pỉnh tộp, pa pỉnh phé (cá ướp hành, mắc khén, hạt dỗi rồi kẹp nướng), moót (lõi chuối rừng nấu với tấm nếp cùng cá hoặc thịt), trà lam (bột nếp trộn mật mía, lạc, gừng)... Mỗi món ăn là một món cúng tổ tiên, vì vậy người Thái chế biến rất cẩn thận. Chẳng hạn, muốn làm bánh chưng đen, người Thái dùng rơm nếp sạch đã chuẩn bị từ trước đốt lấy tro, sau đó trộn tro này với gạo nếp đã ngâm trước đó. Nhiều món ăn cần những gia vị riêng mới trở thành món ăn của người Thái. Có những gia vị Đắk Nông không có phải mua từ ngoài quê vào như: hạt mắc khén, hạt dỗi, mật mía...

Dân tộc Dao, Thái di cư vào Đắk Nông mang theo những giá trị văn hóa tộc người đặc sắc đã cùng với các dân tộc khác ở tỉnh Đắk Nông cùng đóng góp xây dựng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.

IV. THỰC TRẠNG BẢO TỒN, PHÁT HUY THỔ CẨM TRUYỀN THỐNG CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ M’NÔNG, MẠ, Ê ĐÊ, THÁI, DAO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung, các dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Nông nói riêng, từ bao đời nay, dệt thổ cẩm đã trở thành biểu tượng, nét đẹp văn hóa cổ truyền và không thể thiếu trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Trước đây, nghề dệt thổ cẩm của các tộc người thiểu số ở tỉnh Đắk Nông là nghề thủ công truyền thống, được phát triển rất sớm, rộng khắp trong các bon, buôn và đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần và phát triển kinh tế gia đình.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, các hoạt động dệt vẫn được duy trì để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày và phục vụ khách tham quan du lịch. Trong quá trình sưu tầm, phục dựng lại các lễ hội, nghi lễ truyền thống của các dân tộc, ngành Văn hóa cũng thường xuyên được cấp kinh phí may mới trang phục truyền thống để biểu diễn, qua đó tuyên truyền, khuyến khích người dân biết gìn giữ và phát huy giá trị của trang phục truyền thống của dân tộc mình.

Được sự quan tâm của các cấp chính quyền, trong những năm qua, công tác bảo tồn văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số tỉnh Đắk Nông được chú trọng, trong đó có nghề dệt thổ cẩm. Thông qua hình thức tổ chức các lớp dạy nghề cho đối tượng là chị em người dân tộc thiểu số. Qua đó, nhiều người đã biết dệt, nhiều bạn trẻ đã ý thức được việc bảo tồn vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Mỗi dân tộc mang một nét văn hóa đặc trưng riêng, vì vậy các sản phẩm thổ cẩm của các dân tộc cũng mang ý nghĩa riêng. Nhìn vào hoa văn thổ cẩm có thể biết được văn hóa, quan điểm sống của tộc người, quan niệm về thế giới quan và vũ trụ quan của tộc người đó. Sản phẩm thổ cẩm của các dân tộc tỉnh Đắk Nông rất phong phú về mẫu mã cũng như chủng loại. Mỗi sản phẩm, có thể là vòng tay, vòng cổ, giỏ xách, chăn, trang phục áo, váy, khố... đều có màu sắc, đường nét, kỹ thuật trang trí, hoa văn riêng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển hiện nay, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, mở cửa, hội nhập toàn cầu hóa đã làm biến đổi những tinh hoa văn hóa; quá trình giao lưu văn hóa giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ; xu hướng Việt (Kinh) hóa hoặc Âu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đặc biệt, các nghề được làm bằng thủ công truyền thống của các dân tộc thiểu số đang dần bị thay thế làm bằng công nghiệp; đời sống kinh tế cũng khá hơn nên họ có sự thay đổi mạnh mẽ trong trang phục truyền thống. Những bộ đồ thổ cẩm truyền thống được thay bằng những trang phục hiện đại như quần tây, quần bò, áo sơ mi... Bên cạnh đó, các nghệ nhân dệt thổ cẩm ngày càng ít, số nghệ nhân có kinh nghiệm truyền dạy cũng đã lớn tuổi hoặc đã mất. Lớp trẻ còn số ít biết dệt thổ cẩm. Lực lượng trong độ tuổi lao động thì nhiều, nhưng cũng không còn mấy người tâm huyết với nghề nữa mà đi tìm kiếm các công việc khác để kiếm sống, dẫn đến đội ngũ kế thừa nghề dệt rất hạn chế.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 895 nghệ nhân biết dệt thổ cẩm, trong đó: nghệ nhân người dân tộc M’Nông 647 người, dân tộc Mạ 66 người, dân tộc E đê 80 người, dân tộc Dao 25 người, dân tộc Thái 20 người, còn lại là dân tộc Tày, dân tộc Mông... Qua quá trình điều tra cho thấy, sản phẩm thổ cẩm của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đặc biệt về trang phục, cơ bản vẫn giữ được nét văn hóa truyền thống, nhưng có cải tiến về hoa văn trang trí theo xu hướng hiện đại. Đa số những người biết dệt từ khi còn nhỏ, được cha mẹ, ông bà truyền dạy và một số được học qua các lớp truyền dạy nghề do địa phương tổ chức. Nhiều người có khả năng dệt rất tốt nhưng do không còn đủ sức khỏe để dệt, khả năng nguồn vốn để duy trì nghề dệt cũng không có, sản phẩm thổ cẩm làm ra chỉ ở phạm vi gia đình và phục vụ cho gia đình là chính.

Vai trò của người phụ nữ trong việc giữ gìn nghề dệt thổ cẩm cũng dần thay đổi theo xu hướng thị trường, bởi người phụ nữ hiện nay không gắn liền với khung cửi, may vá, thêu thùa mà người phụ nữ hiện nay còn phải gánh vác thêm việc xã hội nên tư duy cũng có sự thay đổi. Bên cạnh đó, chi phí để làm nên một sản phẩm thổ cẩm truyền thống tốn kém gấp nhiều lần so với sản phẩm hiện đại. Việc làm ra một sản phẩm làm từ thủ công cần một thời gian dài nhưng hiện tại chưa có thị trường tiêu thụ, không có đầu ra cho sản phẩm. Quá trình giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế cũng ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống văn hóa nói chung, truyền thống văn hóa dân tộc tỉnh Đắk Nông nói riêng. Thay vì trang phục làm ra từ những chất liệu truyền thống (bông, lanh, dệt, nhuộm), hiện nay trang phục công nghiệp làm bằng sợi tổng hợp, với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng được bán trên thị trường. Vì vậy, nghề dệt thổ cẩm của các tộc người thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đang dần bị mai một. Do đó cần có phương án để bảo tồn khôi phục và phát triển nghề dệt một cách khoa học, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, đồng thời phát huy có hiệu quả nghề dệt truyền thống các dân tộc gắn với các hoạt động phát triển du lịch của địa phương.

V. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI ĐỀ ÁN

1. Đối tượng: Dân tộc thiểu số M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao.

2. Phạm vi: Toàn tỉnh Đắk Nông (nơi có đồng bào dân tộc thiểu số M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao sinh sống).

3. Thời gian thực hiện Đề án: Từ năm 2023 đến năm 2025.

Phần II

NỘI DUNG ĐỀ ÁN

I. MỤC TIÊU ĐỀ ÁN

1. Mục tiêu tổng quát

Bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao gắn với phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông đáp ứng mục tiêu “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển” góp phần cho sự phát triển bền vững văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, đi vào ý thức thẩm mỹ và ý thức tự giác của các dân tộc, có lòng tự hào đối với văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn tỉnh.

Định hướng phát triển sản phẩm du lịch theo hướng bền vững, gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, trong đó phát triển các sản phẩm thổ cẩm truyền thống để đáp ứng nhu cầu phục vụ du khách.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025

- 70% trở lên các bon, buôn đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh được kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể về nghề thủ công truyền thống, nghề dệt của người M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao.

- Xây dựng ít nhất 01 hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể về nghề thủ công truyền thống, nghệ thuật thêu hoa văn, trang trí hoa văn liên quan đến trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số đề nghị cấp thẩm quyền đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

- 70% bon, buôn (có nghề dệt thổ cẩm) trở lên được kiểm kê sưu tầm các mẫu hoa văn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số.

- 60% trở lên các nghệ nhân được truyền dạy các hoa văn cổ, hoa văn khó trang trí trên sản phẩm thổ cẩm truyền thống của dân tộc thiểu số.

- Có từ 03-05 cá nhân được phong tặng danh hiệu “nghệ nhân ưu tú”, “nghệ nhân nhân dân” trong lĩnh vực dệt thổ cẩm truyền thống.

- 60% nghệ nhân trở lên tại các bon, buôn có nghề dệt tổ cẩm được tham gia lớp tập huấn kỹ năng bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số, kỹ năng ứng dụng trên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ để phục vụ khách du lịch.

- 60% nghệ nhân trở lên tại các bon, buôn được tham gia lớp truyền dạy kỹ năng làm nghề dệt thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số.

- Xây dựng ít nhất 02 mô hình bảo tồn và phát huy thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số (trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm về thổ cẩm truyền thống).

- Xây dựng ít nhất 02 mô hình tổ hợp tác dệt thổ cẩm nhằm bảo tồn và phát triển dệt, sản xuất, may sản phẩm, trang phục thổ cẩm truyền thống và hàng thủ công mỹ nghệ tại một số điểm đến phục vụ khách du lịch.

- Xây dựng ít nhất 01 mô hình dệt, trình diễn kỹ thuật dệt và các sản phẩm ứng dụng dưới sự hướng dẫn, giảng dạy của các nghệ nhân và chuyên gia.

- Tổ chức ít nhất 01 cuộc Liên hoan trình diễn trang phục các dân tộc thiểu số (trình diễn trang phục truyền thống và trang phục cách tân có sử dụng thổ cẩm) cấp tỉnh.

- Tổ chức ít nhất 01 Ngày hội “Sắc màu văn hóa các dân tộc” gắn với Lễ hội văn hóa thổ cẩm Việt Nam, gắn với Ngày Đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, Ngày Di sản văn hóa Việt Nam...

- Tổ chức ít nhất 02 cuộc trình diễn trang phục truyền thống và cách tân làm từ thổ cẩm của các dân tộc thiểu số gắn với các sự kiện của địa phương.

- 70% trở lên học sinh tại các trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh triển khai mặc trang phục truyền thống 02 buổi/tuần và mặc trang phục truyền thống vào các dịp lễ, tết, ngày hội.

- Xây dựng ít nhất 02 điểm giới thiệu và tổ chức bán sản phẩm thổ cẩm truyền thống và hàng thủ công mỹ nghệ trên chất liệu thổ cẩm do nghệ nhân làm ra các sản phẩm tại các khu điểm du lịch.

- 30% bon, buôn nơi có tổ hợp tác dệt thổ cẩm được trang bị khung dệt cải tiến, trang thiết bị.

- 70% bon, buôn hoàn thành khảo sát, đánh giá các mô hình hợp tác xã, làng nghề thổ cẩm đặc trưng đưa vào các tuyến, điểm du lịch để phục vụ du khách tham quan.

- Tổ chức ít nhất 01 hội thảo hoặc diễn đàn chuyên đề về xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch.

- Xây dựng ít nhất 01 mô hình sản phẩm thời trang thổ cẩm phục vụ khách du lịch thông qua chương trình liên hoan âm nhạc, lễ hội... tại địa phương.

II. NHIỆM VỤ

1. Tiến hành kiểm kê và lập danh mục di sản văn hóa phi vật thể về thổ cẩm truyền thống của các dân tộc thiểu số

- Kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể về nghề thủ công truyền thống, nghề dệt của người M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao.

- Lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể về nghề thủ công truyền thống, nghệ thuật thêu hoa văn, trang trí hoa văn liên quan đến trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số, đề xuất cấp thẩm quyền đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

- Sưu tầm để bảo tồn các mẫu hoa văn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số (có nghề dệt thổ cẩm).

2. Bảo tồn, khôi phục và phát huy di sản văn hóa phi vật thể về thổ cẩm truyền thống của các dân tộc thiểu số

- Mở lớp truyền dạy các hoa văn cổ, hoa văn khó trang trí trên sản phẩm thổ cẩm truyền thống của dân tộc thiểu số.

- Tổ chức xét và đề xuất cấp thẩm quyền phong tặng danh hiệu “nghệ nhân ưu tú”, “nghệ nhân nhân dân” trong lĩnh vực dệt thổ cẩm truyền thống cho từ các cá nhân tỉnh Đắk Nông.

- Mở lớp tập huấn kỹ năng bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số, kỹ năng ứng dụng trên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.

- Tổ chức lớp truyền dạy kỹ năng làm nghề dệt thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số.

- Xây dựng mô hình bảo tồn và phát huy thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số (trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm về thổ cẩm truyền thống).

- Xây dựng mô hình tổ hợp tác dệt thổ cẩm nhằm bảo tồn và phát triển dệt, sản xuất, may sản phẩm, trang phục thổ cẩm truyền thống và hàng thủ công mỹ nghệ tại một số điểm đến phục vụ khách du lịch.

- Xây dựng thí điểm mô hình dệt, trình diễn kỹ thuật dệt và các sản phẩm ứng dụng dưới sự hướng dẫn, giảng dạy của các nghệ nhân và chuyên gia.

3. Quảng bá và phát huy di sản văn hóa phi vật thể về thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số

- Tổ chức Liên hoan trình diễn trang phục các dân tộc thiểu số (trình diễn trang phục truyền thống và trang phục cách tân có sử dụng thổ cẩm) cấp tỉnh.

- Tổ chức Ngày hội “Sắc màu văn hóa các dân tộc” gắn với Lễ hội văn hóa thổ cẩm Việt Nam, gắn với Ngày Đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, Ngày Di sản văn hóa Việt Nam...

- Tổ chức trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số gắn với các sự kiện của địa phương

4. Giới thiệu và bán sản phẩm thổ cẩm truyền thống và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên chất liệu thổ cẩm

Khảo sát lựa chọn các điểm giới thiệu và bán sản phẩm thổ cẩm truyền thống và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ trên chất liệu thổ cẩm do nghệ nhân làm ra.

5. Mua sắm trang thiết bị

- Trang bị bộ khung dệt cải tiến, trang thiết bị cho dân tộc M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao để thực hành dệt thổ cẩm.

- Mua nguyên vật liệu phục vụ các lớp tập huấn.

- Đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ khảo sát, đánh giá thực trạng và các mô hình thổ cẩm truyền thống (máy ảnh, máy ghi âm, camera...).

6. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch gắn với nghề thổ cẩm

- Tổ chức khảo sát, đánh giá các mô hình hợp tác xã, làng nghề thổ cẩm đặc trưng đưa vào các tuyến, điểm du lịch để phục vụ du khách tham quan.

- Tổ chức hội nghị hoặc hội thảo, diễn đàn về xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch.

- Phát hành ấn phẩm giới thiệu về thổ cẩm các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông.

- Tham gia sự kiện du lịch tại các tỉnh, thành phố trong cả nước để xúc tiến, quảng bá các sản phẩm du lịch gắn với thổ cẩm của các dân tộc thiểu số.

- Xây dựng mô hình sản phẩm thời trang thổ cẩm phục vụ khách du lịch thông qua chương trình liên hoan âm nhạc, lễ hội... tại địa phương.

Phần III

HIỆU QUẢ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CỦA ĐỀ ÁN

I. HIỆU QUẢ VỀ KINH TẾ

1. Bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch sẽ góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh; nghề dệt thổ cẩm vẫn có thể đem đến nguồn thu nhập cho cuộc sống gia đình của người dệt; tạo điều kiện để người lao động có thu nhập ổn định, cải thiện, nâng cao mức sống cho người lao động.

2. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các địa phương trên địa bàn tỉnh tạo ra sản phẩm thổ cẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp mang bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc được bán ra thị trường và xuất khẩu ra nước ngoài.

3. Góp phần to lớn vào việc tạo ra các sản phẩm thổ cẩm ứng dụng thiết yếu, các sản phẩm thổ cẩm thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm thổ cẩm mang tính nghệ thuật đáp ứng nhu cầu cho đời sống vật chất và tinh thần tại chỗ của đồng bào vùng dân tộc thiểu số.

II. HIỆU QUẢ VỀ XÃ HỘI

1. Bảo tồn phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch sẽ là hướng chủ đạo trong chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp vùng dân tộc thiểu số; là giải pháp tốt nhất để tận dụng thời gian nông nhàn, đồng thời tạo thêm được nhiều việc làm, giải quyết việc làm ổn định cho lao động vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.

2. Góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc, giới thiệu những nét văn hóa độc đáo của địa phương với các vùng miền trong và ngoài nước thông qua những hoa văn, họa tiết được trang trí trên sản phẩm thổ cẩm. Ngoài ra, thổ cẩm còn được bảo tồn phát huy tại các lễ hội truyền thống, các hội thi... thông qua việc trưng bày giới thiệu và bán sản phẩm thổ cẩm cho du khách.

3. Tạo điều kiện để ngành du lịch của tỉnh phát triển, mở thêm được nhiều tour, tuyến du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, thu hút du khách đến tham quan góp phần tăng thu nhập và giải quyết thêm việc làm cho lao động khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

III. VỀ MÔI TRƯỜNG

1. Các làng nghề thổ cẩm truyền thống được quy hoạch, bố trí hợp lý và đầu tư hệ thống xử lý môi trường với kỹ thuật công nghệ tiên tiến sẽ góp phần giảm thiểu tác động bất lợi đến môi trường sống.

2. Phát triển các làng nghề, tổ hợp tác, hợp tác xã thổ cẩm gắn với du lịch, sẽ tạo nên cảnh quan môi trường “Xanh - sạch - đẹp”, người dân sẽ có ý thức cao hơn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường sống của mình.

IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Đối với bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống nghề dệt thổ cẩm

a) Giải pháp tuyên truyền vận động và khen thưởng

Tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là những người trong độ tuổi lao động, thanh thiếu niên, người già, người có uy tín trong cộng đồng về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn; tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống, các chính sách ưu đãi để họ tự giác, tích cực tham gia bảo tồn, lưu giữ những nét hoa văn, những sản phẩm thổ cẩm truyền thống độc đáo và tham gia học nghề, học việc phục vụ bản thân, gia đình và tạo công ăn việc làm tăng thu nhập.

Công tác tuyên truyền được thực hiện bằng nhiều hình thức, thông qua loa phát thanh, các cuộc họp của thôn, buôn, bon; niêm yết tại các khu vực trung tâm, nhà văn hóa cộng đồng và ở các trường học trên địa bàn tỉnh.

Khen thưởng các cá nhân, hộ gia đình, cơ sở nghề, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống có nhiều thành tích trong bảo tồn, phát triển nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

b) Giải pháp về công tác bảo tồn các giá trị văn hóa hoa văn truyền thống

Sưu tầm để bảo tồn các mẫu hoa văn đặc trưng của từng dân tộc bằng phương pháp chụp lại hoa văn đã được định vị trên sản phẩm thổ cẩm và mã hóa từng loại hoa văn để lưu giữ lại.

Sử dụng hoa văn truyền thống trên các sản phẩm thổ cẩm của các dân tộc thiểu số ở Đắk Nông để thiết kế trên các trang phục hiện đại và trên các vật dụng khác như tấm trải giường, cà vạt, túi, ví...

Tổ chức giới thiệu trưng bày sản phẩm thổ cẩm tại cộng đồng các dân tộc, thông qua các hội thảo, thông qua việc tổ chức các lễ hội...

Thường xuyên tổ chức các lớp truyền dạy kỹ năng dệt thổ cẩm, cách trang trí hoa văn thổ cẩm trên nền vải và kết hợp đưa nội dung truyền dạy kỹ năng dệt thổ cẩm vào các trường học, trước mắt trong các trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh.

c) Giải pháp về chính sách và vốn đầu tư, hỗ trợ

- Giải pháp về vốn: Nguồn vốn do ngân sách cấp hàng năm để phát triển nghề, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

- Về chính sách: Các chính sách khuyến công, khoa học - công nghệ và khuyến khích đầu tư: Các hộ gia đình, cơ sở ngành nghề thổ cẩm truyền thống được hưởng thụ các chính sách khuyến công, khoa học - công nghệ và các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh.

2. Đối với phát triển các mô hình văn hóa truyền thống nghề dệt thổ cẩm

a) Định hướng quy hoạch cho phát triển nghề, làng nghề

Các huyện, thành phố Gia Nghĩa thực hiện phát triển nghề, làng nghề thổ cẩm truyền thống của địa phương theo hướng phát triển nghề, làng nghề thổ cẩm truyền thống tại chỗ mang đậm nét truyền thống văn hóa dân tộc thiểu số. Việc quy hoạch phát triển nghề, làng nghề thổ cẩm truyền thống phải gắn kết với phong tục tập quán và nguồn lao động tại chỗ của địa phương; đồng thời gắn kết với các hoạt động du lịch, khu vực cửa khẩu, khu công nghiệp, nhằm góp phần nâng cao giá trị sản phẩm của nghề, làng nghề thổ cẩm truyền thống.

Phát triển nghề, làng nghề thổ cẩm truyền thống gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch phát triển ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp và thị trường tiêu thụ.

b) Giải pháp về xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường

Khuyến khích đầu tư xử lý và ứng dụng công nghệ trong xử lý chất thải ở các địa phương có nghề, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Tăng cường công tác kiểm tra, bảo vệ môi trường làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

c) Xây dựng thổ cẩm thành sản phẩm đặc thù của địa phương

Mở các lớp học nghề dệt, xây dựng thương hiệu và đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm và giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, lễ hội lớn trong và ngoài nước.

Tạo không gian trưng bày sản phẩm thổ cẩm tại các điểm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu cho du khách tham quan, trải nghiệm và mua sắm.

Tích cực sưu tầm, thiết kế mẫu mã mới và bắt mắt trên cơ sở sử dụng hoa văn truyền thống để tạo ra nhiều sản phẩm phong phú đáp ứng nhiều hơn với thị hiếu người tiêu dùng; đồng thời cần phải đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ và đa dạng hình thức giới thiệu, quảng bá văn hóa thổ cẩm đến du khách, đây được xem là cầu nối để đưa khách hàng đến với mặt hàng giàu bản sắc này.

d) Quảng bá sản phẩm thổ cẩm theo hướng công nghiệp văn hóa

Cần hướng tới việc kết hợp với các doanh nghiệp để vực dậy hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng thổ cẩm truyền thống; có sự kết nối, tiếp nhận đơn đặt hàng từ doanh nghiệp để làm ra các sản phẩm theo yêu cầu.

Tổ chức các cuộc trưng bày lưu động các sản phẩm thổ cẩm tại các địa phương trong tỉnh, các thành phố lớn, đô thị lớn trong cả nước, qua đó sẽ thu hút cộng đồng chú ý đến giá trị của thổ cẩm, đồng thời giúp tạo nên một hiệu ứng quảng bá tốt hơn cho sản phẩm thổ cẩm của các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông.

đ) Xây dựng không gian văn hóa thổ cẩm đặc trưng của Đắk Nông để bảo tồn và phát triển

Hình thành nên gian hàng thổ cẩm, nơi sản xuất, những không gian sử dụng sản phẩm thổ cẩm trong cộng đồng... để thu hút khách du lịch đến tham quan và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt là tạo ra những không gian lễ hội trong cộng đồng để đi kèm với đó là tổ chức giới thiệu những loại hình thổ cẩm của người dân.

Tổ chức sưu tầm những bộ trang phục cổ, những tấm thổ cẩm xưa có trang trí hoa văn tinh xảo để trưng bày trong không gian văn hóa thổ cẩm đặc trưng tại cộng đồng.

Mua lại các bộ sưu tập trang phục, vật dụng bằng thổ cẩm của các dân tộc thiểu số cùng với các bộ khung dệt quý hiếm là một giải pháp cần thiết nhằm có được những hiện vật trưng bày phục vụ cho du khách tham quan, thưởng ngoạn.

e) Nâng cao nhận thức cộng đồng về sự bảo tồn và phát triển của nghề dệt thổ cẩm

Tiến hành điều tra tổng thể về nghề dệt thổ cẩm của các dân tộc thiểu số ở Đắk Nông, tiếp tục đánh giá tình hình hoạt động của nghề dệt thổ cẩm tại các buôn, bon, số lượng nghệ nhân, công việc truyền dạy, kế thừa trong cộng đồng, những người phụ nữ đang tiếp nối nghề dệt truyền thống, tình hình sử dụng trang phục thổ cẩm của dân tộc thiểu số, thị trường tiêu thụ thổ cẩm hiện nay. Nâng cao nhận thức cộng đồng về việc thay đổi sản phẩm nhằm đáp ứng được nhu cầu thị trường rộng lớn hơn.

g) Phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp trong việc vận động hội viên, các chị em phụ nữ trong phát triển nghề dệt thổ cẩm

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động Hội viên, chị em phụ nữ là nghệ nhân am hiểu về nghề dệt thổ cẩm truyền thống và có kỹ năng truyền nghề để truyền dạy cho các thế hệ trẻ biết dệt thổ cẩm, đặc biệt là những cách trang trí hoa văn thể hiện trên tấm thổ cẩm; đồng thời vận động các Hội viên, chị em phụ nữ tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, lễ hội có mặc trang phục truyền thống... nhằm khẳng định sắc thái riêng của mỗi dân tộc.

Phối hợp tổ chức các lớp dạy dệt thổ cẩm cho thế hệ trẻ trong cộng đồng các dân tộc thiểu số nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho bà con; mở rộng các hoạt động giao lưu văn hóa; phát triển các loại hình dịch vụ, giải quyết việc làm... góp phần thay đổi diện mạo thôn, bon, buôn, vừa giúp giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa có thêm nguồn thu nhập cho chị em phụ nữ trên địa bàn.

Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tăng cường phối hợp với các đơn vị làm du lịch tìm kiếm thị trường, liên kết tiêu thụ sản phẩm, tiếp tục cải tiến nâng cao chất lượng mẫu mã của sản phẩm theo thị hiếu người tiêu dùng. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ Hội viên, chị em phụ nữ cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm để phát triển kinh tế tạo việc làm tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục vận động các chị em trong vùng, đặc biệt là chị em phụ nữ nghèo tham gia tổ thêu, dệt để giúp có thu nhập ổn định. Chú trọng xây dựng, khai thác và phát triển thương hiệu thêu, dệt thổ cẩm để nghề dệt thổ cẩm truyền thống luôn giữ được giá trị, bản sắc riêng của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Nông.

Nâng cao vị trí vai trò của người phụ nữ dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông trong đời sống, phát huy được các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là giá trị văn hóa thổ cẩm của các dân tộc thiểu số trong phát triển các sản phẩm du lịch. Nghệ nhân được tiếp cận, thực nghiệm với công nghệ dệt mới trên khung dệt mới nhằm giảm thời gian, chi phí mà sản phẩm tạo ra vẫn giữ được bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Nghệ nhân được học hỏi cách phối màu, cách dùng các loại sợi để tạo ra các sản phẩm phù hợp. Việc ứng dụng khung dệt mới còn có thể truyền dạy tại các trường cao đẳng, trường dạy nghề. Đồng thời ngoài bảo tồn các sản phẩm thổ cẩm dệt truyền thống, các nghệ nhân biết cách tạo ra các sản phẩm thổ cẩm ứng dụng để bán ra thị trường, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thêm thu nhập cho kinh tế gia đình, dần tạo ra sản phẩm thổ cẩm phục vụ khách du lịch, từ đó, cải thiện đời sống kinh tế địa phương góp phần xóa đói, giảm nghèo cho một bộ phận Nhân dân trong tỉnh.

V. KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

Kinh phí thực hiện Đề án này được bố trí từ ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách và các nguồn huy động hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Ưu tiên thực hiện lồng ghép nhiệm vụ với các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình, Đề án và Kế hoạch khác có liên quan đang triển khai trên địa bàn tỉnh.

Hàng năm, căn cứ nhiệm vụ được phân công, các đơn vị xây dựng dự toán kinh phí thuộc nhiệm vụ ngân sách nhà nước gửi Sở Tài chính thẩm định, trình cấp thẩm quyền phê duyệt, phân bổ kinh phí thực hiện các nhiệm vụ.

Phần IV

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, đơn vị, địa phương tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề (sau khi Đề án được cấp thẩm quyền phê duyệt).

Hướng dẫn, đôn đốc, định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện Đề án về Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chủ trì, tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh việc áp dụng chính sách khuyến khích phát triển nghề nông nghiệp, nghề truyền thống (trong đó có nghề dệt thổ cẩm) theo quy định tại Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn đạt hiệu quả.

Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành, đơn vị, địa phương liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xét công nhận nghề dệt thổ cẩm truyền thống, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống theo quy định của pháp luật.

3. Sở Tài chính

Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí kinh phí thực hiện Đề án. Chủ trì, hướng dẫn cơ chế tài chính đối với những chính sách hỗ trợ để thực hiện Đề án.

4. Sở Công Thương

Thực hiện các chính sách khuyến công, xúc tiến thương mại để hỗ trợ máy móc thiết bị, đào tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý, năng lực sản xuất, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các cơ sở sản xuất làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

Chủ trì tham mưu thực hiện Kế hoạch số 745/KH-UBND ngày 02/11/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa giai đoạn 2021-2025 tỉnh Đắk Nông.

5. Sở Kế hoạch và Đầu tư

Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan bố trí, lồng ghép có hiệu quả các nguồn vốn để thực hiện các nhiệm vụ của Đề án. Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh giao kế hoạch vốn ngân sách nhà nước hàng năm (nguồn vốn đầu tư) giành cho Chương trình phát triển nghề, làng nghề dệt thổ cẩm và Chương trình khuyến công để thực hiện Đề án.

Chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Công Thương thẩm định các dự án phát triển làng nghề dệt thổ cẩm gắn với du lịch.

Hướng dẫn và cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp, Liên hiệp hợp tác xã đầu tư vào phát triển nghề, làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống; đồng thời, tham mưu UBND tỉnh kêu gọi, thu hút các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống trên địa bàn tỉnh.

6. Sở Khoa học và Công nghệ

Triển khai các nhiệm vụ thực hiện nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất tại hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống phù hợp với mục tiêu của Đề án trên cơ sở đặt hàng của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị có liên quan.

Hướng dẫn các đơn vị đề xuất, đăng ký tham gia Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia và các Chương trình khoa học công nghệ do Bộ Khoa học Công nghệ chủ trì thực hiện. Hỗ trợ, hướng dẫn xây dựng hồ sơ đăng ký, xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Đăng ký thương hiệu cho sản phẩm cho làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

7. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

Chủ trì xây dựng kế hoạch hàng năm để đào tạo nghề dệt thổ cẩm truyền thống cho lao động vùng dân tộc thiểu số; đề xuất chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống; phối hợp với các ngành, đơn vị, địa phương hướng dẫn, thực hiện công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động vùng Đề án; tăng cường nguồn nhân lực và tạo việc làm cho các làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống trên địa bàn tỉnh.

Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức hướng dẫn các cơ quan, địa phương ưu tiên thực hiện nhiệm vụ đào tạo, dạy nghề về may, thêu, dệt trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số.

Lồng ghép các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực của ngành để đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị cho các làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

8. Sở Tài nguyên và Môi trường

Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện việc bảo vệ, xử lý ô nhiễm môi trường tại làng nghề dệt thổ cẩm. Đề xuất các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, tổ chức, các cơ sở sản xuất nghề dệt thổ cẩm truyền thống về đất đai.

9. Sở Thông tin và Truyền thông

Hướng dẫn, định hướng các cơ quan báo chí trong tỉnh, Cổng Thông tin điện tử tỉnh, Trang thông tin điện tử các địa phương, đơn vị trong tỉnh, hệ thống thông tin cơ sở thực hiện công tác tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa và kết quả thực hiện Đề án.

Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện các nội dung truyền thông về Đề án và hỗ trợ đưa các sản phẩm của Đề án lên các sàn thương mại điện tử.

10. Sở Giáo dục và Đào tạo

Chỉ đạo các địa phương tổ chức các hoạt động bảo vệ, giáo dục ngay tại địa điểm có di sản văn hóa. Tổ chức các cuộc thi, ngày hội, nghiên cứu khoa học về di sản văn hóa trong trường học, nhất là vấn đề bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống của học sinh các trường Dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh. Tuyên truyền, vận động để học sinh các Trường Dân tộc Nội trú mặc trang phục truyền thống vào các dịp lễ, tết, ngày hội và các buổi học trong tuần phù hợp với điều kiện của từng địa phương, đơn vị.

11. Ban Dân tộc tỉnh

Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu, đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách bảo tồn, phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông liên quan đến các nội dung Đề án này.

12. Báo Đắk Nông, Đài Phát thanh và Truyền hình Đắk Nông

Chủ động và phối hợp cùng các Sở, ngành chức năng tuyên truyền, quảng bá giới thiệu những giá trị của di sản văn hóa về thổ cẩm truyền thống các dân tộc thiểu số trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên sóng Phát thanh Truyền hình trong và ngoài tỉnh nhằm nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa thổ cẩm và ý thức tự hào, tự tin của đồng bào về thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình...

13. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội Nông dân tỉnh, Đoàn TNCS Hồ Chi Minh tỉnh

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chỉ đạo, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên các cấp và các tầng lớp Nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có văn hóa thổ cẩm.

14. Liên minh Hợp tác xã tỉnh

Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành, UBND các huyện, thành phố Gia Nghĩa, các đơn vị có liên quan tuyên truyền, vận động, hướng dẫn các cá nhân, hộ gia đình, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số thành lập mới các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm và phát huy bản sắc dân tộc gắn với xây dựng sản phẩm du lịch làng nghề, Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới của tỉnh Đắk Nông.

Lồng ghép các chính sách hỗ trợ của Trung ương, địa phương (nếu có) đối với tổ hợp tác, hợp tác xã hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dệt thổ cẩm truyền thống. Đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại giới thiệu, quảng bá bán các sản phẩm dệt thổ cẩm truyền thống tại các hội chợ, triển lãm trong và ngoài tỉnh.

Xây dựng, nhân rộng mô hình điểm theo chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm đối với Tổ hợp tác, Hợp tác xã theo Quyết định số 677/QĐ-UBND ngày 17/5/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh.

15. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố Gia Nghĩa

Chỉ đạo, phối hợp tuyên truyền thành lập Tổ hợp tác, Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã xây dựng và phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương.

Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành, đơn vị triển khai hiệu quả các chương trình, chính sách, trong đó có lồng ghép nội dung tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở, hợp tác xã, làng nghề trong việc hỗ trợ mua khung dệt và thu mua các nguyên vật liệu như: chỉ, len, sợi...

Huy động các nguồn lực hợp pháp trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, trong đó có các hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống. Đồng thời, xây dựng các giải pháp tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm từ làng nghề dệt thổ cẩm trên địa bàn tỉnh.

Trên đây là Đề án bảo tồn phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số M’Nông, Mạ, Ê đê, Thái, Dao gắn với phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2023-2025, các đơn vị, địa phương liên quan phối hợp triển khai thực hiện. Trong quá trình triển khai thực hiện Đề án, trường hợp khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, đơn vị, địa phương kịp thời phản ánh về Ủy ban nhân dân tỉnh (thông qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) để xem xét, chỉ đạo./.



1 Tỉnh Đắk Nông (2011), Địa chí Đắk Nông, Nxb. Từ điển Bách khoa, tr.109-111

Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Quyết định 46/QĐ-UBND ngày 12/01/2023 phê duyệt Đề án "Bảo tồn phát huy thổ cẩm truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số M’Nông, Mạ, Êđê, Thái, Dao gắn với phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2023-2025"

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


357

DMCA.com Protection Status
IP: 18.118.19.123
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!